Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong quá trình đổi mới kinh tế ở thanh hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.99 KB, 73 trang )

Lời cảm ơn
Sau thời gian học tập và rèn luyện, để có được kiến thức như
ngày hôm nay, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong
khoa Lý Luận Chính Trị cũng như các thầy cô trong Trường Đại Học
Khoa Học Huế đã tận tình dạy dỗ, truyền đạt kiến thức và tạo mọi
điều kiện để em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến thầy giáo
TS. Hồ Minh Đồng, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em
trong thời gian thực hiện khoá luận.
Cuối cùng, em xin cảm ơn những người thân trong gia đình và
tất cả các bạn bè đã có những ý kiến đóng góp và những động viên
trong suốt thời gian qua.
Trong quá trình làm đề tài, do còn thiếu nhiều kinh nghiệm
thực tế nên không tránh khỏi những sai sót. Em mong các thầy cô chỉ
bảo thêm giúp em hoàn thành và đạt kết quả tốt hơn. Em xin chân
thành cảm ơn!
Huế, tháng 05 năm 2011
Sinh viên
Lê Thị Thanh
1
MỤC LỤC
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
2.Tình hình nghiên cứu của đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Đóng góp của đề tài
7. Kết cấu đề tài
B. PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ
PHỔ BIẾN
1.1 Khái niệm “mối liên hệ”
1.2 Một số tính chất của mối liên hệ phổ biến
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
CHƯƠNG II: QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở THANH HÓA -
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1 Thực trạng quá trình đổi mới kinh tế ở Thanh Hóa dưới góc nhìn của
nguyên lý mối liên hệ phổ biến
2.1.1 Giới thiệu tổng quan về tỉnh Thanh Hóa
2.1.2 Thực trạng quá trình đổi mới kinh tế ở Thanh Hóa
2.2 Quán triệt quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể - điều kiện để
nâng cao hiệu quả trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Thanh Hóa hiện nay.
2.3 Một số khuynh hướng và giải pháp phát triển kinh tế ở Thanh Hóa từ năm
2005 – 2010
2.3.1 Một số khuynh hướng để phát triển kinh tế Thanh Hóa
2.3.2 Một số giải pháp và kiến nghị
C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận của quan điểm toàn
diện, là cẩm nang giúp chúng ta tránh được những đánh giá phiến diện, sai
lệch, giản đơn về sự vật, hiện tượng. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến còn là
một trong những nội dung quan trọng của phép biện chứng duy vật mácxít.
Nguyên lý này chỉ rõ tất cả các sự vật, hiện tượng đều nằm trong mối liên hệ.
Vì vậy nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật có vai
trò to lớn trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người
Phải quán triệt nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cũng như quán triệt

quan điểm toàn diện để giúp chúng ta tránh đánh giá phiến diện, siêu hình, một
chiều, nếu không sẽ dẫn đến cái nhìn chủ quan trong nhận thức. Vì tính cấp
thiết đó mà nhiều nhà nghiên cứu đã quan tâm đến.
Ngày nay khi đất nước đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập
quốc tế, trong bối cảnh có nhiều cơ hội và thách thức lớn. Thực tiễn đó đặt ra
nhiều vấn đề mới đối với sự lãnh đạo của Đảng, trong đó vấn đề trọng tâm là
đổi mới kinh tế, đây là nhiệm vụ then chốt để đảm bảo đưa nước ta sánh vai
với các cường quốc trên thế giới.
Trong đại hội IX Đảng đề ra mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 10 năm (2001- 2010) là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,
nâng cao rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản, vị
thế của nước ta trên thị trường quốc tế được nâng cao”. Tiếp thu quan điểm của
Đại hội IX, Đảng ủy Thanh Hóa đã không ngừng cố gắng để đẩy mạnh công
cuộc xây dựng và phát triển nhằm đưa Thanh Hóa trở thành một trung tâm kinh
tế - văn hóa - xã hội phía Bắc; phấn đấu lên đô thị loại II. Để thực hiện được
điều này trong những năm tới thì một trong những vấn đề cần quan tâm giải
quyết đó là phải có những phương hướng đúng trong quá trình đổi mới nền
3
kinh tế của tỉnh để đề ra những chính sách, quan điểm, biện pháp phát triển
kinh tế toàn diện.
Thực tế sau những năm đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi
xướng, lãnh đạo, đã được nhân dân đồng tình hưởng ứng, đạt được những
thành tựa to lớn và có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Quán triệt chủ trương của
Đảng và Nhà nước, trong những năm qua tốc độ phát triển kinh tế đồng đều và
bền vững của tỉnh Thanh Hóa đã mang lại nhiều thành quả quan trọng. Điều
này cho thấy sự đúng đắn, kịp thời, hợp lý của Đảng bộ và năng lực thực tiễn
của tỉnh Thanh Hóa. Tỉnh đang dần từng bước khẳng định vị thế của mình

trong sự phát triển chung của toàn quốc, trong thời kỳ hội nhập kinh tế. Sở dĩ
đạt được những thành tựu như ngày nay là do sự nổ lực rất lớn của Đảng ủy và
nhân dân Thanh Hóa, trong đó vấn đề nhìn nhận thực tế những khó khăn và
thuận lợi của tỉnh trong sự đổi mới kinh tế đã tạo ra cơ sở lý luận vững chắc áp
dụng vào thực tế. Việc vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của chủ
nghĩa Mác – Lênin, để thấy được những thành tựu đạt được sau những năm đổi
mới cũng như việc nghiên cứu nhằm định hướng những bước phát triển đi lên
của tỉnh nhằm làm rõ tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lênin và chỉ ra sự
vận dụng quan điểm toàn diện vào sự đổi mới kinh tế ở tỉnh Thanh Hóa là đúng
đắn, hợp với sự vận động đi lên trong phát triển kinh tế xã hội của cả nước và
thế giới.
Những vấn đề nêu trên cũng là lí do tôi chọn đề tài: “Vận dụng nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến trong quá trình đổi mới kinh tế ở Thanh Hóa
hiện nay” làm khóa luận triết học của mình. Về mặt lý luận việc nghiên cứu đề
tài phần nào giúp ta hiểu sâu sắc hơn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nói
chung, nguyên lý mối liên hệ phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng. Về
mặt thực tiễn, nghiên cứu đổi mới kinh tế theo nguyên lý mối liên hệ phổ biến
có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế, góp
phần phát triển đất nước cũng như việc hoạch định những chính sách đối với
các thành phần kinh tế ở tỉnh nhà
4
2.Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là vấn đề đã được nhiều nhà triết học
từ trước đến nay quan tâm, nhưng chỉ đến khi chủ nghĩa Mác ra đời, nguyên lý
này mới được trình bày một cách khoa học, có hệ thống với những cơ sở lý
luận đầy đủ nhất của nó. Nguyên lý này hợp thành với toàn bộ lý luận về phép
biện chứng đã trở thành cơ sở lý luận để các nhà khoa học vận dụng vào quá
trình nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. Trong quá trình thu thập tài liệu, nội
dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đã được nhiều tác giả nghiên cứu,
chẳng hạn: “Lịch sử phép biện chứng” (6 tập) của Viện Hàn lâm khoa học Liên

