Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Vấn đề sở hữu trí tuệ trong hoạt động đầu tư nước ngoài những hạn chế và giải pháp cho doanh nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.1 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
PHẦN MỞ ĐẦU 2
PHẦN NỘI DUNG 4
CHƯƠNG I: CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ
TUỆ 4
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VIỆC BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG HOẠT ĐỘNG
ĐẦU TUE NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 10
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỐNG VI PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ CHO CÁC
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 19
PHẦN KẾT LUẬN 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 1
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
PHẦN MỞ ĐẦU
Sở hữu trí tuệ đang ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng thúc đẩy phát
triển khoa học, công nghệ và kinh tế của đất nước cũng như tiến trình hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế thế giới. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không còn là nội dung xa
lạ với các doanh nghiệp và toàn xã hội. Các đối tượng như sáng chế, kiểu dáng,
nhãn hiệu, phần mềm máy tính, bản quyền tác phẩm văn học nghệ thuật đã trở
thành tài sản trí tuệ rất có giá trị góp phần quan trọng làm tăng sức cạnh tranh của
các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế.
Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Mặc dù có sự
ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng chúng ta đã thực hiện thành công
các mục tiêu phát triển kinh tế và đưa Việt Nam đạt mục tiêu là quốc gia có mức
thu nhập trung bình trên thế giới. Nền kinh tế Việt Nam đã và đang hội nhập sâu
rộng với nền kinh tế thế giới, đặc biệt là từ khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương
mại thế giới WTO. Cùng với đà phát triển chung của nền kinh tế là sự phát triển của
các doanh nghiệp Việt Nam. Trong những năm gần đây, số lượng các doanh nghiệp


Việt Nam đã gia tăng không ngừng và nhanh chóng phát triển cả về số lượng lẫn
quy mô. Một số doanh nghiệp nước ta đã thực hiện đầu tư ra nước ngoài để mở
rộng thị trường và tìm kiếm các cơ hội kinh doanh tại các thị trường tiềm năng.
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp và các nhà đầu
tư cũng như thực hiện cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, hệ thống văn bản
và thực thi pháp luật của Việt Nam về quyền sở hữu trí tuệ ngày càng được hoàn
thiện. Tuy nhiên, vẫn còn có những tồn tại và hạn chế liên quan đến vấn đề quyền
sở hữu trí tuệ mà chúng ta cần phải khắc phục, không chỉ từ các cơ quan ban hành
và thực thi luật mà còn từ chính các doanh nghiệp Việt Nam.
Với những lý do đó, nhóm số 9 nghiên cứu đề tài tiểu luận “Vấn đề sở hữu
trí tuệ trong hoạt động đầu tư nước ngoài. Những hạn chế và giải pháp cho
doanh nghiệp Việt Nam”. Mục tiêu của tiểu luận là đưa ra một số giải pháp chống
vi phạm quyền sở hữu trí tuệ cho doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài. Các giải pháp được đưa ra dựa trên việc tìm hiểu và
nghiên cứu thực trạng hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 2
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của Tiểu luận được chia thành ba
phần như sau:
- Phần I: Cơ sở pháp lý về quyền sở hữu trí tuệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
- Phần II: Thực trạng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.
- Phần III: Một số giải pháp chống vi phạm quyền sở hữu trí tuệ cho các
doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 3
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ BẢO HỘ
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

1. Một số khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
1.1 Quyền sở hữu trí tuệ
Điều 4, khoản 1 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định: “Sở hữu trí tuệ (SHTT) là
quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền
liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây
trồng”.
Điều 2 (8) của Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) ký
ngày 14-7-1967 quy định: “Sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền liên quan đến các tác
phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; các cuộc biểu diễn của nghệ sĩ biểu diễn,
các bản ghi âm và các chương trình phát sóng; các sáng chế trong tất cả các lĩnh
vực sáng tạo của con người; các khám phá khoa học; các kiểu dáng công nghiệp;
các nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ và các tên thương mại; bảo hộ chống lại
sự cạnh tranh không lành mạnh; và tất cả các quyền khác nảy sinh từ kết quả của
hoạt động trí tuệ thuộc các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học và công nghiệp”.
1.2 Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ:
Từ góc độ vật chất, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là nhằm đảm bảo cho người
sáng tạo có thể khai thác giá trị kinh tế từ các sản phẩm sáng tạo của mình để bù
đắp lại công lao sáng tạo.
Nhìn chung, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ bao gồm các quy định, chính sách,
biện pháp cho phép chủ thể quyền SHTT hoặc cơ quan có thẩm quyền sử dụng các
biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của chủ thể nắm giữ quyền
sở hữu trí tuệ.
Dưới góc độ chủ thể quyền, việc bảo vệ quyền SHTT sẽ bảo đảm việc xử lý,
ngăn chặn và ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền; dưới góc độ xã hội, bảo vệ
quyền SHTT có tác dụng kích thích, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tạo
môi trường đầu tư, kinh doanh an toàn và lành mạnh; dưới góc độ quốc tế, bảo vệ
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 4
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
quyền SHTT luôn là mối quan tâm to lớn không chỉ ở từng quốc gia mà ở cả bình

