Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tranh chấp đất lâm nghiệp giữa chủ rừng và đồng bào dân tộc thiểu số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.44 KB, 11 trang )

Tranh chấp đất Lâm nghiệp giữa chủ rừng và đồng bào dân tộc thiểu số
LỜI NÓI ĐẦU
Vừa qua Ủy ban nhân dân tỉnh Gia lai đã phối hợp Học viện Hành chính Quốc gia tổ
chức lớp bồi dưỡng thức quản lý nhà nước chương trình chuyên viên chính cho cán bộ quản lý
của các cơ quan Nhà nước trên địa bàn Tỉnh, tại Trường chính trị tỉnh Gia lai (thời gian học từ
17/5 đến 16/8/2010).Qua thời gian ba tháng học tập, được bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước
chương trình chuyên viên chính, được thầy, cô của Học viện Hành chính Quốc gia truyền đạt
những kiến thức và kỹ năng về quản lý hành chính nhà nước gồm những nội dung:
-Nhà nước và pháp luật;
-Hành chính nhà nước và công nghệ hành chính;
-Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực.
Đây là những nội dung hết sức bổ ích và cần thiết cho người cán bộ, công chức trong việc thực
thi nhiệm vụ tại đơn vị đang công tác. Qua 27 chuyên đề về quản lý hành chính nhà nước đã giúp
cho học viên nhận thức được nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn mới trong công tác quản lý nhà
nước. Vận dụng những kiến thức đã tiếp thu từ thầy cô, học viên áp dụng vào công tác của cơ
quan mình, ngành mình, học viên nhận thức được :
Rừng là cái nôi của loài người nguyên thủy, có tác dụng vô cùng to lớn đối với con người trong
lĩnh vực phòng hộ, giữ cân bằng sinh thái, nghiên cứu khoa học, phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ
an ninh, Quốc phòng. Chính vì vậy Bác Hồ đã từng dạy:
“Rừng là vàng, nếu mình biết bảo vệ, xây dựng thì rừng rất quý”
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng từng nói:
Mất rừng là mất đất, mất rừng là mất nước, mất rừng là mất đất nước.
Trong những năm qua ở Tây nguyên nói chung, ở Gia lai nói riêng, do nhiều nguyên nhân khác
nhau làm cho diện tích rừng tự nhiên, độ che phủ của rừng, chất lượng của rừng giảm đi nhanh
chóng ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái, đời sống của người dân, đặc biệt là người dân
tộc địa phương. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng mất rừng nêu trên là
vấn đề giải quyết không thỏa đang trong tranh chấp đất đai giữa các chủ rừng là các cơ quan
được nhà nước giao quản lý, bảo vệ rừng với đồng bào dân tộc địa phương.
Từ thực trạng trên, để thực hiện nghiêm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, xóa bỏ mâu thuẫn giữa
các chủ rừng là các cơ quan được nhà nước giao quản lý, bảo vệ rừng với đồng bào dân tộc địa
phương đồng thời, giảm bớt tình trạng thiếu đất canh tác của đồng bào dân tộc địa phương học


viên thấy cần thiết phải thay đổi cách nhìn nhận trong việc giải quyết vấn đề tranh chấp đất đai
giữa các chủ rừng là các cơ quan được nhà nước giao quản lý, bảo vệ rừng với đồng bào dân tộc
địa phương. Là một cán bộ quản lý đang công tác trong lĩnh vực BTTN, tôi tâm đắc với việc giải
quyết tình huống :
“Giải quyết tranh chấp đất Lâm nghiệp giữa Ban quản lý khu Bảo tồn thiên nhiên với đồng
bào dân tộc thiểu số tại địa phương ”
Tiểu luận tình huống quản lý Nhà nước lần này là bài kiểm tra nhằm đánh giá khả năng vận dụng
kiến thức lý luận vào điều kiện thực tiễn của hoạt động quản lý Nhà nước hiện hành, và đề xuất
những kiến nghị cho việc giải quyết một tình huống cụ thể. Do kinh nghiệm bản thân có hạn, nên
bài viết này chắc chắn còn những hạn chế nhất định, rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy
cô và các bạn, để bài viết được hoàn chỉnh hơn. Nhân đây Học viên chân thành cảm ơn TS. Đào
Đăng Kiên, GVC. Ths Phan Ánh Hè và các thầy cô trong học viện hành chính Quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình hướng dẫn cho học viên hoàn thành tiểu luận này.
NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
Ngày 18 tháng 3 Năm 2004, UBND tỉnh Gia lai ra quyết định số 28/2004/QĐ-UB “ V/v
thành lập khu BTTN Bà nà ”. Trong điều 2 quyết định này có nêu:
Điều 2 : Nhiệm vụ cụ thể của Khu bảo tồn thiên nhiên Bà nà thực hiện theo Quyết định số
08/2001/QĐ-TTg ngày 11/01/2001 của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của cơ quan chức
năng cấp trên .
Ngày 16 tháng 5 Năm 2005 UBND tỉnh Gia lai ra quyết định số 70/2005/QĐ-UB “V/v
giao đất lâm nghiệp cho khu BTTN Bà nà để quản lý bảo vệ” trong đó giao cho BQL khu BTTN
Bà nà quản lý bảo vệ 15.900 ha đất Lâm nghiệp (Có bản đồ hiện trạng kèm theo), trong đó có:
+ Đất có rừng tự nhiên: 15.480 ha
+ Đất Lâm nghiệp chưa có rừng 298 ha.
+ Đất nông nghiệp 62 ha.
+ Sông suối 60 ha.
Căn cứ vào 2 quyết định nêu trên của UBND tỉnh Gia lai thì Khu BTTN Bà nà có 6 nhiệm
vụ cụ thể là:
“1. Chịu trách nhiệm trước Nhà nước về QLBV, xây dựng và sử dụng khu BTTN Bà nà theo
quy chế quản lý 3 loại rừng và các quy định khác của pháp luật; tổ chức quản lý bảo vệ 15.900

