Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Về những giá trị tư tưởng triết học cơ bản của nho gia trong xã hội việt nam ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.51 KB, 59 trang )


DẪN NHẬP
Nho học là học thuyết do Khổng Tử sáng lập, thời Khổng Tử gọi là Nho
học hay là Khổng học, là một trong những học thuyết quan trọng nhất của văn
hoá Trung Hoa, văn hoá Phương Đông và loài người. “Hán thư văn ký” xếp
Nho ở hàng đầu cửu lưu (là chín học phái khác nhau thời Tiên Tần). Nội dung
của học thuyết này chủ yếu là “Tổ thuật Nghiêu, Thuấn, hiến chương Văn,
Võ” (trình bày tư tưởng của Nghiêu Thuấn, bắt chước theo vua Văn, vua Võ).
Đề cao “Lễ nhạc” và “Nhân nghĩa” chủ xướng đạo “Trung thứ” (hết lòng vì
người, điều mình muốn đạt được cũng giúp người khác đạt được, điều gì mình
không muốn, thì không áp đặt cho người khác), và đạo “Trung Dung” (không
thiên lêch, không thừa thiếu). Về chính trị chủ trương “Đức trị” (cai trị bằng
đạo đức), “Nhân chính” (chính sách nhân từ). Coi trọng việc giáo dục đạo đức
luân lý và cả sự tu thân dưỡng tính.
Ở thời Chiến Quốc, Nho Gia gồm tám phái mà quan trọngnhất là hai
phái Mạnh Tử, Tuân Tử. Sau khi Hán Vũ Đế ( 140 TCN- 87 TCN) bãi truất
bách gia, độc tôn Nho Gia, học thuyết này dần dần trở thành dòng chính của
văn hoá Trung Hoa thời phong kiến. Để đáp ứng nhu cầu của giai cấp phong
kiến thống trị trãi qua các triều đại, các nhà Nho đã không ngừng từ học thuyết
của họ Khổng mà diễn dịch ra những lý thuyết khác nhau phù hợp với từng
thời kỳ.
Trong suốt quá trình phát triển của mình (tính đến thời điểm hiện nay
khoảng hơn 2 ngàn năm), Nho Gia phân chia thành 2 thời kỳ lớn:
- Nho nguyên thuỷ (Nho Tiên Tần 221 TCN) gồm có các tác gia Khổng
Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử.
- Giai đoạn sau nguyên thuỷ có: Hán Nho 206 tcn - 220 tcn; Nguy, Tấn,
Nam Bắc Triều 220- 590; Nhà Tuỳ 590; Đường Nho 618- 906; Ngũ Đại Thập
Quốc 906 - 970; Tống Nho 970- 1209; Nhà Nguyên 1279; Minh Nho 1369-
1644; Thanh Nho 1644- 1911.
1


Do hạn chế về mặt thời gian, điều kiện nghiện cứu và khả năng mà luận
văn này chỉ tập trung khái quát những gíá trị triết học cơ bản của Nho Giaó
nguyên thuỷ và những ảnh hưởng của nó trong đời sống xã hội Việt Nam hiện
nay.
A. PHẦN MỞ ĐẦU.
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà loài người đang xích lại gần
nhau và sự giao lưu văn hoá đang diễn ra trên toàn thế giới. Đó là chiều hướng
toàn cầu cầu hoá mà không một dân tộc nào có thể từ chối được. Trên lĩnh vực
văn hoá sự tiếp nối giữa quá khứ và hiện đại, sự giao tiếp giữa Đông và Tây
lại trở thành vấn đề bức thiết. Việc đánh giá lại vai trò của Nho Giáo trong
lịch sử tư tưởng và ảnh hưởng của nó trong xã hội ngày nay đang có một ý
nghĩa thiết thực. Thực tế vài thập kỷ gần đây có một số nước vốn theo Nho
Giáo, đã có sự phát triển nhanh chóng về các mặt kinh tế, xã hội, khoa học kỹ
thuật điển hình như Nhật bản, Đài Loan, Xinh - ga - po, v.v.
Việt Nam là một đất nước chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết học Nho
Giáo. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, một mặt nền kinh tế thị trường mang
lại bộ mặt mới cho kinh tế đất nước, nhưng một mặt nó gây ra vô vàn hiện
tương tiêu cực trong quan hệ xã hội, nhất là trên lĩnh vực đạo đức. Thái độ và
hành vi đối xử với cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em đều có những biểu hiện
thoái hoá. Chẳng hạn: bố mẹ già bị con cái hắt hủi, bỏ rơi; anh em chém giết
nhau vì tiền; con cái chống đối bố mẹ, bỏ đi “bụi đời” hút chích Nền kinh tế
thị trường đang tạo ra những kẻ tán tận lương tâm giẫm đạp lên đao khổ của
người dân lương thiện để kiếm chát. Chúng ta không khỏi hoang mang khi
trên phương tiên thông tin đại chúng, thỉnh thoảng lại nêu lên một số cán bộ
lãnh đạo biến chất về đạo đức, tham ô, tham nhũng tiền của của nhà nước, làm
giàu bất chính cho bản thân. Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta thấy chướng
mắt khi một vài cử chỉ giao tiếp không lễ phép, không lịch sự cứ diễn ra.
Trước tình hình đó vấn đề đặt ra là trong xây dựng lối sống mới, nên chăng
2


đạo đức và một số lĩnh vực tích cực khác của Nho Giáo có những điều tốt đẹp
mà chúng ta phải tiếp thu vận dụng trong quản lý giáo dục con cái, gia đình,
xã hội.
Trên con đường phát triển, xã hội Việt Nam cần kế thừa nhiều truyền
thống tốt đẹp của dân tộc trong đó có Nho Giáo. Kế thừa Nho Giáo chúng ta
phải đứng trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, đánh giá đúng học
thuyết Nho Giáo, gạt bỏ những yếu tố tiêu cực, khai thác nnhững yếu tố tích
cực để hộ trợ giúp đẩy đất nước đi lên, và giữ gìn văn hoá nhân loại. Đó cũng
là chủ trương của Đảng ta hiện nay “đối với học thuyết ngoài học thuyết Mác
-Lê Nin, cần nghiên cứu trên quan điểm khách quan biện chứng”***
Chính vì lý do trên mà tác giả chọn đề tài “Về những giá trị tư tưởng
triết học cơ bản của Nho Gia trong xã hội Việt Nam ngày nay”
Qua thực hiện đề tài này, giúp tác giả rất nhiều trong việc mở mang
kiến thức về tư tưởng Nho Gia nói chung và Nho Gia ở Việt Nam nói riêng.
Điều này giúp tác giả tích luỹ vốn tri thức phục vụ thiết thực cho công tác
nghiệp vụ sau này.
II. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
- Chỉ rỏ tư tưởng cơ bản của Nho Giaó nguyên thuỷ.
- Chỉ rỏ ảnh hưởng cơ bản của nho Giáo nguyên thuỷ trong xã hội
Việt Nam hiện nay
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Vấn đề quan niệm thế giới, chính tri - xã hội, con người, đạo đức của các
nhà tư tưởng Nho Giáo thời nguyên thuỷ ở Trung Quốc và ảnh của Nho Giaó
nguyên thuỷ đối với xã hội Việt Nam ngày nay.
3

IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦ ĐỀ TÀI
Đứng trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh để nghiên cứu Nho Giaó. Cụ thể là: Phương pháp xuyên suốt đề

tài là phương pháp biện chứng duy vật. Ngoài ra tác giả còn sử dụng
phương pháp toàn diện kết hợp phương pháp lôgíc lịch sử, phương pháp
diễn dịch, phương pháp quy nạp đối với các chương, phần cụ thể. Đề tài
cũng từng bước thu thập tài liệu, đọc và ghi chép, chắt lọc, tổng hợp tất
cả các tài liệu liên quan đến đề tài mà tác giả có được.
V. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI.
Lần đầu thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học, lại là đề tài khó,
tác giả cũng đã cố gắng rất nhiều. Song trong quá trình thực hiện có nhiều hạn
chế, nên luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót, tác giả mong quý thầy cô và
các bạn thông cảm và giúp đỡ.
Hy vọng luận văn là nguồn tài liệu nhỏ giúp cho các bạn sinh viên tham
khảo và nghiên cứu về Nho Giaó nói chung và ảnh hưởng của nó tại Việt Nam
nói riêng.
V. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn gồm hai chương, chín tiết:
Chương 1. Những nội dung cơ bản của triết học Nho Gia .
1.1. Vài nét về Khổng Tử - người sáng lập trường phái Nho gia - và
những học trò tiêu biểu của Ông.
1.2. Những nội dung cơ bản của triết học Nho gia.
1.3. Vài nét khái quát về Đổng Trọng Thư và môn phái Hán Nho.
1.4. Nhận xét chung về triết học Nho gia.
Chương 2. Những ảnh hưởng cơ bản triết học Nho gia trong xã hội
Việt Nam hiện nay.
2.1. Vài nét về sự du nhập và phát triển của Nho gia tại Việt Nam.
4

2.2. Về tư tưởng giáo dục của Nho gia với xã hội Việt Nam hiện nay.
2.3. Về tư tưởng đạo đức của Nho gia với xã hội Việt Nam hiện nay.
2.4. Đạo đức của Nho gia trong việc xây dựng phẩm chất người lãnh
đạo hiện nay.