diện quốc tế.
2. Cơ sở pháp lý
2.1 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005:
Năm 2003, Luật Sở hữu Trí tuệ đã được đưa vào chương trình làm luật của
Quốc hội. Bản dự thảo đầu tiên được hai Cục SHTT thuộc Bộ Khoa học Công nghệ
và Cục Bản Quyền tác giả thuộc Bộ Văn hoá Thông tin soạn thảo và được đưa ra
xin ý kiến đóng góp của nhân dân. Nhiều hội thảo đóng góp ý kiến xây dựng Luật
Sở hữu Trí tuệ đã được tổ chức, thu hút đông đảo sự quan tâm của các chuyên gia
pháp luật trong và ngoài nước. Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau, và dự thảo cuối
cùng trình Quốc hội cũng chưa thể hoàn chỉnh, việc ban hành một đạo luật thống
nhất về Sở hữu Trí tuệ đã trở nên cấp thiết, và lộ trình làm luật của Việt Nam phục
vụ cho việc gia nhập WTO là không thể trì hoãn
Tại kỳ họp Quốc hội Khoá X, Kỳ họp thứ 10, vào ngày 29 tháng 11 năm
2005, Luật Sở hữu Trí tuệ (Luật SHTT – Luật Số 50/2005/QH10) đã được Quốc hội
ban hành, có hiệu lực từ ngày 01/07/2006.
Luật Sở hữu trí tuệ đã tiếp thu được các giá trị của nhiều quy phạm pháp luật
trong hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu trí tuệ, đã được thẩm định
trong thực tiễn. Lợi ích của các chủ thể sáng tạo, khai thác sử dụng và công chúng
hưởng thụ đã được điều chỉnh khá hài hoà. Các quy phạm pháp luật đã tương thích
với hầu hết các điều ước quốc tế có liên quan, các Hiệp định song phương đảm bảo
thuận lợi cho việc hội nhập vào cộng đồng quốc tế.Tính minh bạch, rõ ràng và khả
thi cũng đã thể hiện khá rõ tại các điều luật. Lợi ích quốc gia thể hiện tại các điều
luật đã được Ban soạn thảo, các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội quan
tâm trong suốt quá trình chuẩn bị, soạn thảo và thông qua luật sở hữu trí tuệ. Như
vậy đây là lần đầu tiên, Việt Nam có một đạo luật riêng về sở hữu trí tuệ được ban
hành ở cấp cao nhất.
Luật SHTT được chia thành 6 phần , trong đó phần V có nội dung về bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ là phần được coi là đổi mới mạnh mẽ nhất trong các qui định
về sở hữu trí tuệ từ trước đến nay, đi thẳng vào vấn đề mà Việt Nam còn bị các
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2

Trang 5
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
nước coi là yếu kém: thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Tuân thủ các cam kết về thực thi
quyền sở hữu trí tuệ qui định tại Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ và Thỏa ước
TRIPS.
2.2 Luật đầu tư:
Luật Đầu tư được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá
XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005. Luật có liệu lực thi hành từ
ngày 01/7/2006.
Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động đầu tư nước ngoài cũng
đã được quy định tại trong luật như sau:
- Điều 3, khoản 12: “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu
tư”
- “Điều 7. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động đầu tư; bảo đảm lợi ích
hợp pháp của nhà đầu tư trong việc chuyển giao công nghệ tại Việt Nam theo quy
định của pháp luật về sở hữu trí tuệ và các quy định khác của pháp luật có liên
quan.”
2.3 Bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ theo các công ước quốc tế:
Hệ thống pháp luật quốc tế về quyền Sở hữu trí tuệ (SHTT) được hình thành
từ cuối thế kỷ 19 với sự ra đời của hai điều ước nền tảng là Công ước Paris về bảo
hộ sở hữu công nghiệp (năm 1883) và Công ước Bern về bảo hộ tác phẩm văn học
và nghệ thuật (năm 1886). Tiếp đó, hàng loạt các công ước quốc tế về các vấn đề
khác liên quan đến quyền SHTT đã được ký kết như: Thỏa ước Madrid về đăng ký
quốc tế đối với nhãn hiệu (năm 1891), Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn,
nhà sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát sóng (năm 1961), Công ước về bảo hộ
giống cây trồng mới (năm 1961), Hiệp định hợp tác về bằng phát minh sáng chế
(năm 1970), Công ước Brussels về việc phân phối tín hiệu mang chương trình
truyền qua vệ tinh (năm 1974), Sự ra đời của các điều ước quốc tế nói trên ngày

càng khẳng định vai trò của quyền SHTT đối với các hoạt động đầu tư, sản xuất và
thương mại ở từng quốc gia cũng như trong quan hệ kinh tế quốc tế, đóng góp đáng
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 6
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
kể vào việc đặt nền tảng và sự phát triển của hệ thống bảo hộ quyền SHTT trên
phạm vi toàn cầu. Song, do đặc thù của các công ước là tính cưỡng chế yếu nên trên
thực tế, các công ước đã được phê chuẩn vẫn không thể thực hiện có hiệu quả mục
tiêu bảo hộ quyền SHTT. Các công ước quốc tế phần lớn chỉ đề cập tới trình tự bảo
hộ quyền SHTT quốc tế, còn yêu cầu pháp lý đối với các quốc gia lại hạn chến nên
đã không đưa ra được một tiêu chuẩn quốc tế về bảo hộ quyền SHTT, đồng thời các
công ước quốc tế phần lớn chỉ chế định quyền SHTT đối với một loại hình tài sản
trí tuệ nhất định mà không có những quy định toàn diện phạm vi hiệu lực về quyền
SHTT; và phần lớn các công ước quốc tế về quyền SHTT không hề đề cập đến các
biện pháp giải quyết tranh chấp về quyền SHTT. Những hạn chế này đã ảnh hưởng
không nhỏ đến hiệu quả thực thi quyền SHTT và là một trong những tiền đề dẫn tới
sự hình thành Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền
SHTT (TRIPs) trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
2.4 Hiệp định TRIPS
Hiệp định TRIPS (Trade Related Aspects of Intellectual Property Rights) hay
còn gọi là Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT
của WTO được ký kết vào ngày 15/04/1994 và chính thức có hiệu lực vào ngày
1/1/1995. TRIPS ra đời nhằm giải quyết một cách toàn diện vấn đề bảo hộ quyền
SHTT. Với Hiệp định này, lần đầu tiên những quy định về quyền SHTT được đưa
vào hệ thống thương mại đa biên và sẽ "góp phần thúc đẩy việc cải tiến, chuyển
giao và phổ biến công nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và người sử
dụng công nghệ cũng như lợi ích kinh tế - xã hội nói chung và đảm bảo sự cân bằng
giữa quyền lợi và nghĩa vụ" (Điều 7, Hiệp định TRIPs).
Nội dung Hiệp định TRIPS:
Toàn bộ nội dung của Hiệp định TRIPS được chia thành 7 phần và là những