ha rừng của khu BTTN Bà nà; khôi phục và bảo vệ nguyên vẹn hệ sinh thái; bảo tồn tính đa dạng
sinh học của khu BTTN Bà nà, gồm thực hiện các biện pháp nhằm phát triển bền vững tài
nguyên sinh vật, tài nguyên đất, tài nguyên nước, đồng thời phối hợp với các cấp chính quyền sở
tại để bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác thực hiên các biện pháp phòng cháy, chữa
cháy rừng phòng trừ sâu bệnh hại rừng ngăn chặn các hành vi gây thiệt hại đến khu BTTN Bà nà.
2. Lập dự án bổ sung đầu tư xây dựng khu khu BTTN Bà nà đồng thời lập dự án chi phí hàng
năm cho các hoạt động của đơn vị để trình cấp thẩm quyền phê duyệt, quản lý sử dụng kinh phí
đầu tư từ ngân sách Nhà nước theo quy định hiện hành.
3. Tổ chức thực hiện nội dung các dự án đầu tư của khu khu BTTN Bà nà đã được cấp có thẩm
quyền phê duyệt, tổ chức các hoạt động về hợp tác Quốc tế theo
sự phân công của cơ quan có thẩm quyền và theo các qui định hiện hành của nhà nước về lĩnh
vực này.
4. Xây dựng và tổ chức thực hiện các hoạt động của khu BTTN Bà nà theo hướng dẫn của cơ
quan chủ quản.
5. Định kỳ báo cáo cấp trên về diễn biến tài nguyên rừng và các hoạt động của khu BTTN Bà nà;
6. Tiến hành các hoạt động dịch vụ nghiên cứu khoa học, văn hóa xã hội và du lịch sinh thái theo
quy định của pháp luật.”
Sau khi Khu BTTN Bà nà được thành lập, Giám đốc cùng CBCCVCC Khu BTTN Bà nà đã tìm
hiểu thêm về lịch sử hình thành khu BTTN Bà nà thì được biết rằng :
- Trước năm 1976 trong khu BTTN Bà nà có 2 làng Kon Chu và làng Kon Jrang của đồng bào
dân tộc thiểu số Ba Na với khoảng gần 100 hộ dân sinh sống, người dân tộc thiểu số Ba Na có
tập quán canh tác nương rẫy theo phương thức luân canh, mỗi hộ thường canh tác khoảng 9 ha
nương rẫy, nhưng chỉ có khoảng 3 ha đang trong chu kỳ sản xuất, còn 6 ha nương rẫy ở chu kỳ
nghỉ, cứ mỗi năm họ lại bỏ hoang 1 ha nương rẫy có đất đã bạc màu để phát thêm 1 ha nương
rẫy mới (diện tích phát rẫy mới thường vào diện tích rẫy bỏ hoang của 9 năm về trước, chỉ phát
lấn vào rừng khi gia đình có nhu cầu tăng diện tích rẫy khi có tách hộ, hoặc khi nhân khẩu trong
gia đình tăng, ngược lại có khi nhu cầu nương rẫy của 1 hộ nào đó giảm do số nhân khẩu của hộ
đó giảm, do đó có một số diện tích nương rẫy bị bỏ hoang lâu ngày thành rừng già nhưng theo
tập tục của người Ba Na thì diện tích rẫy bỏ hoang thành rừng đó vẫn thuộc sở hữu của hộ đã
từng làm rẫy ở đó nên không có tình trạng các hộ phát rẫy chồng lấn lên rẫy của hộ khác mặc dù

diện tích rẫy đó đã bị bỏ hoang thành rừng già. Thời gian trước năm 1976 đời sống của người Ba
Na trong vùng gặp rất nhiều khó khăn lại bệnh tật nhiều nên dân số tăng rất chậm, kéo theo diện
tích rừng bị phá để làm rẫy không đáng kể so với tổng diện tích rừng trong vùng).
- Từ năm 1976 đến năm 2004, chính quyền địa phương đã cơ bản đưa toàn bộ các hộ dân định
cư trong khu BTTN Bà Nà ra định cư tại vùng đệm, nhưng chưa hoàn thành định canh cho các
hộ dân này tại vùng đệm, nên phần lớn các hộ dân vẫn canh tác nông nghiệp theo phương thức
sản xuất nương rẫy luân canh trong khu BTTN Bà Nà, chính vì vậy từ năm 1976 cho đến khi
thành lập và giao toàn bộ 15.900 ha đất lâm nghiệp cho BQL khu BTTN Bà Nà (Tháng 5 năm
2005) thì vẫn có trên 60 hộ dân canh tác khoảng 200 ha đất nông nghiệp trong khu BTTN Bà Nà,
trong đó có khoảng 140 ha nương rẫy đang trong chu kỳ nghỉ.
- Từ năm 2004 đến nay, sau khi BQL khu BTTN Bà Nà đi vào hoạt động (tháng 6 năm 2004)
BQL khu BTTN Bà Nà đã phối hợp với chính quyền địa phương áp dụng nhiều biện pháp tích
cực (trong đó có biện pháp vận động người dân không phá rừng làm nương rẫy mới, kể cả diện
tích nương rẫy đã bỏ hoang thành rừng nằm trong khu BTTN Bà Nà cũng không được phát lại để
làm nương rẫy, hay sản xuất nông nghiệp) nhằm QLBV tốt 15.900 ha đất Lâm nghiệp được giao,
ngăn chặn hành vi lấn chiếm đất rừng làm nương rẫy, trồng cây công nghiệp và đã đạt được một
số kết quả nhất định, như hầu hết các hộ dân không những không phá rừng làm nương rẫy,
không phát lại rẫy cũ đã thành rừng để làm nương rẫy, mà còn tiếp tục bỏ hoang một số diện
tích nương rẫy, chính vì vậy chỉ trong 3 năm 2004 – 2008 đất nông nghiệp trong khu BTTN Bà
Nà giảm trên 2/3 diện tích , độ che phủ của khu BTTN Bà Nà tăng 2,5 %, Tỷ lệ rừng giàu, rừng
trung bình tăng 21 %, rừng non tăng 5,2 %, rừng ngèo giảm 23,7%. Tuy nhiên do nhiều hộ người
dân tộc Ba Na ở thôn Điện Biên diện tích đất nông nghiệp còn có thể sản xuất được là quá ít,
trình độ canh tác vẫn còn lạc hậu, thu nhập từ diện tích đất nông nghiệp còn lại không đủ trang
trải cuộc sống, nên có một số hộ đã quay lại khu BTTN Bà Nà phát lại diện tích rẫy cũ đã bỏ
hoang từ lâu thành rừng để sản xuất nương rẫy trong khu BTTN Bà Nà.
Ngày 3 tháng 4 năm 2008, trong khi tuần tra bảo vệ rừng, cán bộ bảo vệ rừng khu BTTN Bà Nà
phát hiện tại tiểu khu 47 thuộc lâm phận của khu BTTN Bà Nà quản lý có 6 hộ người dân tộc Ba
Na ở thôn Điện Biên đang phát rừng làm nương rẫy, tổng cộng đã phát được 2000 m2, trong đó
mỗi hộ đã phát được 300 đến 350 m2 rừng non, cán bộ bảo vệ rừng khu BTTN Bà Nà tạm đình
chỉ việc phá rừng làm nương rẫy của 6 hộ dân nói trên, lập biên bản về hành vi lấn, chiếm,

