Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

TIỂU LUẬN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.45 KB, 41 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGÂN HÀNG
TIỂU LUẬN NHÓM
Tên đề tài:
THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
GVHD: TS. Thân Thị Thu Thủy

Tp. Hồ Chí Minh
Năm 2013
Danh sách nhóm:
1. Hồ Hoàng Thùy Dương
2. Triệu Anh Tuấn
3. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
4. Nguyễn Thị Thành
5. Trịnh Nguyễn Ngọc Thương
6. Hồ Miến Nguyệt
7. Nguyễn Ngọc Duy
8. Nguyễn Duy Tiến
9. Nguyễn Thị Hồng Chánh
10.Nguyễn Thị Kim Cúc
11.Bùi Hoàng Việt
12.Trần Thị Thu Hà
13.Lê Hồng Tâm
14.Ngô Thị Tuyết Minh
15.Võ Đông Phong
16.Nguyễn Thị Kim Dung
MỤC LỤC
I. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ TRÁI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU 3
1. Tổng quan về trái phiếu 3
1.1. Khái niệm trái phiếu 3
1.2. Đặc điểm của trái phiếu 3


1.3. Các đặc trưng cơ bản của trái phiếu 3
1.4. Phân loại trái phiếu 4
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trái phiếu 5
1.6. Lợi ích và rủi ro trong đầu tư trái phiếu 6
1.7. Định giá trái phiếu 7
2.1. Thị trường trái phiếu: 8
2.2. Mục tiêu của thị trường trái phiếu: 8
2. Thị trường trái phiếu chính quyền địa phương 25
3. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp 29
I. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ TRÁI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
1. Tổng quan về trái phiếu
1.1. Khái niệm trái phiếu
− Trái phiếu là một hợp đồng nợ dài hạn được ký kết giữa chủ thể phát hành (Chính phủ hay
doanh nghiệp) và người cho vay,đảm bảo một sự chi trả cổ tức định kỳ và hoàn lại vốn gốc
cho người cấm trái phiếu ở thời điểm đáo hạn. Trên giấy chứng nhận nợ này có ghi mệnh
giá của trái phiếu và tỷ suất trái phiếu.
− Trái chủ là người cho nhà phát hành vay và họ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về
kết quả sử dụng vốn vay của người vay. Nhà phát hành có nghĩa vụ phải thanh toán
theo các cam kết nợ được xác định trong hợp đồng vay.
1.2. Đặc điểm của trái phiếu
− Chủ thể phát hành trái phiếu không chỉ có Công ty, mà còn có Chính phủ Trung ương và
Chính phủ địa phương.
− Người mua trái phiếu chỉ là người cho chủ thể phát hành vay tiền và là chủ nợ của chủ thể
phát hành trái phiếu. Khác với người mua cổ phiếu là người Chủ sở hữu Công ty.
− Thu nhập của trái phiếu là tiền lãi, là khoản thu cố định không phụ thuộc vào kết quả sản
xuất kinh doanh của công ty.
− Trái phiếu là chứng khoán nợ, vì vậy khi Công ty bị giải thể hoặc phá sản thì trước hết
Công ty phải có nghĩa vụ thanh toán cho các Chủ trái phiếu trước, sau đó mới chia cho các
Cổ đông.
=> Với những đặc điểm trên, trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ

phiếu. Vì vậy, trái phiếu là loại chứng khoán được các nhà đầu tư ưa chuộng.
1.3. Các đặc trưng cơ bản của trái phiếu
− Mệnh giá trái phiếu: hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu là giá trị ghi trên trái
phiếu. Giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá trái phiếu là căn cứ để xác định số lợi
tức tiền vay mà người phát hành phải trả. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền người phát hành
phải hoàn trả khi trái phiếu đến hạn. Ở Việt Nam mệnh giá của trái phiếu được ấn định là
100.000đ và các mệnh giá khác là bội số của 100.000đ. Mệnh giá của trái phiếu được xác
định phụ thuộc vào số tiền huy động trong kỳ và số trái phiếu phát hành.
− Lãi suất danh nghĩa: Lãi suất trái phiếu thường được ghi trên trái phiếu hoặc người phát
hành công bố được gọi là lãi suất danh nghĩa. Lãi suất này được xác định theo tỷ lệ phần
trăm so với mệnh giá trái phiếu và cũng là căn cứ để xác định lợi tức trái phiếu.
− Thời hạn của trái phiếu: là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người phát hành
hoàn trả vốn lần cuối. Trái phiếu có thời hạn khác nhau, trái phiếu ngắn hạn có thời gian từ
1 năm đến 5 năm. Trái phiếu trung hạn, có thời gian từ 5 năm đến 10 năm và từ 10 năm trở
lên là trái phiếu dài hạn. Ngày đáo hạn trái phiếu là ngày mà tổ chức phát hành thanh toán
số vốn gốc và lãi cho chủ sở hữu trái phiếu.
− Kỳ trả lãi: Là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái phiếu. Lãi
suất trái phiếu được xác định theo năm, nhưng việc trả lợi tức trái phiếu thường được thực
hiện mỗi năm một hoặc hai lần.
− Giá phát hành: Là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông thường giá
phát hành được xác định theo tỷ lệ phần trăm (%) của mệnh giá. Tùy theo tình hình của thị
trường và của người phát hành để xác định giá phát hành một cách thích hợp. Có thể phân
biệt 3 trường hợp:
+ Giá phát hành bằng mệnh giá (ngang giá);
+ Giá phát hành dưới mệnh giá (giá chiết khấu);
+ Giá phát hành trên mệnh giá (giá gia tăng).
=> Dù trái phiếu được bán với giá nào (ngang giá, giá chiết khấu hay giá gia tăng), thì lợi
tức luôn được xác định theo mệnh giá của trái phiếu và khi đáo hạn, người có trái phiếu sẽ
được thanh toán theo mệnh giá của trái phiếu.
− Quyền mua lại: Đối với loại trái phiếu có điều khoản chuộc lại cho phép tổ chức phát hành

trái phiếu thu hồi trái phiếu và hoàn lại vốn gốc mức giá dự kiến trước thời hạn thanh toán.
Tổ chức phát hành sử dụng quyền này để bảo vệ họ không phải trả lãi suất cao hơn đối với
số tiền mà họ vay. Tổ chức phát hành thu hồi trái phiếu khi tỷ lệ lãi suất trên thị trường thấp
hơn lãi suất trái phiếu mà tổ chức phát hành trước đó.
1.4. Phân loại trái phiếu
1.4.1. Phân loại theo chủ thể phát hành:
− Trái phiếu của Chính phủ : Do ngân sách Trung ương hay đại phương phát hành nhằm mục
đích bù đắp nhu cầu chi đầu tư,quản lý lạm phát, hoặc tài trợ cho các công trình, các dự án
của Nhà nước. Chính phủ phát hành trái phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong dân và các tổ
chức kinh tế, xã hội. Chính phủ luôn được coi là Nhà phát hành có uy tín nhất trên thị
trường; Vì vậy, Trái phiếu Chính phủ được coi là loại chứng khoán có ít rủi ro nhất.
− Trái phiếu chính quyền địa phương: Là loại trái phiếu đầu tư có kỳ hạn một năm trở lên, do
chính quyền địa phương ủy quyền cho Kho bạc hoặc các pháp nhân do chính quyền địa
phương lập ra, phát hành với mục đích huy động vốn để đầu tư xây dựng các công trình
mang tính công cộng như đường xá, bệnh viện, bến cảng, trường học
− Trái phiếu của doanh nghiệp: Là những trái phiếu do doanh nghiệp phát hành để tăng vốn
hoạt động nhằm đầu tư dài hạn cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trái phiếu doanh nghiệp có nhiều loại và rất đa dạng.
1.4.2. Phân loại dựa vào lợi tức trái phiếu
− Trái phiếu có lãi suất cố định: Là loại trái phiếu mà lợi tức được xác định theo một tỷ lệ
phần trăm (%) cố định tính theo mệnh giá.
− Trái phiếu có lãi suất biến đổi (lãi suất thả nổi): Là loại trái phiếu mà lợi tức được trả trong
các kỳ có sự khác nhau và được tính theo một lãi suất có sự biến đổi theo một lãi suất tham
chiếu. Thông thường cứ 6 tháng một lần, căn cứ vào lãi suất tiền gửi ngắn hạn của ngân
hàng để điều chỉnh lãi suất cho phù hợp.
− Trái phiếu chiết khấu : Là loại trái phiếu mà người mua không nhận được lãi, nhưng được
mua với giá thấp hơn mệnh giá (mua chiết khấu) và được hoàn trả bằng mệnh giá khi trái
phiếu đó đáo hạn.
1.4.3. Phân loại theo mức độ đảm bảo thanh toán của người phát hành
− Trái phiếu bảo đảm: Là loại trái phiếu mà người phát hành dùng một tài sản có giá trị làm

