Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Bài tập lớn Nghệ thuật lãnh đạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.06 KB, 18 trang )

MỤC LỤC

1. Cơ sở lý thuyết............................................................................................................. 1
1.1.

Khái niệm .............................................................................................................. 1

1.2.

Vai trò của lãnh đạo.............................................................................................. 1

1.3.

Một số phong cách lãnh đạo................................................................................. 1

2. Phong cách lãnh đạo độc đoán của Hitler ................................................................ 3
2.1.

Sơ lược về Adolf Hitler ......................................................................................... 3

2.2.

Thành tự Hitler đạt được ...................................................................................... 5

2.3.

Phong cách lãnh đạo ............................................................................................ 5

2.3.1.

Những tố chất trong con người Hitler .......................................................... 5



2.3.2.

Phong cách lãnh đạo độc đoán của Hitler .................................................... 9

2.3.3.

Ưu và nhược điểm trong phong cách lãnh đạo của Hitler ........................ 12

2.3.4.

Nhận xét và rút ra bài học ........................................................................... 14

3. Kết luận ...................................................................................................................... 15


1. Cơ sở lý thuyết
1.1.

Khái niệm
Lãnh đạo là quá trình gây ảnh hưởng, tạo động lực, tác động đến ý thức của

chủ thể lãnh đạo với các cá nhân hoặc một nhóm nhất định nhằm thúc đẩy họ tự
nguyện thực hiện mục tiêu của tổ chức, nâng cao năng suất lao động hay tạo lập
sinh khí cho tổ chức, có thể thông qua các hành động như thuyết phục, động viên,
chỉ dẫn hoặc ra lệnh bằng uy tín…
1.2.

Vai trị của lãnh đạo


- Thiết lập tầm nhìn cho tổ chức
- Tập hợp quần chúng
- Cổ vũ, động viên toàn bộ đội ngũ
- Xây dựng chiến lược cho tổ chức
- Ra quyết định
- Tạo ra những sự thay đổi
- Hướng dẫn nhân viên hoàn thành mục tiêu
1.3.

Một số phong cách lãnh đạo

Phong cách lãnh đạo dân chủ:
Phong cách lãnh đạo dân chủ là phong cách mà theo đó nhà quản trị chủ yếu
sử dụng uy tín cá nhân đưa ra những tác động đến những người dưới quyền.
Nói cách khác, họ rất ít sử dụng quyền lực hay uy tín chức vụ để tác động đến
những người dưới quyền.
Đặc điểm:
Phong cách này thường sử dụng hình thức động viên khuyến khích, khơng đòi
hỏi cấp dưới phục tùng tuyệt đối, thường thu thập ý kiến của những người dưới
quyền, thu hút, lôi cuốn cả tập thể và tổ chức khơng chính thức.
Phong cách này giúp phát huy tính chủ động, sáng tạo của nhân viên, làm cho
họ hiểu biết, quan tâm gắn bó hơn với công việc. Tuy nhiên người lãnh đạo sử
dung phong cách này phải là người có đủ bản lĩnh để không trở thành người thỏa
hiệp vô nguyên tắc.
1


Phong cách lãnh đạo tự do:
Phong cách tự do là phong cách mà theo đó nhà quản trị rất ít sử dụng quyền
lực để tác động để tác động đến người dưới quyền, thậm chí khơng có những tác

động đến họ.
Đặc điểm:
Phong cách này cho phép các nhân viên được quyền ra quyết định. Phong cách
thường mang lại hiệu quả khi trình độ cấp dưới cao và cơng việc thực hiện mang
tính độc lập, địi hỏi phải chủ động và sáng tạo để giải quyết công việc.
Phong cách lãnh đạo độc đoán
Phong cách độc đoán
Độc đoán là phong cách lãnh đạo được đặc trưng bằng việc tập trung mọi
quyền lực vào tay một mình người quản lý, người lãnh đạo – quản lý bằng ý chí
của mình, trấn áp ý chí và sáng kiến của mọi thành viên trong tập thể.
Phong cách lãnh đạo này xuất hiện khi các nhà lãnh đạo nói với các nhân viên
chính xác những gì họ muốn các nhân viên làm và làm ra sao mà không kèm theo
bất kỳ lời khuyên hay hướng dẫn nào cả
Đặc điểm:
-

Nhân viên ít thích lãnh đạo

-

Khơng khí trong tổ chức: gây hấn, phụ thuộc vào định hướng cá nhân

-

Hiệu quả làm việc cao khi có mặt lãnh đạo, thấp khi khơng có mặt lãnh
đạo.

-

Đối tượng sử dụng: những người có thái độ chống đối, những người khơng

tự chủ.

-

Thiên về sử dụng mệnh lệnh

-

Ln địi hỏi cấp dưới sự phục tùng tuyệt đối

-

Thường dựa vào năng lực, kinh nghiệm, uy tín chức vụ của mình để tự đề
ra các quyết định rồi buộc họ phải làm theo ý muốn hay quyết định của
nhà quản trị.

Ưu điểm:
2


-

Giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng.

-

Cần thiết khi tập thể mới hình thành, khi tập thể đó nhiều mâu thuẫn không
thống nhất.