nguyên tắc cơ bản và mức độ bảo hộ tối thiểu mà mỗi quốc gia thành viên WTO
phải bảo đảm cho quyền SHTT của các quốc gia thành viên khác.
Phần I của hiệp định đưa ra các điều khoản chung và các nguyên tắc cơ bản,
đặc biệt là cam kết đối xử quốc gia mà theo đó các công dân của các nước thành
viên phải được đối xử không kém ưu đãi hơn so với công dân của các chính nước
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 7
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
thành viên đó về vấn đề quyền sở hữu trí tuệ. Phần này cũng đưa ra điều khoản đối
xử tối huệ quốc, là một điều khoản mới trong thỏa thuận sở hữu hữu trí tuệ quốc tế,
theo đó bất kỳ thuận lợi nào mà một thành viên dành cho các công dân của một
thành viên khác cũng phải được ngay lập tức và vô điều kiện áp dụng cho công dân
của tất cả các thành viên khác, ngay cả khi sự đối xử này ưu đãi hơn đối xử mà mà
thành viên đó dành cho chính công dân của nước mình.
Phần II nêu rõ về nội dung từng quyền sở hữu trí tuệ, các tiêu chuẩn liên quan
đến khả năng đạt được, phạm vi và việc sử dụng các quyền sở hữu trí tuệ. Các lĩnh
vực thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định TRIPS bao gồm: Bản quyền và các
quyền có liên quan, nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp,
bằng sáng chế, sơ đồ bố trí mạch tích hợp và bảo hộ thông tin bí mật.
Phần III của Hiệp định đặt ra vấn đề thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Theo đó,
các quốc gia thành viên có nghĩa vụ phải áp dụng các thủ tục thực thi quyền SHTT
một cách bình đẳng, công bằng, hiệu quả. Các quyết định xử lý phải bảo đảm tính
minh bạch và quyền kháng cáo, khiếu nại của đương sự và việc bồi thường thiệt hại
phải mang tính chất đền bù đối với người bị thiệt hại và giáo dục đối với người xâm
phạm.
Phần IV của Hiệp định đề cập đến các thủ tục để đạt được và duy trì các
quyền SHTT và thủ tục liên quan theo yêu cầu của các bên liên quan.
Phần V của Hiệp định đề cập đến vấn đề ngăn ngừa và giải quyết các tranh
chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Tranh chấp phát sinh liên quan đến Hiệp
định TRIPs là quy định quan trọng nhất trong lĩnh vực này và sẽ được giải quyết

theo quy định của Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB). Điều 63 yêu cầu
các thành viên WTO phải công bố, hoặc ít nhất cho công chúng tiếp cận bằng ngôn
ngữ quốc gia, tất cả các luật, quy định, quyết định xét xử cuối cùng và quyết định
hành chính giải quyết vụ việc liên quan đến việc đăng ký, bảo hộ, thực thi, ngăn
chặn lạm dụng quyền SHTT. Ngoài ra, các thành viên phải công bố mọi thỏa thuận
đã ký với các thành viên WTO khác trong lĩnh vực quyền SHTT.
Phần VI là các điều khoản chuyển tiếp. Theo đó, Hiệp định nới rộng thời hạn
áp dụng liên quan đến quyền SHTT cho các nước đang và kém phát triển. Điều 66
của Hiệp định quy định: “Những Thành viên là nước phát triển phải tạo động lực để
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 8
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
khuyến khích các doanh nghiệp và các tổ chức trong lãnh thổ của mình chuyển giao
công nghệ cho những Thành viên là nước kém phát triển để giúp họ tạo ra một nền
tảng công nghệ bền vững và có khả năng phát triển.
Phần VII và các quy định về cơ chế; điều khoản cuối cùng. Theo đó, hội đồng
TRIPS sẽ được thành lập để điều hành việc thực thi hiệp định và sự tuân thủ của các
thành viên đối với hiệp định. Ngoài ra, phần này cũng quy định vấn đề bảo hộ các
đối tượng đang tồn tại, điều khoản xem xét lại và sửa đổi, bảo lưu và những ngoại
lệ về an ninh.
Trên đây là những cơ sở pháp lý quan trọng liên quan đến quyền sở hữu trí
tuệ. Đó đều là những nguồn luật quan trọng để giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là
các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ đối với các
tài sản trí tuệ của công ty mình. Đồng thời, đó cũng là những nguồn luật cơ bản để
điều chỉnh và là căn cứ để xử lý các hành vi vi phạm hoặc các tranh chấp liên quan
đến quyền sở hữu trí tuệ.
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 9
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VIỆC BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TUE NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1. Một số thành tựu:
Hoạt động bảo hộ quyền SHTT ở nước ta được bắt đầu triển khai từ những
năm 80, nhưng chỉ từ khi Quốc hội ban hành bộ Luật Dân sự (năm 1995) thì hoạt
động này mới bắt đầu tiến triển. Đặc biệt, từ khi Quốc hội ban hành Luật SHTT
(năm 2005) và Việt Nam là thành viên chính thức của WTO thì hoạt động này trở
nên sôi động với tất cả các dạng tài sản trí tuệ được bảo hộ, bao gồm: bản quyền tác
giả và các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ và
chỉ dẫn địa lý, giống cây trồng mới
Từ năm 2005 đến nay, việc đăng ký và cấp chứng nhận bảo hộ tăng bình quân
hằng năm 20%. Về quyền tác giả, nhiều cuốn sách hay của nước ngoài đã được mua
bản quyền tác giả để dịch và xuất bản ở trong nước. Về quyền sở hữu công nghiệp,
đăng ký nhãn hiệu hàng hóa tăng 25% - 30%, đăng ký bảo hộ các sáng chế cũng
tăng 10% - 15%, nhưng phần lớn (chiếm trên 65%) là của nước ngoài đăng ký ở
Việt Nam Thời gian được cấp chứng nhận quyền SHTT sau khi hoàn tất thủ tục chỉ
trong hai tháng (nếu không xảy ra tranh chấp), đây là những kết qủa khá ấn tượng.
Trong những nhận định đánh giá, nhất là đánh giá của một số đối tác quan
trọng trong kinh tế (đầu tư, thương mại) trong quá trình đàm phán gia nhập WTO
của Việt Nam là EU, Thụy Sĩ, Nhật Bản, Mỹ và Australia đều có chung nhận định
rằng Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng các văn bản pháp luật về
SHTT nhưng vấn đề thực thi là một điểm yếu cần phải khắc phục.
2. Những hạn chế:
2.1. Vấn đề đăng ký bảo hộ quyền SHTT:
Các doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ, đặc biệt là đăng ký quyền SHTT:
Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa chú trọng đến vấn đề bảo hộ quyền
SHTT để bảo vệ cho tài sản trí tuệ và thành quả của doanh nghiệp mình như quyền
tác giả, nhãn hiệu, bằng sáng chế, v.v. Có một số doanh nghiệp đã thực hiện đăng
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 10