chuyển mục đích sử dụng rừng trái phép của 6 hộ dân này, nhưng 6 hộ dân đang phát rẫy không
đồng ý, với lý do diện tích 2000 m2 mà 6 hộ đã phát rẫy, nằm trong diện tích 6 ha rẫy cũ của 6
gia đình họ đã sản xuất từ rất lâu, theo phong tục tập quán du canh và luân canh của dân tộc họ,
nên họ đã bỏ hoang từ 9 năm về trước, nay mọc thành rừng, bây giờ đến chu kỳ canh tác, vì vậy
rẫy của họ có từ trước khi thành lập khu BTTN Bà Nà, nên họ coi hành vi của họ không phải là
hành vi lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng rừng trái phép mà chỉ là hành vi sản xuất nương
rẫy luân canh thông thường như ông bà họ vẫn từng làm, khu BTTN Bà Nà mới là đơn vị chiếm
đất của họ. Hiện 6 gia đình đang thiếu đất canh tác, hoặc có đất nông nghiệp nhưng đã bạc màu
đồng bào không thể tiếp tục sản xuất nông nghiệp được nữa, nếu khu BTTN Bà Nà không cho 6
hộ dân này làm rẫy trên diện tích họ đã, đang phát rừng làm rẫy thì 6 hộ sẽ bị đói, buộc họ phải
vào sâu trong rừng nguyên sinh để phá rừng làm nương rẫy mới nhằm đảm bảo cuộc sống của
gia đình họ.
Về phía khu BTTN Bà nà cho rằng diện tích rừng mà 6 hộ dân thôn Điện Biên đang phát làm
nương rẫy tại tiểu khu 47 thuộc lâm phận quản lý của BQL khu BTTN Bà nà, đã được UBND
Tỉnh Gia Lai giao theo quyết định số 70 /2005/QĐ-UB ngày 16 tháng 5 năm 2005 “V/v giao đất
lâm nghiệp cho khu BTTN Bà nà để quản lý bảo vệ” có bản đồ hiện trạng kèm theo. Việc 6 hộ
dân thôn Điện biên đang phá rừng làm nương rẫy ở tiểu khu 47 là vi phạm điều 12 luật Bảo vệ và
phát triển rừng đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ
6 từ ngày 25 tháng 10 năm 2004 đến ngày 03 tháng 12 năm 2004 thông qua. Việc BQL tạm đình
chỉ và lập biên bản về hành vi lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng rừng trái phép của 6 hộ dân
thôn Điện Biên nói trên là đúng với trách nhiệm của chủ rừng được quy định tại điều 37 luật
Bảo vệ và phát triển rừng đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI
kỳ họp thứ 6 từ ngày 25 tháng 10 năm 2004 đến ngày 03 tháng 12 năm 2004 thông qua, và quyết
định số 28/2004/QĐ-UB Ngày 18 tháng 3 Năm 2004 của UBND tỉnh Gia lai, “ V/v thành lập
khu BTTN Bà nà ”.
Vụ việc tranh chấp đất lâm nghiệp nói trên giữa khu BTTN Bà Nà và 6 hộ dân thôn Điện biên
nói trên không thể giải quyết theo thông lệ là lập biên bản về hành vi lấn, chiếm, chuyển mục
đích sử dụng rừng, phá rừng làm nương rẫy trái phép của 6 hộ dân thôn Điện Biên nói trên
chuyển giao cho cơ quan chức năng xử lý theo Nghị định 159/2007/NĐ-CP ngày 30 tháng 10
năm 2007 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực QLBV rừng và quản lý

lâm sản, vì những ý kiến của 6 hộ dân thôn Điện Biên nói trên cũng có những lý lẽ hợp lý nhất
định, hơn nữa họ là đại diện cho gần 100 hộ dân người dân tộc Ba Na trong vùng đệm của khu
BTTN Bà Nà, có hoàn cảnh tương tự, nên nếu xử lý không kiên quyết, cho 6 hộ dân thôn Điện
Biên được phát lại rẫy cũ trong khu BTTN Bà Nà thì các hộ khác cũng vào phát lại hàng trăm ha
rẫy cũ trong khu BTTN Bà Nà, không thể giữ được rừng, ngược lại nếu xử lý cứng nhắc, không
thỏa đáng, sẽ gây phản ứng bất bình cho người dân Ba Na trong vùng, dễ bị bọn phản động lôi
kéo xúi giục người dân tộc thiểu số chống lại chính quyền, đồng thời nếu xử phạt vi phạm hành
chính 6 hộ dân thôn Điện Biên nói trên theo đúng Nghị định 159/2007/NĐ-CP ngày 30 tháng 10
năm 2007 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực QLBV rừng và quản lý
lâm sản thì không khả thi, vì 6 hộ dân thôn Điện Biên nói trên quá ngèo không đủ ăn, không có
tài sản gì đáng giá nên không thể có tiền để nộp VPHC cũng như khắc phục hậu quả. Để giải
quyết thỏa đáng vụ việc này cần có sự phối hợp đồng bộ của nhiều nghành, nhiều cấp, nhiều cơ
quan liên quan nên BQL khu BTTN Bà Nà đã lập văn bản báo cáo cụ thể lên UBND Huyện K
(chính quyền địa phương sở tại), lên chi cục Kiểm lâm (là cơ quan chủ quản), lên UBND tỉnh
Gia lai (cơ quan ra quyết định giao đất cho khu BTTN Bà Nà) để xin ý kiến chỉ đạo giải quyết
thỏa đáng vụ việc tranh chấp đất Lâm nghiệp nói trên.
2. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1 Mục tiêu phân tích tình huống
Tìm ra cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, nguyên nhân xảy ra tình huống, từ đó đánh giá hậu
quả do tình huống tạo ra đối với xã hội, để làm cơ sở cho phần xử lý tình huống, và kiến nghị với
Đảng, Nhà nước và cơ quan chức năng trong việc ban hành các văn bản liên quan đến giải quyết
tình huống đã chọn, và các tình huống tương tự.
2. 2. Cơ sở lý luận:
Những căn cứ pháp lý để phân tích tình huống:
- Căn cứ Luật Đất đai đã được Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam
thông qua năm 2003
- Căn cứ Luật Bảo vệ và phát triển rừng đã được Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt nam thông qua tại kỳ họp thứ 6 từ ngày 25 tháng 11 đến ngày 03 tháng 12 năm 2004