2.5. Những ảnh hưởng tiêu cực của Nho gia đối với xã hội Việt Nam
hiện nay.
Chương 1.
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC NHO GIA
1.1. Vài nét về Khổng Tử người sáng lập ra trường phái Nho Gia
và các học trò tiêu biểu của ông thời Nho Gia.
Khổng Tử (551-480 TCN), sinh ra ở làng Xương Bình, huyện Khúc
Phụ, tỉnh Sơn Đông ngày nay, trong một gia đình quý tộc nhỏ đang bị sa sút.
Mẹ Khổng Tử là Nhan Trưng Tại còn gọi là Nhan Thị, cha là Thúc Lương
Ngột. Khi sinh ra trên đầu gồ, giữa lõm cho nên đặt tên là Khâu (tức là cái gò).
Tên tự là Trọng. Ông là người sáng lập ra đạo Nho. Đạo Nho chủ trương làm
chính trị lấy đức làm gốc (Đức trị) nhưng có nghĩa là lấy nhân làm gốc vì theo
Khổng Tử người có đức là người có nhân.
Thời đại của Khổng Tử là thời đại loạn lạc. Nhà Chu suy yếu, các chư
hầu không nghe theo thiên tử nhà Chu mà nổi lên xưng vương xưng bá
“Vương đạo suy vi”, “Bá đạo” đang nổi lên lấn át “Vương đạo” của nhà Chu
trật tự lễ phép của nhà Chu bị đảo lộn Khổng Tử than phiền rằng “Vua không
ra vua, tôi không ra tôi, cha không ra cha, con không ra con” (Quân bất quân,
thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử)
5

Khổng Tử muốn khôi phục lại trật tự, pháp chế, kỷ cương của nhà Chu
với một nội dung phù hợp, ông lập ra học thuyết của mình, mở trường dạy
học, đi chu du khắp nơi (Khổng Tử đã từng đến các nước Tề, Lỗ, Vệ, Trần),
tranh luận với các phái khác nhau để tuyên truyền lý tưởng của mình. Sau
nhiều năm cùng học trò bôn ba mong gặp được người sử dụng học thuyết của
mình song ý nguyện đó không thành ông quay về nước Lỗ dạy học san định
các sách vở đời trước(2). Tương truyền rằng học trò của Khổng Tử đông đến
3000 người và khi ông mất có người để tang ông, hàng trăm người làm nhà,
lập cứ bên phần mộ của ông, tạo thành làng Khổng(3). Tư tưởng của Khổng

Tử được thể hiện trong các tác phẩm: Tứ Thư và Ngũ Kinh
Tứ thư (phần kinh điển) gồm: *Luận Ngữ: Tri Khôn, tác phẩm này của
Khổng Tử do học trò chép lại, Luận Ngữ gồm 12700 chữ là một tác phẩm triết
học gãy gọn súc tích nhưng gợi mở. Tác phẩm chia làm 20 chương. *Trung
dung: do Khổng Cấp (Tăng Tử) cháu nội của Khổng Tử phát triển đạo sống
“Trung Dung” của Khổng Tử. *Đại học của Tăng Sâm, học trò của Khổng Tử
1000 nóivề đạo của bậc quân tử. *Mạnh Tử
Sau khi Khổng Tử mất, và nhất là qua chính sách tàn khốc “Phần thư
thanh nho” của Tân Thuỷ Hoàng thì sách Khổng Tử không còn giữ được bao
nhiêu. Khi đạo Nho được phục hưng “đời Hán Vũ Đế năm 130 TCN” sách
Nhạc chỉ còn một thiện được nhập vào bộ Lễ ký còn gọi là thiên Nhạc ký.
Những sách khác được người đương thời sưu tầm bổ sung tạo thành năm kinh
còn gọi là Ngũ kinh gồm: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh
Xuân Thu.
Kinh thi là những bài thơ dân gian được lưu truyền trong lịch sử Trung
Quốc được Khổng Tử xử lý sưu tập thành bộ Kinh Thi khoảng hơn 3000
thiên, Khổng Tử san định Kinh Thi là mong người đời hiểu điều hiếu trung,
biết thương, biết ghét và mở mang trí thức.
Kinh Thư: bộ sách về sử của các vua chúa từ đời Nghiêu đến đời Tần
Mục Công (khoảng 2350 TCN đến 620 TCN). Kinh Thư là bộ kinh dạy về
6

đường lôi trị nước, về phương pháp đối nhân xử thế thuận tâm, thuận lòng dân
của các bậc đế vương đời trước.
Kinh Lễ gồm ba phần: Chu Lễ, Nghi Lễ, Lễ Ký. Trong đó Chu Lễ nói về
cách tổ chức hành chính nhà Tây Chu. Nghi Lễ quy định thể thức lễ nghi trong
cuộc sống. Lễ Ký là phần do các môn đệ Khổng Tử bình về phong tục. Kinh
Lễ là bộ sách lý luận và biện pháp tổ chức xã hội mà Khổng Tử rất tâm đắc.
Kinh Xuân Thu là bộ kinh sử, nó được xem như là một bộ sử có tính chất
hệ thống đầu tiên của Trung Quốc Khổng Tử chép sử nước Lỗ từ Lỗ Ân Công

722 TCN đến Lỗ Ai Công 480 tcn. Trong kinh Xuân Thu với thâm ý của
mình, Khổng Tử ngầm phê phán về đường lối cai trị của nước Lỗ và của
Trung Quốc nói chung ở thời đại đó và theo Khổng Tử do sự sai lầm về đường
lối chính trị đẩy đất nước vào tình trạng chiến tranh liên miên, đạo đức suy
giảm. Trước sự suy bại và loạn nghịch ấy Khổng Tử lấy làm lo sơ. Mới biết
Xuân Thu khen thiện, chê ác, dạy phép trị nước cho các Thiên tử. Phép trị
nước là thuyết “chính danh” thuyết xuyên suốt sách Xuân Thu mà trọn đời
Khổng Tử tuân theo.
Kinh Dịch nhằm nêu lên sự biến đổi của vũ trụ và của nhân sinh.
Triết học Khổng Tử được lý giải khác nhau qua các triều đại. Đến thế
kỷ II tcn những quan điểm của Khổng Tử được danh nho nhà Hán là Đổng
Trọng Thư thần bí hoá và biến nó thành một hệ thống đạo đức, tôn giáo chính
trị thống trị trong đời sống tinh thần của Trung Quốc.
Mạnh Tử tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, người gốc nước Trâu thuộc
miền nam tỉnh Sơn Đông ngày nay. Ông sống khoảng năm 372 đến 289 tcn, là
người theo phái Nho Gia của Tăng Tử nước Lỗ, ông thuộc dòng công tộc
Mạnh Tôn, cha là Khích Công Nghi, mẹ là Cừu Thị. Khi ông lên ba tuổi thì
cha chết, được mẹ nuôi dưỡng, giáo dục lễ nghĩa.
Để bảo vệ và phát huy tư tưởng của Khổng Tử mong muốn dùng thuyết
của mình cứu đời. Mạnh Tử đi khắp các nước chư hầu để truyền bá tư tưởng
7

và chủ trương của mình ( Mạnh Tử đã từng đi qua Tề, Lương) nhưng đi đến
đâu ông cũng không đạt được ý muốn. Ông lui về dạy học cùng các học trò
của mình xếp đặt lại thứ tự trong Kinh Thư, Kinh Thi. Thuật lại các ý của
Khổng Tử , ghi lại những lời Mạnh Tử đã bàn luận đối đáp với các chư hầu và
ghi lại những lời phê bình của ông đối với học thuyết khác làm ra bảy thiên
sách có tên là Mạnh Tử.
Trong quá trình đấu tranh chống lại các trường phái triết học khác thời
Chiến Quốc nhằm kế thừa và phát triển hơn tư tưởng của Khổng Giáo, Mạnh