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
ký trong nước nhưng chưa chú trọng đến đăng ký quyền SHTT tại thị trường mục
tiêu hoặc đăng ký với các tổ chức quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ. Đã có một số
doanh nghiệp Việt Nam phải trả những bài học đắt giá do nhận thức hạn chế về vấn
đề bảo hộ quyền SHTT cho tài sản trí tuệ của doanh nghiệp mình. Ví dụ điển hình
là trường hợp của Võng xếp Duy Lợi. Tháng 8/2002, doanh nghiệp tư nhân võng
xếp Duy Lợi do ông Lâm Tấn Lợi làm giám đốc đã bị yêu cầu dừng sản xuất và
xuất khẩu đối với sản phẩm võng xếp của công ty. Mặc dù, ông Lợi đã làm đúng
trình tự và đăng ký quyền SHTT đối với sản phẩm “Khung mắc võng” do ông sáng
chế tại Việt Nam. Tuy nhiên, một nhóm có tên Miki của Nhật Bản đã nhanh tay
đăng ký với Cơ quan sáng chế của Nhật Bản bằng sáng chế giải pháp hữu ích
“Khung võng tiện dụng” giống hệt với sáng chế của ông Lợi. Vì vậy, nhóm Miki đã
kiện công ty Duy Lợi vì “xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” và yêu cầu công ty
ngừng sản xuất và xuất khẩu sản phẩm võng xếp của công ty, và nếu công ty vẫn
tiếp tục sản xuất và xuất khẩu vào thị trường Nhật thì phải trả cho họ 4 USD/1 sản
phẩm. Ngoài ra, nhóm Miki còn đe dọa sản phẩm của Duy Lợi sẽ bị cấm xuất khẩu
sang 112 quốc gia thành viên của Hiệp hội sáng chế Quốc tế. Công ty Duy Lợi đã
phải thuê luật sư và đấu tranh để đòi lại quyền SHTT đối với sản phẩm võng xếp
của công ty. Vào tháng 3 năm 2003, thương hiệu võng xếp Duy Lợi mới được trả
lại tên và khai thông tại thị trường Nhật Bản, nhưng niềm vui chẳng bao lâu, một
cuộc tranh chấp quyền sở hữu tương tự lại xảy ra với Duy Lợi, lần này cam go hơn,
phức tạp hơn vì nó xảy ra tại Mỹ.
Tháng 9/2001, Doanh nghiệp tư nhân võng xếp Duy Lợi xuất một container
hàng sang Mỹ, sau đó không thấy đơn đặt hàng nào từ Mỹ nữa. Nhờ luật sư tra cứu
trên mạng, ông Lâm Tấn Lợi, Giám đốc Công ty Duy Lợi, phát hiện doanh nhân
người Đài Loan Chung Sen Wu (cư trú tại Đài Loan) đã đăng ký bằng sáng chế ở
Mỹ cho chiếc võng xếp có kiểu dáng giống hệt võng xếp của Duy Lợi. Chính bằng
sáng chế này đã “khóa cánh cửa” thị trường Mỹ đối với Duy Lợi và nhiều doanh
nghiệp khác. Từ tháng 5/2004 ông Lợi đã gửi đơn sang Mỹ yêu cầu Cơ quan sáng
chế và nhãn hiệu Mỹ (USPTO) huỷ hiệu lực bằng sáng chế mà cơ quan này đã cấp

cho ông Chung Sen Wu với lý do là ông Lâm Tấn Lợi đã được Cục Sở hữu trí tuệ
Việt Nam cấp bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp từ ngày 23/3/2000 trong khi
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 11
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
ông Chung Sen Wu nộp đơn xin cấp bằng sáng chế tại Mỹ vào ngày 15/8/2001. Sau
hơn 1 năm đấu tranh, năm 2005, USPTO đã hủy hiệu lực bằng sáng chế đã cấp cho
ông Chung Sen Wu. Ông Lợi cùng với luật sư của mình một lần nữa tìm lại được sự
công bằng cho thương hiệu Võng xếp Duy Lợi nhưng đồng thời doanh nghiệp đã
phải bỏ ra những chi phí và công sức rất lớn để theo đuổi hai vụ kiện.
Ngoài trường hợp của võng xếp Duy Lợi, các doanh nghiệp lớn như Công ty
Cà phê Trung Nguyên, Tổng công ty thuốc lá Việt Nam (Vinataba), Công ty cổ
phần Sữa Việt Nam (Vinamilk), Công ty may Việt Tiến, v.v cũng đã phải trả những
bài học đắt giá do nhận thức chưa đầy đủ về vấn đề bảo hộ quyền SHTT đối với các
tài sản trí tuệ của công ty như bằng sáng chế, nhãn hiệu, tên thương mại, .v.v tại thị
trường quốc tế. Năm 2002, Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam (Vinataba) đã bị Công
ty Sumatra (trụ sở chính tại Indonesia) kiện vì đã bán sản phẩm nhãn hiệu Vinataba
tại thị trường Lào và Campuchia. Sau một thời gian tìm hiểu, Vinataba mới biết
rằng, nhãn hiệu của mình đã bị “đánh cắp”, vì Sumatra đã “nhanh chân” đăng ký
tên sản phẩm mà chẳng có một bao thuốc lá nào bán ra thị trường. Vì vậy, để
thương hiệu được công nhận tại hai thị trường trên, Vinataba đã phải bỏ ra hàng tỷ
đồng để tham gia “cuộc chiến pháp lý”. Tuy nhiên, với những thị trường xa,
Vinataba đành phải nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu (do chi phí cho việc giành lại
thương hiệu quá tốn kém). Đối với trường hợp của Trung Nguyên, tháng 7/2000,
Công ty Cà phê Trung Nguyên sang Mỹ để tiếp cận Rice Field với mục đích đưa
sản phẩm của mình vào thị trường Mỹ. Mặc dù vẫn đang trong quá trình thương
thảo, nhưng nhãn hiệu Trung Nguyên đã bị phía Rice Field nhanh chân nộp đơn
đăng ký nhãn hiệu với các cơ quan chức năng Mỹ và Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
(WIPO). Cuối cùng, sau 2 năm ròng rã thương thảo, Trung Nguyên mới đòi lại
được quyền bảo hộ đối với nhãn hiệu Trung Nguyên, nhưng đổi lại công ty này

