Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Điều tra thành phần sâu hại cà phê chè, diễn biến và một số yếu tố ảnh hưởng đến sâu đục thân mình trắng Xylostrechus quadies Chevr

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
Khoa Nông - Lâm
Nguyễn Thị Lịch
Điều tra thành phần sâu hại cà phê chè, diễn biến và một số yếu tố
ảnh hưởng đến sâu đục thân mình trắng Xylostrechus quadies Chevr
trong năm 2010 tại xã Chiềng Pha Thuận Châu, Sơn La năm 2010
BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Nông Học

Sơn La , tháng 12 năm 2010
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài thực tập tốt nghiệp này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của
bản thâ, tôi còn nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của thầy cô, gia đình và bạn bè.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy Vũ Quang Giảng - Giảng viên
khoa Nông Lâm - Trường ĐH Tây Bắc, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực tập. Đồng thời qua đây tôi cũng xin chân thành cảm ơn
tới các thầy cô giáo trong bộ môn nông nghiệp, những người đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới bà con dân bản xã Chiềng Pha đã nhiệt tình
giúp đỡ, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực tập tại xã.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, bố mẹ và bạn bè thân,
những người đã luôn động viên, ủng hộ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Do kiến thức và thời gian có hạn nên báo cáo này không tránh khỏi sai sót,
kính mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để báo cáo hoàn thiện hơn.
Sơn La ngày 15 tháng 12 năm 2010.
Sinh viên
Nguyễn Thị Lịch
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
2. Mục đích, yêu cầu


2.1. Mục đích
2.2. Yêu cầu
Phần I: TỔNG QUAN
1.1. Thành phần sâu hại trên cây cà phê
1.2. Nghiên cứu về sâu đục thân mình trắng hại cà phê
1.2.1. Đặc điểm sinh học
1.2.2. Đặc điểm hình thái, quy luật phát sinh gây hại của sâu đục thân mình
trắng hại cà phê
1.2.2.1. Đặc điểm hình thái, tập quán sinh sống và qui luật phát sinh gây hại
của sâu đục thân mình trắng
1.2.3. Triệu chứng cây bị hại
1.3 Tổng quan về cây cà phê
1.3.1 Giống cà phê
1.3.2 Các yêu cầu về điều kiện ngoại cảnh của cây cà phê chè
1.3.2.1 Đất đai
1.3.2.2 Khí hậu
PHẦN 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, thời gian, địa điểm nghiên cứu
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu
2.1.3. Dụng cụ thí nghiệm
2.1.4. Thời gian nghiên cứu
2.1.5. Địa điểm nghiên cứu
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Điều tra tình hình sản xuất cà phê tại vùng nghiên cứu
2.3.2. Điều tra thành phần sâu hại trên cây cà phê chè
2.3.3. Điều tra diễn biến của sâu đục thân mình trắng hại cà phê
2.3.3.1. Điều tra tỷ lệ cây cà phê bị sâu đục thân mình trắng gây hại
2.3.3.2. Điều tra tỷ lệ, mật độ các pha phát dục của sâu đục thân mình trắng
theo thời gian

2.3.4. Điều tra yếu tố ảnh hưởng đến đến tỉ lệ cây cà phê bị sâu đục thân
mình trắng gây hại
2.3.4.1. Ảnh hưởng của cây che bóng đến tỉ lệ sâu đục thân mình trắng
2.3.4.2. Ảnh hưởng của tuổi cây đến đến tỉ lệ cây cà phê bị sâu đục thân mình
trắng gây hại
2.3.4.3. Ảnh hưởng của chế độ chăm sóc đến đến tỉ lệ cây cà phê bị sâu đục
thân mình trắng gây hại
2.3.4.4. Ảnh hưởng của vị trí trồng (sườn núi phía Đông, phía Tây) đến tỉ lệ
cây cà phê bị sâu đục thân mình trắng gây hại
2.4 Công thức tính toán và phương pháp xử lí số liệu
2.4.1. Công thức tính toán
2.4.2. Phương pháp xử lí số liệu
III KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khái quát tình hình phát triển cà phê tại xã Phỏng Lái, huyện Thuận
Châu - Sơn La
3.2. Thành phần sâu hại trên cây cà phê chè Catimor tại Chiềng Pha
3.3. Điều tra diễn biến của sâu đục thân mình trắng Xylotrechus quadripes
Chevr hại cà phê qua các tháng năm 2010
3.3.1. Diễn biến tỷ lệ cây cà phê bị sâu đục thân mình trắng gây hại theo thời
gian
3.3.2 Diễn biến tỷ lệ, mật độ các pha phát dục của sâu đục thân mình trắng
trong các tháng
3.3.3.1. Diễn biến tỷ lệ các pha phát dục của sâu đục thân mình trắng trong
các tháng
3.3.3.1. Diễn biến mật độ các pha phát dục của sâu đục thân mình trắng trong
các tháng
3.4. Ảnh hưởng của một số yếu tố đến tỉ lệ sâu đục thân mình trắng
3.4.1. Ảnh hưởng của cây che bóng đến tỉ lệ cây bị sâu đục thân mình trắng
gây hại
3.4.2. Ảnh hưởng của tuổi cây đến tỉ lệ cây cà phê bị sâu đục thân mình trắng