vật đảm bảo cho việc phát hành. Khi nhà phát hành mất khả năng thanh toán, thì trái chủ có
quyền thu và bán tài sản đó để thu hồi lại số tiền người phát hành còn nợ. Trái phiếu bảo
đảm thường bao gồm một số loại chủ yếu sau:
+ Trái phiếu có tài sản cầm cố: Là loại trái phiếu bảo đảm bằng việc người phát hành cầm
cố một bất động sản để bảo đảm thanh toán cho trái chủ. Thường giá trị tài sản cầm cố lớn
hơn tổng mệnh giá của các trái phiếu phát hành để đảm bảo quyền lợi cho trái chủ.
+ Trái phiếu bảo đảm bằng chứng khoán ký quỹ: Là loại trái phiếu được bảo đảm bằng việc
người phát hành thường là đem ký quỹ số chứng khoán dễ chuyển nhượng mà mình sở hữu
để làm tài sản bảo đảm.
− Trái phiếu không bảo đảm: Là loại trái phiếu phát hành không có tài sản làm vật bảo đảm
mà chỉ bảo đảm bằng uy tín của người phát hành.
1.4.4. Phân loại dựa vào hình thức trái phiếu
− Trái phiếu vô danh: Là loại trái phiếu không ghi tên của người mua và trong sổ sách của
người phát hành. Trái chủ là người được hưởng quyền lợi.
− Trái phiếu ghi danh: Là loại trái phiếu có ghi tên của người mua và trong sổ sách của người
phát hành.
1.4.5. Phân loại dựa vào tính chất trái phiếu
− Trái phiếu có thể chuyển đổi: Là loại trái phiếu của công ty cổ phần mà trái chủ được quyền
chuyển sang cổ phiếu của công ty đó. Việc này được quy định cụ thể về thời gian và tỷ lệ
khi mua trái phiếu.
− Trái phiếu có quyền mua cổ phiếu: Là loại trái phiếu có kèm theo phiếu cho phép trái chủ
được quyền mua một số lượng nhất định cổ phiếu của công ty.
− Trái phiếu có thể mua lại: Là loại trái phiếu cho phép nhà phát hành được quyền mua
lại một phần hay toàn bộ trước khi trái phiếu đến hạn thanh toán.
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trái phiếu
− Khả năng tài chính của người cung cấp trái phiếu: Nhà đầu tư rất quan tâm khả năng thanh
toán lãi và vốn gốc của người cung cấp trái phiếu. Nếu có những biến động bất lợi về khả
năng tài chính của chủ thể phát hành thì lập tức giá trái phiếu đó sẽ giảm trên TTCK.
− Thời gian đáo hạn: Một trái phiếu có thời hạn đáo hạn càng gần thì giá của nó càng tăng
trên thị trường bởi vì độ rủi ro càng thấp.

− Dự kiến về lạm phát: Nếu lạm phát dự kiến tăng thì các chứng khoán có lãi suất cố định trả
theo lãi trái phiếu chì được thanh toán theo danh nghĩa, và như vậy sẽ kém hấp dẫn hơn các
tài sản khác có khả năng loại trừ yếu tố lạm phát. Vì vậy giá thị trường của các chứng khoán
có lãi suất cố định bị giảm và điều này cũng buộc phải tăng lãi cho các chứng khoán đó,
phần lãi tăng này sẽ đền bù thiệt hại của những người giữ trái phiếu trong tương lai bị ảnh
hưởng bởi lạm phát.
− Biến động lãi suất thị trường: Lãi suất thị trường là một yếu tố quan trọng trong việc định
giá của các chứng khoán có lãi suất cố định. Nếu lãi suất bắt đầu tăng thì lợi tức đối với các
trái phiếu đang tồn tại chắc chắn sẽ thay đổi. Trong trường hợp này, vốn sẽ chảy vào thị
trường hứa hẹn lợi nhuận cao hơn. Như vậy giá trái phiếu có lợi tức cố định sẽ giảm. Nhìn ở
khía cạnh khác, nếu giá trái phiếu giảm do người ta dự đoán lạm phát tăng, thì việc tăng lãi
suất có thể được coi là dấu hiệu của Chính phủ quyết đẩy lùi lạm phát. Ảnh hưởng tiêu cực
của việc tăng lãi suất được đền bù bởi tác động tích cực của triển vọng lạm phát được cải
thiện.
− Thay đổi tỷ giá hối đoái: Yếu tố này ảnh hưởng đến các loại trái phiếu được thanh toán
bằng đồng nội tệ hay đồng ngoại tệ. Ví dụ đồng doolar Mỹ có giá trị tăng cao hơn so
với đồng bảng Anh thì sẽ làm tăng giá trị của loại trái phiếu được thanh toán bằng
dollar Mỹ.
1.6. Lợi ích và rủi ro trong đầu tư trái phiếu
1.6.1. Lợi ích
− Trái phiếu là công cụ nợ có độ tin cậy cao nhất, đặc biệt là trái phiếu chính phủ.
− Trong môi trường lạm phát thấp, đầu tư trái phiếu là một cách an toàn để duy trì nguồn thu
nhập thường xuyên.
− Khi TTCK biến động, đầu tư trái phiếu là một cách giúp đảm bảo an toàn vốn đầu tư và
phân tán rủi ro.
− Dù làm ăn kém hiệu quả, công ty vẫn phải trả đủ tiền lãi, không cắt giảm hoặc bỏ như cổ
phiếu. Nếu công ty ngừng hoạt động, thanh lý tài sản, trái chủ được trả tiền trước người có
cổ phần ưu đãi và cổ phần thông thường.
1.6.2. Rủi ro
− Rủi ro tín nhiệm: mức độ rủi ro tín nhiệm của trái phiếu được đánh giá dựa trên các yếu tố

kinh tế và khả năng hoàn trả lãi và gốc trái phiếu của nhà phát hành. Trái phiếu chính phủ
thường được coi là có mức độ rủi ro thấp nhất, vì Chính phủ có khả năng thu thuế hoặc
phát hành tiền để trả nợ. Các công ty không có những quyền đó, do vậy trái phiếu công ty
có mức độ rủi ro cao hơn và phải trả lãi suất cao hơn cho nhà đầu tư. Rủi ro tín nhiệm được
thể hiện qua hệ số tín nhiệm. Hệ số tín nhiệm càng cao thì trái phiếu được coi là càng an
toàn.
− Rủi ro lãi suất: lãi suất thị trường càng tăng, giá trái phiếu càng giảm và ngược lại. Khi lãi
suất thị trường giảm, giá trái phiếu nhà đầu tư đang nắm giữ sẽ tăng. Bởi lãi suất định kỳ
của trái phiếu đã được ấn định từ trước, lãi suất thị trường giảm làm cho các trái phiếu cũ
với mức lãi suất cao hơn trở nên hấp dẫn hơn. Trái phiếu có thời gian đáo hạn càng dài thì
mức độ tăng giá càng cao. Ngược lại, khi lãi suất thị trường tăng, giá trái phiếu sẽ giảm.
Trái phiếu có thời gian đáo hạn càng dài thì mức giảm giá càng lớn.
− Rủi ro lạm phát: lạm phát là kẻ thù của nhà đầu tư trái phiếu, bởi nó ăn mòn giá trị đồng
tiền. Lạm phát càng cao, lãi suất thực của trái phiếu (bằng lãi suất danh nghĩa của trái phiếu
trừ lạm phát) càng giảm, do vậy làm mất giá trị của trái phiếu. Ví dụ: nếu một trái phiếu trả
lãi 8%/năm, lạm phát bình quân 5% thì lãi suất thực của trái phiếu là 3%; nếu lạm phát tăng
lên 7%, lãi suất thực chỉ còn 1%.
− Rủi ro thanh khoản: khi nhà đầu tư trái phiếu cần tiền mặt mà thị trường lại thiếu tính thanh
khoản, sẽ khó lòng tìm được người sẵn sàng mua lại trái phiếu, hoặc nếu tìm được thì phải
bán lại với giá rẻ hơn so với giá trị thực của trái phiếu.
− Rủi ro khi TTCK sụt giá mạnh: thông thường, giá trái phiếu không biến động nhiều như giá
cổ phiếu, do vậy khi TTCK sụt giá mạnh, các nhà đầu tư có xu hướng chuyển đầu tư từ cổ
phiếu sang trái phiếu, qua đó đẩy giá trái phiếu tăng lên. Tuy nhiên, khi TTCK đã xuống
đến mức đáy, nhà đầu tư lại có xu hướng chuyển sang cổ phiếu đang ở mức giá thấp, điều
đó làm giá trái phiếu giảm trở lại.
1.7. Định giá trái phiếu
1.7.1. Định giá trái phiếu thông thường
Ở dạng thông thường, trái phiếu có mệnh giá, thời hạn và lãi suất coupon xác định, không kèm
theo các điều kiện có thể chuyển đổi, có thể mua lại hay bán lại hay tái định lãi suất. Khi đó,
giá của trái phiếu bằng giá trị hiện tại của các dòng tiền dự kiến sẽ đuợc từ công cụ tài chính