- Căn cứ Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/03/2006 của chính phủ “V/v thi hành luật Bảo

vệ và phát triển rừng ”;
- Căn cứ Nghị định 159/2007/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2007 của Chính phủ về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực QLBV rừng và quản lý lâm sản
- Căn cứ quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 12/8/2006 của Thủ tướng chính phủ “V/v ban
hành Qui chế quản lý rừng ”;
- Căn cứ quyết định số 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 của Thủ tướng chính phủ “Về quyền
hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm
nghiệp”
- Căn cứ quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày 5/2/2007 của Thủ tướng chính phủ “Về việc phê
duyệt chương trình mục tiêu Quốc gia giảm ngèo giai đoạn 2006 - 2010”
- Căn cứ quyết định số 1174/2005/QĐ-TTg ngày 23/11/2005 của Thủ tướng chính phủ “Về việc
thí điểm giao rừng khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng buôn làng đồng bào dân tộc
thiểu số tại chỗ ở các tỉnh Tây nguyên”
- Căn cứ quyết định số 304/2005/QĐ-TTg ngày 7/11/2005 của Thủ tướng chính phủ “Về phê
duyệt đề án thí điểm giao rừng khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng buôn làng đồng
bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở các tỉnh Tây nguyên”
- Căn cứ quyết định số 146/2005/QĐ-TTg ngày 15/6/2005 của Thủ tướng chính phủ “Về chính
sách thu hồi đất sản xuất của các nông trường, lâm trường để giao lại cho hộ đồng bào dân tộc
thiểu số nghèo”
- Căn cứ Quyết định Số: 28/2004/QĐ-UB ngày 18 tháng 3 năm 2004 của UBND tỉnh Gia lai
(V/V Thành lập Khu bảo tồn thiên nhiên Bà nà )

2. 3 Nguyên nhân dẫn đến xảy ra tình huống
2.3.1. Về khách quan do:
+ Sự bất cập trong hệ thống văn bản hành chính hay văn bản quy phạm pháp luật, liên quan đến
tình huống đã chọn (không có văn bản quy phạm pháp luật, hay văn bản hành chính nào quy
định, hướng dẫn cụ thể về việc giải quyết thỏa đáng quyền lợi của người dân tộc thiểu số, khi
nhà nước thu hồi, hoặc sử dụng rẫy luân canh của họ để quy hoạch, sử dụng cho các mục đích
khác dẫn tới tình trạng toàn bộ diện tích rẫy luân canh của đồng bào đang thời kỳ nghỉ để phục
hồi độ phì của đất đều vô tình bị thu hồi, coi là rừng, là đất lâm nghiệp thuộc sở hữu toàn dân,

nên khi giao đất giao rừng cho các tổ chức, cá nhân thì các cơ quan chức năng đều giao cả diện
tích rẫy luân canh nằm trong vùng quy hoạch cho các chủ rừng, không tính đến tập tục canh tác
rẫy luân canh của đồng bào dân tộc thiểu số, không cần thỏa thuận với những hộ đồng bào dân
tộc thiểu số đã canh tác trên diện tích đất lâm nghiệp nằm trong vùng quy hoạch đó, với lý do
không thực tế là diện tích rẫy luân canh không có giấy tờ hợp pháp, thực tế cho đến nay hầu hết
nương rẫy của đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa chưa được cấp quyền sử dụng đất).
+ Trình độ dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số thấp, người dân ít hiểu biết về pháp luật. Trình
độ canh tác của người dân tộc Ba Na trong vùng còn thấp kém, đa số các hộ vẫn còn sử dụng
phương thức sản xuất du canh, phát, đốt, chọc, tỉa, đồng thời đất đai trong vùng có độ dốc cao,
mưa nhiều nên chỉ 3 năm là đất bạc màu họ không thể sản xuất nông nghiệp được nữa, tình trạng
trên làm cho đồng bào có nhiều đất ( có một số hộ có thể có tới 2 đến 3 ha đất) nhưng vẫn thiếu
đất sản xuất.
+ Những năm gần đây điều kiện sống cũng như công tác y tế trong vùng đã được cải thiện, trong
khi nhận thức của người dân tộc Ba Na về kế hoạch hóa gia đình còn hạn chế nên, tỷ lệ tăng dân
số tự nhiên trong vùng tăng cao (trên 3 % /năm), ngoài ra tình trạng di dân từ nơi khác đến cũng
rất lớn (năm 1975 hầu như chỉ có người Ba Na trong vùng, hiện nay ngoài người Ba Na chỉ
chiếm 35 % dân số trong vùng), dân di cư có trình độ canh tác cao hơn nên thường họ mua rẻ lại
toàn bộ diện tích nương rẫy đã bạc màu, hoặc chưa bạc màu nhưng do người Ba Na thiếu tiền
đem bán, càng làm cho tình trạng thiếu đất sản xuất của người dân tộc thiểu số Ba Na ngày càng
nghiêm trọng dẫn tới việc đồng bào buộc phải phá rừng, lấn, chiếm đất rừng để làm nương rẫy
mới.
+ Lực lượng bảo vệ rừng của chủ rừng mỏng chỉ có 10 người phải bảo vệ gần 16000 ha rừng,
trong khi cơ sở vật chất kỹ thuật, chế độ đãi ngộ phục vụ cho công tác và sinh hoạt của cán bộ
bảo vệ rừng còn nhiều thiếu thốn.
2.3.2. Về chủ quan do
Sự hiểu biết pháp luật, kinh nghiệm, hiểu biết thực tế trong lĩnh vực QLBV rừng, hiểu biết về
phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số của những cán bộ làm công tác tham mưu cho
chủ rừng cho các cấp chính quyền địa phương còn nhiều hạn chế, có thể do những cán bộ này
chưa được đi tham quan, cùng ăn cùng ở cùng làm với đồng bào dân tộc thiểu số nên không hiểu
phong tục tập quán, cũng như không thấu hiểu nỗi khổ của đồng bào các dân tộc thiểu số sống ở