gây hại
3.4.3. Ảnh hưởng của chế độ chăm sóc đến tỉ lệ cây cà phê bị sâu đục thân
mình trắng gây hại
3.4.4. Ảnh hưởng của vị trí trồng (sườn núi phía Đông, phía Tây) đến tỉ lệ cây
cà phê bị sâu đục thân mình trắng gây hại
3.5. Đề xuất một số giải pháp phòng trừ sâu đục thân mình trắng (Xylotrechus
quadripes Chevr)
PHẦN 4 : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1 Kết luận
4.2. Kiến nghị

DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
Bảng 3.1. Thành phần sâu hại cà phê chè tại Chiềng Pha năm 2010 Bảng
3.2. Tỉ lệ cây bị hại của sâu đục thân mình trắng
Bảng 3.3. Tỷ lệ các pha phát dục của sâu đục thân mình trắng
Bảng 3.4. Mật độ hại của sâu đục thân mình trắng
Bảng 3.5: Tỷ lệ (%) cây cà phê bị sâu đục thân mình trắng gây hại ở vườn có
cây che bóng và vườn không có cây che bóng
Bảng 3.6: Tỷ lệ (%) cây cà phê ở các độ tuổi bị sâu đục thân mình trắng gây
hại
Bảng 3.7: Tỷ lệ (%) cây cà phê bị sâu đục thân mình trắng gây hại ở vườn
chăm sóc tốt và ít chăm sóc
Bảng 3.8 : Tỷ lệ (%) cây cà phê bị sâu đục thân mình trắng gây hại ở sườn núi
phía Đông và phía Tây
Hình 1: Tỷ lệ cây cà phê bị sâu đục thân mình trắng gây hại
Hình 2: Tỷ lệ các pha phát dục của sâu đục thân mình trắng
Hình 3: Mật độ hại của sâu đục thân mình trắng
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BVTV : Bảo vệ thực vật
CS : Cộng sự