phải chấp nhận để Rice Field làm nhà phân phối sản phẩm của Trung Nguyên tại
Mỹ. Không chỉ thương hiệu sản phẩm bị đe dọa, ngay cả tên miền của Trung
Nguyên (trungnguyen.com) cũng bị một Việt kiều ở CH Séc đăng ký và rao bán.
Tương tự trường hợp của Trung Nguyên, các công ty Việt Nam khác như Công ty
cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk), công ty may Việt Tiến, May 10, Dệt Thành
Công, v.v cũng đã phải giải quyết những vụ kiện tụng với đối tác nước ngoài trong
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 12
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
vấn đề bản quyền nhãn hiệu các sản phẩm của doanh nghiệp khi xuất khẩu sang thị
trường nước ngoài.
Nguyên nhân của tình trạng này là do các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu
nhiều kinh nghiệm kinh doanh quốc tế và ít am hiểu pháp luật kinh doanh quốc tế.
Các doanh nghiệp Việt Nam còn chậm tiến hành các thủ tục đăng ký bảo hộ quyền
SHTT cho tài sản trí tuệ của doanh nghiệp mình tại các cơ quan phụ trách trong
nước và tại các tổ chức quốc tế về quyền SHTT cũng như tại các thị trường mục
tiêu. Theo báo cáo hàng năm của Cục sở hữu trí tuệ, chỉ tính riêng năm 2009, số
đơn yêu cầu bảo hộ sáng chế đã được nộp của người nước ngoài là 2632 đơn, chiếm
91%; trong khi số đơn yêu cầu bảo hộ sáng chế của người Việt Nam chỉ có 258
đơn, chiếm 9%. Tính trong cả giai đoạn từ 1981 đến 2009, tổng số đơn yêu cầu bảo
hộ sáng chế đã được nộp của người Việt Nam chỉ có 2239 đơn, trong khi số lượng
đơn yêu cầu bảo hộ sáng chế của người nước ngoài là 23617 đơn (nguồn: Báo cáo
hàng năm của Cục sở hữu trí tuệ). Những con số đó phần nào cho thấy các doanh
nghiệp và cá nhân Việt Nam chưa thực sự quan tâm đến vấn đề bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ để bảo vệ cho lợi ích và quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ của
doanh nghiệp và cá nhân đó.
Các khó khăn, hạn chế trong việc đăng ký quyền SHTT:
Thông tin SHTT đang là một trong các khâu yếu nhất trong hoạt động SHTT
ở nước ta. Số lượt người khai thác thông tin sáng chế rất thấp, khoảng trên 1000
lượt người/năm ở cả 3 trung tâm tư liệu sáng chế tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và

Đà Nẵng. Phần lớn các yêu cầu tra cứu tin được tiến hành với nhãn hiệu hàng hóa
và kiểu dáng công nghiệp, chứ không phải là sáng chế. Chính những điều này là
một nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng phát triển hoạt động SHTT thời gian
qua. Nhiều doanh nghiệp tỏ ra lúng túng trong quá trình thực thi luật do các thông
lệ quốc tế chặt chẽ hơn trước mà doanh nghiệp chưa kịp thích ứng. Ví dụ như vấn
đề chủng loại hàng hóa phải ghi nhãn theo quy định mới chặt chẽ hơn. Chẳng hạn
bia Tiger sản xuất tại Hà Nội và TP.HCM thì ghi nhãn là: Nhà máy Bia Hà Tây,
Vân Tảo, Thường Tín, Hà Nội hoặc Thới An, Quận 12, TP.HCM. Hay nước
khoáng La Vie sản xuất tại Hưng yên và Long An thì trên nhãn ghi rõ địa chỉ cơ sở
sản xuất ở Hưng Yên hay ở Long An.
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 13
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
Mạng lưới dịch vụ về SHTT hiện còn rất mỏng. Hoạt động chủ yếu của các
đơn vị này chỉ là làm thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp. Vai trò của các nhà
cung cấp dịch vụ SHTT trong cuộc đấu tranh bảo vệ quyền SHTT, chống lại nạn
hàng nhái, hàng sao chép lậu còn chưa cao. Dịch vụ SHTT nói chung chưa được
cung cấp rộng khắp, chỉ tập trung tại các thành phố lớn. Chất lượng dịch vụ SHTT
và trình độ của các nhà cung cấp dịch vụ này hiện đang ở mức thấp. Đây sẽ là yếu
tố hạn chế khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dịch vụ SHTT của
Việt Nam so với nước ngoài.
2.2 Hệ thống pháp luật về SHTT và thực thi quyền SHTT còn nhiều hạn
chế:
Ngay sau khi gia nhập WTO, Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ Hiệp định
về các khía cạnh của quyền SHTT liên quan đến thương mại (TRIPS) của WTO.
Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực quan trọng trong suốt những năm qua để
những quy định và luật pháp của Việt Nam về SHTTphù hợp với Hiệp định TRIPS.
Cho đến nay, Việt Nam đã triển khai một cách toàn diện các cam kết hội nhập trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ, đã đạt được nhiều tiến bộ, đáp ứng phần lớn các yêu cầu đặt
ra. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực thi quyền SHTT còn nhiều hạn chế, hiệu lực

của hệ thống các quy định về bảo hộ quyền SHTT còn thấp, tính minh bạch và sự
nghiêm minh trong thực thi luật còn nhiều vấn đề cần xem xét dẫn đến tình trạng
vi phạm, xâm phạm quyền SHTT đang diễn ra khá phổ biến.
Các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam đã tạo ra những cơ sở pháp lý
cần thiết cho việc xử lý các hành vi vi phạm quyền SHTT. Theo các quy định hiện
hành, chủ thể bị vi phạm quyền SHTT có thể áp dụng hay đề nghị áp dụng các biện
pháp dân sự, hình sự, hành chính hay biện pháp kiểm soát tại biên giới nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm. Từ khi ra đời Nghị định số
54/2000/NĐ-CP ngày 03/01/2000 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí
mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh
không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp, tiếp đến là sự ra đời của Luật
cạnh tranh số 27/2004/QH11 ngày 03/12/2004 bắt đầu có hiệu lực từ ngày
01/7/2005, với các điều khoản có liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh nói
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 14
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
chung và cạnh tranh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực SHTT nói riêng (các
điều 39, 40, 41 Luật Cạnh tranh), sau đó là sự ra đời của Luật SHTTsố
50/2005/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005, có hiệu lực kể từ ngày
01/7/2006; các chủ thể của quyền SHTT đã biết đến một “vũ khí” tự vệ mới, đó là
các quy định về bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới
SHTT.
Xem xét mối quan hệ giữa cạnh tranh không lành mạnh và SHTT là một vấn
đề không hề đơn giản, ngay cả ở những nước có nền khoa học pháp lý phát triển,
việc tồn tại song song hai phương thức kiện dựa trên cơ sở pháp luật cạnh tranh và
pháp luật về SHTT đối với các hành vi phạm quyền SHTT ở Việt Nam lại càng
khiến mối quan hệ này trở nên phức tạp hơn. Luật cạnh tranh và luật SHTT là hai
luật đặc thù của nền kinh tế thị trường có mục tiêu chung nhằm thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế thị trường. Luật SHTT khuyến khích sáng tạo bằng cách trao
cho người chủ sở hữu quyền bảo hộ độc quyền trong việc khai thác tài sản SHTT.