-


Nhấn mạnh vào kết quả đã dự báo trước, chính xác, trật tự

Nhược điểm:
-

Người lãnh đạo theo phong cách này có thái độ ứng xử lạnh nhạt, quan
cách, hay can thiệp vào công việc của người khác do đó:

-

Khơng tận dụng được sức sáng tạo của những người dưới quyền.

-

Dễ gây ra tình trạng bất ổn của doanh nghiệp. Nhân viên cấp dưới có tâm
lý lo sợ, có thể mang đến sự chống đối của cấp dưới, tạo cơ sở để phát sinh
bè phái, ảnh hưởng đến cơng việc chung.

2. Phong cách lãnh đạo độc đốn của Hitler
Sơ lược về Adolf Hitler

2.1.

Hitler (20 tháng 4 năm 1889 –30 tháng 4 năm 1945) là người Đức gốc Áo,
Chủ tịch Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa ( từ năm 1921, Thủ
tướng Đức từ năm 1933, là "Lãnh tụ và Thủ tướng đế quốc " kiêm nguyên thủ quốc
gia nắm quyền Đế quốc Đức kể từ năm 1934.
Hitler thiết lập chế độ độc quyền quốc gia xã hội của Đệ Tam Đế quốc, cấm
chỉ tất cả các đảng đối lập và giết hại các đối thủ. Hitler đã gây ra Chiến tranh thế

giới thứ hai, thúc đẩy một cách có hệ thống q trình tước đoạt quyền lợi và sát
hại khoảng sáu triệu người Do Thái châu Âu cùng một số nhóm chủng tộc, tơn
giáo, chính trị khác được gọi là cuộc Đại đồ sát dân Do Thái.
Thời trẻ, khi còn ở Áo, Hitler muốn trở thành một họa sĩ, nhưng chưa từng
được thành công. Về sau, Hitler trở thành một người theo chủ nghĩa dân tộc Đức
cấp tiến. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Hitler phục vụ trong Quân đội Đế
quốc Đức, từng bị thương và được nhận hai tấm huân chương do chiến đấu anh
dũng.
Năm 1913, Hitler đến Munich, tiếp tục con đường họa sĩ của mình và bắt đầu
hoạt động chính trị.
3


Năm 1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, Hitler đầu quân cho một
trung đoàn của vương quốc Bayern, một phần của Đế chế Đức. Xuất phát điểm
trên con đường chính trị của Hitler là con số "0" nhưng ông ta có một kỹ năng trời
phú đó là tài hùng biện. Tháng 9/1919, Hitler được mời gia nhập đảng Lao động
Đức (tiền thân của đảng Quốc xã) do Anton Drexler và Karl Harrer thành lập. Ông
ta tham gia với tư cách Ủy viên Trung ương thứ 7.
Nhờ tài hùng biện siêu đẳng, Hitler đã lơi kéo nhiều chính trị gia lập dị, những
triết gia nổi tiếng và nhiều nhân vật chủ chốt ở Đức tham gia đảng Quốc xã. Bên
cạnh đó, ơng ta nhanh chóng thiết lập quyền lãnh đạo độc tôn của đảng và mở rộng
phong trào ra khắp nước Đức.
Sự kiện Đức đầu hàng quân Đồng minh và ký Hòa ước Versailles đã đẩy nền
kinh tế - chính trị Đức xuống "vực thẳm". Bối cảnh chính trị rối ren đã tạo cơ hội
cho Hitler "đầu độc" tư tưởng người dân Đức. Hitler khẳng định rằng, phong trào
Quốc xã sẽ hồi sinh nước Đức trở thành Đế chế thứ Ba hùng mạnh (Đế chế thứ
Nhất là Đế quốc La Mã, tiếp đến là Đế chế Bismarck, 2 đế chế mang lại uy quyền
cho dân tộc Đức).
Tháng 11/1923, Hitler bị bắt sau cuộc bạo loạn bất thành ở nhà hàng bia

Bürgerbräukeller. Ông ta bị kết tội phản quốc, Hitler bị kết án 5 năm tù nhưng
được ân xá sau 6 tháng giam giữ. Giai đoạn 1924-1929, phong trào Quốc xã xuống
dốc rõ rệt. Trong thời gian bị quản thúc, Hitler hồn thành cuốn Cuộc tranh đấu
của tơi, vạch ra hình ảnh nước Đức trong tương lai và cách thức để trở thành chủ
nhân của thế giới.
Năm 1929, nền kinh tế Đức tiếp tục lâm vào khủng hoảng. Trong cơn bĩ cực
của người dân Đức, Hitler nhìn thấy cơ hội biến họ thành lực lượng hậu thuẫn cho
những khát vọng cá nhân. Tháng 9/1930, đảng Quốc xã dành thắng lợi lớn trong
cuộc tổng tuyển cử.
Tháng 1/1932, Hitler ra tranh cử tổng thống. Tuy khơng đắc cử nhưng ơng ta
đã có bước đột phá cực kỳ quan trọng.

4


Năm 1934 ghi nhận bước ngoặt cực kỳ quan trọng trên con đường thiết lập
quyền lãnh đạo độc tôn của Hitler ở Đức. Ngày 2/8/1934, Tổng thống Paul von
Hindenburg trút hơi thở cuối cùng. Trưa cùng ngày, Hitler ra thông báo, hai chức
vụ Thủ tướng và Tổng thống gộp chung làm một.
Adolf Hitler nhận chức Lãnh đạo kiêm Tư lệnh tối cao của Đế chế thứ Ba
2.2.