ĐT : Điều tra
TB : Trung bình
TLH : Tỷ lệ hại
TT : Trưởng thành
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Ngày xưa cà phê là một loại thức uống mà chỉ có giới quí tộc mới được
thưởng thức, Honoré de Balzac thường uống loại cà phê rất đặc để có thể thức
làm việc. Ông thường làm việc tới 12 tiếng một ngày. Ludwig van Beethoven có
thói quen lựa chọn đủ 60 hạt cà phê để pha một tách Mokka. Ngày nay cà phê
trở thành thức uống phổ biến nhất trên thế giới. Cà phê gây hưng phấn kích thích
hệ thần kinh trung ương, làm cho tỉnh táo, kích thích khả năng làm việc, đặc biệt
làm việc bằng trí óc, tăng cường hoạt động cơ. Khi mỏi mệt uống một ly cà phê
sẽ hưng phấn tinh thần, uống sau khi ăn sẽ trợ giúp cho tiêu hoá, mùa hè nóng
bức uống một ly cà phê lạnh cũng có tác dụng giải khát, phòng cảm nắng. Cà
phê còn làm giảm nguy cơ mắc bệnh hen, chữa được dị ứng, giúp giảm đau, bảo
vệ khỏi các bệnh về gan, làm tăng sức mạnh của cơ bắp chống lại bệnh tiểu
đường type II…
Ngoài ra cà phê còn chứa: đường saccaroza 5.3- 7.95%, đường khử 0.3-
0.44%, protein hòa tan 5.15%- 5.23%, các loại protein không hòa tan 5.02-
6.04%, các sinh tố nhóm B, PP là các chất dinh dưỡng cần thiết cho con người.
Hơn nữa khi thưởng thức cà phê ta thấy có mùi thơm rất hấp dẫn, của gần 670
hợp chất thơm phức tạp tạo nên. Hiện nay trên thế giới có hơn 80 nước trồng cà
phê với tổng diện tích hơn 10 triệu ha, giá trị xuất khẩu hàng năm lên tới 10 tỷ
đô la, trong đó phải kể đến Braxin, Colombia, Indonexia, Costarica… Năm 2010
Việt Nam có khoảng 450.000 ha cà phê, sản lượng khoảng 600000 tấn, kim
ngạch xuất khẩu xấp xỉ 1 tỷ USD, là nước đứng đầu thế giới về diện tích, sản
lượng cà phê vối xuất khẩu. Trồng cà phê thu lợi nhuận cao, tạo công ăn việc
làm cho hàng triệu lao động, không những xóa đói giảm nghèo mà còn làm cho
đời sống của nhiều vùng dân cư ngày càng khá . Nhiều vùng đồng bào dân tộc

đã xoá bỏ tập tục du canh du cư, thay thế diện tích trồng ngô sắn bằng cà phê, ổn
định đời sống nhờ có cây cà phê. Mặt khác trồng cà phê góp phần phủ xanh đồi
núi trọc, cải tạo môi sinh, chống lũ lụt, đặc biệt là xói mòn- một vấn đề nhức
nhối với Tây Bắc nói chung, tỉnh Sơn La nói riêng.
Xã Chiềng Pha là một xã nghèo, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn,
trình độ dân trí còn thấp, cơ cấu cây trồng nghèo nàn. Một vài năm gần đây đời
sống của nhân dân đã được cải thiện đáng kể nhờ tăng diện tích trồng cây cà
phê. Nhưng trong quá trình phát triển cây cà phê chè đây chưa đạt được năng
suất cao do gặp một số khó khăn như sương muối, kỹ thuật thâm canh và đặc
biệt là sâu bệnh hại. Để cây cà phê phát triển bền vững cần phát triển cây cà phê
theo quy hoạch, áp dụng đúng quy trình kĩ thuật, chăm sóc cây theo quy trình
phòng trừ dịch hại tổng hợp đặc biệt với loài sâu hại nguy hiểm là sâu đục thân
mình trắng Xylostrechus quadries Chevr, loại sâu phá hại thân quanh năm, rất
khó phát hiện, mang tính hủy diệt đối với cây cà phê công tác phòng trừ rất khó
khăn. Xuất phát từ thực tế trên tôi tiến hành đề tài: “Điều tra thành phần sâu
hại cà phê chè, diễn biến và một số yếu tố ảnh hưởng đến sâu đục thân mình
trắng Xylostrechus quadies Chevr trong năm 2010 tại xã Chiềng Pha Thuận
Châu, Sơn La năm 2010”.
2. Mục đích, yêu cầu.
2.1Mục đích
- Đánh giá được thành phần sâu hại cà phê chè , mức độ gây hại và các yếu tố
ảnh hưởng đến sâu đục thân mình trắng từ đó tìm ra biện pháp phòng trừ có hiệu
quả
2.2 Yêu cầu
- Nắm được thành phần sâu hại cà phê xã Chiềng Pha, Thuận Châu, Sơn La.
- Xác định đặc điểm gây hại của sâu đục thân mình trắng.
- Xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến sâu đục thân mình trắng.
Phần I: TỔNG QUAN
1.1. Thành phần sâu hại trên cây cà phê
Thế giới càng phát triển thì nhu cầu con người cũng được tăng theo, một