Trong khi đó, Luật cạnh tranh khuyến khích sáng tạo bằng cách tạo cơ hội cho công
bằng cho các doanh nghiệp tham gia thị trường. Mối quan hệ chặt chẽ giữa hai luật
thể hiện qua một số mảng giao thoa: Luật cạnh tranh cân bằng các quyền liên quan
đến SHTT, đảm bảo các chủ sở hữu không lợi dụng quyền SHTT đã được bảo hộ
để gây hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên, đối tượng có liên quan đến SHTT thuộc
phạm vi áp dụng Luật cạnh tranh rộng hơn so với pháp luật về SHTT. Các đối
tượng như khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng, bao bì, chỉ dẫn thương mại, tên
miền… nếu không được bảo hộ bằng các quy định riêng về SHTT thì hoàn toàn có
thể tìm thấy cơ sở pháp lý để bảo vệ trong Luật cạnh tranh. Các đối tượng này theo
truyền thống không phải là đối tượng bảo hộ quyền SHTT. Mặc dù có mối quan hệ
giao thoa chặt chẽ, sự kết nối giữa hai luật này hiện nay là không rõ ràng. Đặc biệt,
sự phối hợp giữa các cơ quan chịu trách nhiệm thi hành hai luật cũng chưa có, dẫn
đến nhiều vụ việc phát sinh chưa có cơ sở giải quyết.
Ngày 1/1/2010 là thời điểm Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT
năm 2005 có hiệu lực. Tuy nhiên văn bản hướng dẫn chính thức của Luật sửa đổi,
bổ sung của Luật SHTT năm 2005 lại ban hành chậm trễ. Lý do của sự chậm trễ
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 15
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
này, là còn chờ sửa đổi Nghị định 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 cũng như chờ
hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao.
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính, sự chậm trễ của Bộ
Khoa học và Công nghệ trong công tác xây dựng Nghị định mới thay Nghị định
106/2006/ NĐ-CP ngày 22/9/2006 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp để phù hợp với nội dung Pháp lệnh sửa đổi một số điều của Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 2/4/2008 cũng có ảnh hưởng nhất định đến
công tác của ngành Hải quan. Theo quy định của Pháp lệnh 2008, mức phạt tiền đối
với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHTT là không quá 500 triệu đồng
(Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính,
Điều 1, khoản 2). Tuy nhiên, Nghị định 106/2006/NĐ-CP không có quy định giới

hạn của mức tiền phạt và vẫn căn cứ vào giá trị của hàng hóa vi phạm để xác định
khung hình phạt. Điều này dẫn đến sự mâu thuẫn là nếu cơ quan hải quan căn cứ
Nghị định 106/2006/NĐ-CP để xử phạt thì mức phạt tiền có thể lên đến hàng tỷ
đồng thì tuy đúng với Nghị định nhưng lại không phù hợp với Pháp lệnh.
Những quy định chồng chéo, không tương thích giữa các văn bản luật và
hướng dẫn thi hành luật đã khiến cho việc thực thi quyền SHTT một cách hiệu quả
gặp rất nhiều khó khăn.
Theo báo cáo của liên Bộ Khoa học và Công nghệ - Văn hóa - Thông tin về
tình hình thực thi quyền SHTT ở Việt Nam, vi phạm về SHTT đang có dấu hiệu
phổ biến, trong mọi lĩnh vực với mức độ nghiêm trọng và phức tạp gia tăng do cơ
chế đảm bảo thực thi chưa hoàn thiện và chưa phát huy đúng mức.
Ngay cả với cơ chế hành chính, việc phân công cho nhiều cơ quan, nhiều tầng
nấc xử phạt khiến cho hiệu lực thực thi bị phân tán và trở nên phức tạp. Theo Luật
Sở hữu trí tuệ 2005 thì tại Việt Nam có 6 cơ quan là “Tòa án, Thanh tra, Quản lý thị
trường, Hải quan, Công an, Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử lý hành vi
xâm phạm quyền SHTT” (Điều 200, Luật SHTT 2005). Tình trạng quá nhiều đầu
mối khiến cho các chủ thể cần sử dụng cơ chế này cũng lúng túng, không biết kêu
ai. Còn chính các cơ quan nói trên cũng dễ nảy sinh tâm lý đùn đẩy, chờ đợi, giẫm
chân nhau hoặc mạnh ai nấy làm.
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 16
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
2.3. Về tình trạng vi phạm quyền SHTT tại Việt Nam:
Vấn đề xâm phạm quyền SHTT ngày càng phức tạp và có dấu hiệu phổ biến.
Trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, các vi phạm xảy ra phổ biến nhất là đối với
nhãn hiệu hàng hóa và kiểu dáng công nghiệp. Tuy vậy, các dạng tài sản khác cũng
đã có xâm phạm như: chỉ dẫn địa lý (do sự nổi tiếng của nước mắm Phú Quốc nên
có nhiều hãng trong nước và nước ngoài đã gắn tên sản phẩm của họ bằng nhãn
hiệu "Nước mắm Phú Quốc" để dễ dàng tiêu thụ sản phẩm); tên thương hiệu (điển
hình là vụ khiếu kiện đặt tên "Vang đỏ Đà Lạt" gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng

với sản phẩm có tiếng "Vang Đà Lạt" đã xin bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa); và gần
đây xuất hiện các vụ việc xâm phạm sáng chế và giống cây trồng. Cũng không kém
phần nghiêm trọng là mọi chủng loại sản phẩm hàng hóa đều có hàng nhái, hàng giả
từ hàng tiêu dùng thông thường như thực phẩm, đồ uống, quần áo, giày dép, đồ
dùng vệ sinh cá nhân, đến đồ gia dụng, phương tiện máy móc hoặc các sản phẩm
cao cấp, đặc dụng như mỹ phẩm, dược phẩm v.v.
Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng đã gặp rất nhiều khó
khăn trong vấn đề vi phạm quyền SHTT. Các công ty sản xuất hàng tiêu dùng như
Unilever Việt Nam rơi vào tình trạng bị nhái nhãn mác, sao chép kiểu dáng, bao bì
đối với các sản phẩm của công ty như P/S, Omo, Pond’s, v.v Hay trường hợp của
công ty TNHH Piaggio Việt Nam có dòng sản phẩm xe máy Vespa đã bị rất nhiều
công ty lắp ráp sản xuất có kiểu dáng tương tự với kiểu dáng xe Vespa với giá thấp
hơn rất nhiều sản phẩm chính hãng của công ty. Vụ việc xảy ra gần đây nhất là vấn
đề tranh cãi xung quanh mẫu xe Diamond Blue do Công ty Lisohaka lắp ráp có kiểu
dáng tương tự như xe Vespa LX của công ty Piaggio. Vụ việc hiện vẫn đang được
các cơ quan chức năng điều tra tìm hiểu. Tuy nhiên, cả công ty TNHH Piaggio Việt
Nam và cục Sở hữu trí tuệ đều khẳng định công ty TNHH Piaggio Việt Nam chưa
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kiểu dáng công nghiệp của xe Vespa LX. Đây
sẽ là một khó khăn cho công ty trong các vụ kiện tụng liên quan tới quyền sở hữu
trí tuệ. Tương tự trường hợp của công ty TNHH Piaggo, công ty Honda cũng bị các
công ty tư nhân của Việt Nam sản xuất các sản phẩm xe máy có kiểu dáng và mẫu
mã tương tự như các mẫu xe Honda. Cục sở hữu công nghiệp, Chi cục quản lý thị
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 17
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
trường đã nhận được rất nhiều đơn xác nhận hành vi xâm phạm của công ty Honda
kiện hành vi xâm phạm của hàng loạt các công ty tư nhân và cửa hàng kinh doanh
xe máy trên địa bàn các tỉnh thành phố.
Theo thống kê của Cục sở hữu trí tuệ, khiếu nại về việc vi phạm quyền sở hữu
công nghiệp đã tăng từ 239 vụ (năm 1998) đến 601 vụ vào năm 2006 (nguồn: Báo

cáo thường niên 2009, Cục sở hữu trí tuệ). Nhưng con số này có chiều hướng giảm
dần sau khi Việt Nam gia nhập WTO và sự ra đời của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2006, cụ thể năm 2007 chỉ còn 166 vụ, năm 2008 là
333 vụ và 2009 là 188 vụ.
Tóm lại, trong thời gian qua, đặc biệt từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới WTO và sự ra đời của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, nước ta đã có
nhiều biến chuyển tích cực trong hoạt động bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
Tuy nhiên, vẫn có những tồn tại và hạn chế mà các cơ quan ban hành và thực thi
pháp luật cần phải hiểu rõ để có thể hạn chế những vi phạm xảy ra, đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời, các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cần phải thực thi và
tự bảo vệ quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp mình bằng cách nắm rõ và thực
thi đầy đủ các quy định về quyền sở hữu trí tuệ, tránh những tranh chấp xảy ra liên
quan đến tài sản trí tuệ của doanh nghiệp mình. Nội dung tiếp theo của tiểu luận sẽ
đề xuất một số giải pháp nhằm đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ cho các doanh nghiệp
Việt Nam.
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 18
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỐNG VI PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ
TUỆ CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1. Nhóm giải pháp đối với cơ quan nhà nước
- Sớm hoàn thiện các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ và xử lý vi
phạm sở hữu trí tuệ cho phù hợp, đáp ứng được các yêu cầu thực tế hiện nay. Đặc
biệt là xây dựng cơ chế “thông, thoáng” nhanh chóng, thuận tiện cho việc đăng ký
bảo hộ quyền sở hữu của các doanh nghiệp.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên và phát huy sức
mạnh toàn dân tích cực tham gia phòng ngừa và đấu tranh chống sản xuất, buôn bán
hàng giả, xâm phạm sở hữu trí tuệ, đưa nội dung giáo dục vào nhà trường, tổ chức
các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về sở hữu trí tuệ trong các doanh nghiệp, cơ quan,

đoàn thể, đồng thời kết hợp với các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên
truyền. Từ đó xây dựng ý thức, trách nhiệm của người dân trong việc đấu tranh
phòng chống tội phạm.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan chức năng và chủ sở hữu, thông qua các biện pháp nghiệp vụ để phát hiện tội
phạm, kiên quyết xử lý đúng pháp luật, công khai trên các phương tiện thông tin đại
chúng để toàn dân được biết.
- Tổ chức xây dựng lực lượng chuyên trách về sở hữu trí tuệ, bồi dưỡng
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tăng cường cơ sở vất chất kỹ thuật để đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ.
- Mở rộng hợp tác quốc tế, tăng cường phối hợp với các nước trong hoạt
động chống vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.
2. Nhóm giải pháp đối với doanh nghiệp:
- Cần chủ động tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của chính doanh nghiệp
mình:
o Ngay từ giai đoạn nghiên cứu, thiết kế các đối tượng sở hữu trí tuệ,
doanh nghiệp cần có các biện pháp công nghệ nhằm bảo vệ các đối tượng đó trước
khi đăng ký.
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 19
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
o Nhanh chóng ngay các hoạt động đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
với các cơ quan chức năng.
o Bên cạnh đó, sử dụng có hiệu quả các kênh tiếp cận người tiêu dùng như
truyền hình, báo chí, internet, triển lãm, hội nghị khách hàng để qua đó hướng dẫn
người tiêu dùng cách nhận biết hàng thật, hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ của doanh nghiệp để việc phòng và chống hành vi xâm phạm quyền được
thực hiện ngay từ chính người tiêu dùng.
o Tùy thuộc vào khả năng tài chính và quy mô của doanh nghiệp, có thể
xây dựng bộ phận riêng hoặc thuê các công ty thám tử tư để tự bảo vệ quyền sở hữu