Xô, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; “Giáo trình Mác – Lênin” (2009),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Giáo trình trung cấp lý luận chính trị
“Những nguyên lý cơ bản của triết học Mác – Lênin”, Nxb, lý luận chính trị,
học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (2004). Đối với việc vận dụng
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào trong sự đổi mới kinh tế ở Thanh Hóa
thì đây là vấn đề hoàn toàn mới, đã có nhiều công trình đề cập đến vấn đề vận
dụng nhưng dưới góc độ khác nhau như: Tạp chí Triết Học, số 7 (2010): “mấy
vấn đề về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay”của Lương
Đình Hải; Tạp chí Triết Học, số 3(2010) “công cuộc đổi mới ở Việt Nam, đặc
trưng và triển vọng” Nguyễn Hữu Đễ. Tạp chí triết học, Số 7(2008) “Vấn đề
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay”, Nguyển Đức
Luận
Nhìn chung, qua tham khảo những tài liệu trên thì thấy rằng những công
trình nghiên cứu lý luận đó đã đề cập nhiều vấn đề, trên nhiều phạm vi tiếp vận
khác nhau. Những tài liệu này đề cập tới Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, và
sự đổi mới trong kinh tế ở nước ta trong những năm qua. Tuy nhiên việc vận
dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến với tính cách là phương pháp luận khoa học
5
trong đổi mới kinh tế ở tỉnh Thanh Hóa thì chưa có những gì mà tỉnh Thanh Hóa đã
vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào trong đổi mới kinh tế hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1 Mục đích của đề tài
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích: Đề tài làm rõ những yêu cầu về sự vận
dụng ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của
phép biện chứng duy vật mácxít vào trong quá trình đổi mới kinh tế ở Thanh
Hóa hiện nay đồng thời chỉ ra những nguyên nhân thành công, xu thế phát triển
kinh tế trong giai đoạn mới và đưa ra những kiến nghị, giải pháp trên quan
điểm phát triển toàn diện
3.2 Nhiệm vụ của đề tài
Để thực hiện được mục đích trên, khóa luận thực hiện những nhiệm vụ

sau:
- Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đối
với quá trình đổi mới kinh tế ở Thanh Hóa
- Thực trạng của quá trình đổi mới kinh tế ở Thanh Hóa đồng thời đưa
ra một số giải pháp để nâng cao, phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến trong đổi mới kinh tế ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu sự vận dụng nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến trong sự đổi mới kinh tế của tỉnh Thanh Hóa trên cơ
sở những số liệu từ năm 2005 – 2010 trên địa bàn huyện, thị xã và thành phố
5. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là lý luận về nguyên lý mối
liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật của các nhà kinh điển của chủ
6
nghĩa Mác – Lênin, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, của chủ tịch
Hồ Chí Minh để vận dụng vào vấn đề đổi mới kinh tế ở Thanh Hóa.
- Đề tài đặc biệt quan tâm đến việc sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học như: Phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgic, thống
kê , so sánh
6. Đóng góp của đề tài
- Đề tài chỉ ra được thực trạng và những điều kiện để nâng cao hiệu quả
nền kinh tế trong giai đoạn đổi mới và đưa ra những phương hướng để phát
triển kinh tế ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
- Đề tài đã đề xuất giải pháp để phát triển kinh tế ở Thanh Hóa trong
những năm tới, đồng thời đề là tài liệu tham khảo có giá trị cho công tác nghiên
cứu, giảng dạy, học tập cho độc giả nhất là sinh viên chuyên nghành triết học.
7. Kết cấu đề tài
Đề tài nghiên cứu, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu

tham khảo, đề tài được kết cấu với 2 chương, 4 tiết:
7
II. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
1.1. Khái niệm “mối liên hệ”
Theo từ điểm Tiếng Việt, thì “mối” là “đoạn đầu của sợi dây, sợi chỉ
dùng để buộc thắt lại với nhau; chỗ nối, chỗ thắt, chỗ từ đó có thể quan hệ với
một tổ chức, cơ sở liên lạc” [14, tr640]. Còn “liên hệ” là “chỉ sự vật, sự việc có
quan hệ làm cho ít nhiều tác động đến nhau, dựa trên những mối quan hệ nhất
định” [14, tr567]. Như vậy, mối liên hệ có thể được hiểu theo cách là sự quan
hệ qua lại và tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự
nhiên, xã hội và tư duy theo một cách thức, con đường của nó.
Theo quan điểm biện chứng, khái niệm “liên hệ” phản ánh sự phụ thuộc,
ràng buộc lẫn nhau, làm điều kiện, tiền đề cho nhau và quy định lẫn nhau của
mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới. “Liên hệ” còn phản ánh sự tác động qua
lại lẫn nhau giữa chúng. Đó là kiểu liên hệ đặc biệt mà trong đó các sự vật,
hiện tượng là đối tượng biến đổi của nhau một cách trực tiếp, hoặc gián tiếp,
nhờ đó mà sự vận động, biến hóa của thế giới được thực hiện thường xuyên,
liên tục.
Mối liên hệ trước hết là mối liên hệ giữa các đối tượng và hiện tượng của
hiện thực nhưng không phải bất kỳ quan hệ nào cũng đều có mối liên hệ. Trong
thế giới tất cả hiện tượng đều ở trong tình trạng liên hệ lẫn nhau và biệt lập
(tách biệt) với nhau. Chúng liên hệ với nhau trong mối liên hệ này, nhưng lại
không liên hệ với nhau trong mối liên hệ khác. Trong các hiện tượng có những
thay đổi xảy ra giả định phải có những thay đổi tương ứng trong các hiện tượng
khác.
Chẳng hạn: Nhân nguyên tử có liên hệ hữu cơ với vỏ bọc điện tử, đồng
thời vẫn biệt lập với nó. Trong hạt nhân có những thay đổi đòi hỏi phải có thay
đổi vỏ bọc, hay . Về sự thống nhất giữa mối liên hệ và tách biệt là quan hệ giữa