Thành tự Hitler đạt được
Về kinh tế: Sự phục hổi kinh tế của Đức sau chiến tranh là thành tựu nổi bật.

Số người thất nghiệp từ 6 triệu năm 1932 giảm xuống còn 1 triệu sau 4 năm. Sản
lượng và thu nhập quốc nội tăng gấp đôi trong thời gian 1932-1937. Tuy Hitler
không giỏi về kinh tế nhưng ông quy tụ được những kinh tế gia giỏi, đặc biệt là
TS. Hjalmar Schacht, được coi là phù thủy kinh tế.
Về quân sự: Từ quân đội bị hòa ước Varsailles hạn chế ở mức 100.000 người,

Hitler tăng quân số lên gấp ba vào cuối năm 1934. Khi phát động tấn công Nga
năm 1941, Đức huy động 3.2 triệu quân tiến theo trận tuyến dài 1.600km
Đến giữa năm 1942, Đức đã chiếm khoảng 90% Tây Âu, trừ Thụy Điển,
Vương quốc Anh, Scotland, Ireland, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Thụy Sỹ; còn
Bắc Phi Đức đang chiếm đóng Tunisia, Lybia và một phần Ai Cập.
Nhờ quyết định của ông, Đức đánh chiếm thần tốc các nước Bắc Âu với thiệt
hại khơng đáng kể, chỉ một nhóm nhỏ binh sĩ Đức chiếm được pháo đài hiện đại
Eben Emael của Bỉ và đánh thần tốc qua Pháp.
2.3.

Phong cách lãnh đạo

2.3.1. Những tố chất trong con người Hitler
Trong con người của Hitler có nhiều tố chất đặc biệt giúp cho ông đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác, đánh bại hoặc dẹp tan những thể chế chính trị cộng hịa,
qn đội, nghiệp đồn.
Tinh thần ái quốc cực đoan
Tinh thần này vừa giúp Hitler chiếm được con tim của người dân Đức và tranh
thủ được sự ủng hộ của quân đội. Ban đầu, các nước Đồng Minh chỉ nhận ra khía
cạnh "ái quốc" trong con người Hitler, cịn khía cạnh "cực đoan" thì được che giấu
5


bởi tài hùng biện. Như đã nói, ơng ta tự coi mình là người kế thừa của vua Friedrich
II Đại Đế - một vị vua lớn của Vương quốc Phổ xưa, dù chế độ độc tài của ông ta
thực ra chẳng mấy giống với vua Friedrich II Đại Đế.
Vào mùa hè 1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, và Hitler phải làm
nghĩa vụ và Ông đầu quân cho một trung đoàn của vương quốc Bayern. Hitler được
thưởng huy chương hai lần vì tinh thần dũng cảm. Tháng 12 năm 1914 ông được
thưởng huy chương Chữ thập Sắt hạng Nhì, và tháng 8 năm 1918 nhận huy chương

Chữ thập Sắt hạng Nhất vốn ít khi được ban thưởng cho cấp binh sĩ trong Qn
đội Đế chế cũ. Ơng ln mang tấm huy chương này một cách hãnh diện cho đến
lúc chết.
Vì tinh thần ái quốc cực đoan, Hitler theo đuổi một cách khơng mệt mỏi
chương trình tái vũ trang trong 10 năm (ngay khi ơng có thể chỉ huy việc tái thiết
vũ trang 1929-1939) làm vi phạm hiệp ước, Như tăng quân số, đóng tàu thiết giáp,
tàu ngầm, sản xuất súng đạn… lên nhiều lần. Điều này cho thấy ông đã có bước
chuẩn bị cho việc nước Đức lên làm bá chủ thế giới từ rất lâu rồi.
Việc làm và lời nói đi đơi với nhau
Một khi đã định hình tư tưởng, xuyên suốt qua cương lĩnh đảng, quyển sách
Mein Kampf và những bài phát biểu, Hitler đều mang ra thực hiện những gì ơng
nói. Cũng có nhiều điều ông không làm như đã hứa, nhưng đấy là chiến thuật mị
dân trong bước đầu khi Quốc xã muốn chiếm quyền lực bằng lá phiếu dân chủ.
Còn lại, Hitler đều thi hành những sách lược chủ chốt đúng như ông đã nói.
Trong đại hội quy mơ đầu tiên của Đảng Lao động Đức (tiền thân của Quốc
xã) ngày 24 tháng 2 năm 1920, lần đầu tiên Hitler nêu lên 25 điểm trong cương
lĩnh của Đảng Lao động Đức. Những điểm quan trọng nhất sau này được Hitler
mang ra thi hành ngay sau khi ông lên làm thủ tướng.
Như Điểm thứ nhất trong bản cương lĩnh đòi hỏi hợp nhất mọi người Đức
trong một nước Đức mở rộng. Đây đúng là việc mà Hitler thực hiện sau này khi
sáp nhập Áo với 6 triệu người Đức và vùng Sudetenland với 6 triệu người Đức
khác. Đấy cũng là đúng theo yêu sách đòi lại vùng Gdańsk và những vùng đất khác
6