Tử dựng lên một hệ thống triết học duy tâm chủ nghĩa nhà Nho, và đẩy tính
chất duy tâm trong triết học Khổng Tử lên đỉnh cao.
Tuân Tử tên Huống, tự là Khanh, còn gọi là Tuân Khanh hay Tôn Khanh
người nước Triệu, ông sinh khoảng 313tcn, mất khoảng 238 tcn. Tuân Tử là
một trong những Nho Gia lớn nhất thời Chiến Quốc. Đó là thời kỳ xã hội
Trung Hoa ‘’như nước cuồn cuộn”, các học phái triết học, các triết gia tiêu
biểu thi đua nhau xuất hiện người ta gọi là thời kỳ ‘’Bách gia chư tử”. Nho
Gia, Lão Gia, Mặc Gia là những môn phái triết học lớn có ảnh hưỡng rộng rãi
ở Trung Quốc thời bấy giờ. Các học thuyết này với thế giới quan, nhân sinh
quan khác nhau, vừa kế thừa tư tưởng của nhau, vừa đấu tranh công kích
nhau. Tuân Tử dựa trên thế giới quan duy vật và lối biện luận sắc sảo của
mình để phản bác lại các học phái đó. Trong đó có sự phê phán quan điểm về
“đạo” của Lão - Trang, học thuyết tính “thiện” của Mạnh Tử Điều đó chứng
tỏ ông là người uyên bác và những phê phán của ông đối với các học thuyết ấy
là có nhiều quan điểm rất giá trị.
Tuân Tử là người theo học thuyết Khổng Tử đề cao Nhân, Nghĩa, Lễ,
Nhạc và chủ trương “chủ nghĩa chính danh”, trọng vương, khinh bá, nhưng lại
tương phản với tư tưởng của Khổng Tử và Mạnh Tử về cả thế giới quan lẫn
triết học chính trị - xã hội. Một số tư tưởng của ông như vương chế, pháp
hành, quân đạo lại trở thành tiền đề cho triết học Pháp Gia sau này.
1. 2. Những nội dung cơ bản của triết học Nho Gia.
8

1.2 1. Quan điểm về thế giới quan.
Trung tâm triết học Nho Gia thời cổ đại không phải là triết học về bản
thể vũ trụ. Khổng Tử, Mạnh Tử nói về vũ trụ tự nhiên không nhiều. Trong học
thuyết Nho Gia ”trời” có nghĩa là bậc nhất. Khổng Tử khi giảng đạo lý của
mình thường nói đến ”trời”,”mệnh trời” Nhưng Khổng Tử và các đồ đệ gần
gũi của ông lại không nói rõ trời một cách rõ ràng, hệ thống. Người ta cảm
thấy Khổng Tử, Mạnh tử, Tuân Tử khi vận dụng các khái niệm và phạm trù

như vậy một cách trang trọng cốt chỉ đủ làm chỗ dựa mạnh mẽ, thiêng liêng
cho học thuyết và đạo lý của mình là được. Vì vậy các câu hỏi trời là gì? do
đâu và tại sao mà có?. Trời với muôn vật, muôn loài như thế nào? thì trong tài
liệu kinh điển của Nho Gia ít thấy, mà trường phái Nho Gia hay nói nhiều về
mối quan hệ giữa trời và người mặc dù không rành mạch sáng tỏ. Vì thế sau
Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử quan điểm về trời đất lần lượt được bổ sung
bởi các danh Nho đời sau. Trong các tác phẩm của Khổng Tử người ta không
thấy có từ vũ trụ được dùng với tính cách là một thuật ngữ của một học thuyết
mà thông dụng nhất với tính cách đó có hai nhóm từ: Một là trời, đất và trời
đất với tinh thần trừu tượng hoà mọi vật thể trên trời dưới đất trực tiếp tác
động vào giác quan con người, hai là nhóm Càn, Khôn và Càn Khôn được coi
như là những dấu hiệu biểu hiện trời đất những dạng vô hình của triết học
Trung Quốc cổ đại.
Chịu ảnh hưởng quan điểm vũ trụ của người Trung Hoa thượng cổ,
những quan điểm lưu truyền trong dân gian được ghi trong sách Dịch, quan
niệm này cho rằng vũ trụ ban đầu là khối hổn mang hay còn gọi là vô cực. Từ
cái hỗn mang chứa đựng ”thái cực”, ”thái cực” chứa đựng hai mặt đối lập liên
hệ nhau đó là âm - dương. Âm - dương là hai thế lực đối lập tương tác lẫn
nhau tạo ra sự biến hoá của vũ trụ. Sự biến đổi vô cùng, vô tận ấy Khổng Tử
gọi là ”đạo”. Bởi vì đạo không có đặc tính, hình thể cho nên không xác định
được bản thể nhưng có thể xác định được động thể. Gộp trời đất muôn vật vào
một thể Khổng Tử thường chú ý đến tính chất động nhiều hơn là tính chất
9

tĩnh. Ông hình dung tất cả trôi đi, trôi mãi từ nơi này đến nơi khác, từ lúc này
đến lúc khác. Khổng Tử thường dạy học trò “cũng như dòng nước chảy mọi
vật trôi đi không có vật gì ngừng nghỉ”(4) (Luận Ngữ, Tư Hãn), hoặc “trời có
nói gì đâu mà bốn mùa cứ vận hành, vạn vật cứ sinh hoá mãi” (Luận ngữ,
Dương hoá).
Quan diểm về vấn đề này biểu hiện một cách rõ ràng đầy đủ bao quát

bằng từ Dịch nghĩa là đổi, bao gồm ý nghĩa thay đổi và biến đổi. Nguyên tắc
của nó được nghi trong Kinh Dịch và được Khổng Tử đem ra giảng dạy “ở
tuôi 40 không mơ hồ nhầm lẫn, đến tuổi 50 biết mệnh trời, mà ước sống thêm
mấy năm nữa để học Dịch”.
Từ chỗ tin vào vũ trụ quan Dịch, tin vào sự biến hoá vận hành của vạn
vật, cuộc vận hành ấy có trật tự hoà điệu mà con người không thể cưỡng lại
được, Khổng Tử gọi là “thiên mệnh”, mà ông cho là trời có ý chí, trời như là
một quan toà thông minh cầm cân nảy mực phán xét mọi chuyện. Trời quyết
định mọi thành bại trong đời sống con người, Khổng Tử nói “đạo ta thi hành
được cũng do mệnh trời, mà bỏ phế cũng do mệnh trời hoặc “tử sinh hữu
mệnh, sống chết tại thiên” (giàu sang phú quý, nghèo hèn, sống chết là do trời)
tư tưởng này được thể hiện rất rõ trong tác phẩm Trung Dung của Tử Tư. Tin
vào thiên mệnh, Khổng Tử coi việc hiểu mệnh trời là một điều kiện để trở
thành người quân tử và theo ông, quân tử sợ 3 điều: Quân tử hữu tam uý “Uý
đại nhân, Uý thiên mệnh, Uý thánh nhân chi ngôn” (Sợ mệnh trời, Sợ đại
nhân, Sợ thánh nhân).
Với tư cách là học trò xuất sắc của Khổng Tử, khi bàn về thế giới, Mạnh
Tử đã khuyếch đại những yếu tố duy tâm trong học thuyết Khổng Tử biến nó
thành học thuyết duy tâm tiên nghiệm thần bí. Tiếp nối nhưng quan điểm của
Khổng Tử về thế giới, Mạnh Tử cũng cho rằng trời là một đấng anh minh tối
cao, sáng tạo và chi phối vạn vật trong vũ trụ; trời có thể ban thưởng chức
tước bổng lộc cho những người hiền đức và trừng phạt kẻ tàn ác. Thậm chí
theo Mạnh Tử, từ chí, khí, tâm tính con người cho đến các nguyên tắc đạo đức
10