8
cơ thể với môi trường. Cơ thể có liên hệ hữu cơ với môi trường đồng thời vẫn
tách biệt và có một mức tự lập, cô lập nhất định. Có những thay đổi của môi
trường nhất thiết dẫn đến những thay đổi nhất định trong cơ thể, còn những
thay đổi khác lại không gây ra một biến đổi nào. Những thay đổi của môi
trường chỉ có ảnh hưởng đến cơ thể, nếu chúng có liên hệ với hoạt động sống
của cơ thể còn những thay đổi khác của môi trường không có liên hệ với hoạt
động sống đó thì không gây ra sự thay đổi trong cơ thể. Như vậy, liên hệ và
biệt lập bao giờ cũng tồn tại bên nhau, đó là những mặt tất yếu của bất kỳ một
quan hệ cụ thể nào giữa các hiện tượng hiện thực.
Sự lý giải triết học đầu tiên về liên hệ và biệt lập giữa các đối tượng của
thế giới bên ngoài cũng như việc coi chúng là những đặc trưng phổ biến của
vật chất thì chúng ta thấy đã có trong các nhà triết học cổ đại.
Theo các nhà triết gia Hy lạp cổ đại, các hiện tượng quan sát được trong
thế giới tuy là riêng lẽ, tách biệt, biệt lập về chất lượng nhưng cũng có những
liên hệ với nhau, bởi vì tất cả đều bắt nguồn từ một bản nguyên hay cơ sở đầu
tiên, đó là “nước” (Talét), “khí” (Anaximen), “Apâyrôn” (Anaximăngđrơ),
“lửa” (Hêraclít) Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Arixtốt đã có bước tiến đáng kể
trong nhận thức tính liên hệ và tính biệt lập với tư cách là những thuộc tính phổ
biến của tồn tại. Ông đã hình dung tính liên hệ giữa các sự vật khác nhau
không chỉ như là tính thống nhất có được vì cũng chung một nguồn gốc, xuất
phát từ một bản nguyên duy nhất, cơ sở đầu tiên mà như sự phụ thuộc tồn tại
lẫn nhau, sự quy định lẫn nhau giữa các vật thể. Arixtốt đặc biệt nhấn mạnh
rằng chúng ta phải coi những cái phụ thuộc lẫn nhau là có quan hệ với nhau,
liên hệ với nhau. Các nhà Hy Lạp cổ đại có công lao đó là những người đưa ra
thuật ngữ “quan hệ” nó phản ánh sự “liên hệ” mang tính tất yếu và phổ biến.
Nhà triết học cổ điểm Đức Cantơ cho rằng phạm trù “quan hệ” hợp nhất
cả một nhóm phạm trù khác, đặc biệt là các phạm trù thực thể, hiện tượng,
9
nguyên nhân, tác động qua lại. Đặc biệt Cantơ chú ý nhiều đến việc phân tích

phạm trù quan hệ trong học thuyết phán đoán của ông. Theo ông bất kỳ một
phán đoán nào thì các khái niệm đồng thời vừa liên hệ, vừa biệt lập với nhau.
Chẳng hạn: Trong phán đoán “sói là một động vật” thì theo ông vừa nói
lên rằng sói thuộc giới động vật có liên hệ với các động vật, vừa nói lên sói
tách rời, biệt lập với các động vật khác như chó, linh cẩu
Cantơ đã có công trong việc phân tích phạm trù liên hệ và quan hệ trong
tu duy, trong lĩnh vực các khái niệm, tuy nhiên về thực chất ông lại không thừa
nhận có mối liên hệ qua lại có tính quy luật phổ biến trong hiện thực khách
quan (theo ông mối liên hệ đó là do nhận thức đưa vào thế giới các hiện
tượng).
Nhà triết học cổ điển Đức Hêghen đã bác bỏ quan niệm của Cantơ khi
ông cho rằng mối liên hệ mang tính quy luật, tính thống nhất do chủ thể tư duy
vào thế giới các hiện tượng. Hêghen cho rằng mối liên hệ qua lại đó. Tính
thống nhất đó theo bản tính của chúng về căn bản là thuộc tính của thế giới
hiện tượng, chúng tồn tại một cách khách quan bên ngoài ý thức của con người
và là những hình thức tồn tại phổ biến của các sự vật. (Hêghen đứng trên quan
điểm duy tâm để phê phán chủ nghĩa chủ quan của Cantơ trong việc giải thích
mối liên hệ và quan hệ phổ biến).
Trong lịch sử triết học có rất nhiều khuynh hướng phủ nhận mối liên hệ
lẫn nhau giữa các hiện tượng trong hiện thực dưới các hình thức khác nhau.
Quan niệm chung của những nhà triết học hiện đại là dựa vào sự quan sát trực
tiếp, vào sự ngắm nhìn những gì xảy ra trên bề mặt các hiện tượng. Trong khi
nghiên cứu các sự vật và hiện tượng thì phương pháp tư duy lúc đầu hình thành
trong khi nghiên cứu giới tự nhiên, sau đó chuyển sang triết học do F.Bêcơn và
J.Lốccơ là những người vận dụng nó khi nghiên cứu phương pháp nhận thức.
10
Theo F.Bêcơn, người ta nhận thức các đối tượng bằng cách phân đôi
chúng trong tư duy thành các “chất” đơn giản và nghiên cứu các “chất” để tách
biệt với nhau trên cơ sở các kết quả nhận được, người ta dựng lên hình ảnh của
lĩnh vực các hiện tượng được nghiên cứu. Tuy nhiên nếu chúng ta chia nhỏ đối

tượng thành các yếu tố cấu thành thì không tách khỏi xóa bỏ nó với tư cách là
một thành tạo định tính chặt chẽ do đó việc nhận thức các yếu tố không thể dẫn
đến nhận thức toàn bộ đối tượng Như vậy, chỉ khi có thể nhận thức được
những yếu tố riêng biệt và cái tổng thể do những yếu tố đó hợp thành nếu
người ta tính đến và nghiên cứu toàn diện mối liên hệ và phụ thuộc giữa chúng
với nhau.
Chỉ đến các nhà triết học Mác – Lênin thì mới có quan niệm đúng đắn,
khoa học và đầy đủ nhất về mối liên hệ phổ biến. Phê phán các quan điểm siêu
hình khi đã cho rằng, các sự vật, hiện tượng tồn tại một cách biệt lập, tách rời
nhau, cái này bên cạnh cái kia, giữa chúng không có sự phụ thuộc, không có sự
ràng buộc và quy định lẫn nhau, nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì có
chăng cũng chỉ là những liên hệ hời hợt bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên, là sự
quy định lẫn nhau một cách giản đơn. Đồng thời cũng phê phán quan điểm khi
cho rằng thừa nhận sự liên hệ và tính đa dạng của nó, nhưng lại phủ nhận khả
năng chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng.
Ăngghen cho rằng, khi chúng ta nghiên cứu giới tự nhiên, lịch sử loài
người hay sự hoạt động tinh thần của bản thân chúng ta thì trước hết trước mắt
chúng ta hiện ra một bức tranh chằng chịt vô tận những mối liên hệ và những
tác động qua lại lẫn nhau: trong đó không có cái gì là không vận động, biến
hóa, xuất hiện và biến đi.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, một trong những thuộc tính bản
chất của thế giới vật chất là sự liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng.
Tính thống nhất vật chất của các sự vật, hiện tượng, quá trình hiện thực là cơ
sở khách quan của sự liên hệ phổ biến. Khái niệm liên hệ phổ biến được hình
11
thành như một trong những kết quả của sự khái quát thực tiễn và tri thức khoa
học.
Phép biện chứng nói chung đều thừa nhận mối liên hệ phổ biến của
những sự vật, hiện tượng, quá trình cấu thành thế giới. Tuy vậy, khi nói về cơ
sở của sự liên hệ phổ biến, phép biện chứng duy tâm coi cơ sở của sự liên hệ