trong những nhu cầu đó là nhu cầu sử dụng cà phê như nước giải khát. Nắm bắt
được nhu cầu đó thì ngành cây cà phê trên thế giới cũng phát triển mạnh mẽ,
một số nước có sản lượng xuất khẩu lớn hàng đầu thế giới như Brazin, Việt
Nam, Thái Lan, Indonexia…Tuy nhiên bên cạnh đó cũng tồn tại một số khó
khăn nhất định đã làm cho sản lượng, chất lượng cà phê bị ảnh hưởng. Một
trong những khó khăn đó là vấn đề sâu bệnh hại cây cà phê đặc biệt là ở các
vùng nhiệt đới và Á nhiệt đới là những vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho
sâu bệnh hại phát triển, mà cà phê là loại sản phẩm có giá trị kinh tế cao vì vậy
việc nghiên cứu về thành phần sâu hại cà phê đã được nghiên cứu từ lâu, khá kỹ
và cũng đã được công bố trên thế giới.
Theo Lepelley (1986), từ năm 1962 đã ghi nhận được 48 loài sâu hại cà phê ở
vùng nhiệt đới. Trong đó quan trọng là các loài: Scotia, Segetum, Anthores
leuconotus, Bixadus sierricola, Coccus viridis, Leucoptea coffeella, Lcoffeina,
Dichocrocis crocodora, Epicampoptera maranica, Habrochila placida Taurantii,
Oligonychus cofeae, Antestia lineaticollis, Stephanoderes hampei, Toxoptera
aurantii và Thliptoceras octguttale (Wynger,1962), dẫn theo Vũ Quang Giảng
(2001) [4].
Le Pelley (1973) có nhận xét: trên cây cà phê có gần 400 loài côn trùng gây
hại ở Ethiopia, ở các nước Đông Á có 250 loài và các vùng trung tâm nhiệt đới
có 200 loài. Theo Klarke, Macrae (1987) và Clifford, Willson (1987), đến nay
trên thế giới dịch hại cây cà phê đã ghi nhận tương đối chi tiết, đầy đủ với
khoảng hơn 900 loài. Các loại dịch hại này bao gồm côn trùng, ve, động vật thân
mềm, tuyến trùng, chim và động vật có vú, trong đó có nhiều loài là dịch hại
nguy hiểm trên cây cà phê. Phần lớn những loài đã phát hiện thuộc bộ cánh cứng
(Coleoptra) với 34% tổng số loài, bộ cánh nửa cứng (Hemiptera) với 28% tổng
số loài và bộ cánh vảy (Lepidoptera) với 21% tổng số loài. Các bộ khác đã phát
hiện được số loài ít hơn. Thí dụ, có 6% tổng số loài đã phát hiện thuộc bộ cánh
thẳng (Orthoptera), 4% tổng số loài thuộc bộ cánh tơ (Thysanoptyra), 3% tổng
số loài thuộc bộ hai cánh (Diptera) và 1% tổng số loài thuộc bộ mối, dẫn theo
Vũ Quang Giảng (2001) [4].