luân lý của đời sống xã hội cũng đều trời phú cho, đó là số phận của trời định
sẵn ”cái bản tính của trời phú cho con người, quân tử dù có đạo có được thi
hành lớn lao cũng không tăng thêm gì, dù mình có gặp cảnh ngộ cùng khốn
cũng không giảm bớt số phận trời đã định sẵn như thế” (Mạnh Tử, Tận Tâm
Thượng),*** cho nên ông khuyên nhủ con người luôn luôn phải tuyệt đối

phục tùng mệnh trời ”không có việc gì xẩy ra mà không do mệnh trời, người
ta phải thuận theo mà nhận lấy số mệnh chính đáng ấy”(Mạnh Tử, Tận Tâm
Thượng)***.
Không những thế với chủ nghĩa duy tâm thần bí Mạnh Tử còn cho rằng
vũ trụ vạn vật đều tồn tại trong ý nghĩ của con người: ”thành là đạo của trời và
suy nghĩ sao cho thành là đạo của người”(5). Sự thành “là hợp với đạo” khi
thành thì vạn vật đều ở trong ta” (Mạnh Tử, Tận Tâm Thượng)***. Bên cạnh
đó, Mạnh Tử còn xuyên tạc tính duy vật thô sơ của học thuyết Ngũ Hành gán
lắp nó vào thuyết đạo đức của mình và thần bí hoá nó: Thần Mộc là Nhân,
Thần Kim là Nghĩa, Thần Hoả là Lễ, Thần Thuỷ là Trí, Thần Thổ là Tín. Bốn
đức Nhân-Lễ-Nghĩa-Trí do Tâm (Tín) mà ra, cho nên Thần Thổ ở giữa và có
mặt khắp nơi.
Cũng mong muốn kế thừa và phát triển Nho Gia, Tuân Tử một trong
những học trò xuất sắc của Khổng Tử sống vào cuối thời Chiến quốc, trong
quan niệm về thế giới lập trường cơ bản của Tuân Tử là chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa vô thần. So với triết học Khổng Tử, triết học của Tuân Tử là một
bước phát triển ở trình độ cao hơn. Trái với học thuyết ”thiên mệnh” của
Khổng Tử, “thiên chí” của Mặc Gia coi trời là một lực lượng thiên nhiên tối
cao, chi phối vạn vật và con người, Tuân Tử khẳng định rằng toàn bộ thế giới
có ba bộ phận: Trời-Đất-Người (Thiên-Địa-Nhân)”, trời có bốn mùa, đất có
sản vật, người có văn trị”, mỗi lĩnh vực có quy luật vận động và chức năng
riêng của nó. Sự vận dộng của trời của giới tự nhiên tồn tại một cách khách
quan không phụ thuộc vào xã hội và con người, xã hội dù tốt, dù xấu cũng
không cảm động được giới tự nhiên. Ông nói: ”trời vận hành theo luật lệ sẵn
11

có không vì vua Nghiêu mà còn, không vì vua Kiệt mà mất”,*** hoặc “không
phải người ta ghét giá lạnh mà trời bỏ mùa đông, không phải người ta ngại xa
xôi mà đất rút hẹp bề mặt lại”.*** Do đó thuyết ”thiên nhân cảm ứng” là hư
cấu.

Trời, đất, thiên mệnh không quyết định, không can thiệp vào công việc
của con người, con người lành dữ, vận nước thịnh hay suy, yên hay loạn là do
con người làm ra. Chính vì vậy, tuy vị trí của con người trong môn phái của
Nho Gia như nhau đó là con người đứng giữa trời đất, nhưng đã ở tư thế khác
nhau. Con người trong triết học Khổng Tử, Mạnh Tử là nạn nhân của số phận,
thiên mệnh. Trong khi đó con người trong triết học của Tuân Tử là con người
chống lại định mệnh, cải tạo số phận của chính mình. Trong quan điểm về thế
giới, Tuân Tử còn đưa ra học thuyết về khí. Ông xem khí là yếu tố vật chất
cấu tạo nên vạn vật. Đồng thời dựa vào tri thức khoa học sơ khai về thiên văn,
địa lý, sinh vật học, y học đạt được vào thời đó, ông vạch ra sự khác nhau giữa
vật chất vô cơ, thực vật, động vật và con người. Ông nói: ”nước lửa có khí
nhưng không có sinh mệnh, cỏ cây có sinh mệnh nhưng không có tri giác, loại
cầm thú có tri giác nhưng không có lễ nghĩa (tức là khuôn phép đạo đức và tổ
chức xã hội), cho nên “con người là cao quý nhất trong vạn vật” (Tuân Tử,
Vương Chế)***.
Khi bàn về yếu tố quỷ thần, các nhà triết học Nho Gia không có quan
điểm nhất quán rõ ràng. Đặc biệt là Khổng Tử tin vào quỷ thần, nhưng khái
niệm quỷ thần của Khổng Tử có tính chất lễ giáo nhiều hơn tôn giáo. Khổng
Tử cho rằng quỷ thần là do khí thiêng trong trời đất tạo thành, ”tuy người ta
trông mà không thấy, lắng mà không nghe, thể nghiệm mọi vật mà không bỏ
sót”. Nếu mọi người trong thiên hạ đều chay kín quần áo trang nghiêm chỉnh
tề để tế quỷ thần thì “quỷ thần vời vợi ở bên tả và hữu mình” (Trung Dung).
Nhưng mặt khác, ông lại nói rằng quỷ thần không có tác dụng chi phối đời
sống con người, ông phê phán mê tín quỷ thần. Ông nói ”đạo người chưa biết
sao biết được quỷ thần”. “Không hiểu được con người sống thì không có tư
12

cách hỏi chuyện sau khi chết”(6) ông cho rằng trí thông minh của con người
đối lập với mê tín quỷ thần. Không phủ nhận sự tồn tại của quỷ thần, nhưng
theo Khổng Tử việc của quỷ thần là việc cao xa, u uẩn nên đối với quỷ thần

con người kính trọng nhưng chẳng gần gũi làm gì để gây thành những mối mê
tín hại cho việc nhân nghĩa. Cho nên Khổng Tử khuyên ”vụ dân chi nghĩa,
kính quỷ thần nhi viễn chi” (vụ lấy việc nghĩa của người, còn quỷ thần thì
kính mà xa ra)***. Như vậy lập trường của ông trong vấn đề này là mâu
thuẫn, ông muốn gạt bỏ mà không gạt bỏ nổi quan điểm thần học từ thời Ân -
Chu. Quan điểm này của Khổng Tử được Mạnh Tử hệ thống hoá thành khía
cạnh duy tâm trong triết học Nho Gia . Riêng đối với Tuân Tử, vì ông luôn
phủ nhận sự can thiệp của “thiên mệnh” vaò đời sống con người và đời sống
xã hội, cho nên tư tưởng vô thần của ông rõ ràng nhất quán hơn. Ông cho rằng
do tâm lý sợ hãi của con người mà sinh ra quỷ thần, không những thế quan
niệm tôn giáo thần bí là không có cơ sở.
1.2.2 Nhận thức luận.
Con người có nhận thức được thế giới hay không?, Tri thức bắt nguồn từ
đâu?, là những câu hỏi được các nhà triết học rất quan tâm giải quyết. Trong
chừng mực có thể bằng khả năng, lập trường kinh nghiệm, các nhà triết học
thuộc trường học Nho Gia, nhất là Khổng Tử tổng kết và đề ra được nhiều quy
luật nhận thức có giá trị.
Trong thuyết “chính dạnh”, Khổng Tử lấy ”danh” định “thực” (Luận
Ngữ, Tử Lộ) [7***] đã đề cập đến bản thân nhận thức luận. Nhưng đáng tiếc
Khổng Tử đã đảo lộn quan hệ ”danh” và “thực” coi ”danh” có trước quyết
định”thực”. Về sau Mặc Tử, Tuân Tử đã đảo lộn lại mới phù hợp với quy luật
nhận thức của con người.
Về tri thức Khổng Tử cũng như các nhà thời Tiên Tần đều nhấn mạnh
tri thức bắt nguồn từ học tập, mặc dù ông từng nói ”sống rồi sẽ hiểu”. Khi bàn
về tri thức Khổng Tử cho rằng trời đất vạn vật rất phức tạp nhưng có thể tìm
ra điều lý, thì có thể hiểu được sự khác nhau của vạn vật, thí dụ chữ “Nhân”
13