ở Ba Lan có nhiều người Đức sinh sống. Hay Điểm 2 địi hỏi xóa bỏ các Hịa ước
Versailles và Saint-Germain. Điểm 25 trù định việc "thiết lập một quyền lực trung
ương mạnh cho Nhà nước".
Mùa hè 1924, Hitler đã viết cuốn sách có tựa đề “Mein Kampf” (Cuộc tranh
đấu của tôi) khi ông đang trong nhà tù. Trong cuốn sách, Hitler diễn giải tư tưởng

của ông và áp dụng đặc biệt vào việc phục hồi nước Đức và vạch ra việc tạo dựng
một quốc gia dựa trên chủng tộc thuần khiết và quy tụ mọi người Đức lúc này cịn
đang sống bên ngồi biên giới Đức. Tư tưởng về tính ưu việt của chủng tộc Aryan,
chà đạp lên những chủng tộc khác, những thứ cỏ rác – đấy là Do Thái và Slav.
Những điều này, ông cũng đều thực hiện.
Bản chất độc tài, chuyên chế
Bản chất này đã bộc lộ ngay trong giai đoạn Hitler mới gia nhập Đảng Lao
động Đức, tiền thân của Quốc xã. Hitler đã trình bày rất rõ ý định thiết lập một
nước Đức dưới chế độ chuyên chế, độc đảng, và đảng này dưới quyền một lãnh tụ
chuyên chế.
Ngày 30 tháng 1 năm 1934, kỷ niệm trịn năm Hitler nhậm chức Thủ tướng,
Hitler chính thức hồn tất cơng việc qua Luật Tái lập Đế chế. Tất cả thể chế dân
cử bị xóa bỏ, quyền điều hành bang được chuyển về trung ương, mọi cơ cấu chính
quyền bang được tập trung dưới chính phủ Đế chế, thống đốc bang được đặt dưới
hệ thống hành chính của Bộ Nội vụ Đế chế.
Hitler thanh trừng các nhân vật chống đối Như năm 1937, Hitler thông báo
cho giới chỉ huy quân đội và ngoại giao cao cấp ý định tiến hành chiến tranh, sáp
nhập Áo và Tiệp Khắc vào Đức. Các tư lệnh quân đội và ngoại trưởng tin chắc
việc này sẽ dẫn đến chiến tranh toàn châu Âu. Họ đều cảm thấy chống váng. Đấy
khơng phải là do yếu tố đạo lý mà vì lý do thực tế hơn: nước Đức vẫn chưa sẵn
sàng cho một cuộc chiến lớn; nếu khiêu khích chiến tranh bây giờ sẽ có nguy cơ
gặp thảm họa. Và những người phản đối đều bị ông ám sát hoặc mất chức, kể cả
những người có địa vị cao trong nước Đức.
Lừa dối
7


Tố chất này không đi ngược lại mà là bổ sung việc thi hành những gì đã nói.
Có nghĩa là Hitler sẵn sàng lừa dối để nhằm thi hành những điều chủ chốt trong tư
tưởng của ông. Cũng nhờ những tố chất này, Hitler đã chinh phục được giới thương

mại và công nghiệp trong nước. Riêng hai cường quốc Anh và Pháp, ban đầu muốn
trấn áp Đức nhưng kế tiếp lại muốn xoa dịu Hitler, mở đường cho ông thôn tính
Áo và Tiệp Khắc. Đến khi Hitler hung hăng xâm lăng Ba Lan thì họ mới nhận ra
tham vọng vơ bờ bến của Hitler, nhưng đã quá muộn: Chiến tranh thế giới thứ hai
xảy ra là điều tất yếu.
Tài hùng biện
Đây là một vũ khí rất lợi hại của Hitler. Nhờ tài hùng biện cộng với tính lừa
dối, Hitler đã chinh phục được người dân Đức, giới quân đội, ngay cả giới truyền
thơng và các nhà lãnh đạo nước ngồi.
Trong những ngày sống lang thang ở thành Viên, Hitler để ý đến tầm quan
trọng của tài hùng biện trong chính trị, và ông viết: “Uy lực trong lịch sử tạo ra
những cơn lốc về tơn giáo và chính trị từ ngàn xưa đều là uy lực thần kỳ của lời
nói, và chỉ do lời nói mà thơi.... Chỉ có thể khích động quần chúng bằng uy lực của
lời nói. Mọi phong trào vĩ đại đều là phong trào quần chúng, là sự bùng nổ của nỗi
mê đắm và xúc cảm của con người...”. Hitler đã bắt đầu tập luyện tài hùng biện
đối với những cử tọa anh tìm được ở khu nhà trọ, bếp ăn từ thiện, góc đường phố.
Ngoại hình Hitler khơng có dáng lãnh tụ: ơng chỉ cao có 1,75m – chưa đủ tiêu
chuẩn vào lính SS, chân nhỏ và dài, tóc lật trái, để bộ ria như một anh hề. Thế
nhưng ơng cực kỳ có sức lơi cuốn, chủ yếu ở ánh mắt xuyên thấu tim gan người
khác và khí thế nói dồn ép người ta phải nghe theo. Hitler còn là nhà diễn thuyết
đại tài trên thế giới. Ông rất chú ý tập luyện và cải tiến kỹ xảo nói, rất thạo kết hợp
nói với động tác. Trong Mein Kampf ông viết: “tôi tin rằng lời nói, chứ khơng phải
là bài viết, có khả năng gây ra những sự kiện làm rung chuyển thế giới”. Ông dốc
tồn bộ nhiệt tình vơ tận của mình vào bài nói, tới mức những lời dối trá trắng trợn
nhất cũng có mầu sắc chân lý. Ơng luyện kỹ sảo nói với mục đích khơng chỉ để
thuyết phục, mà là làm cho người nghe phát điên lên như bị thôi miên. Ông thường
8