đó. Vì vậy, để xác định mức giá đó, cần phải:
− Ước tính các dòng tiền sẽ nhận đuợc trong tuơng lai.
− Ước tính lợi suất đòi hỏi phù hợp.
Buớc đầu tiên trong việc xác định giá của một trái phiếu là xác định các dòng tiền của nó. Đối
với trái phiếu thông thường, các dòng tiền bao gồm:
− Các khoản thanh toán lãi coupon định kỳ cho tới khi đáo hạn.
− Mệnh giá nhận được tại lúc đáo hạn.
Để đơn giản ta giả định rằng:
− Các khoản thanh toán lãi coupon đuợc thực hiện 6 tháng một lần.
− Khoản lãi tiếp theo của trái phiếu sẽ đuợc nhận sau đây đúng 6 tháng.
Do đó, dòng tiền của một trái phiếu thông thường bao gồm một khoản dòng tiền trong năm
là lãi coupon cố định trả nửa năm một lần và mệnh giá trả khi đáo hạn.
Lợi suất đòi hỏi đuợc xác định bằng cách xem xét lợi suất của trái phiếu tuơng đuơng trên
thị trường. Tuơng đuơng ở đây có nghĩa là các trái phiếu có cùng chất luợng tín nhiệm và
cùng thời hạn. Lợi suất đòi hỏi thường đuợc thể hiện thành một mức lãi suất năm. Khi các
dòng tiền đuợc thực hiện theo nửa năm một, thị trường sẽ sử dụng một nửa các mức lãi suất
năm này làm lãi suất định kỳ để chiết khấu các dòng tiền.
Khi đã có đuợc các dòng tiền của một trái phiếu và lợi suất đòi hỏi, ta có đủ các công cụ
phân tích để định giá một trái phiếu. Giá của trái phiếu là khoản tiền đầu tư ban đầu (mua
trái phiếu) để đuợc nhận các khoản tiền trong tuơng lai, như vậy nó sẽ là tổng các giá trị
sau:
− Giá trị hiện tại của các khoản thanh toán lãi nửa năm.
− Giá trị hiện tại của giá trị mệnh giá tại thời điểm đáo hạn của trái phiếu.
Công thức tổng quát để tính giá của một trái phiếu là:
Trong đó:
· P = giá
· n = số kỳ (số năm nhân 2)
· C = lãi coupon nửa năm (M x 1/2 lãi suất coupon)
· r = lãi suất định kỳ (lợi suất yêu cầu tính theo năm chia 2)
· M = giá trị mệnh giá

· t = số kỳ cho tới khi nhận lãi
 Đối với trái phiếu không trả lãi định kỳ (Zero Coupon Bonds)
 Đối với trái phiếu trả lãi định kỳ 1 năm 1 lần
 Đối với trái phiếu trả lãi định kỳ 6 tháng 1 lần
2. Thị trường trái phiếu
2.1. Thị trường trái phiếu:
Thị trường trái phiếu là thị trường phát hành và lưu hành các loại trái phiếu do Chính phủ
hoặc doanh nghiệp cùng các tổ chức kinh tế phát.
2.2. Mục tiêu của thị trường trái phiếu:
Mục tiêu của thị trường trái phiếu là huy động vốn trung và dài hạn với phương thức có trả
lãi và hoàn vốn trong một kỳ hạn nhất định cho chủ đầu tư.
2.3. Phân loại thị trường trái phiếu:
Thị trường trái phiếu được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
2.3.1. Thị trường sơ cấp:
2.3.1.1. Khái niệm:
Thị trường sơ cấp là thi trường thực hiện giao dịch, mua bán các loại trái phiếu mới phát
hành. Trên thị trường này vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc
nhà đầu tư mua các trái phiếu mới phát hành.
2.3.1.2. Vai trò:
− Trái phiếu hóa các nguồn vốn cần huy động, vốn của công ty được huy động qua việc phát
hành chứng khoán.
− Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính trực tiếp đưa các khoản tiền nhà rỗi tạm thời trong
dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền sang dạng vốn dài hạn
2.3.1.3. Đặc điểm:
− Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các trái phiếu đem lại vốn cho người phát hành. Là
trhị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành và đồng thời cũng tạo ra hàng hóa cho thị trường
giao dịch. Trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, thị trường sơ cấp làm tăng vốn đầu tư.
− Những người bán trái phiếu trên thị trường sơ cấp được xác định thường là Kho bạc, Ngân
hàng Nhà nước, công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát hành,
− Thị trường sơ cấp chỉ được tổ chức một lần cho một loại chứng khoán nhất định, trong thời

gian hạn định.
2.3.1.4. Các phương thức phát hành trái phiếu VN:
− Phát hành thông qua hình thức bảo lãnh phát hành: bao gồm các hình thức bảo lãnh từng
phần, đồng bảo lãnh, tổ hợp bảo lãnh và bảo lãnh toàn bộ.
+ Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục
trước khi phát hành trái phiếu ra thị trường chứng khoán, phân phối trái phiếu cho các nhà
đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn lại chưa phân phối hết.
+ Tổ hợp bảo lãnh phát hành là nhóm các tổ chức bảo lãnh phát hành có từ hai tổ chức trở
lên cùng tham gia bảo lãnh phát hành trái phiếu trên cơ sở hợp đồng giữa các tổ chức bảo
lãnh phát hành.
+ Tổ chức bảo lãnh phát hành chính là tổ chức đại diện về quyền lợi và nghĩa vụ cho tổ hợp
bảo lãnh trong hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu với tổ chức phát hành.
+ Đồng bảo lãnh phát hành chính là các tổ chức bảo lãnh phát hành chính đồng đại diện về
quyền lợi và nghĩa vụ cho tổ hợp bảo lãnh trong hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu với
tổ chức phát hành.
+ Đồng bảo lãnh là các tổ chức bảo lãnh phát hành trong tổ hợp bảo lãnh phát hành có
quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu với tổ chức
phát hành.
− Phát hành thông qua Đại lý phát hành.
+ Đại lý phát hành là việc tổ chức phát hành uỷ thác cho các tổ chức khác thực hiện bán trái
phiếu cho các nhà đầu tư. Trường hợp không bán hết, tổ chức đại lý phát hành được trả lại
số trái phiếu còn lại cho tổ chức phát hành.
− Phát hành thông qua phương thức đấu thầu: Đấu thầu cạnh tranh lãi suất và không cạnh
tranh lãi suất.
2.3.1.5. Điều kiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp:
− Đối với trái phiếu không chuyển đổi:
+ Doanh nghiệp có thời gian hoạt động tối thiểu là một (01) năm kể từ ngày doanh nghiệp
chính thức đi vào hoạt động;
+ Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của năm liền kề trước năm phát hành phải có lãi
theo báo cáo tài chính được kiểm toán bởi Kiểm toán Nhà nước hoặc tổ chức kiểm toán độc