bao hàm cả phép làm vua, làm cha, làm tôi và làm con. Đấy là cái phức tạp
tìm ra cái đơn giản, trong cái khó tìm ra cái dễ. Do đó Khổng Tử yêu cầu con

người ta phải nhớ nhiều, học nhiều, đồng thời phải tìm ra cái hệ thống điều lý
trong sự vật. Đấy gọi là ”thu vào một đầu mối nhất quán”.
Cũng bàn về nhận thức luận, nhưng khi kế thừa quan điểm của Khổng
Tử, những tư tưởng của Mạnh Tử có tính chất duy tâm tiên nghiệm. Ông cho
rằng có ”Lương tri” (không lo mà biết), có “Lương Năng” (không học mà
được), “vạn vật đều đầy đủ ở trong ta”. Cho nên ông dạy người ta không cần
tìm chân lý ở bên ngoài thế giới khách quan mà chỉ suy xét ở trong tâm mình
theo nguyên tắc: “Tận tâm-Tri tính-Tri thiên” là được. “Tận kì tâm gia, tri kì
tính giá, tri kì tính tắc tri thiên hỹ” (có nghĩa là mình đem hết lòng dạ của
mình mà cung phụng các nghĩa vụ bổn phẩn làm người, đem hết tâm trí của
mình mà suy xét thì mình có thể thấu đạt được cái tình, sẽ hiểu được mọi lẽ
huyền vi của trời đất (Mạnh Tử Tận Tâm Thượng).*** Như vậy, trong vấn đề
nhận thức luận Mạnh Tử đã tách rời nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính,
phủ nhận vai trò cảm giác, đề cao tư duy lý tính.
Khác với Mạnh Tử, Tuân Tử đã xây dựng nên học thuyết về nhận thức
trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật rất đặc sắc. Ông khăng định con người có
đủ năng lực để nhận thức vạn vật trong thế giới. Ông coi nhận thức chính là sự
phản ánh các sự vật hiện tượng khách quan bởi con người. Và để nhận thức
được sự vật con người phải dựa vào các giác quan, nhưng nếu chỉ dùng giác
quan thì sự hiểu biết chỉ dừng lại ở bề ngoài, có tính chất riêng lẻ về sự vật,
hiện tượng. Con người phải dựa vào hoạt động của khí quan tư duy mà ông
gọi là “tâm tri”: “Tâm làm rõ sự biết, có làm rõ sự biết mới nhờ tai mà nghe
tiếng được, mới nhờ mắt mà biết hình được”.*** Trong nhận thức luận, Tuân
Tử còn chủ trương làm trọng hơn biết. Ông cho rằng “không nghe không bằng
nghe, có nghe không bằng thấy, có thấy không bằng biết, có biết không bằng
làm, học đến chỗ làm được mới thôi”. Những tư tưởng về nhận thức luận của
Tuân Tử đã góp phần quý báu để phát triển nhận thức lý luận nhận thức trong
14

triết học Trung Quốc cổ đại lên một bậc, chống lại các học thuyết sai lầm như

bất khả tri luận, tiên nghiệm luận đương thời. Tuy nhiên, trong lý luận nhận
thức của Tuân Tử cũng đã mắc phải một số hạn chế như phóng đại vai trò, tác
dụng hoạt động của tâm, coi tâm là chủ thể của ý thức, là cái cao hơn hết có
thể điều khiển ngũ quan bất thể, nên nhận thức luận của ông nghiêng về chủ
nghĩa duy tâm
1.2.3. Quan điểm giáo dục của Nho Gia
Một quan điểm quan trọng trong lĩnh vực nhận thức của Nho Gia không
thể không nói đến đó là những đóng góp trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là
Khổng Tử. Khổng Tử cho rằng ý nghĩa của giáo dục là cải tạo nhân tính. Ông
ít nói đến nhân tính thiện ác, nhưng rất coi trọng hiệu quả giáo dục đối với
thiện ác. Muốn dẫn nhân loại đến chỗ tính gần nhau, tức là bản nhiên, thì phải
giáo dục. Giáo dục có thể hoá ác thành thiện. “Trung Dung” viết: “Giáo dục
là tu sửa đạo làm người”. “Đại học” viết: “Đạo của đại học là ở chỗ làm sáng
tạo đức sáng”, “Tu sửa đạo làm người”. Nhưng sự giáo dục và tự giáo dục của
Nho Gia không hướng vào phương diện kỹ nghệ và kinh tế mà hướng vào
chuẩn mực chính trị - đạo đức đã hình thành từ ngàn xưa được nêu gương
sáng trong cổ sử. Có thể kể ra đây những đóng góp lớn trong lĩnh vực giáo dục
của trường phái Nho Gia, nhất là Khổng Tử như tư tưởng: ”Tiên phú hậu
giáo”; mục đích giáo dục là ứng dụng có ích với đời, với xã hội chứ không để
làm quan và hưởng bổng lộc; học là để có nhân cách và học để tìm tòi chân lý,
hoặc Khổng Tử đã đề xuất được tư tưởng trong giáo dục gần như vĩnh cữu
“hữu giáo vô loài”(giáo dục không chia hạng người). Với luận điểm này
Khổng Tử được lịch sử Trung Quốc đánh giá ông là người mở ra một cục diện
mới trong lịch sử Trung Quốc, đó là cục diên khanh tướng áo vải, và ông được
xem là nhà mô phạm đầu tiên của giáo dục “hữu sinh thả cách”. Không dừng
lại ở đó, khi bàn về phương pháp giáo dục, Khổng Tử cũng có những tư tưởng
rất quan trọng. Ông viết rằng: “học nhi thời tập chi” (học để mà hành), ”học dĩ
trí dũng”(???).*** Phương pháp đào tạo một người hiền tài Khổng Tử cho
15


rằng: ”Bác học thẩm vấn, thân tư, minh biện, và dốc hành” nghĩa là bác học
phải thu nhận tất cả, phải thường xuyên thu nhận, thẩm vấn để xem xét khả
năng trình độ sở trường, sở đoạn, tâm trí cụ thể của từng học trò cụ thể, qua
đó nâng dần tri thức từ khái niệm lên bậc cao hơn là suy luận không phụ thuộc
vào dư luận xã hội.”***
Cùng với quan điểm và thái độ học, Khổng Tử và các đồ đệ của ông
cũng rất quan tâm đến quan điểm và thái độ trong giảng dạy. Học là để cho
mình hiểu biết đạo. Đó là việc mà các nhà hiền triết cho rằng vì đạo mà học
thì không biết chán, vì đạo mà dạy thì không biết mệt mỏi. Khổng Tử và các
đồ đệ của ông đều đã mở trường lớp riêng của mình và chia thành sáu ngành:
Lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số, và bốn khoa: Đạo đức, chính trị, ngôn ngữ, văn học.
Tư tưởng triết học về nhận thức chủ yếu là tư tưởng về giáo dục,
phương pháp và thái độ học tập, dạy học của Khổng Tử. Những tri thức và
quan điểm trác tuyệt của nó chính là bộ phận giàu sức sống nhất trong tư
tưởng Nho Gia.
1.2.4. Quan điểm chính trị-xã hội của triết học Nho Gia.
Có thể nói đóng góp nổi bật nhất của trường phái Nho Gia, đặc biệt là
của Khổng Tử là lí luận về chính trị - xã hội. Lịch sử Trung Hoa cổ đại chỉ ra
rằng, cuối thời Xuân Thu sự thay đổi các quan hệ sản xuất trong phương thức
chiếm hữu nô lệ bắt đầu dẫn đến sự thay đổi kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Một loạt các học thuyết khác nhau ra đời kèm theo đó là các luật lệ phép tắc
khác nhau được giai cấp chủ nô quý tộc ban hành nhằm duy trì địa vị của
mình trong xã hội. Mâu thuẫn xã hội trong thời kì này diễn ra gay gắt. Các
nước chư hầu không phục tùng vua Chu, không cống nạp, thôn tính lẫn nhau
để cướp ruộng đất và sức lao động. Đây là thời kì của những cuộc chiến tranh
lớn và khốc liệt, nhân dân Trung Quốc chịu thuế nặng nề, nạn lao dịch khổ ải,
ruộng đất bỏ hoang, nạn đói triền miên hoành hành khắp nơi. Xã hội rơi vào
tình trạng hỗn loạn.
16