diễn thuyết vào buổi tối để có thể dùng ánh đèn tăng thêm hiệu quả. Vài ngày sau

khi Hitler nhậm chức Thủ tướng, 1 triệu người Đức kéo đến sân bay Berlin để nghe
ông diễn thuyết suốt từ 20h cho đến 22h đêm. Hitler nói hay đến mức khi ơng
nghiêng ngả người thì cả triệu thính giả cũng nghiêng ngả theo, như một đại dương
sôi sục. Phụ nữ bị xúc động hơn cả, có bà thét lên nằm vật xuống. Một số cán bộ
ngoại giao các nước trung lập cũng giơ tay hô lớn “Hailơ Hitler”. Khi xúc động
lên tới cao điểm, Hitler trợn mắt, vung nắm đấm như đánh vào kẻ thù không đội
trời chung của ông - người Do Thái, bọn Đỏ và những kẻ phản quốc.Tài hùng biện
được xem là một phương tiện, vũ khí lợi hại nhất mà Hitler có được.
2.3.2. Phong cách lãnh đạo độc đoán của Hitler
Một trong những tố chất độc tài – chuyên chế, Hitler là một đại diện tiêu biểu
cho phong cách lãnh đạo độc đốn. Điều đó được chứng minh qua những hành
động trong đời sống riêng khi Hitler đối xử với những người dưới trong cuộc sống
hàng ngày, trong công việc với mọi quyết định và hành xử của ơng.
Trong đời thường
Hitler độc đốn cho rằng mình ln đúng và khơng chịu sửa các thói quen cổ
qi của mình.
Ơng khơng quan tâm đến chức năng quản lí quốc gia của một Thủ tướng, thiếu
kiến thức điều hành Chính phủ nhưng lại khơng chịu học.
Ơng tự bố trí việc tiếp khách, khơng ưa ai thì khơng tiếp, dù là việc khẩn đến
đâu.
Ơng ít ngồi, hay đi lại trong phịng, ghét viết lách và hay ra lệnh bằng miệng
cho bất cứ ai
Ngủ dậy trễ, vừa ăn sáng, vừa đọc bao, sau đó tạt qua phịng làm việc một lát
để làm những việc ông quan tâm.
Bữa ăn trưa, bắt đầu lúc 14 hoặc 15h với vài chục cộng sự nhưng không ai ưa
ơng. Nhưng sau khi trên mặt trận phía tây, qn Đức ở Bắc Phi đầu hàng, Đồng
minh chiếm đảo Sicile của Ý; Hitler ngày một cô đơn, ông không ăn chung với các
hậu cần nữa và chỉ còn diễn thuyết có hai lần trước đám đơng.
9



Ăn tối một mình và xem phim- đây là thú tiêu khiển duy nhất.
Trong vai trò là nhà lãnh đạo
-

Chiếm quyền độc tài trong đảng

Khi Hitler có quyết định xin rút khỏi Đảng Quốc xã, trung ương đảng đã khước
từ ý nguyện của ơng vì khi Hitler ra đi thì đảng chắc chắn sẽ tan rã. Sau khi nhận
thức rõ vai trị của mình, ơng buộc các nhà lãnh đạo khác của đảng phải nhượng
bộ. Ơng xóa bỏ Trung ương Đảng, nắm quyền lãnh đạo độc tôn của đảng. Tháng
7 năm 1921, nguyên tắc lãnh đạo được thiết lập, trở thành điều luật trước nhất cho
Đảng Quốc xã và sau đó cho Đế chế thứ ba
-

Thiết lập thể chế độc tài

Nghị viện và chính quyền bang bị giải tán ngay trong năm đầu Quốc xã nắm
quyền lực. Hitler giữ quyền bổ nhiệm thị trưởng Berline, Hamburg và Wien (sau
1938, khi Áo được sáp nhập)
Ngày 14 tháng 7 năm 1933, một luật mới quy định Đảng Lao động Quốc gia
Xã hội Chủ nghĩa Đức là đàng chính trị duy nhất ở Đức. Ngày 30 tháng 1 năm
1934, Hitler hồn tất cơng việc thông qua Luật Tái lập Đế chế. Tất cả thể chế dân
cử bị xóa bỏ, quyền điều hành ban được chuyển về Trung ương, mọi cơ cấu chính
quyền bang được tập trung dưới chính phủ Đế chế, thống đốc bang được đặt dưới
hệ thống hành chính của Bộ Nội vụ Đế chế.
-