lập được phép hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Báo cáo tài chính được kiểm toán của
doanh nghiệp phát hành phải là báo cáo kiểm toán nêu ý kiến chấp nhận toàn phần. Trường
hợp doanh nghiệp phát hành trái phiếu trước ngày 01 tháng 4 hàng năm chưa có báo cáo tài
chính năm của năm liền kề được kiểm toán thì phải có:
++ Báo cáo tài chính được kiểm toán của năm trước năm liền kề với kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh có lãi;
++ Báo cáo tài chính quý gần nhất với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi
được kiểm toán (nếu có);
++ Báo cáo tài chính của năm liền kề với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi
được Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty phê duyệt theo Điều lệ
hoạt động của công ty.
++ Đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn và các hạn chế khác về đảm bảo an toàn trong
hoạt động đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện quy định tại pháp luật chuyên
ngành;
++ Có phương án phát hành trái phiếu được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và chấp
thuận quy định tại Điều 14, Điều 15 Nghị định này.
− Đối với phát hành trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm chứng quyền, doanh nghiệp
phát hành ngoài việc đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này còn phải đáp ứng
các điều kiện sau:
+ Thuộc đối tượng được phát hành trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm theo chứng
quyền;
+ Đảm bảo tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam theo quy
định của pháp luật hiện hành;
+ Các đợt phát hành trái phiếu chuyển đổi phải cách nhau ít nhất sáu (06) tháng.
2.3.2. Thị trường thứ cấp
2.3.2.1. Khái niệm thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các trái phiếu đã được phát hành trên thị trường thị sơ cấp.
Thị trường đảm bảo tính thanh khoản cho các trái phiếu đã phát hành. Đây là nơi trao đổi, mua
bán các trái phiếu đã được phát hành. Nhà đầu tư mua đi bán lại trái phiếu nhằm vào một trong
các mục đích: cất giữ tài sản tài chính, nhận một khoản thu nhập cố định hàng năm, hưởng

chênh lệch giá.
2.3.2.2. Vai trò của thị trường thứ cấp
− Thị trường thứ cấp tạo ra khả năng chuyển đổi trái phiếu thành tiền mặt dễ dàng, thuận tiện.
− Sự tồn tại của thị trường thứ cấp cũng cho phép định giá những trái phiếu mới căn cứ vào
mức lãi có được từ những đợt phát hành lớn.
2.3.2.3. Đặc điểm của thị trường thứ cấp:
− Thị trường có tính chất cạnh tranh hoàn hảo.
− Thị trường có tính liên tục.
− Khối lượng và nhịp độ giao dịch lớn gấp nhiều lần so với thị trường trái phiếu sơ cấp.
− Hoạt động chủ yếu của thị trường trái phiếu thứ cấp là các nhà đầu tư thực hiện chuyển giao
quyền sở hữu trái phiếu và tiền cho nhau.
− Tiền thu được ở đây không thuộc về nhà phát hành mà thuộc về nhà đầu tư bán trái phiếu,
nhượng lại quyền sở hữu trái phiếu cho nhà đầu tư khác.
2.3.2.4. Mối liên hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
− Thị trường sơ cấp và Thị trường thứ cấp có mối quan hệ nội tại, thị trường sơ cấp là cơ sở,
là tiền đề; Thị trường thứ cấp là động lực.
− Không có thị trường sơ cấp thì không có chứng khoán để lưu thông trên thị trường thứ cấp.
− Nếu không có thị trường thứ cấp thì các trái phiếu đã phát hành ra trên thị trường sơ cấp sẽ
không được tiếp tục lưu chuyển.
− Thị trường thứ cấp tạo điều kiện dễ dàng để chuyển các trái phiếu thành tiền mặt, làm tăng
tính lỏng của trái phiếu khiến chúng được ưa chuộng hơn và dễ dàng hơn cho các công ty
bán chúng ở thị trường sơ cấp.
− Việc thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng của trái phiếu đã phát hành giúp làm giảm rủi ro
cho các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư sẽ dễ dàng hơn trong việc sàng lọc, lựa chọn, thay đổi
kết cấu danh mục đầu tư trên cơ sở đó làm giảm chi phí cho các nhà phát hành trong việc
huy động và sử dụng vốn.
− Tăng tính lỏng của trái phiếu tạo điều kiện cho việc chuyển đổi thời hạn của vốn đồng thời
tạo điều kiện cho việc phân phối vốn một cách hiệu quả, tạo điều kiện tách biệt giữa quyền
sở hữu và quyền quản lý, làm cơ sở cho việc tăng hiệu quả quản lý doanh nghiệp.
− Thị trường thứ cấp xác định giá của trái phiếu đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị

trường thứ cấp được xem là thị trường định giá các công ty. Những người mua trái phiếu ở
thị trường sơ cấp chỉ chấp nhận thanh toán với giá mà họ cho rằng nhà đầu tư trên thị
trường thứ cấp sẽ tăng hơn nữa. Giá trái phiếu ở thị trường thứ cấp càng cao thì giá trái
phiếu trên thị trường sơ cấp càng cao.
− Thông qua việc xác định giá, thị trường thứ cấp cung cấp một danh mục chi phí vốn tương
ứng với các mức độ rủi ro khác nhau của từng phương án đầu tư, tạo cơ sở tham chiếu cho
các nhà phát hành cũng như những nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp.
=> Việc phân biệt Thị trường sơ cấp và Thị trường thứ cấp có tính chất tương đối.
2.3.2.5. Điều kiện niêm yết trái phiếu doanh nghiệp:
− Là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng
ký niêm yết từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
− Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi;
− Các trái phiếu của một đợt phát hành có cùng ngày đáo hạn;
− Có hồ sơ đăng ký niêm yết trái phiếu hợp lệ theo quy định.
(Điều 53 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012)
− Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa
phương được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán theo quy định của Bộ Tài chính.
− Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội thực hiện niêm yết trái phiếu căn cứ vào văn bản thông
báo đăng ký trái phiếu của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam. Trái phiếu được
niêm yết chậm nhất vào ngày làm việc thứ hai sau ngày thanh toán tiền mua trái phiếu.
− Trái phiếu sau khi được niêm yết sẽ được giao dịch chậm nhất vào ngày làm việc thứ ba sau
ngày thanh toán tiền mua trái phiếu.
− Việc hủy niêm yết các trái phiếu không thực hiện thanh toán được Sở Giao dịch Chứng
khoán Hà nội thực hiện căn cứ vào văn bản thông báo hủy kết quả phát hành trái phiếu của
Kho Bạc Nhà nước và văn bản thông báo hủy niêm yết các trái phiếu không thực hiện thanh
toán của Trung tâm lưu ký chứng khoán.
(Quy trình niêm yết đối với trái phiếu Chính phủ được thực hiện theo khoản 2 Điều 33
Thông tư số 17/2012/TT-BTC ngày 08/02/2012 của Bộ Tài chính về hướng dẫn phát hành
trái phiếu Chính phủ tại thị trường trong nước.)
2.3.2.6. Phương thức giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp

Đối với trái phiếu: Mọi giao dịch trái phiếu được thực hiện theo phương thức thỏa thuận
(không giao dịch theo phương thức khớp lệnh).
− Ngoài phương thức khớp lệnh, hệ thống giao dịch tại SGDCK TP. HCM còn cho phép các
công ty chứng khoán thành viên thực hiện các giao dịch theo phương thức thỏa thuận.
− Theo phương thức giao dịch thỏa thuận, các bên mua bán (hoặc công ty chứng khoán đại
diện bên mua và bán thay mặt khách hàng) thỏa thuận với nhau về các điều kiện giao dịch.
Sau đó, giao dịch sẽ được công ty chứng khoán thành viên bên mua và bán nhập vào hệ
thống giao dịch để ghi nhận kết quả.
− Các giao dịch thỏa thuận phải tuân thủ quy định về biên độ dao động giá trong ngày.
− Trong thời gian giao dịch thỏa thuận, các công ty chứng khoán có thể đăng nhập quảng cáo
giao dịch thỏa thuận trên hệ thống giao dịch của Sở để tìm kiếm đối tác.
II. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM
Thị trường trái phiếu Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, quy mô còn nhỏ so với tỷ trọng
trên GDP và quy mô còn nhỏ so với các nước trong khu vực.
Dư nợ trái phiếu năm 2011 (khoảng 17% GDP) so với các thị trường trong khu vực (Trung
Quốc 53%, Thái Lan 58%, Malaysia 82%,Singapore 74%). Tuy nhiên, quy mô thị trường trái
phiếu đã có sự phát triển tích cực: theo ông Đỗ Việt Dũng, Phó trưởng phòng Vụ Tài chính
Ngân hàng, Bộ Tài Chính, quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam đã tăng khoảng 10 lần. Năm
2012, ước tính tổng quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam là 21,6% GDP. Tuy nhiên, trái phiếu
chính phủ và trái phiếu được chính phủ bảo lãnh vẫn chiếm tỷ trọng lớn, năm 2012 ước tính
chiếm 15,7% GDP. Trái phiếu chính quyền địa phương chiếm 0,25% GDP, trái phiếu doanh
nghiệp chiếm 5,56% GDP.
1. Thị trường trái phiếu chính phủ:
Các mốc đánh dấu sự phát triển của thị trường trái phiếu chính phủ
Mốc thời gian Các sự kiên
Tháng 01/2000 quy chế phát hành trái phiếu CP theo nghị định 72/CP ngày
26/07/1994 được thay thế bằng nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày
13/01/2000 ban hành quy chế phát hành trái phiếu chính phủ
Tháng 8 năm 2000
Trái phiếu chính phủ chính thức được đưa vào giao địch tập trung

trên Trung tâm Giao địch Chứng khoán Tp HCM
Tháng 11 năm 2003 Chính phủ ban hành Nghị định 1
41/2003/NĐ-CP về việc phát hành
TPCP, trái phiếu được Chính phũ bảo lãnh và trái phiếu chính
quyền địa phương
Tháng 8 năm 2005 Trái phiếu chính phủ dược niêm yết và giao dịch tại Trung tâm
Giao dịch Chứng khoán Hà nội
Tháng 6 năm 2006
Bộ Tài chính ban hành Quyết định 2276/QĐ-BTC về việc tập trung
đấu thầu TPCP tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.
- Bộ Tài chính ban hành Quyết định 46/2006/OĐ-BTC về

Quy chế phát hành TPCP theo lô lớn
Tháng 1 năm 2008
Bộ Tài chính Ban hành Quyết định 86/QĐ
-BTC phê duyệt" Đề án
xây dựng Thị trường Trái phiếu Chính phũ Chuyên biệt", theo đó,
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà nội dược giao nhiệm vụ lả
dầu mối duy nhắt thực hiện nhiệm vụ tô chức hoạt dộng giao dịch
Trái phiếu chính phủ
Tháng 5 năm 2008
Úy Ban Chứng khoán Nhà nước ban hành Quyết định 352/
QĐ-
UBCKNN về việc chuyển trái phiếu chính phủ niêm yết tại sở Giao
dịch Chứng khoán Tp HCM ra niêm yết và giao dịch trên Trung
tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.
Tháng 7 năm 2008 Bộ Tài chính ban hành quyết định 46/2008/QĐ
-BTC về Quy chế
Quản lý Giao dịch Trái phiếu Chính phủ tại Trung tâm Giao dịch
chứng khoán Hà nội

Tháng 6 năm 2009 Hệ thống Giao dịch Trái phiếu Chính phủ chuyên biệt chính thức
khai trương hoạt động. Giao dịch repos được đưa ra giao dịch trên
hệ thống
Quy mô trị trường TPCP phát hành bằng VND có sự tăng trưởng qua các năm đặc biệt có sự
tăng trưởng mạnh trong năm 2012:
(Nguồn: Asiabondsonline)
Các thành viên tham gia trị trường sơ cấp trái phiếu chính phủ gồm 4 nhóm: công ty chứng
khoán, ngân hàng thương mại, ngân hàng nước ngoài, các TCTD khác trong đó 2 nhóm chủ
yếu là công ty chứng khoán và ngân hàng thương mại. Danh sách thành viên sơ cấp sẽ được
công bố hàng năm trên website Bộ Tài Chính, năm 2013 có 36 thành viên trong đó 22 thành
viên cũ, 14 thành viên mới.
Thành viên tham gia trên thị trường giao dịch trái phiếu chính phủ trên thị trường thứ cấp
chủ yếu là công ty chứng khoán và ngân hàng thương mại. Các công ty chứng khoán được thực
hiện giao dịch tự doanh và giao dịch môi giới) và thành viên đặc biệt (các ngân hàng thương
mại được thực hiện giao dịch tự doanh)
Trong thời gian năm qua, thị trường trái phiếu chính phủ đã hình thành và phát triển với
các mốc lịch sử sau:
• Đến năm 2000, quy chế phát hành trái phiếu CP theo nghị định 72/CP ngày 26/07/1994
được thay thế bằng nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày 13/01/2000 ban hành quy chế phát
hành trái phiếu chính phủ. Quy chế phát hành TPCP đã đổi mới thể hiện qua việc áp
dụng phương thức phát hành trái phiếu thông qua đấu thầu qua thị trường giao dịch
chứng khoán tập trung và bảo lãnh phát hành. Bên cạnh đó còn quy định việc TPCP
niêm yết, giao dịch trên TTCK và phân rõ trách nhiệm của các cơ quan có liên quan.
Tháng 8/2000: TPCP lần đầu tiên được đưa vào giao dịch trên Trung tâm giao dịch CK
Tp. HCM (HOSE)
• Tháng 11/2003: Chính phủ ban hành Nghị định 141/2003/NĐ-CP về việc phát hành trái
phiếu Chính phủ, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương
bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ trong phạm vi cả nước.
TPCP do Chính phủ phát hành bao gồm: Tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu
công trình Trung ương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại tệ và công trái xây dựng Tổ quốc.

• Tháng 8/2005: TPCP được đưa vào giao dịch trên Trung tâm GDCK Hà Nội.
• Tháng 6/2006: Quyết định số 2276/QĐ-BTC về tập trung đấu thầu TPCP tại Trung tâm
GDCK Hà Nội. và Quyết định 46/2006/QĐ-BTC ban hành Quy chế về việc phát hành
trái phiếu Chính phủ theo lô lớn.
Quyết định này quy định sẽ chỉ tập trung hoạt động đấu thầu trái phiếu Chính phủ, bao gồm
trái phiếu kho bạc và trái phiếu đầu tư tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội kể từ ngày
01/07/2006.
• Tính đến 30-9-2007, đã có hơn 114.809 tỉ đồng trái phiếu được niêm yết giao dịch trên
Sở GDCK TPHCM (HOSE) và Trung tâm GDCK Hà Nội (HASTC), tăng gấp hơn 104
lần sovới giá trị niêm yết năm 2000
• Tháng 1/2008: Quyết định 86/2008/QĐ-BTC phê duyệt đề án xây dựng thị trường
TPCP chuyên biệt.
Đây được xem là mốc sự kiện quan trọng nhất vì đã đặt ra mục tiêu, lộ trình và xác định mô
hình phát triển của Thị trường TPCP. Đề án được xây dựng nhằm tạo ra một thị trường giao
dịch trái phiếu chuyên biệt, tách hẳn khỏi thị trường giao dịch cổ phiếu.
Hàng hóa giao dịch bao gồm các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa
phương, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh. Tất cả các loại trái phiếu giao dịch trong hệ thống đều
được lưu ký tập trung tại Trung tâm Lưu ký chứng khoán.
Trái phiếu Chính phủ giao dịch sẽ được gán mã giao dịch và mã định danh riêng biệt để tạo
thuận lợi cho hoạt động giao dịch và quản lý. Phương thức giao dịch được áp dụng là thỏa
thuận. Thành viên có thể thực hiện giao dịch thỏa thuận từ xa thông qua hệ thống mạng máy
tính nội bộ mở rộng.
• Tháng 5/2008: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quyết định chuyển trái phiếu chính phủ
từ sàn Tp.HCM sang niêm yết tại sàn Hà Nội.
• Tháng 7/2008: Quyết định Số 46/2008/QĐ-BTC ban hành Quy chế quản lý giao dịch
TPCP tại Trung tâm GDCK Hà Nội.
Quy chế này quy định về hoạt động đăng ký niêm yết, công bố thông tin, thành viên giao
dịch TPCP, giao dịch và quản lý giao dịch TPCP niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán Hà Nội (TTGDCKHN).
Từ khoảng đầu năm 2008, liên tục diễn ra các cuộc đấu giá TPCP không thành công, số