phổ biến là ở cảm giác (duy tâm chủ quan), hay ở ý niệm tuyệt đối (duy tâm
khách quan). Đó là những cách giải thích một cách chủ quan, thần bí, không
khoa học. Đứng trên quan điểm duy vật khoa học, phép biện chứng duy vật
khẳng định rằng, cơ sở của sự liên hệ là ở tính thống nhất vật chất của thế giới.
Theo quan điểm này, các sự vật, các hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng,
khác nhau như thế nào chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng tồn tại
khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngay cả tư tưởng, ý
thức của con người vốn là những cái phi vật chất, cũng chỉ là thuộc tính của
một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người, nội dung của chúng cũng
chỉ là kết quả phản ánh của các quá trình vật chất khách quan.
Vượt lên trên quan điểm siêu hình, phép biện chứng duy vật cho rằng
không thể hiểu được bất cứ một hiện tượng nào trong tự nhiên nếu người ta
tách nó ra khỏi những hiện tượng chung quanh mà xét. Vì bất cứ một hiện
tượng nào trong bất kỳ một lĩnh vực nào của tự nhiên cũng đều có thể biến
thành một cái vô nghĩa, nếu người ta tách nó ra khỏi những điều kiện chung
quanh để xét nó ngoài những điều kiện đó; trái lại, bất cứ hiện tượng nào cũng
đều có thể hiểu được, có thể chứng minh được, nếu người ta xét nó trong điều
kiện là nó có sự liên hệ không tách rời với những hiện tượng chung quanh chế
ước. Tự nhiên không phải như là một sự tích lũy ngẫu nhiên của các sự vật, các
hiện tượng tách rời nhau, riêng biệt và độc lập với nhau, mà như là một chỉnh
thể thống nhất, có liên hệ nội bộ, trong đó các sự vật, hiện tượng đều có những
mối liên hệ hữu cơ với nhau, đều thúc đẩy lẫn nhau và chế ước cho nhau.
12
Luận điểm trên đây có một ý nghĩa khoa học rất lớn. Người ta không chú
trọng đến mối liên hệ khách quan và đến tính chất tùy thuộc lẫn nhau của các
hiện tượng, người ta sẽ hình dung tự nhiên như một đống hỗn độn, không phục
tùng bất cứ một quy luật nào cả, và tuyệt nhiên không thể nào được giải thích
một cách hợp lý. Hiểu được một hiện tượng, tức là phát hiện ra sự liên hệ nhân
quả của hiện tượng đó với những hiện tượng, sự vật khác, người ta không thể
chẳng hạn như giải thích sự tiến hóa của thực vật và động vật mà không nói

đến những điều kiện sinh sống của nó. Người ta coi sự liên hệ của nó, sự liên
hệ để có thể hiểu được những quy luật của giới sinh vật là trọng yếu. Và sẽ
không thể nào giải thích một cách khoa học một hiện tượng, chẳng hạn như các
cuộc cạnh tranh giữa các nước tư bản, nếu tách khỏi phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, khỏi những mâu thuẫn hiện nay của chủ nghĩa tư bản.
1.2. Một số tính chất của mối liên hệ phổ biến
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến có ba tính chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính
đa dạng, phong phú.
- Tính khách quan của mối liên hệ
Sự liên hệ được hiểu như trên là mang tính chất biện chứng chung nhất
bao trùm toàn bộ thế giới vật chất. Không những các sự vật, hiện tượng liên hệ
với nhau mà các yếu tố, các bộ phận cấu thành sự vật, hiện tượng cũng liên hệ
với nhau. Không những các giai đoạn trong một quá trình mà các quá trình
trước và sau sự vận động, phát triển của thế giới nói chung và của từng sự vật,
hiện tượng nói riêng cũng luôn luôn liên hệ với nhau – cái quá khứ, hiện tại và
tương lai, kế thừa, chuyển tiếp lẫn nhau tạo thành dòng chảy bất tận của lịch
sử. Không chỉ tự nhiên, mà cả trong lĩnh vực đời sống xã hội và tinh thần mọi
sự vật, hiện tượng cũng luôn luôn liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Mối liên
hệ của mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy) là khách
quan, phổ biến. Chiến tranh ở Trung Đông ảnh hưởng tới toàn cầu khiến cho
13
giá cả của mọi hàng đều tăng lên trong đó có giá dầu tăng lên một cách chóng
mặt, thị trường dầu cũng có nhiều thay đổi điều này ảnh hưởng tới giá dầu của
Việt Nam. Hay động đất, sóng thần ở Nhật Bản khiến cho thị trường chứng
khoán của Nhật có những thay đổi nghiêm trọng ảnh hưởng tới thị trường
chứng khoán của Việt Nam
Do đó, không thể tìm thấy ở bất cứ phạm vi nào, ở bất cứ lĩnh vực nào, ở
bất cứ không gian nào và thời gian nào có những sự vật, hiện tượng tồn tại một
cách hoàn toàn riêng rẽ, cô lập