vùng sâu vùng xa, nên chưa có kinh nghiệm trong việc tham mưu cho các cấp chính quyền địa
phương giải quyết quyền lợi chính đáng cho đồng bào khi thu hồi rẫy luân canh của họ.
Công tác xử lý vi phạm hành vi lấn lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng rừng, phá rừng làm
nương rẫy trái phép chưa thống nhất, chưa nghiêm, xử lý mang tính hình thức, tính giáo dục, răn
đe chưa cao.
Các giải pháp kinh tế xã hội như khuyến nông, khuyến lâm, giao đất giao rừng, giải quyết thiếu
đất sản xuất, tạo công ăn việc làm cho các hộ người dân tộc nghèo, thiếu đất sản xuất chưa
được triển khai đồng bộ, chưa phù hợp với đồng bào địa phương bào, nên kết quả chưa cao, chưa
bền vững.
2.4 Hậu quả của Tình huống
- Gây mâu thuẫn giữa cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị chủ rừng với người dân tộc thiểu số
tại địa phương, gây khó khăn cho chủ rừng thực hiện các nhiệm vụ được giao.
- Nếu xử lý vụ việc này không thỏa đáng sẽ làm giảm sút lòng tin của nhân dân, gây bất bình
trong cộng đồng người dân tộc tiểu số tại địa phương, dễ bị kẻ thù lợi dụng, gây chia rẽ khối đại
đoàn kết dân tộc, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội trong vùng,
bên cạnh đó còn có những kẻ xấu xúi giục người đồng bào phá rừng làm nương rẫy để bán lại
cho chúng, càng làm cho công tác QLBV rừng gặp khó khăn thêm.
- Tình trạng vốn rừng ngày càng bị thu hẹp, ảnh hưởng lớn đến tài nguyên thiên nhiên, phá vỡ
cảnh quan thiên nhiên, mất cân bằng sinh thái, gây ra hạn hán lũ lụt.
- Sự giảm sút pháp chế XHCN, tạo ra một tiền lệ coi thườn trật tự kỷ cương pháp luật, lạm dụng
chính sách ưu đãi của Đảng, và Nhà nước đối với người đồng bào dân tộc thiểu số.
XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
3.1. Mục tiêu xử lý tình huống:
* Mục tiêu chung:
Khu BTTN Bà Nà có tầm quan trọng quốc gia, quốc tế về đa dạng sinh học, phòng hộ đầu nguồn
cho 5 đập thủy điện và cả vùng hạ lưu sông Côn rộng lớn thuộc tỉnh Bình định, tình huống nêu
trên chỉ là một ví dụ điển hình của hàng trăm vụ tranh chấp đất đai công khai, hay ngấm ngầm
giữa đồng bào dân tộc thiểu số địa phương với các chủ rừng, nên cần phải được các ngành các
cấp tập trung nghiên cứu giải quyết thỏa đáng, hợp tình hợp lý, nhằm gây dựng niềm tin với nhân
dân, đối với chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đảm bảo các nguyên tắc

sau đây:
- Giữ vững trật tự kỷ cương xã hội, đảm bảo tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xử lý
nghiêm minh những đối tượng vi phạm để làm gương cho những người khác.
- Củng cố niềm tin của người dân tộc thiểu số đối với Đảng, và Nhà nước , đảm bảo ổn định
cuộc sống của người dân tộc thiểu số tại địa phương, thực hiện theo hướng xã hội hóa nghề rừng,
thu hút người dân tộc thiểu số tham gia nghề rừng, tham gia QLBV rừng, BTTN, gắn liền công
tác QLBV rừng, BTTN với giải quyết hài hòa giữa các lợi ích của đồng bào dân tộc thiểu số
sống gần rừng.
- Giải quyết tốt chính sách đất đai và việc làm, tăng thu nhập bền vững cho người đồng bào dân
tộc thiểu số, xóa đói giảm nghèo, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội trong vùng.
-Trên cơ sở xây dựng được các phương án giải quyết tình huống, đảm bảo được hết, hoặc
một số nguyên tắc nêu trên, từ đó phân tích được các đặc trưng, ưu, nhược điểm, và điều kiện áp
dụng của từng phương án, để chọn được phương án giải quyết tối ưu nhất cho khu BTTN Bà nà
nói riêng, có kiến nghị với cấp trên, trong việc hoàn thiện chính sách về quyền lợi của người dân
tộc thiểu số có diện tích nương rẫy luân canh.
3. 2 .Đề xuất, xây dựng phương án, giải pháp xử lý tình huống
3.2.1 Phương án 1:
3.2.1.1 Mục tiêu :
- Giữ vững trật tự kỷ cương xã hội, đảm bảo tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xử lý
nghiêm minh những đối tượng vi phạm để làm gương cho những người khác.
3.2.1. 2. Nội dung chính:
Xử phạt 6 hộ dân thôn Điện biên hành vi lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng rừng, và phá rừng
làm nương rẫy trái phép theo đúng Nghị định 159/2007/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2007 của
Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực QLBV rừng và quản lý lâm sản, cụ thể
mức xử phạt VPHC (đã xét tình tiết giảm nhẹ):
+ Xử phạt VPHC đối với hành vi hành vi lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng rừng trái phép
- Phạt bằng tiền 1.200 đồng/m2
- Phạt bổ sung: Thu hồi toàn bộ diện tích lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng rừng trái phép
cúa 6 hộ dân thôn Điện biên.