Trên cơ sở những gì trực tiếp quan sát được, Khổng Tử và các đồ đệ của
ông muốn xây dựng một học thuyết để giúp vua lập lại kỉ cương duy trì sự ổn
định trong xã hội. Và để giải quyết các vấn đề xã hội, Nho Gia không xuất
phát từ việc phân tích cơ sở kinh tế xã hội, mà Nho Gia quy toàn bộ quan hệ
xã hội về những quan hệ chính trị- đạo đức, coi đó là quan hệ nền tảng của xã
hội. Trong các mối quan hệ xã hội triết học Nho Gia xác định năm mối quan
hệ cơ bản và thông thường của mỗi đời người trong thiên hạ gọi là ngũ luân
gồm các quan hệ: Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bè-bạn (quân thần, phụ
tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu) (Trung Dung). Mỗi quan hệ lại có những
tiêu chuẩn riêng cho từng đối tượng như cha hiền con thảo, anh tốt em ngoan,
chồng biết tình nghĩa vợ nghe lẽ phải, bề trên từ hiếu bề dưới kính thuận, vua
nhân từ tôi trung. Trong “ngũ luân” có ba mối quan hệ cơ bản nhất Nho Gia
gọi “tam cương” là “quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vị thê cương”
(quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ). Quan hệ thứ nhất thuộc quan hệ quốc
gia, còn hai quan hệ sau thuộc quan hệ gia đình. Điều này nói lên rằng trong
quan hệ xã hội của Nho Gia đặc biệt quan tâm tới quan hệ nền tảng xã hội là
quan hệ gia đình. Quan hệ gia đình ở đây mang tính chất tông tộc dòng họ.
Theo các nhà triết học Nho Gia xã hội trị hay loạn trước hết thể hiện ở chỗ có
giữ vững được ba quan hệ ấy hay không, và ba mối quan hệ trên được các nhà
triết học Nho Gia, đặc biệt là Khổng Tử đặt ra cho tiêu chuẩn riêng. Chẳng
hạn, trong quan hệ vua tôi Khổng Tử lên án việc chức tước duy trì theo kiểu
huyết thống, dòng dõi. Theo ông, người cầm quyền phải có đức tài không cần
tính đến xuất thân của họ. Một ông vua tốt là một ông vua phải đảm bảo cho
dân được no ấm, xây dựng lực lượng quân sự hùng hậu, đặc biệt là phải chiếm
được lòng tin của dân. Ngoài ra ông vua đó phải trọng dụng người đức độ và
có năng lực làm việc. Trong quan hệ cha con, Khổng Tử nói đến chữ “hiếu”.
Ông không nhấn mạnh đến của cải do con cái giành cho cha mẹ mà nói đến
“tâm” để đánh giá lòng hiếu thảo của con đối với cha mẹ. Một người con có
hiếu không chỉ phụng dưỡng người sinh ra mình mà trước hết phải có lòng
thành kính. Đặc biệt quan hệ về hiếu của Khổng Tử, không phải là quan hệ

17

một chiều, không phải con cái đều nhất nhất nghe theo lời cha mẹ, bổn phận
của con cái là phải can gián cha mẹ khi họ mắc sai lầm. Và đối với quan hệ
vua tôi cũng thế, Khổng Tử không chủ trương ngu trung bắt buộc con người
phải phục tùng bề trên một cách vô điều kiện.
Lý tưởng xã hội mà Nho Gia muốn hướng tới là một xã hội “đại đồng”,
nhưng khái niệm đại đồng của Nho Gia không phải là xã hội đặt trên nền tảng
xã hội sản xuất phát triển cao mà là một xã hội “an hoà”, trong đó sự an hoà
được đặt trên nền tảng của sự công bằng xã hội. Khái niệm công bằng của
Nho Gia không phải là thứ quan niệm “cào bằng” tiểu nông mà là công bằng
trên cơ sở địa vị xã hội của mỗi cá nhân dòng họ.(8)
Như đã nói ở trên, xã hội cuối thời Xuân Thu là xã hội của những cuộc
chiến tranh liên miên, loạn lạc và mất trật tự. Đứng trước tình trạng đó phương
thức để duy trì trật tự công bằng xã hội theo quan điểm Nho Gia là phải nêu
cao tư tưởng “chính danh”. Nội dung của nó là “phàm đã là con người trong
xã hội thì ai cũng có chỗ đứng nhất định có bổn phận trách nhiệm nhất định
tương ứng với khả năng của mỗi người”. Từ đó Khổng Tử hình thành tư tưởng
chính danh.
Chính danh nói một cách khái quát nhất là làm việc một cách ngay
thẳng, chính trực đúng với trách nhiệm và bổn phận của mình nói đi đôi với
làm. Cụ thể là: Tài đức phải phù hợp tương xứng với chức vụ được giao; Ai ở
địa vị nào thì phải làm tròn trách nhiệm và giữ phận ấy không được hưởng
quyền lợi cao hơn địa vị của mình, không ở chức vụ nào thì không mưu tính ở
chức vụ đó. Ai giữ phận nấy cứ theo tổ chức xã hội nhà Chu mà làm thì nước
mới thịnh thiên hạ mới an bình, gọi là hữu đạo. Nói năng hành động phải theo
chính danh (Tức lời nói và hành động phải phù hợp với nhau, không được nói
ít làm nhiều, không được lời nói thì kính cẩn mà trong lòng thì không).
Vì cho chính danh là quan trọng cho nên khi Tử Lộ, học trò thân của
Khổng Tử hỏi “nếu vua Vệ giao chính sự cho thầy thì thầy sẽ làm gì trước?”.

Khổng Tử nói:
18

- Chắc chắn phải chính danh trước!
Tử Lộ nói:
- Sao thầy viển vông thế. Chính danh để làm gì?
Khổng Tử nói:
- Anh này rõ thật quê mùa quá! Cái danh mà không chính thì lời nói
không thuận, lời nói không thuận thì sự việc không thành, việc không thành
thì không sao làm cho lễ nhạc phồn thịnh, lễ nhạc không phồn thịnh thì hình
phạt không đúng thì dân biết đặt chân tay vào đâu(9).
Đã mang cái danh vua thì phải làm tròn trách nhiệm của ông vua, nếu
không thì sẽ mất danh và sẽ mất luôn cả ngôi.
Như vậy để có một xã hội trật tự mọi người phải “chính danh”, còn nếu
không thì xã hội ắt trở nên loạn lạc. Không thể có một xã hội trị bình mà
nguyên tắc chính danh bị vi phạm. Nhưng để thực hiện được “chính danh” thì
xã hội phải có một nền giáo dục tốt, mỗi người phải tự giáo dục và được giáo
dục, và có như vậy con người mới biết phận vị của mình mà nhìn nhận hành
động cho đúng trong cuộc sống.
Trong khi những kẻ nắm quyền thuộc giai cấp chủ nô quý tộc ban hành
hết sắc luật này đến sắc luật khác, thì Khổng Tử cũng như các đồ đệ của ông
cho rằng không nên lạm dụng luật pháp. Để ổn định trật tự xã hội, theo Khổng
Tử là phải thực hiện đường lối đức trị và nhân nghĩa. Đạo đức cũng là công
cụ để thực hiện “chính danh” và những chuẩn mực đạo đức mà Nho Gia đề
cao là: Nhân- Lễ Nghĩa -Trí -Tín (hay còn gọi là ngũ thường), và trong đó
nhân giữ vị trí là giá trị chính trị đạo đức đầu bảng của các giá trị. Lễ là hình
thức và chính danh là con đường đạt đến điều nhân. Giữ , lễ, trí, tín mà thiếu
lòng nhân thì những cái đó chỉ mang ý nghĩa hình thức mà thiếu cái thực. Cốt
lõi nhân là lòng yêu thương con người.
19