Khi nói về cơ sở của mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng duy tâm cho
rằng là ở cảm giác (duy tâm chủ quan), hay ở ý niệm tuyệt đối (duy tâm khách
quan). Đó là những cách giải thích một cách chủ quan, thần bí, không có cơ sở
khoa học. Trên cơ sở khoa học phép biện chứng mácxít khẳng định rằng, cơ sở
của sự liên hệ phổ biến là ở tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật,
hiện tượng dù có đa dạng, khác nhau như thế nào chăng nữa thì cũng chỉ là
những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất.
Ngay cả ý thức, tư tưởng của con người vốn là những cái phi vật chất cũng chỉ
là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ óc con người, nội
dung của chúng cũng chỉ là kết quả phản ánh của quá trình vật chất khách
quan
Ngày nay khoa học hiện đại đã có nhiều phát minh chứng tỏ rằng : yếu
tố quyết định hình thức tồn tại của sự vật, hiện tượng ở một dạng hình thức cụ
thể nào đó là cách thức liên hệ với nhau của các yếu tố, các bộ phận cấu thành
sự vật, hiện tượng đó. Còn yếu tố quyết định sự biến đổi của các sự vật, hiện
tượng là sự tác động qua lại giữa các yếu tố, các bộ phận cấu thành nó mà chủ
yếu là sự liên hệ, tác động qua lại của các mặt đối lập ở bên trong sự vật, hiện
tượng. Mặt khác, bản thân sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng cùng với sự liên
hệ, tác động qua lại giữa chúng là cơ sở hiện thực để các sự vật, hiện tượng quy
14
định lẫn nhau, phân biệt được với nhau qua vẻ bề ngoài của chúng. Hơn nữa,
những thuộc tính bên trong vốn có của sự vật, hiện tượng liên hệ chỉ được bộc
lộ ra khi chúng tác động qua lại với nhau. Tùy theo mức độ và sự đa dạng của
mối liên hệ và cường độ của sự tác động đó mà bản thân hay là quy luật vốn có
bên trong của sự vật, hiện tượng được bộc lộ ra bên ngoài. Chỉ có trên cơ sở
như vậy, chúng ta mới có thể nhận thức được bản chất sâu sắc của sự vật, hiện
tượng cùng với tính đa dạng muôn hình, muôn vẻ, sinh động và vô cùng, vô tận
của thế giới. Chẳng hạn người ta không thể hình dung được sự tồn tại của một
quốc gia nếu không có sự liên hệ, tác động qua lại của các yếu tố cấu thành nó,
đó là sự thống nhất của các dân tộc trong quốc gia đó. Đến lượt nó, sự thay đổi

mối liên hệ, đặc biệt là sự phá vỡ tính thống nhất, liên kết giữa các dân tộc lại
là cơ sở cho việc hình thành và nảy sinh các quốc gia mới, hay như vừa qua ở
Nhật Bản đã xảy ra vụ động đất và cơn sóng thần dữ dội, khiến hàng nghìn
người thiệt mạng và hàng nghìn người khác đang bị mất tích, nhiều lò phản
ứng hạt nhân ở nhà máy điện hạt nhân Fukushimma I đang có nguy cơ phát nổ
và rò rĩ chất phóng xạ, (không thể làm mát được), nên bị mất điện và làm ảnh
hưởng tới cả đất nước Nhật. Và ảnh hưởng tới các nước trên thế giới vì Nhật là
nơi cung cấp điện cho nhiều nước.
Như vậy, theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự
vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan quan điểm đó, sự
quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự
vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc
lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức
và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
- Tính phổ biến của các mối liên hệ
Ăngghen nhấn mạnh rằng hình thức của tính phổ biến là hình thức của
cái hoàn thành bên trong, là sự kết hợp nhiều cái hữu hạn thành cái vô hạn.
15
Trong khoa học tự nhiên, hình thức biểu hiện của tính phổ biến là quy luật, quy
luật này cho phép dự kiến trước sự diễn biến của các quá trình và các hiện
tượng khác nhau trong điều kiện nhất định, tức là cho phép kế hoạch hóa một
cách hợp lý hoạt động sản xuất. Chẳng hạn, cái phổ biến nằm trong các quy
luật của cơ học ngày nay cho phép điều khiển hết sức chính xác các con tàu vũ
trụ bay hàng trăm triệu km đến các hành tinh xa xôi, mặc dù khi thiết lập các
quy luật này, những dữ liệu về các chuyến bay vũ trụ vẫn chưa được đưa vào
quy luật này theo cách quy nạp
Để thấy rõ sự biểu hiện của mối liên hệ có tính phổ biến trong các sự vật,
hiện tượng và quá trình, chúng ta xem xét nó thông qua mối liên hệ giữa các
cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật. Bởi vì, phạm trù là những
khái niệm rộng nhất phản ánh những đặc điểm, những thuộc tính hay những

mối liên hệ chung nhất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Lênin viết: “Trước con người, có màng lưới những hiện tượng tự nhiên. Con
người bản năng, người man rợ, không tự tách khỏi giới tự nhiên, những phạm
trù là những giai đoạn của sự tách biệt đó, tức là của sự nhận thức thế giới,
chúng là những điểm nút của màng lưới, giúp ta nhận thức và nắm vững màng
lưới” [16, tr.102]
Thứ nhất, mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng
Đây là mối liên hệ phổ biến nhất, liên quan tới toàn bộ quá trình nhận
thức của con người. Theo quan điểm của phép biện chứng duy vật, cái riêng và
cái chung không thể tách rời nhau. Không có cái chung tồn tại độc lập đứng
ngoài cái riêng mà ngược lại: “cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua
cái riêng” [16, tr.381]. Mỗi cái chung chỉ là một bộ phận, một thuộc tính, một
đặc điểm của cái riêng. Cái riêng là cái toàn thể, cái chung là cái bộ phận, vì
vậy cái chung không bao quát hết cái riêng và cái riêng phong phú hơn cái
chung.
16
Tuy nhiên, cái chung căn bản bao giờ cũng sâu sắc hơn cái riêng, vì nó
là cái bản chất, cái mang tính quy luật. Cũng vì vậy, Lênin khẳng định: “cái
riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung” [16, tr. 381]. Cái riêng là
cái tồn tại độc lập tương đối với những cái khác. Mỗi cái riêng đều chịu sự tác
động cụ thể của môi trường mà nó tồn tại, bị chi phối bởi những mối liên hệ
bên trong và bên ngoài. Điều đó tạo nên những sự vận động cụ thể, mang tính
đặc thù. Tuy vậy, mọi cái riêng đều bị chi phối bởi những mối liên hệ chung,
bởi các quy luật chung và thông qua các hình thức vận động muôn vẻ, cuối
cùng nó đều đi theo những con đường khác nhau để đi tới những kết cục
chung, tất yếu của từng loại sự vật, hiện tượng hay của toàn bộ thế giới khách
quan.
Cái riêng không bao giờ nhập hết vào cái chung. Mỗi cái riêng, bên cạnh
cái chung, cái phổ biến bao giờ cũng tồn tại cái cá biệt, cái không lặp lại, cái
đơn nhất. Cái đơn nhất và cái chung như hai mặt đối lập tạo nên cái riêng.