Thanh trừng và đàn áp các nhân vật chống đối


Ngày 5 tháng 11 năm 193, Hitler thông báo cho giới chỉ huy quân đội và ngoại
giao cao cấp ý kiến tiến hành chiến tranh, sáp nhập Áo và Tiệp Khắc vào Đức.
Nhận thấy nguy cơ sẽ dẫn đến chiến tranh toàn châu Âu nên Werner von Blomberg,
Freiherr Werner von Fritsch và Konstantin von Neurath đã lên tiếng và sau 3 tháng
thì cả 3 đều mất chức.
Do những âm mưu mà lần lượt Thống chế, Tổng tham mưu trưởng Quân lực
Blomberg và Đại tướng cấp cao Tư lệnh lục qn Fritsch đều mất chức. Hitler
tun bố đích thân ơng chỉ huy tồn qn lực.
Lập Bộ Thống sối Tối cao do (OKW) do ông trực tiếp chỉ huy
10


Tự ra là chỉ huy chiến Áo, Tiệp Khắc, Ba Lan … mà khơng hỏi ý kiến ai.
Có nhiều âm mưu chống đối Hitler với mục đích chính ban đầu là lật đổ ông
nhằm ngăn ông gây chiến tranh mà họ nghĩ sẽ đem đến Chiến Bại cho nước Đức.
Kế tiếp, khi chiến tranh đã bùng phát những người chống đối muốn ngăn chặn việc
Đức bị thất trận nhục nhã, cần vớt vát ít nhiều bằng cách ám sát Hitler và đàm phán
với Đồng Minh. Riêng năm 1943, có ít nhất hàng chục kế hoạch ám sát Hitler.
Tất cả âm mưu đều thất bại. Giới nhân sự không thể lôi kéo quân đội Đức vào
âm mưu của họ.
Sau vụ Claus von Stauffenberg ám sát hụt Hitler, trong cơn giận dữ tột cùng
và lịng thèm khát trả thù khơng gì kiềm chế được, Hitler quát tháo: “Lần này sẽ
cho can phạm xưng tội ngắn gọn. Khơng có Tịa án Qn sự. Họ sẽ đứng trước
Tịa án Nhân dân. Khơng cho phép họ phát biểu. Tịa án sẽ xét xử chớp nhống.
Án tử hình được thi hành hai tiếng đồng hồ sau. Bằng cách treo cổ - khơng có sự
khoan hồng.”
Những người bị cáo buộc trong giới qn sự khơng ra tịa án binh, mà bị tước
quân tịch để đứng trước Tòa án Nhân dân, vốn là loại hình tồ án bù nhìn, nhận
lệnh trực tiếp từ Hitler. Từ tội bị đưa vào một phịng giam nhỏ đã có sẵn đánh tám
cái móc treo thịt. Từng người bị lột trần cho đến eo, bị thằng lọng bằng sợi dây

dương cầm được tròng vào cổ họng và phía trên buộc vào cái móc treo thịt. Một
máy quay phim thu hình tồn bộ diễn biến trong khi tử tội đong đưa và ngạt thở.
Chiếc quần khơng có dây lưng cuối cùng tụt xuống, khiến cho họ trần truồng trong
khi cái chết một cách đau đớn. Theo chỉ thị, trong đêm ấy Cuốn Phim được tráng
rồi được chuyển đến cho Hitler xem cùng với những ảnh chụp trong phiên tịa.
Nhân vật có can dự nổi tiếng nhất là Thống chế Erwin Rommel, thì bị Hitler
bức tử để đổi lại gia đình ơng khơng bị trừng phạt và lễ tang của ông được cử hành
theo các nhà nước.
Trong quân sự

11


Phong cách độc đoán của Hitler càng thể hiện rõ khi ơng nói: “Tơi khơng u
cầu các tướng lĩnh phải hiểu mệnh lệnh của tôi, mà chỉ yêu cầu họ chấp hành.”
Hitler thể hiện tính độc đốn của mình khi cho rằng mình có thiên tài qn sự,
bằng chứng là sau khi chiếm được Pháp, ông phớt lờ các tướng Đức.
Trong cuộc tấn công Liên Xô, Hitler nghĩ rằng chỉ vài tuần là chiếm được
Moskva nên quân Đức đã không mang áo rét, do đó bị cầm chân trong băng tuyết
ở Moskva, chúng bị thua đau đớn trước sự phản cơng của qn Nga. Lúc đó Hitler
khơng cho Đức rút lui theo ý kiến của các tướng vì vậy thiệt hại càng nặng nề. Như
mọi lần ông lại đổ lỗi cho cấp dưới khiến các tướng phải từ chức.
Trên mặt trận phía Tây, quân Đức ở Bắc Phi đầu hàng, Đồng minh chiếm đảo
Sicile của Ý, Mussolini bị hạ bệ.
Khi Đồng minh đổ bộ Normandy, Hitler vẫn không tin là quân Đức thua, ông
vẫn ra lệnh chiến đấu tới cùng, mắng nhiếc các tướng lĩnh.
Cuối cùng để bảo vệ danh dự và không bị người khác coi thường Hitler đã tự
tử
2.3.3. Ưu và nhược điểm trong phong cách lãnh đạo của Hitler
Ưu điểm