Sau này trong quan điểm chính trị xã hội của mình Mạnh Tử phái triển
quan điểm “Nhân” của Khổng Tử thành học thuyết “Nhân chính” với những
nội dung rất quan trọng như: Bớt hình phạt, nhẹ thuế má, tạo cho mỗi người
dân một nghiệp để phụng dưỡng bố mẹ và nuôi vợ con, để được mùa thì no
đủ, năm mất mùa thì không chết đói. Cơ sở của chủ trương này là có hằng sản
thì có hằng tâm. Trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa và chủ trương “nhân chính”,
Mạnh Tử đã đề xuất một quan điểm hết sức độc đáo đó là quan điểm dân bản.
Ông cho rằng trong một quốc gia quý nhất là dân, sau đó là xã tắc và cuối
cùng mới đến vua. Vì có dân mới có vua. So với Khổng Tử đây là một bước
phát triển. Không những thế Mạnh Tử còn chủ trương thực hành nhân nghĩa
thì phải thực hành điền nhân, và bảo vệ dân, chống quan điểm pháp luật hà
khắc của Pháp Gia, bởi vì Mạnh Tử cho rằng bản tính con người là thiện.
Cũng với mong muốn kế thừa và phát triển Nho Gia, nhưng Tuân Tử
cho rằng bản tính con người ác chứa đầy dục vọng, cho nên quan điểm về
chính trị của Tuân Tử có một số ít khác biệt so với người thầy của mình. Ông
chủ trương đường lối trị nước kết hợp Nho Gia với Pháp Gia, Vương đạo với
“Bá đạo”, Lễ pháp kiêm trị, “Vương Bá tín dụng” (Lễ pháp đều coi trọng
trong việc cai trị, đạo Vương và đạo Bá đều được sử dụng).
Nói tóm lại, trong quan điểm chính trị xã hội trường phái Nho Gia chủ
trương dùng đường lối đức trị, lễ trị, không để sự giàu nghèo tách biệt thái quá
và mong muốn xây dựng nên mẫu người quân tử, kẻ sĩ và người làm chính trị.
1.2.5. Quan điểm về đạo làm người của trường phái Nho Gia
Những người sáng lập ra Nho Gia quan niệm rằng, sự vận động của trời
đất không diễn ra lộn xộn mà diễn ra theo “đạo”. Khổng Tử cho rằng với con
người và xã hội loài người, vấn đề ra đạo cho thật đúng đắn thật rõ ràng là
quan trọng. Không biết đạo là không thể làm người, không có cuộc sống xứng
đáng. Con người là bộ phận tự nhiên, nếu lấy cơ thể con người mà nói thì con
người nhất luận phải tuân theo những nguyên lý “âm dương biến hoá” của đạo
trời và “cương nhu tương thôi” của đạo đất. Nhưng con người là một vật, một

20

loài có tâm hồn, có trí tuệ. Xã hội loài người là cuộc sống xã hội và quan hệ
giữa con người và cuộc sống xã hội không giống như con người với cuộc sống
tự nhiên. Con người có “tính của con người”. Tính là trời phú cho là “gần
nhau”, nhưng cuộc sống bằng hoàn cảnh này, môi trường khác mà gây nên
những tập tục khác nhau. Do đó, “tập là xa nhau” và nhiều người không giữ
được tính trời đã mệnh nên phải “lập lại đạo người của người nói???*** nhân
nghĩa” (Trung Dung) và nhân nghĩa là hai yếu tố cơ bản quyết định lớn nhất
đạo làm người.
Tách riêng đức Nhân ra thì Khổng Tử, Mạnh Tử đều coi Nhân là đỉnh
cao chót vót của lâu đài đạo đức con người. Nhân theo quan điểm của Khổng
Tử là lòng yêu thương con người và theo Mạnh Tử “lòng trắc ẩn” hai quan
điểm đó nhất trí với nhau. Như vậy Nho Gia coi Nhân là đạo đức hoàn thiện
nhất bao gồm tinh tuý của tất cả các đức khác gắn với đạo đức chung, đức
Nhân thể hiện trong mối quan hệ giữa người và người(10). Trong bất kỳ mối
quan hệ nào nếu có sự hư hỏng về đức riêng thuộc mối quan hệ ấy, thì đồng
thời cũng là một tình trạng trái với đức Nhân. Chẳng hạn: bạn hữu không có
tín với nhau cũng trái với đức Nhân, không cung kính bề trên, không trung
thực với kẻ khác, không cương trực đều trái với đức Nhân. Đức hiếu là gốc
của đức Nhân cho nên bất hiếu là tội nặng nề nhất. Khi nói đến đức Nhân là
đỉnh cao chót vót của trường phái Nho Gia, thì mặt khác ta thấy đức Nhân gần
gũi với con người hơn, gần với bản chất tự nhiên của con người hơn. Khổng
Tử nói: “Nhân có xa xôi gì đâu, ta muốn Nhân thế là Nhân tới”. Đương nhiên,
hiếm có Nhân, có nghĩa là ”không thể là Nhân”, còn “gần với Nhân” cũng có
nghĩa là “chưa phải là Nhân””***. Người muốn có Nhân là phải ham học.
Ham Nhân mà không ham học, cái hại che lấp cái Nhân là ngu. Cho nên Nhân
hay đi đôi với Trí và Dũng ở những con người có chí khí cao, sự nghiệp lớn.
Để đạt được điều Nhân, Khổng Tử chủ trương dùng Lễ nhà Chu duy trì
đẳng cấp trên dưới, tôn ti. Khái quát quan điểm Lễ của Khổng Tử - Mạnh Tử

-Tuân Tử ta thấy có hai mặt gắn bó với nhau. Về mặt tổ chức xã hội, Lễ thể
21

hiện ở nghi lễ, quy chế, kỷ cương, trật tự tôn ti. Ở mặt này người ta kết luận là
lễ giáo phong kiến. Về mặt đạo đức Lễ thể hiện ở thái độ, ở ý thức là nếp sống
tôn ti trật tự. Ai làm trái điều trên thì không có đạo đức. Cho nên Khổng Tử
khuyên người ta “chớ xem điều trái lễ chớ nói điều trái lễ, chớ làm điều trái
lễ”.
Như vậy Nho Giáo cổ đại (hay còn gọi là Nho Giáo nguyên thuỷ hoặc
còn gọi là Nho Gia) với các đại biểu tiêu biểu như Khổng Tử , Mạnh Tử, Tuân
Tử bên cạnh những hạn chế về lập trường giai cấp, về hoàn cảnh lịch sử, tư
tưởng chứa đựng không ít mâu thuẫn, tư tưởng của họ không phải lúc nào
cũng được trọng dụng, nhưng nó có những nét tiến bộ nhất định và tư tưởng
này có mặt trong tất cả các triều đại Trung Hoa. Nó để lại dấu ấn của mình
không chỉ trong sách vở mà cả trong cuộc sống thực của nhiều thế hệ.
1.3. Đổng Trọng Thư và môn phái Hán Nho
Như trên đã trình bày, luận văn chỉ hạn chế ở những nội dung chủ yếu
của trường phái triết học Nho Gia, nhưng vì đạo Nho có ảnh hưởng sâu rộng
đến nền văn hoá Việt Nam không đơn thuần chỉ là Nho Gia sơ kỳ, nên trong
luận văn của mình, tác giả trình bày thêm một số né khái quát về Đổng Trọng
Thư và môn phái Hán Nho(11).
1.3.1. Một vài nét về hoàn cảnh lịch sử thời Lưỡng Hán và nhà tư
tưởng Đổng Trọng Thư.
Năm 221 tcn, Tần Thuỷ Hoàng chinh phục sáu nước: Tề, Sở, Yên, Hàn
Triệu, Nguỵ trong cục diện “thất hùng” thiết lập nên nhà nước phong kiến
trung ương tập quyền đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Sau khi thống nhất
Trung Quốc, Tần Thuỷ Hoàng khai thác triệt để hơn tư tưởng Pháp Gia nhằm
xoá sạch những vết tích còn lại của nhà nước phong kiến phân quyền và thiết
lập nhà nước phong kiến tập quyền. Nhà Tần vừa bước ra khỏi cuộc chiến
tranh tàn khốc, nhưng không những không khoan thư sức dân mà Tần Thuỷ