Theo Kramer (1967): ước tính sự mất mùa trên cà phê do côn trùng ở các
châu lục khác nhau là khác nhau: Châu Phi 10%, Châu Á: 15%, Châu Mỹ: 12%.
Cũng theo tác giả, giống cà phê chè (Coffea arabica) mẫn cảm với sâu bệnh hại
nhiều hơn giống cà phê vối (coffea canephora Var. Robusta), dẫn theo Vũ Quang
Giảng (2001) [4].
Dennis S.Hill ( 1983) [4] cho rằng: dịch hại thường xuyên có mặt trên là phê
là 95 loài, trong đó dịch hại chủ yếu là 38 loài, dịch hại thứ yếu là 57 loài, dẫn
theo Vũ Quang Giảng (2001) [4].
Theo Phạm Thị Vượng và CS, (2000) [13]: có 24 loài sâu hại cà phê chè, 3
loài hại thân, 2 loài hại cành, 1 loài hại gốc, 2 loài cắn cây con, 15 loài hại lá.
Trong đó có 4 loài thường xuyên gây hại và ảnh hưởng lớn đến năng suất đó là:
sâu đục thân, sâu tiện vỏ, mọt đục hạt và 1 số loài rệp (rệp sáp giả, rệp nâu
mềm), ngoài ra ở một số vùng mọt đục hạt cà phê có mật độ và tỷ lệ hại rất cao.
Vũ Khắc Nhượng và CS (1989) [7] cho rằng: có 22 loài sâu hại chủ yếu
thường gặp trên các vườn cà phê ở Việt Nam. Trong đó, sâu hại phổ biến ở rễ có
loài, sâu hại phổ biến ở thân và cành có 4 loài, sâu hại phổ biến ở lá có 9 loài và
sâu hại ở chùm quả có 3 loài.
Kết quả điều tra thu thập thành phần sâu hại cà phê ở các tỉnh phía Nam
và Tây Nguyên đã phát hiện có 12 loài. Chúng thuộc 5 bộ côn trùng là bộ cánh
cứng Coleoptera (5 loài), bộ cánh vảy Lepidoptera (3 loài), bộ cánh đều
Hompytera (2 loài), bộ cánh thẳng Orthoptera (1 loài) và bộ cánh nửa cứng
Hemiptera (1 loài), (Viện Bảo Vệ Thực Vật, 1999) [13].
Theo kết quả điều tra của Phan Đình Bổng (2001) [1]: tại Gia Lai đã ghi nhận
được 14 loài sâu hại. Chúng tập trung trong 7 họ thuộc 4 bộ côn trùng. Trong
đó: Bộ cánh vẩy Lepidoptera có 1 loài (chiếm 7,14 %), bộ cánh cứng Coleoptera
2 loài (chiếm 14,29 %), bộ mối Isoptera 1 loài (chiếm 7,14 %) và bộ cánh đều
Homoptera 10 loài (chiếm 71,43 %)
Đoàn Công Đỉnh, (1999) [3] nhận xét: sâu hại cà phê rất phong phú và đa
dạng tuy nhiên không phải loài sâu hại nào cũng gây hại nghiêm trọng, chỉ có
một số loài gây hại có ý nghĩa đối với cà phê. Điều tra trong 3 năm 1996 - 1998

trên cây cà phê ở vùng Tây Nguyên phát hiện được 12 loài côn trùng hại cà phê.
Trong đó phổ biến là các loài rệp sáp mềm xanh Coccus viridis Green và rệp sáp
giả Planococus citri Risso hại thân, lá, quả.
Trên cây cà phê chè ở các tỉnh miền núi phía Bắc ghi nhận được có 23 loài
sâu hại, trong đó sâu tiện vỏ được phát hiện lần đầu tiên gây hại cà phê. Sau đó
các tác giả này đã ghi nhận thêm 2 loài sâu hại nữa, đưa tổng số loài sâu hại đã
ghi nhận được trên cây cà phê chè ở các tỉnh miền Bắc lên 25 loài (Trần Huy
Thọ và CS, 1999) [10]. Trong 25 loài đó có 15 loài thường xuyên xuất hiện trên
các vườn cà phê. Trong số các loài đã phát hiện có 4 loài gây hại thân, 2 loài gây
hại cành, 2 loài gây hại cây con và 12 loài gây hại lá. Riêng tập đoàn rệp sáp hại
cà phê chè đã ghi nhận có 4 loài khá phổ biến và quan trọng là rệp sáp mềm
xanh Coccus viridis Green, rệp sáp giả Planococcus citri, rệp sáp mềm nâu
Coccus hesperidum.L, rệp sáp nâu Parasaissetia nigra. Những loài thường xuyên
gây hại nặng cho vườn cà phê gồm: sâu đục thân Xylotrechus quadrips, sâu tiện
vỏ Dihammus cervinus, rệp sáp giả Planococcus citri và rệp sáp nâu
Parasaissetia cervinus , Trần Huy Thọ và CS (2000) [11].
Như vậy thành phần sâu hại cà phê được quan tâm nghiên cứu khá kĩ và
đầy đủ trên các vùng trồng cà phê. Nắm được thành sâu hại cà phê ta có thể có
các biện pháp phòng trừ hợp lí cho từng vùng miền.
1.2. Nghiên cứu về sâu đục thân mình trắng hại cà phê
Theo Dr Hall và CS (1998), [15] sâu đục thân mình trắng là loại côn trùng
gây hại quan trọng nhất trên cà phê chè ở Ấn Độ cũng như Srilanka, Trung
Quốc, Việt Nam, Thái Lan. Trong các nguyên nhân làm giảm diện tích canh tác
cà phê thì sâu đục thân mình trắng là nguyên nhân trung tâm, người ta ước tính
rằng cả nước bị mất 130m rupi mỗi năm vì loài sâu hại. Xén tóc đực hấp dẫn
con cái bằng hoocmon sinh dục đực được phát hiện ra bởi Venkateshu và cộng
sự năm 1986. Qua nhiều nghiên cứu các nhà khoa học đã xác định được 3 chất
hấp dẫn của xén tóc đực, người ta có thể dùng kết hợp ba loại feromol này để
dẫn dụ con cái và tiêu diệt chúng.
1.2.1. Đặc điểm sinh học