+ Xử phạt VPHC đối với hành vi phá rừng làm nương rẫy trái phép
- Phạt bằng tiền 2000 đồng/m2
- Phạt bổ sung: Buộc phải trồng lại rừng trên diện tích phá rừng làm nương rẫy trái phép cúa 6 hộ
dân thôn Điện biên
* Tổng hợp mức phạt:
- Phạt bằng tiền 3.200 đồng/m2
- Phạt bổ sung: Thu hồi toàn bộ diện tích lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng rừng trái phép,
buộc phải trồng lại rừng trên diện tích phá rừng làm nương rẫy trái phép cúa 6 hộ dân thôn Điện
biên.
3.2.1. 3 Nhu cầu tài chính cho thực hiện phương án 1 là: 0 triệu đồng. Thu nộp ngân sách:
6.400.000 đồng
B. Phương án 2:
3.2.2.1 Mục tiêu :
Củng cố niềm tin của người dân tộc thiểu số đối với Đảng, và Nhà nước , đảm bảo ổn định cuộc
sống của người dân tộc thiểu số tại địa phương, giải quyết các quyền lợi chính đáng của đồng
bào dân tộc thiểu số sống gần rừng có diện tích rẫy luân canh trước đây bị thu hồi nhưng chưa
được đền bù thì nay phải đền bù, trong điều kiện không có nhiều kinh phí chi cho việc giải quyết
tranh chấp đất đai này.
3.2.2. 2. Nội dung chính:
- Căn cứ điều 32 Luật Đất đai đã được Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
nam thông qua năm 2003, BQL khu BTTN Bà Nà phối hợp với chính quyền địa phương xác
minh lại nguồn gốc lô đất tranh chấp, nếu đúng như 6 hộ đồng bào thôn Điện biên đã trình bày
tức là:
Diện tích 2000 m2 đất tranh chấp thực sự là rẫy cũ của 6 gia đình họ đã sản xuất từ rất lâu, theo
phong tục tập quán du canh và luân canh của dân tộc họ, nên họ đã bỏ hoang từ 9 năm về trước,
nay mọc thành rừng, bây giờ đến chu kỳ canh tác, vì vậy rẫy của họ có từ trước khi có luật đất
đai năm 1993, thì quy hoạch khu đất nông nghiệp thích hợp để đền bù cho 6 hộ dân nói trên (đền
bù cả công khai phá 2000 m2 rẫy) đồng thời thu hồi 2000 m2 đã bị 6 hộ dân thôn Điện biên phá
rừng làm nương rẫy để trả lại cho khu BTTN Bà Nà tổ chức thực hiện nhiệm vụ BTTN.
B. 3. 2. 3. Nhu cầu tài chính cho thực hiện phương án 2 là 20 triệu đồng, trong đó:

+Chi Khai hoang 2000 m2 là: 3 triệu đồng
+Chi quy hoạch 6 ha đât nông nghiệp: 17 triệu đồng
C. Phương án 3:
3.2.3.1 Mục tiêu :
- Giữ vững trật tự kỷ cương xã hội, đảm bảo tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xử lý
nghiêm minh những đối tượng vi phạm để làm gương cho những người khác.
- Củng cố niềm tin của người dân tộc thiểu số đối với Đảng, và Nhà nước , đảm bảo ổn định
cuộc sống của người dân tộc thiểu số tại địa phương, thực hiện theo hướng xã hội hóa nghề rừng,
thu hút người dân tộc thiểu số tham gia nghề rừng, tham gia QLBV rừng, BTTN, gắn liền công
tác QLBV rừng, BTTN với giải quyết hài hòa giữa các lợi ích của đồng bào dân tộc thiểu số
sống gần rừng.
- Giải quyết tốt chính sách đất đai và việc làm, tăng thu nhập bền vững cho người đồng bào dân
tộc thiểu số, xóa đói giảm nghèo, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội trong vùng.
3.2.3. 2. Nội dung chính:
* Xử phạt 6 hộ dân thôn Điện biên hành vi phá rừng làm nương rẫy trái phép theo đúng Nghị
định 159/2007/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2007 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực QLBV rừng và quản lý lâm sản, cụ thể mức xử phạt VPHC (đã xét tình tiết
giảm nhẹ):
+ Xử phạt VPHC đối với hành vi phá rừng làm nương rẫy trái phép
- Phạt bằng tiền 2000 đồng/m2
- Phạt bổ sung: Buộc phải trồng lại rừng trên diện tích 2000 m2 phá rừng làm nương rẫy trái
phép cúa 6 hộ dân thôn Điện biên (Nhà nước hỗ trợ giống cây bản địa để 6 hộ trồng rừng trên
diện tích 2000 m2)
* - Căn cứ Luật Bảo vệ và phát triển rừng đã được Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt nam thông qua tại kỳ họp thứ 6 từ ngày 25 tháng 11 đến ngày 03 tháng 12 năm 2004

- Căn cứ Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/03/2006 của chính phủ “V/v thi hành luật Bảo
vệ và phát triển rừng ”;
- Căn cứ quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 12/8/2006 của Thủ tướng chính phủ “V/v ban

hành Qui chế quản lý rừng ”;
- Căn cứ quyết định số 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 của Thủ tướng chính phủ “Về quyền
hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm
nghiệp”
- Căn cứ quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày 5/2/2007 của Thủ tướng chính phủ “Về việc phê
duyệt chương trình mục tiêu Quốc gia giảm ngèo giai đoạn 2006 - 2010”
- Căn cứ quyết định số 1174/2005/QĐ-TTg ngày 23/11/2005 của Thủ tướng chính phủ “Về việc
thí điểm giao rừng khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng buôn làng đồng bào dân tộc
thiểu số tại chỗ ở các tỉnh Tây nguyên”
- Căn cứ quyết định số 304/2005/QĐ-TTg ngày 7/11/2005 của Thủ tướng chính phủ “Về phê
duyệt đề án thí điểm giao rừng khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng buôn làng đồng
bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở các tỉnh Tây nguyên”
- Căn cứ quyết định số 146/2005/QĐ-TTg ngày 15/6/2005 của Thủ tướng chính phủ “Về chính
sách thu hồi đất sản xuất của các nông trường, lâm trường để giao lại cho hộ đồng bào dân tộc
thiểu số nghèo”
Căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật trên chính quyền huyện K phối hợp với khu BTTN
Bà Nà xây dựng 1dự án vùng đệm của khu BTTN Bà Nà với mục tiêu nêu ở phần 3.2.3.1, cụ thể
rà soát lại tình trạng thiếu đất sản xuất, thiếu đói của người dân trong vùng (đối tượng quan tâm
đặc biệt là người dân tộc thiểu số) để quy hoạch một vùng sản xuất nông nghiệp, nhằm cấp đất
sản xuất cho người dân thiếu đất, và chuyển đổi toàn bộ diện tích 20 ha đất mà người dân đang
canh tác trong khu BTTN Bà Nà ra vùng đệm. Tổ chức thực hiện công tác khuyến nông khuyến
lâm cho người dân, để người dân nâng cao thu nhập, đồng thời biết cách canh tác bền vững trên
đất dốc, sản xuất thâm canh không còn tình trạng quảng canh, du canh. Tổ chức khoán Bảo vệ
rừng cho các cộng đồng buôn làng người dân tộc thiểu số, kết hợp tuyên truyền vận động người
dân thực hiện đúng các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực QLBV rừng. Mặt khác BQL
khu BTTN Bà Nà cũng xây dựng dự án phát triển du lịch sinh thái có sự tham gia hưởng lợi của
người dân trong vùng, và phương án đồng quản lý, cùng hưởng lợi từ khu BTTN Bà Nà
B. 3. 3. 3. Nhu cầu tài chính -Tổng nhu cầu tài chính thực hiện Phương án, 3 là: 2.000 triệu
đồng
+ Chi đền bù giải tỏa đất trong khu BTTN Bà Nà : 400 triệu