Hitler có tài quân sự kết hợp với tài hùng biện xuất sắc, do đó việc vận dụng
phong cách lãnh đạo chuyên chế độc đoán đã phát huy được tồn bộ những khả
năng của ơng, giúp ơng đạt được những thành cơng theo mục đích của mình
Thay đổi tồn bộ đất nước, nước Đức đang trong tình trạng khủng hoảng sau
chiến tranh nên cần những chính sách kinh tế mới làm cho Đức vực dậy, những tư
tưởng Hitler đưa ra là mới là vì vậy để thực hiện những tư tưởng đó yêu cầu phải
sử dụng phong cách lãnh đạo độc đoán là phù hợp nhất.
Việc sử dụng phong cách độc đốn giúp Hitler giải quyết cơng việc một cách
nhanh chóng, đảm bảo đạt được mục tiêu chính xác. Thể hiện ở việc chỉ trong vòng
chưa đầy 20 năm kề từ khi Hitler công khai truyền tư tưởng độc tài đã đạt được
những thành tựu vô cùng to lớn, từ những bước đi đầu tiên trong Đảng Quốc xã
12


đến việc nắm quyền cao nhất nhà nước, từ việc vực nước Đức lên về nền kinh tế
tới việc xây dựng một lực lượng quân đội hùng mạnh, từ việc khởi động chiến
tranh thế giới thứ hai đến những thắng lợi đạt được trong chiến tranh. Tất cả đều
được áp dụng phong cách lãnh đạo độc đoán chuyên quyền.
Với việc sử dụng phong cách lãnh đạo độc đoán giúp Hitler thâu tóm quyền
lực về mình cả về chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao… việc thâu tóm quyền lực
đó giúp những quyết định của Hitler rất uy lực, cũng như làm thất bại những tham
vọng lật đổ ông.
Về quân sự, việc lãnh đạo theo phong cách lãnh đạo chuyên quyền là yêu cầu
cao nhất, vì bản chất của quân đội là nhận thông tin từ trên xuống, chấp hành và
thực hiện. Hitler đã xây dựng được một lực lượng qn đội hùng mạnh
Tóm lại, qua việc phân tích ưu điểm chúng ta thấy rằng việc áp dụng phong
cách lãnh đạo độc đoán là rất cần thiết đối với Hitler nói riêng và Nhà nước Đức
nói chung trong thời kỳ đó. Bởi vì u cầu đặt ra cao nhất trong thời kỳ này chính
là làm sao để đưa nước Đức vực dậy một cách nhanh chóng nhất có thể, cả về
chính trị, kinh tế, qn sự... và chỉ có lãnh đạo theo phong cách độc đoán chuyên

quyền mới làm được.
Nhược điểm
Việc lãnh đạo theo mang cách độc lập của Hitler là điều cần thiết, tuy nhiên
phong cách nào cũng có ưu điểm và nhược điểm. Có phong cách phù hợp với hồn
cảnh, tình huống này nhưng khơng phù hợp với hồn cảnh, tình huống khác. Hitler
là một con người vận dụng phong cách độc đốn, gây ra hậu quả vơ cùng nghiêm
trọng, khi tư tưởng của người lãnh đạo này bị sai lệch mà khơng ai có thể ngăn
chặn, làm phát động chiến tranh thế giới thứ hai và nhận thất bại nặng nề.
-

Mặt khác của phong cách lãnh đạo độc đốn cịn thể hiện rất rõ:

Thói ngơng nghênh trong lúc làm việc của ông, không để ý đến trọng trách
quốc gia, chỉ để ý đến quyền lực trong tay mình => tạo ra rất nhiều kẻ chống đối
muốn lật đổ ông.

13


Hitler quá tự tin vào tài năng của bản thân, ngủ quên trong chiến thắng, không
nghe lời khuyên của ai => hoang đường => điều đó đã làm cho Hitler phải nhận
những thất bại cay đắng.
Hạn chế tinh thần sáng tạo của cấp dưới trong các tình huống quân sự.
Cấp dưới sợ ơng, khơng trung thành, thậm chí là ghét ông.
Có nhiều quyết định sai lầm, chịu thất bại trong đế chế 2 do không nghe ý kiến
cấp dưới.
Không chịu nhận lỗi về mình mà đánh đổi cả cái chết.
Phong cách lãnh đạo độc đoán đã làm cho Hitler xa rời ý chí nguyện vọng của
nhân dân, khơng thương dân.
Khi gặp thất bại => đổ lỗi cho người khác, không chịu nhận cái sai về mình.

Hitler đàn áp rất dã man những người chống đối mình, người bị buộc từ chức,
kẻ bị giết, kẻ bị ép chết… không từ một ai => bị nhiều người căm ghét.
Tóm lại, phong cách lãnh đạo độc đoán của Hitler mang cả ưu và nhược điểm,
tuy nhiên nhược điểm lớn nhất của Hitler chính là nguyên nhân dẫn tới thất bại lớn
nhất cuộc đời ông và gây thảm họa cho người Đức và cả thế giới lại xuất phát từ
chính quan điểm mục tiêu sai lầm, kết hợp với sự độc đoán chuyên quyền của ông
đã làm cho Hitler trở thành một kẻ vĩ đại nhưng bị căm ghét.
2.3.4. Nhận xét và rút ra bài học
Nhận xét
Trong hoàn cảnh của Hitler ở Đức, sau thảm họa của chiến tranh thế giới thứ
nhất để lại, việc ơng ấy có và áp dụng phong cách lãnh đạo độc đáo là rất cần thiết.
Bởi vì yêu cầu đặt ra cao nhất trong thời kỳ này chính là làm sao để đưa nước Đức
vực dậy một cách nhanh chóng nhất có thể, cả về chính trị, kinh tế, quân sự... và
chỉ có lãnh đạo theo phong cách độc đốn chun quyền mới làm được.
Bên cạnh đó, khơng phải phong cách lãnh đạo độc đoán của Hitler lúc nào
cũng tốt và cần thiết. Có phong cách phù hợp với hồn cảnh, tình huống này nhưng
khơng phù hợp với hồn cảnh, tình huống khác việc. Hitler áp dụng phong cách
lãnh đạo độc đốn q nhiều và vào những hồn cảnh không phù hợp như phát
14