Trưởng thành là loài xén tóc nhỏ có râu đầu thẳng, sâu non màu trắng ngà,
không có chân, các đốt thân rõ, ngực rộng hơn bụng, hàm răng sắc khỏe, màu
nâu sẫm, khi gần hóa nhộng (tiền nhộng) phần ngực hẹp lại gần bằng phần bụng,
nhộng màu nâu sẫm (Giáo trình côn trùng nông nghiệp, 1982) [5].
Sâu đục thân mình trắng Xylotrechus quadripes Chevr chỉ phá hoại trên cà
phê chè (K.s Bùi Thế Đạt và CS, 1995) [2]. Hiện nay Sơn La vẫn chưa phát hiện
kí chủ phụ của loài sâu này, nên công tác phòng trừ khó khăn hơn.
1.2.2. Đặc điểm hình thái, quy luật phát sinh gây hại của sâu đục thân mình
trắng hại cà phê
1.2.2.1. Đặc điểm hình thái, tập quán sinh sống và qui luật phát sinh gây hại.
Hàng năm sự xuất hiện gây hại của sâu bore trên các lô cà phê là liên tục và
phức tạp quanh năm đều gặp các pha phát dục của sâu, do đó sự phân lứa sâu
một cách rõ rệt có khó khăn. Tùy thuộc vào điều kiện thời tiết, vòng đời của sâu
bình quân là 150- 210 ngày, trong đó:
+ Pha trưởng thành: 25-30 ngày
+ Pha trứng: 15-30 ngày
+ Pha sâu non: 60-120 ngày
+ Nhộng: 30 ngày
Trưởng thành sau khi vũ hóa vẫn nằm lại trong thân cây từ 2-5 ngày (có thể từ
10-15 ngày) chờ điều kiện ấm áp mới chui ra hoạt động. Phạm vi độ nhiệt từ
25-30
0
C sâu trưởng thành hoạt động mạnh. Con trưởng thành ưa hoạt động ở
những nơi quang đãng nhiều ánh sáng. Trưởng thành có tập quán uống nước
nhiều nhất là có nhiệt độ cao, giao phối vào buổi sáng và có thể giao phối nhiều
lần trong ngày, đẻ trứng từ trưa đến 3-4 h chiều. Trứng thường được đẻ vào
những đoạn gốc vào giữa thân, các chỗ mắt cành (những chỗ có nhiều vết nứt
nhất) vết nứt hẹp và sâu, rải rác từng quả cũng có khi từ 2-9 trứng hoặc hàng
chục quả ở một nơi. Thời gian đẻ trứng kéo dài từ 1-15 ngày. Số lượng trứng đẻ
của một con cái tùy theo tháng. Thường vào tháng 4-5 tháng trứng đẻ nhiều