+Chi xây dựng thực hiện các dự án là : 1.600 triệu đồng
3. 3. Lựa chọn phương án
Bảng tổng hợp tìm ra ưu nhược điểm của từng phương án
P.A Ưu điểm Khuyết điểm
1 - Giữ vững trật tự kỷ cương xã hội, đảm bảo
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xử lý
nghiêm minh những đối tượng vi phạm để
làm gương cho những người khác.
- Không phải chi phí gì cho thực hiện
phương án 1, thậm chí còn có thể thu được
tiền phạt VPHC của 6 hộ người dân tộc
thiểu số.


- Tính khả không cao vì đồng bào quá nghèo
không có thể thực hiện quyết định sử phạt
VPHC
- Nguyên nhân tranh chấp do chính cơ quan
quản lý Nhà nươc gây ra , nhưng không xử
lý người có lỗi mà lại đi xử lý người bih hại,
không bảo vệ được quyền lợi chính đáng của
người dân tộc thiểu số(đối tượng dễ bị tổn
thương – cần phải bảo vệ) nên rất có thể gây
mâu thuẫn giữa cơ quan quản lý nhà nước,
và các đơn vị chủ rừng với người dân tộc
thiểu số tại địa phương, gây khó khăn cho
chủ rừng thực hiện các nhiệm vụ được giao.
- Làm giảm sút lòng tin của nhân dân, gây
bất bình trong cộng đồng người dân tộc tiểu
số tại địa phương, dễ bị kẻ thù lợi dụng, gây

chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, ảnh hưởng
xấu đến tình hình an ninh chính trị trật tự an
toàn xã hội trong vùng.
- Không giải quyết được vấn đề tranh chấp
đất Lâm nghiệp giữa đòng bào với các đơn
vị chủ rừng

2 - Giải quyết được mâu thuẫn giữa cơ quan
quản lý nhà nước, các đơn vị chủ rừng với
người dân tộc thiểu số tại địa phương,
- Lấy lại lòng tin của nhân dân, đặc biệt là
cộng đồng người dân tộc tiểu số tại địa
phương, không gây chia rẽ khối đại đoàn kết
dân tộc, không làm ảnh hưởng xấu đến tình
hình an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội
trong vùng.
- Giải quyết triệt để được vấn đề tranh chấp
đất Lâm nghiệp giữa đòng bào với các đơn
vị chủ rừng
-Không phải chi phí gì đáng kể cho thực
hiện phương án 2.


- Trật tự kỷ cương xã hội, pháp chế xã hội
chủ nghĩa bị coi thường, việc xử lý không có
tính răn đe, không những không làm gương
cho kẻ khác, mà còn tạo ra tiền lệ xấu cho
người dân tộc thiểu số đòi các diện tích đất
trước đây đã quy hoạch phục vụ kinh tế xã
hội.

- Có thể xảy ra tình trạng một số hộ lấn
chiếm rừng để làm rẫy, để một vài năm rồi
đòi bồi thường.
- Chưa giúp người dân bỏ được tập tục luân
canh, quảng canh nương rẫy, nên chưa giải
quyết bền vững được tình trạng tranh chấp
đất lâm nghiệp giữa khu BTTN Bà Nà và 6
hộ dân thôn Điện biên.
- Vô tình khuyến khích người dân phá rừng
làm nương rẫy mới, và đòi đền bù hàng ngàn
Ha rẫy cũ đã bỏ hoang thành rừng ở khu
BTTN Bà nà từ hàng chục năm về trước.
3 Giải quyết được tất cả các yêu cầu đặt ra của
tình huống như:
- Giữ vững trật tự kỷ cương xã hội, đảm bảo
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xử lý
nghiêm minh những đối tượng vi phạm để
làm gương cho những người khác
- Giải quyết tốt chính sách đất đai và việc
làm, tăng thu nhập bền vững cho người đồng
bào dân tộc thiểu số, xóa đói giảm nghèo,
góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội trong vùng.
- Giải quyết triệt để được vấn đề tranh chấp
đất Lâm nghiệp giữa đồng bào, với các đơn
vị chủ rừng, Giải quyết được mâu thuẫn
giữa cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị
chủ rừng với người dân tộc thiểu số tại địa
phương,
- Lấy lại lòng tin của nhân dân, đặc biệt là

cộng đồng người dân tộc tiểu số tại địa
phương, giữ vững khối đại đoàn kết dân tộc,

Thực hiện khó, thực hiện lâu dài, các ngành,
các cấp phải cùng phối hợp đồng bộ thì mới
thực hiện được. Chi phí cho việc thực hiện
phương án này rất tốn kém .