lượng tham gia rất èo uột, thậm chí không có ai tham dự. Một thống kê cho thấy: trong 10 cuộc
đấu giá từ tháng 3/2008 đến 11/7/2008 thì chỉ có 11 đơn vị tham gia với tổng cộng 875 tỷ đồng
được đăng ký đấu so với trên 8.000 tỷ đồng gọi thầu. 6 cuộc đấu giá chỉ có một đơn vị tham gia
đấu giá và 9 cuộc đấu giá không có một trái phiếu nào được đấu thành công. Từ đầu năm 2009
đến tháng 7/2009, các cuộc đấu thầu TPCP cũng chịu chung số phận. Thậm chí, từ đầu tháng 4
đến tháng 7, lãi suất trần huy động TPCP tăng thêm đến 1,2 điểm phần trăm (từ 7,6% đến
8,8%), nhưng các cuộc đấu giá TPCP vẫn chưa thể tạo được sức hút đối với các NĐT trong và
ngoài nước, như sự thất bại của phiến đấu thầu lô 500 tỷ đồng ngày 29/5/2009 của Công ty CP
Đầu tư phát triển đường cao tốc VN (VEC) …
• Tháng 9/2009: Hệ thống giao dịch Trái phiếu Chính phủ chuyên biệt chính thức được
Sở GDCK Hà Nội (HNX) đưa vào vận hành và ra mắt vào ngày 24/09/2009 tới với mục
tiêu phát huy tối đa tầm quan trọng của kênh huy động vốn này đối với nền kinh tế.
Mục tiêu xây dựng và phát triển Thị trường TPCP là mở rộng thị trường, tăng cường tính
thanh khoản trên thị trường TPCP, liên kết thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, và tăng
cường công tác giám sát thị trường.
Sự ra đời của thị trường này được kỳ vọng không chỉ là một kênh dẫn vốn hữu hiệu của nền
kinh tế mà còn làm đa dạng hóa các công cụ đầu tư trên thị trường vốn. Đồng thời, thị trường
TPCP còn giúp tăng cường sự độc lập trong điều hành chính sách tiền tệ của các ngân hàng
trung ương thông qua mua bán TPCP, tác động trực tiếp đến lượng cung tiền và các biến số
kinh tế vĩ mô.
Sau một năm chính thức đi vào hoạt động, thị trường trái phiếu chuyên biệt đã có những
bước tiến mới, đó là thực hiện lưu ký tập trung tại HNX chứ không thực hiện một cách rải rác
trên nhiều thị trường. Hơn nữa, nhờ yêu cầu khắt khe đối với các thành viên tham gia thị
trường về các yếu tố trang thiết bị, chất lượng nhân sự, các bên tham gia thị trường có thể yên
tâm về tính an toàn khi giao dịch. Các cơ chế dành cho giao dịch REPO rất hạn chế. Trong giai
đoạn 2010 – 2015 thị trường sẽ có thêm giao dịch option, future và giao dịch corporation để
đưa các trái phiếu doanh nghiệp vào giao dịch.
• Năm 2010
Trên thị trường sơ cấp, trong năm 2010, hoạt động đấu thầu trái phiếu huy động được 28
nghìn tỷ đồng (tăng 11 lần so với năm 2009 và chiếm 50% tổng nguồn thu ngân sách từ phát

hành TPCP năm 2010) .
Trên thị trường thứ cấp:
Tổng khổi lượng TPCP đã niêm yết 1.732.800.000 , trong đó niêm yết mới 462.940.000,
niêm yết bổ sung 372.070.000. Quy mô giao dịch đạt:
Loại TP
Outright Repos
Giá trị giao dịch Giá trị giao dịch
TPCP 123,457,883,244,140 4,203,380,800,000 127,661,264,044,140
TPCPBL 57,413,835,170,000 1,787,574,800,000 59,201,409,970,000
(Nguồn HNX)
Người mua TPCP: Chủ yếu là các NĐT trong nước, đặc biệt là các NHTM, với 2 lý do chủ
yếu là: Thứ nhất, các NĐT nước ngoài chưa quay trở lại thị trường do có sự quan ngại nhất
định về sự sụt giảm giá trị của VND so với USD. Thứ hai, nhu cầu mua TPCP tăng mạnh của
khối các tổ chức tín dụng (TCTD) trong nước do: bối cảnh chính sách tiền tệ mở rộng giai đoạn
giữa năm làm gia tăng áp lực dư thừa vốn; Thông tư 13 và Thông tư 19 buộc các TCTD phải
tăng cường đầu tư vào TPCP; các NHTM tích cực tham gia mua TPCP do chênh lệch lãi suất
khá hấp dẫn giữa thị trường mở (OMO) và huy động từ thị trường 1; một lượng khá lớn TPCP
đáo hạn trong năm 2010, phần lớn là tại các NHTM, nên các NHTM tiếp tục mua lại và nắm
giữ TPCP.
• Năm 2011:
+ Trên thị trường sơ cấp, Năm 2011 có thể coi là năm thành công trong huy động vốn cho
ngân sách nhà nước thông qua đấu thầu trái phiếu chính phủ tại HNX Tổng khối lượng
trái phiếu chính phủ phát hành thành công đạt 65.903,8 tỷ đồng, đạt 77,5% kế hoạch
năm. Khối lượng trái phiếu phát hành thành công nhiều nhất thuộc kỳ hạn 3 năm
(30.117,1 tỷ đồng) và 5 năm (22.678,5 tỷ đồng). Khối lượng trái phiếu chính phủ bảo
lãnh phát hành thành công đạt 14.957 tỷ đồng, trong đó, khối lượng trúng thầu kỳ hạn 3
năm và 5 năm đạt lần lượt 5.742 tỷ đồng và 4.770 tỷ đồng. Lãi suất phát hành tuy ở một
mặt bằng mới cao hơn năm trước, song vẫn thấp hơn khoảng 2% so với lãi suất huy
động của hệ thống ngân hàng.
Biểu đồ: Khối lượng trái phiếu Chính phủ đã phát hành năm 2011

+ Trên thị thường thứ cấp :
Tổng khổi lượng TPCP đã niêm yết 1.905.628.000 , trong đó niêm yết mới 190.128.000,
niêm yết bổ sung 875.882.500.
Quy mô giao dịch:
Loại TP
Outright Repos Tổng
Giá trị giao dịch Giá trị giao dịch

TPCP 193,809,203,281,508 2,183,668,797,180
195,992,872,078,688
TPCPBL 50,985,768,231,000 1,002,157,000,000
51,987,925,231,000
Từ cuối năm 2010 sang năm 2011, lãi suất trái phiếu Chính phủ đã ồ ạt tăng mạnh ở tất
cả các kỳ hạn. Lãi suất đạt đỉnh vào thời điểm đầu tháng 6/2011, với lãi suất kỳ hạn 1 năm, 3
năm và 10 năm tương ứng là 13,532%, 13,234% và 12,385%. Sau khi đạt đỉnh này, lãi suất trái
phiếu Chính phủ giảm dần, tuy vậy kết thúc năm 2011 vẫn đứng ở mức cao.
Năm 2012:
Năm 2012, mặc dù tình hình kinh tế vĩ mô đã có những chuyến biến nhất định (như lạm phát và
nhập siêu có chiều hướng giảm, tỷ giá được duy trì ổn định, dự trữ ngoại tệ tăng, mặt bằng lãi
suất giảm…) nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn.Tuy nhiên, năm 2012 có thể khẳng
định là năm huy động, phát hành trái phiếu chính phủ đạt kỷ lục kể từ khi thị trường này được
Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) vận hành chính thức ngày 24/9/2009.
Thị trường sơ cấp: Tính đến cuối tháng 12/2012 đã được triển khai hiệu quả với khối lượng
huy động đạt gần 160.000 tỷ đồng (gần gấp 2 lần so với cả năm 2011), vượt chỉ tiêu kế hoạch
huy động điều chỉnh năm 2012 là 135.000 tỷ đồng. Trong tổng giá trị đấu thầu huy động được
trong năm 2012, chỉ riêng Kho bạc Nhà nước đã huy động được 106.884 tỷ đồng. Lãi suất
trúng thầu giảm so với năm 2011 và thấp hơn lãi suất huy động trên thị trường tiền tệ từ 1% -
2%.
Mức lãi suất trúng thầu và lợi suất trái phiếu, thường diễn biến cùng chiều với mức lạm phát,
do vậy cũng liên tục được giảm xuống từ mức 12%/năm xuống quanh mức 9%/năm cho các kỳ