động chiến tranh thế giới thứ 2 tháng 9 năm 1939 hay thúc đẩy một cách có hệ
thống q trình tước đoạt quyền lợi (các đối thủ chính trị) và sát hại khoảng sáu
triệu người Do Thái châu Âu cùng một số nhóm chủng tộc, tơn giáo, như người
Digan, người Slav, người đồng tính luyến ái, người tàn tật… (cịn gọi là “đại đồ
sát dân Do Thái”).
Chính ơng là người giúp nước Đức phục hồi kinh tế, chính trị, quân sự ,... sau
chiến tranh thế giới thứ nhất và lúc đó đại đa số người Đức đều ủng hộ ơng và tin
rằng ông sẽ thay đổi cả nước Đức. Và cũng chính ơng bị nhiều người quay
lưng,căm ghét, các cuộc ám sát ngầm càng nhiều… sau khi nước Đức trở nên lớn

mạnh, ơng tiến đến việc xâm lược bên ngồi, và bị hầu hết mọi người phản đối vì
vừa là yếu tố đạo lý, nhân đạo con người vừa thực tế hơn nữa chính là: nước Đức
vẫn chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến lớn; nếu khiêu khích chiến tranh bây giờ sẽ
có nguy cơ gặp thảm họa. Hay ơng phá bỏ Hiệp ước Versailles đã được ký kết từ
trước… Cuối cùng nhận thất bại nặng nề cho cả ông, nước Đức, ảnh hưởng đến cả
Thế Giới.
Bài học rút ra trong thực tế hiện nay
Mỗi một phong cách lãnh đạo có thể sẽ khơng giống nhau nhưng chúng lại có
một điểm chung cốt lõi, đó là niềm đam mê và sự cống hiến cho mục tiêu mình
muốn đặt được cũng như tư duy nghĩ lớn thể hiện qua khao khát thay đổi thế giới,
thúc đẩy lồi người tiến về phía trước.
Những người lãnh đạo cần áp dụng phong cách lãnh đạo đúng công việc, đúng
người, đúng thời điểm. Một người có thể có nhiều phong cách lãnh đạo nhưng sẽ
có phong cách lãnh đạo chủ đạo và nó có vai trò quan trọng trong việc ra quyết
định, hành động ứng xử của người lãnh đạo, ảnh hưởng cả đến những người xung
quang. Cùng một vị trí, cơng việc có thể có những phong cách lãnh đạo khác nhau.
3. Kết luận
Trong trường hợp của Hitler, nhờ vào sự lãnh đạo độc đốn mà đã đem lại
những thành cơng vang dội nhưng cũng vì q độc đốn, chun quyền, khơng
lắng nghe ý kiến của mọi người nên đã thất bại thảm hại. Từ đó ta có thể kết luận
15


rằng, phong cách lãnh đạo độc đốn nói riêng và những phong cách lãnh đạo nói
chung đều có hai mặt, hiểu rõ hai mặt và vận dụng một cách khéo léo phù hợp vào
từng tình huống cụ thể thì việc lãnh đạo mới đem lại hiệu quả tích cực.
Trong thực tế, mỗi nhà lãnh đạo thường có những cách riêng khi quản lý các
nhân viên của mình. Tuy nhiên, mỗi phong cách lãnh đạo nói trên đều có những
ưu và nhược điểm, do vậy cần phải biết phối hợp để lãnh đạo hợp lý trong từng
giai đoạn, từng trường hợp. Khi lựa chọn phong cách lãnh đạo nào, các nhà quản

lý cần cân nhắc dựa trên nhiều yếu tố cùng một lúc, chẳng hạn như thời gian cho
phép, kiểu nhiệm vụ, mức độ áp lực cơng việc, trình độ nhân viên, mối quan hệ
trong đội nhóm, ai là người nắm được thông tin… Tuy nhiên, các lãnh đạo giỏi là
những người phối hợp và sử dụng linh hoạt các phong cách lãnh đạo một cách hợp
lý trong những trường hợp cụ thể.
Những nhà lãnh đạo tương lai phải biết trông vào một viễn cảnh thực tế và xác
định những giá trị xứng đáng cho tổ chức mà họ muốn dẫn dắt. Họ phải giao tiếp
và có khả năng tạo động lực cho nhân viên hiệu quả hơn những gì mà các nhà lãnh
đạo trong quá khứ đã làm. Họ phải trở nên nhạy bén trước những thay đổi liên tục
trong điều kiện hiện nay. Những nhà lãnh đạo kiểu này sẽ phải khai thác tối đa tài
năng và khả năng sáng tác mà tổ chức của họ sở hữu, từ nhân viên cho đến những
người ở vị trí cao.

16


17



×