Trong cái riêng, cái đơn nhất và cái chung luôn chuyển hóa lẫn nhau. Cái đơn
nhất chuyển thành cái phổ biến và cái phổ biến trở thành cái đơn nhất, nhưng
không bao giờ có sự chuyển hóa đồng loạt, toàn bộ. Bản thân cái đơn nhất khi
trở thành cái phổ biến thì ở từng cái riêng khác nhau lại được biểu hiện ra dưới
hình thức đặc thù. Vì vậy, trong đời sống hiện thực, không ở đâu và không bao
giờ có sự tác động giống nhau tuyệt đối. Chính điều đó đã tạo nên một thế giới
phong phú, đa dạng nhưng vẫn vận động theo quy luật chung.
Thứ hai, mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả
Mọi kết quả đều do nguyên nhân gây ra. Không có nhân thì không có
quả. Vì vậy, nguyên nhân phải có trước, kết quả có sau. Tất nhiên, mọi cái có
trước kết quả chưa hẳn đã là nguyên nhân, nhưng đã là nguyên nhân thì phải có
trước kết quả. Nguyên nhân sinh ra kết quả nhưng không phải cứ một nguyên
nhân thì cho một kết quả. Trong thực tế có nguyên nhân sinh ra nhiều kết quả
và ngược lại một kết quả lại cho nhiều nguyên nhân. Điều này có thể xảy ra
17
trong mọi lĩnh vực, nhưng phức tạp nhất là trong lĩnh vực xã hội. Xã hội vốn là
sự tổng hợp của nhiều mối quan hệ đa dạng, đan chéo nên thường quan hệ
nhân quả cũng không đơn giản. Vì vậy, trong nhiều trường hợp nếu không tính
toán đầy đủ có thể rơi vào quan điểm phiến diện, giản đơn.
Khi nhân tạo ra quả thì lại trở thành một tác nhân để sinh ra quả khác và
cứ thế quan hệ nhân quả tiếp nối đến vô cùng tận. Vì vậy, khi xác định quan hệ
nhân quả thực tế chỉ là xác định một mắt khâu của quá trình vận động mà thôi.
Chính sự sinh sản của các loài qua các thế hệ nối tiếp nhau là một chẳng hạn cụ
thể về vấn đề này. Trong xã hội sự tác động giữa các nhân tố của lực lượng sản
xuất là nguyên nhân làm thay đổi quan hệ sản xuất. Song, sau đó quan hệ sản
xuất mới lại trở thành nhân tố thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Quá trình
này tiếp diễn trong suốt lịch sử phát triển của loài người
Vì một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân và vai trò của các nguyên
nhân không giống nhau nên triết học Mác chia nguyên nhân ra nhiều loại.
Nguyên nhân bên trong là sự tác động qua lại của các bộ phận, các yếu

tố tạo thành sự vật gây nên sự biến đổi của sự vật. Nguyên nhân bên ngoài là
sự tác động qua lại giữa các sự vật tạo nên sự biến đổi của từng sự vật ấy. Khi
xét nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài bao giờ cũng xét chúng
trong mối liên hệ cụ thể. Cái là nguyên nhân bên trong xét trong mối quan hệ
này lại là nguyên nhân bên ngoài xét trong mối quan hệ khác. Trong hai
nguyên nhân này, nguyên nhân bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định
đối với sự biến đổi của sự vật, còn nguyên nhân bên ngoài chỉ thực sự có tác
dụng khi nó chuyển được thành nguyên nhân bên trong hoặc thông qua nguyên
nhân bên trong.
Khi một kết quả có nhiều nguyên nhân thì vai trò của các nguyên nhân
đối với việc hình thành kết quả không giống nhau. Những nguyên nhân nào
quyết định sự ra đời của kết quả thì gọi là nguyên nhân chủ yếu. Những nguyên
18
nhân chỉ ảnh hưởng tới kết quả, hoặc quyết định những mặt, những bộ phận
không cơ bản của kết quả thì gọi là nguyên nhân thứ yếu.
Trong đời sống xã hội còn có sự phân biệt giữa nguyên nhân khách quan
và nguyên nhân chủ quan. Đây là nguyên nhân được xác định trong mối quan
hệ với chủ thể hành động. Nguyên nhân khách quan là những sự tác động độc
lập với các chủ thể xác định. Nguyên nhân chủ quan là những sự tác động xảy
ra do sự điều khiển của một cá nhân, một giai cấp, hay một tổ chức xã hội nào
đó. Nguyên nhân chủ quan không chỉ ảnh hưởng tới chất của kết quả, mà còn
ảnh hưởng tới lượng của kết quả. Chẳng hạn, chất và lượng của các sản phẩm
làm ra phụ thuộc rất nhiều vào nhân tố chủ quan.
Thứ ba, mối quan hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
Mối quan hệ này được chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định đều tồn
tại một cách khách quan. Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò quan trọng
trong sự phát triển của tự nhiên cũng như của xã hội. Tất nhiên bao giờ cũng
được thể hiện qua cái ngẫu nhiên, còn ngẫu nhiên là sự thể hiện của cái tất
nhiên trong một điều kiện, một hoàn cảnh cụ thể. Ăngghen viết: “ cái mà
người ta quả quyết cho là tất yếu lại hoàn toàn do những ngẫu nhiên thuần túy

cấu thành, và cái được coi là ngẫu nhiên, lại là hình thức, dưới đó ẩn nấp cái tất
yếu” [19, tr431]
Trong mối quan hệ xác định, cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên có thể đổi
chỗ cho nhau. Điều đó có nghĩa là xét trong mối quan hệ này là tất nhiên,
nhưng trong mối quan hệ khác lại là ngẫu nhiên. Chẳng hạn, trong một thị
trường nào đó, một loại mặt hàng nào đó, do cung lớn hơn cầu nên tất nhiên giá
phải rẻ, nhưng so với người sản xuất ra loại hàng đó, điều này là ngẫu nhiên, vì
đó không phải là do nguyên nhân bên trong của quá trình sản xuất quy định.
Như vậy, ranh giới giữa cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên chỉ là tương đối. Chính
vì thế triết học mới có hiện tượng chỉ thấy tất nhiên mà không thấy ngẫu nhiên
hoặc ngược lại.
Thứ tư, mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
19
Đây là mối quan hệ có tính biện chứng. Sự gắn bó này thể hiện trước hết
ở sự thống nhất giữa chúng. Bất kỳ sự vật nào cũng có cả nội dung và hình
thức. Sự vật nào cũng phải có các nhân tố, các bộ phận tạo thành nó, vì vậy nó
phải có nội dung. Nhưng các bộ phận, các nhân tố phải sắp xếp theo một trật tự
nào đó, phải có màu sắc, hình khối xác định, do đó nó phải có hình thức. Tuy
nhiên, vai trò của chúng không ngang nhau. Nội dung bao giờ cũng quyết định
hình thức. Nó quyết định cả phương thức thể hiện lẫn cách thức sắp xếp. Nội
dung luôn vận động, biến đổi, hình thức có tính ổn định tương đối. Sự biến đổi
của nội dung là cơ sở cho sự biến đổi của hình thức. Một khi nội dung của đời
sống xã hội đã thay đổi thì các hình thức thể hiện nó cũng biến đổi theo.
Mặc dù hình thức không phải chỉ là nhân tố bị động, nó có thể tác động
mạnh mẽ trở lại nội dung. Hình thức có thể tác động tích cực, hoặc tiêu cực
đến nội dung. Nếu hình thức phù hợp với nội dung nó sẽ làm phong phú thêm
nội dung, làm sâu sắc thêm nội dung, (kể cả khi nó lạc hậu so với nội dung oặc
vượt quá khuôn khổ quy định của nội dung), nó sẽ kìm hãm nội dung, làm sai
lệch nội dung, thậm chí có thể phá vỡ nội dung.
Sự không phù hợp giữa nội dung và hình thức có thể dẫn tới xung đột