hạn. Đồng thời, khi lãi suất huy động và cho vay vẫn tiếp tục đà giảm thì việc mua trái phiếu
với mức lãi suất quanh 9%/năm cũng trở nên hấp dẫn hơn. (lãi suất ngân hàng Áp lực tăng lãi
suất trong năm 2011 đã được chuyển hướng bằng xu thế giảm lãi suất, đặc biệt là trong 6
tháng đầu năm 2012, trần lãi suất huy động VNĐ sau 3 lần điều chỉnh đã giảm từ mức
14%/năm xuống còn 9%/năm, lãi suất huy động tiết kiệm của hệ thống ngân hàng thương mại
trung hình ở mức 11,21%/năm)
Lãi suất cho vay đã giảm mạnh từ mức phổ biến trên 18%/năm xuống 12%-14%/năm đối với
lĩnh vực cho vay nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu và công nghiệp hỗ trợ, ở mức 14% -
16,0%/năm đối với lĩnh vực sản xuất khác. Đây là những yếu tố tiền đề tích cực có ảnh hưởng
không nhỏ tới thị trường trái phiếu nói chung và trái phiếu Chính phủ nói riêng.
Điều kiện Thuận lợi cho việc đấu thầu và giao dịch TPCP năm 2012:
+ Ngày 06/08/2012: Chính thức đưa vào hoạt động hệ thống đấu thầu điện tử, hệ thống
kết nối trực tiếp giữa Sở với thành viên đấu thầu và cơ quan quản lý, góp phần liên kết thị
trường sơ cấp với thứ cấp, rút ngắn thời gian từ khi phát hành đến khi niêm yết TPCP.
+ Ngày 24/08/2012: Chính thức khai trương hệ thống giao dịch tín phiếu Kho bạc, tạo
thuận lợi cho việc thực hiện giao dịch của thành viên, cho công tác điều hành chính sách vĩ mô
của Nhà nước đồng thời liên kết hoạt động giao dịch trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ.
Các thành viên tham gia trên thị trường sơ cấp chủ yếu vẫn là các Công ty chứng khoán chiếm
30%, NHTM chiếm 36%, còn lại là NHNN (8%) và TCTD khác (9%)
Trên thị trường thứ cấp: hoạt động giao dịch “nhộn nhịp” hơn so với thị trường cổ phiếu, giá
trị giao dịch bình quân đạt 842 tỷ đồng/phiên, gấp 2,3 lần so với bình quân phiên năm 2011.
Giá trị giao dịch trên thị trường trái phiếu chính phủ đạt 189.086 tỷ đồng tính đến thời điểm
đầu tháng 12/2012, trong đó giao dịch repos chỉ chiếm khoảng 30% tổng giá trị (giao dịch trái
phiếu gồm giao dịch outright hay còn gọi là giao dịch mua đứt bán đoạn và giao dịch repos -
sau một thời hạn người bán sẽ phải giao dịch lại trái phiếu đó).
Ngân hàng và các tổ chức tín dụng là khu vực cung cấp phần lớn các nguồn vốn cho đầu tư
của nền kinh tế và cũng là nguồn cầu chủ yếu đối với trái phiếu. Mục tiêu chủ yếu mua trái
phiếu, đặc biệt với trái phiếu chính phủ, của các ngân hàng thương mại là để đảm bảo khả năng
thanh khoản và làm công cụ trong giao dịch với Ngân hàng Nhà nước Bên cạnh đó, các công
ty chứng khoán cũng tham gia với mục đích đầu tư tài chính. Tính tới thời điểm hiện tại, đã có

24 ngân hàng thương mại và 29 công ty chứng khoán là thành viên của thị trường trái phiếu
chính phủ.
Tháng đầu năm 2013:
Thị trường trái phiếu sơ cấp: Trong tháng đầu tiên của năm 2013, Sở Giao dịch Chứng
khoán Hà Nội chỉ tổ chức 2 phiên đấu thầu trái phiếu Chính phủ (TPCP). Tổng giá trị gọi
thầu TPCP đạt 14.000 tỷ đồng, thấp hơn mức gọi thầu 19.000 tỷ đồng TPCP của tháng
12/2012 Mặc dù khối lượng trái phiếu Chính phủ trúng thầu trong tháng 1/2013 đạt 13.460 tỷ
đồng, thấp hơn mức 15.495 tỷ đồng của tháng 12/2012, nhưng tỷ lệ trúng thầu lại tăng từ
mức 84,15% lên mức 96,14%.
Thị trường Trái phiếu Chính phủ thứ cấp: Kết thúc tháng 1, tổng giá trị giao dịch toàn
thị trường đạt tăng 25% lên mức 38,68 nghìn tỷ từ mức 30,94 nghìn tỷ của tháng 12 nhờ giá trị
giao dịch repos và outright đều tăng. Cụ thể, giá trị hoạt động outright tăng từ mức 25,76
nghìn tỷ của tháng 12/2012 lên mức 31,1 nghìn tỷ, tương đương tăng 20,98%. Trong khi đó,
giao dịch repos tăng 52%, từ mức 4,99 nghìn tỷ của tháng 12/2012 lên mức 7,59 nghìn tỷ
trong tháng 1/2013, tương đương đóng góp 19,6% tổng giá trị giao dịch toàn thị trường
trong tháng.
Ngoài ra, TPCP Việt Nam cũng được phát hành ra thị trường quốc tế và cũng đạt được những
thành tựu nhất định:
Trái phiếu chính phủ Việt Nam trên thị trường quốc tế:
Phát hành trái phiếu Chính Phủ (TPCP) ra thị trường quốc tế là một kênh huy động vốn hữu
hiệu với nền kinh tế các nước đang phát triển. Nguồn vốn huy động được sẽ đáp ứng nhu cầu
phát triển, đầu tư của Chính Phủ tuy nhiên, nếu không quản lý và sử dụng hiệu quả sẽ gây ra
những tác động đảo ngược, tiêu cực và ảnh hưởng tới an ninh tài chính quốc gia cả theo lý
thuyết lẫn thực tế Việt Nam hiện nay.
- Đợt phát hành trái phiếu quốc tế đầu tiên năm 2005:
Trái phiếu Chính phủ Việt Nam chào bán lần đầu tiên trên thị trường vốn quốc tế ngày
27/10/2005. Năm 2005, Kinh tế trong nước phát triển, nợ nước ngoài ở mức an toàn, thị
trường tài chính thế giới ổn định cộng với nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển ngày một lớn
tháng 10/2005 chính phủ Việt Nam đã phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường chứng
khoán Singapore. Lần đầu tiên Chính phủ VN phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường

quốc tế đã thành công rực rỡ với số tiền đặt mua lên tới 4,5 tỷ USD, cao gấp 6 lần trị giá chào
bán là 750 triệu USD với lãi suất 7,125%/năm và có thời hạn là 10 năm. Trái phiếu quốc tế
phát hành lần đầu tiên của Việt Nam đã được Tạp chí Tài chính quốc tế và các nhà đầu tư khu
vực châu Á đánh giá là trái phiếu phát hành thành công nhất của năm 2005 và được Tạp chí
Tài chính quốc tế trao giải thưởng “trái phiếu quốc tế phát hành thành công nhất trong năm
2005”.
Đợt phát hành trái phiếu quốc tế này đã tạo bước ngoặc đặc biệt và tạo nền tảng quan
trọng cho các đợt phát hành sau. Ở đợt phát hành lần này, Tổng công ty công nghiệp tàu thủy
Việt Nam (Vinashin) là doanh nghiệp đầu tiên đã được lựa chọn giải ngân.
- Đợt phát hành trái phiếu quốc tế năm 2010:
Ngày 26/01/2010, Việt Nam đã phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu Chính Phủ
thời hạn 10 năm trên thị trường quốc tế với lãi suất danh nghĩa (coupon) 6,75%/năm; theo đó
lợi tức phát hành là 6,95% tại New York. Trái phiếu được niêm yết tại Sở Giao dịch chứng
khoán Singapore và đáo hạn vào ngày 29/1/2020… Tổ hợp bảo lãnh cho đợt phát hành này
bao gồm Barclays Capital, Citi, Deutsche Bank. Việc quảng bá và phát hành trái phiếu được
thực hiện tại các thị trường Châu Á (Hongkong), thị trường Châu Âu (London) và thị trường
Châu Mỹ (Boston, New York) từ ngày 18/1/2010 đến 25/1/2010. Với nỗ lực của công tác
quảng bá, chào bán trái phiếu (Roadshow) của Nhà phát hành và Tổ hợp bảo lãnh, đợt phát
hành đã thành công tốt đẹp, đạt được mục tiêu mà Chính phủ đề ra. Lợi tức trái phiếu của Việt
Nam trong đợt phát hành thứ 2 được căn cứ trên 3 tiêu chí: xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam;
tình hình giao dịch của trái phiếu Việt Nam đáo hạn vào năm 2016 (VN2016) và tình hình thị
trường vốn quốc tế tại thời điểm phát hành
Số tiền thu được từ đợt phát hành 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế này được tập trung vào
các mục tiêu: (i) hoàn trả vốn ngân sách Nhà Nước, (ii) giao Bộ Kế hoạch&Đầu tư phối hợp
Bộ Tài chính lựa chọn dự án phù hợp (dự kiến cho các Tập đoàn Dầu khí, Tổng công ty Hàng
hải Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà và Tổng Công ty lắp máy Việt Nam đầu tư bổ sung các
dự án lọc hóa dầu Dung Quất, dự án xây dựng thủy điện Xê Ca Mản 3, nhà máy thủy điện
Hủa Na và mua tàu vận tải biển).
Nhận xét chung về thị trường trái phiếu chính phủ Việt Nam:
- Khuôn khổ pháp lý đối với hoạt động của thị trường trái phiếu được ban hành đầy đủ, đồng

bộ, từng bước hướng tới các nguyên tắc hoạt động của thị trường trái phiếu quốc tế tạo điều
kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia hoạt động trên thị trường. Trong năm 2012, Bộ Tài
chính đã ban hành đầy đủ, đồng bộ các Thông tư hướng dẫn Nghị định số 01/2011/NĐ-CP về
phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền
địa phương và Thông tư hướng dẫn một số điều của Nghị định số 90/2011/NĐ-CP về phát hành
trái phiếu doanh nghiệp, đó là: Thông tư số 17/2012TT-BTC ngày 8/2/2012 hướng dẫn về phát
hành trái phiếu Chính phủ tại thị trường trong nước; Thông tư số 34/2012/TT-BTC ngày
1/3/2012 hướng dẫn về phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh; Thông tư số 81/2012/
TT-BTC ngày 22/5/2012 hướng dẫn về phát hành trái phiếu chính quyền địa phương; Thông tư
liên tịch số 106/TTLT/BTC-NHNN ngày 28/6/2012 hướng dẫn về phát hành tín phiếu kho bạc
qua NHNN; Thông tư số 211/TT- BTC ngày 5/12/2012 hướng dẫn về phát hành trái phiếu
doanh nghiệp.
Theo quy định tại các văn bản pháp lý mới ban hành về phát hành trái phiếu, phương thức phát
hành đã được thay đổi để phù hợp với thực trạng phát triển của thị trường, nhằm minh bạch hóa
hoạt động của thị trường, và từng bước tiếp cận các chuẩn mực của thị trường quốc tế, nhằm
giảm rủi ro tái cấp vốn đối với ngân sách Nhà nước và từng bước tạo các trái phiếu chuẩn làm
định hướng cho thị trường thông qua phát hành bổ sung, mua lại, hoán đổi trái phiếu. Bên cạnh
đó, hoạt động đăng ký, lưu ký trái phiếu cũng đã được rút ngắn, tạo điều kiện để nâng cao
thanh khoản của trái phiếu trên thị trường sơ cấp. Đồng thời, các điều kiện về phát hành trái
phiếu doanh nghiệp cũng đã được quy định chặt chẽ hơn rất nhiều nhằm tăng cường trách
nhiệm quản lý, giám sát của tổ chức phát hành và bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, nhất là đối với
các nhà đầu tư không chuyên nghiệp. Có thể nói năm 2012 là năm đánh dấu bước tiến cơ bản
trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để phát triển thị trường trái phiếu bao gồm: trái phiếu
Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương và trái
phiếu doanh nghiệp.
- Về điều hành thị trường: Xây dựng kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được
Chính phủ bảo lãnh phù hợp với nhu cầu vốn và khả năng huy động thực tế của thị trường.
Đồng thời, kế hoạch huy động sẽ được công khai theo năm, quý tháng. Lịch biểu phát hành dự
kiến được công bố ngay từ đầu năm theo quy định tại Thông tư số 17/2012/TT-BTC
- Tập trung phát hành trái phiếu theo phương thức lô lớn, phát hành bổ sung nhằm tạo ra những

mã trái phiếu với quy mô đủ lớn từ 4000 - 6.000 tỷ đồng.
- Ngày 06/08/2012: Chính thức đưa vào hoạt động hệ thống đấu thầu điện tử, hệ thống kết nối
trực tiếp giữa Sở với thành viên đấu thầu và cơ quan quản lý, góp phần liên kết thị trường sơ
cấp với thứ cấp, rút ngắn thời gian từ khi phát hành đến khi niêm yết TPCP.
- Ngày 24/08/2012: Chính thức khai trương hệ thống giao dịch tín phiếu Kho bạc, tạo thuận lợi
cho việc thực hiện giao dịch của thành viên, cho công tác điều hành chính sách vĩ mô của Nhà
nước đồng thời liên kết hoạt động giao dịch trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ.
- Ký thỏa thuận hợp tác giữa KBNN với Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước, sở GDCK Hà Nội
và Trung tâm LKCK Việt Nam trong quá trình tổ chức phát hành, đăng ký lưu ký, niêm yết và
thanh toán TPCP nhằm chuẩn hóa thời gian thực hiện các thủ tục, đảm bảo quy trình này được
thông suốt góp phần nâng cao tính thanh khoản cho trái phiếu, giảm thời gian từ khi đấu thầu
đến khi giao dịch từ T+6 xuống còn T+4 đối với trái phiếu, T+3 đối với tín phiếu.
=> Từ đó giúp cho thị trường TPCP được chuẩn hóa, công khai, minh bạch, thanh
khoản hơn và tiến dần đến những thông lệ tốt trên thế giới. TPCP cũng nhờ vậy ngày
càng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trên thị trường.
• Những hạn chế, tồn tại:
• lịch biểu phát hành bị điều chỉnh nhiều so với lịch biểu công bố ra thị trường,
• (ii) trái phiếu phát hành chỉ tập trung chủ yếu vào các kỳ hạn ngắn và trung bình, phiếu
có kỳ hạn 10 năm phát hành khối lượng thấp (chỉ chiếm 3,6% doanh số phát hành), chưa
có sản phẩm kỳ hạn trên 10 năm,
• (iii) kênh bảo lãnh phát hành trái phiếu trong năm 2012 chưa phát huy được hiệu quả, tổ
chức thực hiện 2 phiên nhưng kết quả không thành công,(iv) Việc hoán đổi trái phiếu
chưa được triển khai triệt để, một số mã hoán đổi chưa thành công, số mã trái phiếu thực
giảm còn ít.
2. Thị trường trái phiếu chính quyền địa phương
Hiện nay, chỉ có hai địa phương là Hà nội và TP.HCM là thực hiện phát hành trái phiếu chính

×