Qua bảng tổng hợp tìm ra ưu nhược điểm của từng phương án, ta nhận thấy rằng: Cả 3 phương
án đều có những ưu, khuyết điểm nhất định, nhưng đều đã giải quyết được toàn bộ, hay một
phần vấn đề đặt ra của tình huống, tuy nhiên, phương án 3 là phương án giải quyết vấn đề triệt để
nhất, ít khuyết điểm, nhiều ưu điểm nhất, với tình hình kinh tế xã hội hiện nay của đất nước ta đã
đủ sức thực hiện phương án 3, vậy để giải quyết tình huống này nên chọn phương án 3.
4. KIẾN NGHỊ
4.1. Hoàn thiện công tác Quy hoạch
Đối với nhân dân vùng núi nói chung, đồng bào dân tộc thiểu số định cư ở vùng sâu vùng xa của
tỉnh Gia lai nói riêng, việc quy hoạch rõ ràng ranh giới đất Nông nghiệp và đất Lâm nghiệp là
một vấn đề cấp thiết, đòi hỏi chính quyền địa phương, và cơ quan quản lý nhà nước các cấp cần
khẩn trương hoàn thiện công tác quy hoạch sát với nhu cầu thực tế tại địa phương, đảm bảo dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, tránh tình trạng quy hoạch hình thức, thiếu dân chủ, không
quan tâm đến quyền lợi của một bộ phận người dân nào đó, nhất là những đối tượng dễ bị tổn
thương như đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu vùng xa.
4.2. Đền bù giải tỏa đất sản xuất, đất ở cho người dân trước khi giao đất cho chủ rừng.
Nhà nước nghiên cứu ban hành văn bản quy định trước khi quy hoạch đất đai, hoặc giao đất giao
rừng cho các tổ chức, cá nhân phải hoàn thành công tác đền bù giải tỏa. Phải coi diện tích rẫy
luân canh có từ trước khi ban hành luật đất đai tháng 10 năm 1993 là hợp pháp, từ đó mới có
phương án đền bù thỏa đáng cho người dân.
4.3. Có chính sách cho người dân cùng hưởng lợi từ rừng đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu
số, từ nhiều đời nay có cuộc sống gắn bó với rừng.
Bộ Nông nghiệp & PTNT sớm tham mưu cho Chính phủ ban hành một chính sách cho phép

người dân vùng rừng núi (Đặc biệt là người dân tộc thiểu số) được chia sẻ lợi ích từ rừng, với
chủ rừng tại địa phương họ đang sinh sống.
4.4. Xây dựng dự án vùng đệm khu BTTN Bà Nà
UBND Tỉnh Gia lai chỉ đạo cho Chính quyền địa phương huyện K phối hợp với Khu BTTN Bà
Nà xây dựng, thực hiện dự án vùng đệm khu BTTN Bà Nà nhằm giải quyết vấn đề thiếu đất sản
xuất, và các chính sách xã hội khác cho nhân dân vùng đệm khu BTTN Bà Nà
V. KẾT LUẬN:
Thực tế hiện nay ở Tây nguyên, vấn đề tranh chấp đất Lâm nghiệp giữa đồng bào các dân tộc
thiểu số với các đơn vị chủ rừng, là một vấn đề phổ biến, nhức nhối, nan giải, và rai rẳng. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nguyên nhân chính là khi quy hoạch, giao đất cho các
chủ rừng, cơ quan quản lý về lâm nghiệp và đất đai không quan tâm đến phong tục sản xuất rẫy
luân canh của đồng bào dân tộc thiểu số, bên cạnh đó chưa có văn bản nào quy định, hoặc hướng
nào của Nhà nước hướng dẫn cách giải quyết tranh chấp đất đai trong trường hợp cụ thể này, nên
chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng giải quyết vấn đề này chưa thống nhất, chưa
triệt để, chưa bền vững, còn mang nặng tính hình thức, áp đặt, đây là một trong những nguyên
nhân quan trọng dẫn tới mất rừng ở Tây ngyên.
Bằng những kiến thức đã tiếp thu được từ thầy, cô của lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà
nước chương trình Chuyên viên chính và kinh nghiệm của bản thân học viên mạnh dạn đề xuất 3
phương án giải quyết tình huống vấn đề tranh chấp đất Lâm nghiệp giữa đồng bào các dân tộc
thiểu số với các đơn vị chủ rừng . Cả 3 phương án đều có những khuyết điểm nhất định, nhưng
đều đã cơ bản giải quyết được một phần hoặc toàn bộ yêu cầu đặt ra của tình huống, tuy nhiên,
phương án 3 là phương án giải quyết vấn đề triệt để nhất, ít khuyết điểm, nhiều ưu điểm nhất.
Học viên cũng mạnh dạn đề nghị chính phủ sớm ban hành một số chính sách, văn bản, quy định
nhằm tạo điều kiện cho các địa phương, các chủ rừng giải quyết thống nhất, triệt để vấn đề đề
tranh chấp đất Lâm nghiệp giữa đồng bào các dân tộc thiểu số với các đơn vị chủ rừng , đồng
thời kiến nghị với UBND tỉnh Gia lai chỉ đạo cho Chính quyền địa phương huyện K phối hợp
với Khu BTTN Bà Nà xây dựng, thực hiện dự án vùng đệm khu BTTN Bà Nà nhằm giải quyết
vấn đề thiếu đất sản xuất, và các chính sách xã hội khác cho nhân dân vùng đệm khu BTTN Bà
Nà.




TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Đất đai đã được Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam thông qua
năm 2003
2.Luật Bảo vệ và phát triển rừng đã được Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt nam thông qua tại kỳ họp thứ 6 từ ngày 25 tháng 11 đến ngày 03 tháng 12 năm 2004
3. Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/03/2006 của chính phủ “V/v thi hành luật Bảo vệ và
phát triển rừng ”;
4. Nghị định 159/2007/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2007 của Chính phủ về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực QLBV rừng và quản lý lâm sản
5. Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 12/8/2006 của Thủ tướng chính phủ “V/v ban hành
Qui chế quản lý rừng ”;
6. Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày 5/2/2007 của Thủ tướng chính phủ “Về việc phê duyệt
chương trình mục tiêu Quốc gia giảm ngèo giai đoạn 2006 - 2010”
7. Quyết định số 1174/2005/QĐ-TTg ngày 23/11/2005 của Thủ tướng chính phủ “Về việc thí
điểm giao rừng khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng buôn làng đồng bào dân tộc
thiểu số tại chỗ ở các tỉnh Tây nguyên”
8. Quyết định số 304/2005/QĐ-TTg ngày 7/11/2005 của Thủ tướng chính phủ “Về phê duyệt đề
án thí điểm giao rừng khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng buôn làng đồng bào dân
tộc thiểu số tại chỗ ở các tỉnh Tây nguyên”
9. Quyết định số 146/2005/QĐ-TTg ngày 15/6/2005 của Thủ tướng chính phủ “Về chính sách
thu hồi đất sản xuất của các nông trường, lâm trường để giao lại cho hộ đồng bào dân tộc thiểu
số nghèo”
10. Quyết định Số: 28/2004/QĐ-UB ngày 18 tháng 3 năm 2004 của UBND tỉnh Gia lai (V/V
Thành lập Khu bảo tồn thiên nhiên Bà nà )
11. Bộ tài liệu học tập lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước chương trình chuyên viên
chính, của trường chính trị tỉnh Gia lai.
12. Một số tài liệu khác.

×