giữa chúng và đòi hỏi phải “vứt bỏ hình thức cũ”, xác lập hình thức mới. Việc
thay đổi này là để đảm bảo cho nội dung luôn phát triển. Sự vận động của xã
hội theo chiều hướng đi lên, tuy vậy nó luôn bị các hình thức cũ (những cơ cấu
tổ chức xã hội cũ kìm hãm). Quá trình phát triển xã hội vứt bỏ nhiều hình thức
đã lỗi thời, tọa điều kiện cho nội dung cuộc sống luôn luôn phát triển đi từ thấp
đến cao. Trong cuộc sống hiện thực, mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
đều hết sức đa dạng, một nội dung có thể được thể hiện bằng nhiều hình thức,
một hình thức lại có thể phản ánh nhiều nội dung.
Thứ năm, mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất bao giờ cũng được thể hiện qua hiện tượng, hiện tượng bao giờ
cũng phản ánh một mặt, một khía cạnh nào đó của bản chất. Mỗi bản chất
20
không phải chỉ được thể hiện qua một hiện tượng, mà thường được bộc lộ qua
nhiều hiện tượng khác nhau. Tất nhiên, các hiện tượng phản ánh bản chất
không như nhau. Có hiện tượng phản ánh bản chất khá trực tiếp, rõ ràng.
Ngược lại, có hiện tượng phản ánh bản chất một cách quanh co, phức tạp và
trong nhiều trường hợp, các sự vật thường tìm cách che dấu bản chất của mình.
Bản chất mang tính ổn định tương đối, còn hiện tượng biến đổi thường
xuyên. Hiện tượng là sự biểu hiện ra bên ngoài của bản chất, nhưng điều kiện,
hoàn cảnh bên ngoài không đồng nhất, vì vậy ở những môi trường khác nhau
thì hiện tượng cũng khác nhau. Trong thực tế, bản chất cũng không phải là cái
hoàn toàn cố định. Theo Lênin: “không phải chỉ riêng hiện tượng là tạm thời,
chuyển động, lưu động, bị tách rời bởi những giới hạn có tính chất ước lệ, mà
bản chất của sự vật cũng như thế” [16, tr.268].
Điều đó cũng có nghĩa bản chất cũng biến đổi dễ dàng như hiện tượng.
Sự biến đổi của bản chất chỉ xảy ra khi có sự tác động mạnh mẽ, hoặc lâu dài
tạo nên những biến đổi cơ bản, sâu sắc của các nhân tố tạo nên sự vật. Trong
đời sống xã hội, bản chất của một con người có thể thay đổi do những tác động
mạnh mẽ, lâu dài của hoàn cảnh sống, của giáo dục. Nhưng sự biến đổi này
nhiều khi rất phức tạp và đòi hỏi phải được củng cố, duy trì bằng hàng loạt biện

pháp tích cực, công phu.
Thứ sáu, mối quan hệ giữa khả năng và hiện thực
Khả năng đều nằm trong hiện thực, đều có cơ sở là hiện thực. Vì vậy,
hiện thực nào cũng chứa đựng các khả năng. Trong đó, có cả khả năng tất
nhiên và khả năng ngẫu nhiên, khả năng gần và khả năng xa, có khả năng tốt
lẫn khả năng xấu. Không hiện thực nào không chứa đựng khả năng. Khả năng
nằm trong hiện thực nhưng hiện thực luôn vận động, biến đổi nên khả năng
cũng biến đổi theo. Trong quá trình vận động của hiện thực luôn có khả năng
mới xuất hiện và có khả năng cũ mất đi. Có những khả năng mà điều kiện để
trở thành hiện thực ngày càng tăng, có khả năng các điều kiện đó lại giảm dần.
21
Nếu mọi hiện thực đều chứa đựng khả năng thì mọi khả năng cũng đều
có thể trở thành hiện thực khi có đủ điều kiện. Tuy nhiên, trong xã hội để tạo ra
những điều kiện cho khả năng chuyển thành hiện thực, nhân tố chủ quan có vai
trò hết sức to lớn. Vai trò của nhân tố chủ quan chính là tạo mọi điều kiện để
chuyển khả năng thành hiện thực, hoặc rút bỏ những điều kiện để một khả năng
xấu nào đó không thể xảy ra. Tất nhiên, điều đó chỉ thành công khi nào con
người nắm bắt được quy luật, hành động theo đúng quy luật. Ngược lại, nếu
con người làm trái quy luật, dù ý định tốt hay xấu cuối cùng cũng thất bại.
- Tính đa dạng và phong phú của liên hệ
Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính phổ biến, tính
khách quan của sự liên hệ, mà còn chỉ ra tính đa dạng của nó. Các sự vật, hiện
tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ
vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó. Mặt khác, cùng
một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác
nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật thì cũng có tính chất và vai trò khác nhau. Do đó, không thể đồng nhất tính
chất, vị trí vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật nhất
định, trong những điều kiện xác định Căn cứ vào tính chất, đặc trưng của từng
mối liên hệ, có thể phân loại thành các mối liên hệ sau:

Có mối liên hệ bên ngoài, tức là sự liên hệ của các sự vật, hiện tượng với
nhau. Có mối liên hệ bên trong, tức là sự liên hệ, tác động qua lại giữa các mặt,
các yếu tố, các bộ phận, các quá trình ở bên trong sự vật, cấu thành sự vật. Có
những mối liên hệ chung của toàn thế giới, hoặc trong những lĩnh vực rộng lớn
của thế giới; lại có những mối liên hệ riêng biệt trong từng lĩnh vực, từng sự
vật, từng hiện tượng cụ thể. Có mối liên hệ trực tiếp giữa hai hoặc nhiều sự vật,
hiện tượng; lại có những mối liên hệ gián tiếp, trong đó các sự vật, hiện tượng
liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau phải thông qua một hay nhiều khâu trung
gian. Có mối liên hệ tất nhiên lại có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ cơ
22
bản, thuộc về bản chất của sự vật, đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát
triển của sự vật; lại có mối liên hệ không cơ bản, chỉ đóng vai trò hổ trợ, bổ
sung cho sự tồn tại và phát triển của nó. Trong từng giai đoạn phát triển của sự
vật có mối liên hệ chủ yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật trong
giai đoạn đó, lại có mối liên hệ thứ yêu. Các sự vật, hiện tượng trãi qua giai
đoạn phát triển khác nhau. Chính sự liên hệ, tác động qua lại của các giai đoạn
kế tiếp nhau ấy quyết định tính liên lục trong quá trình vận động, biến đổi và
phát triển của chúng. Tùy theo phương hướng của sự tác động mà có mối liên
hệ thuận chiều, ngược chiều, mối liên hệ đơn, hoặc mối liên hệ kép
Cái loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn: sự vật, hiện tượng nào cũng có mối
liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, nhưng vai trò của chúng đối với sự
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng là khác nhau. Mối liên hệ bên
trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, còn mối liên hệ bên ngoài không có
ý nghĩa quyết định, vả lại nó cũng thông qua mối liên hệ bên trong mà phát huy
tác dụng đối với sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Dĩ nhiên, sự
phân loại các mối liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối. Các loại liên hệ khác nhau
có thể chuyển hóa lẫn nhau. Sự chuyển hóa như vậy có thể diễn ra, hoặc do tay
đổi phạm vi bao quát qua xem xét, hoặc do kết quả vận động khách quan của
chính sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn cái là ngẫu nhiên khi xem xét trong quan

hệ này, nhưng lại là tất nhiên khi xem xét trong mối quan hệ khác, vả lại trong
quá trình vận động, phát triển mối liên hệ ngẫu nhiên có thể chuyển hóa thành
tất nhiên và ngược lại.
Như vậy, sự liên hệ tác động qua lại của sự vật, hiện tượng trên thế giới
không những là vô cùng, vô tận mà còn rất phong phú, đa dạng và phức tạp.
Đặc biệt trong lĩnh vực đời sống xã hội, tính phức tạp của sự liên hệ được nhân
lên do sự đan xen, chồng chéo, chằng chịt của vô vàn các hoạt động có mục
23
đích, có ý thức của con người. Chính vì vậy mà quá trình nhận thức và phân
loại đúng các mối liên hệ trong xã hội trở nên khó khăn hơn nhiều so với trong
giới tự nhiên
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong những nội dung quan
trọng của phép biện chứng duy vật. Đồng thời nó cũng là cơ sở lý luận của
quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể là những quan điểm mang tính
phương pháp luận khoa học trong nhận thức và thực tiễn. Từ việc nghiên cứu
về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng, nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến có ý nghĩa phương pháp luận sau:
Vì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên
hệ với sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú, do đó khi
nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện, để đánh
giá đúng về sự vật, hiện tượng, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện
tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính quy luật
của chúng. Chẳng hạn, khi đánh giá sự phát triển của một quốc gia nào đó,
chúng ta phải xét tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị , văn hóa, an ninh
quốc phòng… của quốc gia đó. Có như vậy mới thấy được sự phát triển toàn
diện của quốc gia đó, vì nếu chỉ xét riêng một lĩnh vực nào đó thì không thấy
sự phát triển của quốc gia đó, nên phải xét tất cả các lĩnh vực trong mối liên hệ
với nhau.
- Với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận thức các

sự vật, hiện tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật
trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của
chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa các sự vật đó với các sự vật
khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới
có thể nhận thức đúng về sự vật. Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng và đầy đủ
24
tri thức khoa học của triết học, chúng ta còn phải tìm ra mối liên hệ của tri thức
triết học với tri thức của khoa học khác, với tri thức cuộc sống và ngược lại, vì
tri thức triết học được khái quát từ tri thức của các khoa học khác và hoạt động
của con người, nhất là tri thức chuyên môn được chúng ta lĩnh hội. Một trong
những nguyên nhân làm cho người học không nắm vững tri thức triết học chính
là do người học không biết liên hệ tri thức của các khoa học khác lại với nhau.
- Phải xem xét các mối liên hệ của sự vật không phải là xem xét một
cách dàn trải, đồng loạt như nhau, theo kiểu “bình quân chủ nghĩa”, mà phải
đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng mối liên hệ. Từ trong tổng số những mối
liên hệ ấy, trước hết phải rút ra được những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu –
những mối liên hệ quy định bản chất, quyết định khuynh hướng phát triển của
sự vật, trong suốt quá trình, cũng như ở mỗi giai đoạn tồn tại của sự vật – đang
chi phối những mối liên hệ khác của sự vật. Sau khi vạch được mối liên hệ cơ
bản, chủ yếu, chủ thể phải xuất phát từ mối liên hệ ấy để phân tích các mối liên
hệ khác của sự vật, liên kết chúng với các mối liên hệ cơ bản, chủ yếu thành
một hệ thống hoàn chỉnh, có như vậy mới đánh giá đứng sự vật.
Như vậy, quan điểm toàn diện đòi hỏi phải xem xét tất cả các mối liên hệ
của các sự vật, coi chúng là cơ sở là căn cứ đầy đủ để từ đó rút ra được bản
chất của sự vật. Từ chỗ hiểu được bản chất của sự vật, phải quay lại giải thích
được các mối liên hệ khác của sự vật rồi liên kết chúng lại thành một hệ thống
hoàn chỉnh. Chỉ đến khi đó mới hiểu được thấu đáo sự vật, mới có giải pháp
đồng bộ, đứng đắn, khoa học khi giải quyết sự vật.
- Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải chống lại cách xem xét phiến diện,
siêu hình, chỉ thấy một mặt, không thấy toàn bộ. Quan điểm toàn diện cũng

hoàn toàn xa lại với chủ nghĩa chiết trung. Thực chất chủ chủ nghĩa chiết trung
là kết hợp một cách vô nguyên tắc nhiều mối liên hệ, nhiều sự vật, nhiều hiện
tượng khác nhau tạo thành một mớ hỗn độn các sự kiện, không phân biệt cái
25

×