nhất. Tháng 4 bình quân một con cái đẻ 87.2 trứng, tháng 5 là 10.2 trứng (tối đa
là 364 trứng). Trưởng thành sống trung bình 10-14 ngày, tối đa là 34 ngày. Mùa
hè trưởng thành sống ngắn hơn mùa đông, con cái sống lâu hơn con đực. Sâu
non sau nở 1-2 ngày thì đục vào vỏ. Sâu đục quanh phần vỏ đa số là tuổi 1
(95.8%). Khi sâu đục vào phần giáp vỏ và gỗ đa số là sâu non tổi 2 (72.9%). Khi
sâu có kích thước trên 6mm (tuổi 3) mới bắt đầu đục vào phần gỗ của cây. Nói
chung sâu non trên 5 ngày phần lớn đã đục vào gỗ, nhưng ở phần ngọn thân, sâu
non thường đục vào gỗ sớm hơn. Khi sâu đã đục hẳn vào trong phần gỗ thì sự
phân bố của sâu giữa phần gốc, phần giữa và phần ngọn của thân chính không
có sự chênh lệch đáng kể. Đường đục trong cây cà phê nhỏ thường là thẳng,
nhưng thân cây có đường kính trên 35cm (cà phê 2 năm tuổi thường có đường
đục ngoằn ngoèo, có nhiều nhánh ngang, có thể là đường đục lên xuống). Đến
tuổi 5-6 sâu non đẫy sức thường đục 1 đường đi lên phía trên thân cây cà phê và
dịch ra phía ngoài sát vỏ. Khi giáp với vỏ thì đục một khoang rộng như một cái
túi và quay đầu trở ra nằm im ở đó để hóa nhộng. Tỷ lệ nhộng nằm ở phần sát vỏ
chiếm 96.3%. Thời gian chuyển hóa các giai đoạn của sâu non từ lúc có màu
vàng nghệ đến lúc chuẩn bị nhộng từ 9.3-16.5 ngày (khi nhiệt độ trung bình
24-25
0
C) . Từ nhộng đến trưởng thành từ 10-25 ngày (khi nhiệt độ trung bình từ
23.6-26
0
C). Để hoàn thành một vòng đời (từ trứng đến trưởng thành đẻ) cần
200-211 ngày ở vụ đông và 126-127 ngày ở vụ hè (Giáo trình côn trùng nông
nghiệp, ĐH Nông Nghiệp I) [5].
- Thiên địch
+ Theo tác giả L. Duport ( Pháp), ở VN có khoảng 10 loài ong kí sinh trên
sâu non thuộc các họ Braconidae, Bethylidae, Chalcididae, Evaniidae. Loài ong
kí sinh phổ biến đã theo dõi tại trạm Phủ Quỳ (Nghệ An) là Doryctes strioliger
và Scleroderium domesticus. Tỷ lệ kí sinh khoảng 4-5%, có khoảng 4-5%, có

tháng tỷ lệ này lên tới 9-10% (Lê Văn Thiều và CS, (2002)) [9].
+ Theo Fernando E.Vega và CS (2005) [14], sâu đục thân borer là loại sâu
hại quan trọng nhất trên cà phê ở vùng Đông Bắc Châu Á và Ấn Độ. Trứng
được đẻ vào vỏ cây và ấu trùng nở ra đục thành các đường bên trong vỏ, gây hại
làm vỏ phồng lên, có một vài loại kí sinh thuộc các họ Braco -nidae, Bethylidae,
Evaniidae, Erytomids và Ichneumonids. Chim cũng là một động vật ăn thịt ấu
trùng và nấm B. Bassiana làm giảm 2.5% sâu đục thân ở Ấn Độ.
- Đặc điểm của giống cà phê chè Catimor (coffea arabica) liên quan đến tính
chống Borer
Lê Văn Thiều (2002) [9] có viết: Các quan sát cho thấy những cây có nhiều
thân, cành lá rậm rạp che phủ kín thân cây thường ít bị sâu borer gây hại, ngược
lại những cây chỉ có 1 thân, các cành cấp 1,2 có lá thưa thớt thì đều bị sâu hại
(Nguyễn Văn Hành và CS, 1990). Trong thời kì đẻ trứng chúng tìm những cây
thích hợp để đẻ trứng bằng cách bay thẳng vào thân cây. Nếu trong quá trình bay
chúng vấp phải các cành hoặc lá lập tức chúng bay trở lại và bay vào tiếp, cứ
như thế diễn ra nhiều lần mà không vào được thân chúng bay vào cây khác. Vì
sâu borer không có thói quen bò từ lá hoặc cành vào thân cây, từ đó cho thấy cấu
trúc “hở” thân sẽ bị hại nhiều hơn, ngược lại mức độ che kín thân sẽ là tính
kháng của cây đối với sâu này (Nguyễn Văn Hành và CS, 1990).
1.2.3. Triệu chứng cây bị hại
Những cây bị sâu đục thân gây hại lá non bị biến dạng, màu hơi vàng, mép
lá hơi xoắn, trong khi các lá dưới còn xanh tốt. Cây mọc thêm nhiều chồi thân.
Cây thường có màu vàng úa, triệu chứng ban đầu héo nhẹ vào các giờ nắng to,
sau đó mức độ hại tăng lên thì cây vàng hẳn và héo rũ, nhiều khi cầm cành lay
có thể gãy ngang thân. Trên thân có những đường lằn (gờ) nổi lên theo đường
vòng, vỏ bị nứt nẻ, có những lỗ đục khi thành trùng đã chui ra, đọt lá xanh đậm,
phiến lá biến dạng. Cây bị nặng lá vàng héo rồi chết [7].
Như vậy nghiên cứu về sâu đục thân mình trắng trên ít vùng nhưng cũng
khá đầy đủ về các đặc điểm sinh học, hình thái, quy luật phát sinh gây hại...
1.3 Tổng quan về cây cà phê