Hoàng còn thi hành những chính sách phản nhân đạo, phản văn hoá như vơ
22

vét của cải và khai thác một cách khánh kiệt sức lực của nhân dân để xây dựng
những công trình lớn như Vạn Lý Trường Thành, cung A Phòng và chính sách
tàn khốc nhất của Tần Thuỷ Hoàng trên lĩnh vực tư tưởng là giết nhà Nho và
đốt sách (chôn sống 460 nhà Nho ở Hàm dương) (12). Với chính sách phản
nhân đạo như vậy, lại không chăm lo phát triển kinh tế xã hội nhà Tần đã đẩy
xã hội vào tình trạng rối ren, các cuộc khởi nghĩa chống lại thể chế nhà Tần
của nông dân đã liên tiếp nổ ra. Trong đó có hai phong trào nổi bật nhất của
Lưu Bang và Hán Võ, lật đổ nhà Tần năm 206 tcn dựng nên nhà Hán kéo dài
từ 206 tcn đến 220 scn, chia làm hai thời kỳ: Tây Hán 206 scn???*** đến 25
scn, Đông Hán 25 scn đến 220 scn.
Thời kỳ Lưỡng Hán là thời kỳ lịch sử có nhiều biến động chính trị xã
hội sâu sắc đặc biệt là sự sụp đổ của nhà Tần hình thành nên nhà Hán. Đây là
thời kỳ nhờ những cuộc cải cách xã hội, mà kinh tế - xã hội, nền khoa học kỹ
thuật và văn hoá so với đời Tần có bước phát triển với những thành tựu đáng
kể.
Với những đặc điểm lịch sử - xã hội của thời Lưỡng Hán, đặc biệt là với
sự chuyển biến về mặt chính trị, trực tiếp nhất là nhu cầu hình thành một hệ tư
tưởng chính trị phục vụ giai cấp thống trị đương thời, mà bài học nhãn tiền
của nhà Tần còn nóng hổi, trên cơ sở đó các học thuyết triết học ra đời phát
triển, thời kỳ này xuất hiện nhiều trường phái triết học, nhiều nhà tư tưởng lớn
nhưng trong đó triết học duy tâm thần học của Đổng Trọng Thư là nổi bật
nhất.
Đổng Trọng Thư (179 tcn đến 104 tcn), ông được đánh giá là một nhà
tư tưởng lớn, người học rộng biết nhiều, đam mê chính trị. Đổng Trọng Thư
ba lần dâng đối sách cho Hán Vũ Đế. Nếu như đế chế nhà Tần là đế chế hùng
mạnh trong lịch sử Trung Quốc, nhà Tần tồn tại 15 năm (221- 206 tcn), thì
nhà Hán kế tục nhà Tần duy trì tồn tại của mình hơn bốn thế kỷ. Sự tồn tại

hưng thịnh của nhà Hán có rất nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân nổi
bật là nhà Hán có hệ tư tưởng khá chặt chẽ đó là hệ tư tưởng Hán Nho. Việc
23

chuyển Nho Gia với tư cách là học thuyết triết học chính trị - xã hội thành
Nho Giáo - Hán Nho - là một hệ tư tưởng với những luật lệ khắc nghiệt trói
buộc con người, nhất là trói buộc đối với người phụ nữ, “công lao” đó thuộc
về Đổng Trọng Thư.
1.3.2. Những nội dung triết học cơ bản của Hán Nho.
1.3.2.1. Quan điểm về thế giới.
Kế thừa những tư tưởng triết học của lịch sử Trung Quốc, Đổng Trọng
Thư cho rằng cái khí của trời - đất hợp là một, phân ra âm - dương chia ra bốn
mùa, bày ra ngũ hành. Âm, dương không phải là cứu cánh của vũ trụ mà chỉ là
sự biểu hiện một sự đồng nhất của vũ tru, mà nếu không có sự đồng nhất đó
thì vũ trụ không thể giao hội được. Đổng Trọng Thư cho rằng vạn vật trong vũ
trụ đều có bắt đầu gọi là nguyên. Ông viết: ”trời là tổ của muôn vật và vua của
trăm vị thần, trời đứng trên tất cả vì trời có ý chí có đạo đức, trời chi phối vạn
vật”. Ông khẳng định rằng không có trời thì vạn vật không sinh ra, không có
một mình khí dương, không có một mình khí âm, mà âm - dương trời đất phải
tham hợp với nhau mới sinh ra vạn vật. Ông khẳng định vũ trụ tạo nên tứ thập
đoan gồm: âm - dương, ngũ hành, tam tài, thiên - địa - nhân và cho rằng trời,
người tương đồng với nhau từng điểm một.
1.3.2.2. Quan điểm chính trị xã hội.
Đầu thời kì nhà Hán đã có ý tưởng sử dụng Nho Gia với Pháp Gia
nhưng không thành, đến Đổng Trọng Thư ông đã thực hiện hành công ý tưởng
đó: ”dương Nho âm Pháp”, bên ngoài là Nho bên trong là Pháp. Không chỉ kết
hợp Nho Gia với Pháp Gia mà Đổng Trọng Thư còn kết hợp Nho Gia với thần
học. Ông viết: ”nhà vua phải vừa là một vị giáo chủ vừa là một hoàng đế có
quyền hành tuyệt đối. Bộ kinh Xuân Thu, Khổng Tử chép lịch sử nước Lỗ 722
tcn - 480 tcn để bày tỏ thái độ chính trị của mình, Đổng Trọng Thư đã biến

kinh Xuân Thu của Khổng Tử thành bộ thánh kinh Nho Giáo .
24

Đổng Trọng Thư cho rằng tính con người tuy thiện nhưng không phải
hoàn toàn thiện, vì vậy cần có ông vua ở địa vị thật cao và quyền hành tuyệt
đối để sửa trị, và ông vua đó có ba nhiệm vụ chính: Thừa thiên ý: trên là thừa
mệnh trời. Minh giáo hoá: dưới phải giáo dục cho dân. Chính pháp độ: giữ cho
pháp luật ngay thẳng.
Có thể nói rằng Đổng Trọng Thư đã kết hợp thành công Nho Gia với
Pháp Gia cộng thần học để đi đến một đường lối cai trị nhất nhất phỏng theo
đạo trời.
Trên cơ sở hệ thống hoá quan điểm của Khổng Tử, Mạnh Tử , Tuân Tử
về mối quan hệ xã hội và phẩm chất của con người, Đổng Trọng Thư đã xây
dựng một hệ thống các phạm trù: ”Ngũ luân”, ”Tam cương”, ”Ngũ thường” để
quản lí xã hội và giáo hoá con người, Đổng Trọng Thư gọi đó là hệ thống quy
phạm đạo đức.
Ngũ luân là năm mối quan hệ cơ bản giữa người trong xã hội: vua tôi,
chồng vợ, cha con, anh em, bạn bè (quân thần, phu thê, phu tư, huynh đệ, bằng
hữu). Mối quan hệ vua tôi được đặc trưng bằng chữ ”Trung”. Mối quan hệ cha
con được đặc trưng bằng chữ “Hiếu”. Mối quan hệ vợ chồng được đặc trưng
bằng chữ “Tiết”, cùng nhiều quy định nghiêm nghặt đối với người vợ như
“Tam tòng”, ”Tứ đức” Mối quan hệ anh em được đặc trưng bằng chữ “Đệ”.
Mối quan hệ bè bạn được đặc trưng bằng chữ ”Thành”, ”Tín”.
Những mối quan hệ này trước đây đã được Khổng Tử, Mạnh Tử đề cập
và nó có nghĩa vụ hai chiều, có điều kiện, chiều nào cũng có nghĩa vụ cả.
Khổng Tử nói: ”Cha thì nhân từ con thì có hiếu”. Thế nhưng đến Đổng Trọng
Thư , để phục vụ cho chế độ phong kiến trung ương tập quyền ông đã tước bỏ
tính chất nhân đạo và tiến bộ đó, đưa vào quan hệ một chiều khắc nghiệt,
người dưới phải có nghĩa vụ phục tùng tuyệt đối yêu cầu của người trên. Sự
tuyệt đối hoá quan hệ một chiều đã tạo ra sự tuỳ tiện của kẻ trên và tạo nên

một quy luật đạo đức phi lí, phi nhân bản. Tư tưởng này đến thời Tống càng
trở nên nghiệt ngã và đã đẩy con người ta đi đến chấp nhận chủ nghĩa ngu
25

×