trí tuệ của mình, qua đó chủ động theo dõi, phát hiện hành vi xâm phạm thông qua
mạng lưới kiểm soát của doanh nghiệp hoặc dựa vào cộng đồng dân cư, người tiêu
dùng.
- Phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng, các tổ chức hiệp hội như Hội
Tiêu chuẩn và Bảo vệ Người tiêu dùng Việt Nam, Hội Sở hữu Công nghiệp Việt
Nam, Hiệp hội Chống hàng giả và Bảo vệ thương hiệu Việt Nam trong quá trình
đấu tranh chống các hoạt động xâm phạm sở hữu trí tuệ
- Thường xuyên tham khảo các cơ sở dữ liệu sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp và nhãn hiệu nhằm phát hiện những giải pháp kỹ thuật hiện tại và các công
nghệ mới, xác định đối tác mới cho việc chuyển giao quyền Sở hữu trí tuệ hoặc nhà
cung ứng, các thị trường mới tiềm năng, theo dõi các hoạt động của đối thủ cạnh
tranh, xác định những người có khả năng xâm phạm và tránh việc xâm phạm các
quyền của đối thủ cạnh tranh.
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 20
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
PHẦN KẾT LUẬN
Đối với mỗi doanh nghiệp, ngoài tài sản hữu hình là cơ sở vật chất còn tồn tại
song song tài sản vô hình đó là tài sản trí tuệ của doanh nghiệp. Tài sản vô hình
ngày càng khẳng định vai trò là yếu tố cơ bản tạo nên giá trị của doanh nghiệp và
tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Ngày nay tài sản vô hình chiếm tỷ
trọng ngày càng lớn trong tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. Khi đã thực sự là
thành viên WTO và đang trong quá trình hội nhập sâu và rộng, khi hàng rào thuế
quan dần được dỡ bỏ, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có một chiến lược phát triển
thương hiệu và bảo hộ sở hữu trí tuệ.
Có một thực tế cần nhận biết, SHTT chính là trò chơi do các nước phát triển
đặt ra khi mà các sản phẩm của họ vốn là độc quyền thì với sự phát triển của khoa
hoc hiện đại, các cơ sở sản xuất tại các nước đang phát triển dễ dàng bắt chước, phá
vỡ thế độc quyền của các sản phẩm đó. Như vậy SHTT chính là nhằm bảo vệ lợi
ích của các nước phát triển- nơi sản sinh ra hầu hết những sáng chế của thế giới cả

về văn học, nghệ thuật và khoa học, công nghệ. Tuân thủ luật SHTT chính là một
rào cản đối với sự phát triển kinh tế của các nước đang phát triển như Việt nam khi
mà những sáng chế của chúng ta chưa nhiều và cũng chưa mang tính đột phá về
kinh tế, ngoài ra rất nhiều những sáng chế trong số đó lại chưa được đăng ký bảo
hộ. Hiểu biết và vận dụng luật quốc tế của chúng ta còn rất yếu kém cũng như khả
năng tài chính hạn chế để có thể theo đuổi các vụ kiện khi nó xảy ra. Hiểu biết đầy
đủ về luật SHTT cũng giúp các doanh nghiệp Việt nam bảo vệ được các lợi ích trí
tuệ - kinh tế trên sân nhà cũng như khi đầu tư ra thị trường quốc tế. Tuy nhiên, đó là
quy luật và chúng ta phải tìm cách để thích nghi với quy luật chung ấy.
Như vậy, nghiên cứu về luật SHTT quốc tế giúp các doanh nghiệp Việt nam
tránh được những vi phạm về SHTT trên phạm vi Thế giơi qua đó tránh được các
vụ kiện mà hầu hết các doanh nghiệp Việt nam là người chịu thiệt, có khi là thiệt
hại rất lớn. Nghiên cứu luật SHTT Việt nam và các quy định SHTT khác sẽ giúp
các doanh nghiệp Việt nam kịp thời có các biện pháp nhằm bảo vệ các giá trị mang
tính sáng tạo của mình qua đó phát huy ưu thế của người có sáng chế. Đồng thời
hiểu biết đầy đủ về SHTT cũng thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 21
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
một chiến lược phát triển thương hiệu và bảo hộ sở hữu trí tuệ một cách hợp lý để
dần nâng hàm lượng trí tuệ trong các sản phẩm mang nhãn hiệu Việt nam.
Nhờ có sở hữu trí tuệ, các nhà sáng tạo mới tạo ra nhiều sáng chế, giải pháp
hữu ích, kiểu dáng mới thúc đẩy nhanh quá trình thương mại hóa các đối tượng sở
hữu trí tuệ. Hàm lượng trí tuệ trong chỉ số tăng trưởng GDP tăng nhanh, sẽ tạo ra
một phong trào thi đua lao động sáng tạo, đẩy mạnh các hoạt động sáng kiến - sáng
chế ở cơ sở, nâng cao dân trí bằng việc bảo hộ bản quyền các tác phẩm văn học,
nghệ thuật và khoa học, công nghệ. Kinh nghiệm của các nước đã trải qua giai đoạn
công nghiệp cho thấy nếu tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ lên 10% thì đầu tư trực
tiếp nước ngoài sẽ tăng 50% và các công nghệ cao sẽ tăng trưởng 40%. Ðó là cơ hội
vô cùng to lớn mà các nước đang phát triển phải nắm lấy.

Tiểu luận đã nêu bật được những thành tựu và hạn chế của việc bảo hộ SHTT
ở Việt Nam dựa trên các số liệu thống kê, các kết quả nghiên cứu về thực trạng
công tác bảo hộ SHTT ở Việt Nam. Từ đó tiểu luận đã đưa ra được những đề xuất,
giải pháp cho nhà nước đặc biệt là cho doanh nghiệp Việt Nam nhằm chống lại các
hành vi vi phạm quyền SHTT.
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 22
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của luật sở hữu trí tuệ số 36/2009/QH12.
- Hiệp định về các vấn đề liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ (Hiệp định TRIPS) của WTO.
- Luật Đầu tư 2005
- Cục Sở hữu trí tuệ (www.noip.gov.vn)
- Cục Quản lý cạnh tranh (www.qlct.gov.vn)
Nhóm học viên G9: 81- 90 CH QTKD K6.2
Trang 23

×