1.3.1 Giống cà phê
Có ba loại gống cà phê: Cà phê chè Coffea arabica L., cà phê vối Coffea
canephora., cà phê mít Coffea excelsa.
Mỗi giống có nhiều chủng loại khác nhau như trong cà phê chè có các
chủng: Typica, Bourbon, Moka, Mundonovo, Caturra, Catuai, Catimor.... Trong
cà phê vối có rất nhiều chủng loại khác nhau về kích thước lá, độ gợn sóng của
phiến lá, màu sắc lá và quả, hình dạng quả, song chủng loại được trồng rất phổ
biến ở nhiều nước là Robusta. Đặc trưng của cà phê Typica là đọt non có màu
nâu tím, còn các chủng khác như Bourbon, Mundonovo... thì đọt non có màu
xanh. Tùy theo từng giống mà chúng đòi hỏi các điều kiện ngoại cảnh khác
nhau, cho nên việc bố trí cơ cấu giống vào trồng trong một vùng phải dựa trên
các yêu cầu riêng của chúng. Có như vậy mới phát huy được hiệu quả của từng
giống [18].
1.3.2 Các yêu cầu về điều kiện ngoại cảnh của cây cà phê chè
Cây cà phê arabica ưa sống ở vùng núi cao. Đây là loài có giá trị kinh tế
nhất trong số các loài cây cà phê. Cà phê chè chiếm 61% các sản phẩm cà phê
toàn thế giới. Người ta thường trồng nó ở độ cao từ 1000-1500m. Cây có tán
lớn, màu xanh đậm, lá hình oval. Cây cà phê trưởng thành có thể cao từ 4-6 m,
nếu để mọc hoang dã có thể cao đến 15 m. Quả hình bầu dục, mỗi quả chứa hai
hạt cà phê. Cà phê chè sau khi trồng khoảng 3 đến 4 năm thì có thể bắt đầu cho
thu hoạch. Thường thì cà phê 25 tuổi đã được coi là già, không thu hoạch được
nữa. Thực tế nó vẫn có thể tiếp tục sống thêm khoảng 70 năm [18].
1.3.2.1. Đất đai
Cà phê có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau, trong đó đất ba-zan là
một trong những loại đất lý tưởng để trồng cà phê, vì các đặc điểm lý hóa tính
tốt, và tầng dày của loại đất này. Yêu cầu cơ bản của đất trồng cà phê là có tầng
sâu từ 70 cm trở lên, có độ thoát nước tốt (không bị úng, lầy), độ pH từ 4,5-6,5
tốt nhất là từ 5-6. Các loại đất thường thấy ở Việt Nam ở trên các vùng cao như
granit, sa phiến thạch, phù sa cổ, gờ nai, đá vôi, dốc tụ... đều trồng được cà phê.
Ở cà phê vườn có khả năng trồng được cả ở nơi có đá lộ đầu, ở những nơi đất

dốc vẫn trồng được cà phê nếu làm tốt công trình chống xói mòn. Dù trồng ở
trên loại đất nào nhưng vai trò của con người có tính quyết định trong việc duy
trì, bảo vệ nâng cao độ phì nhiêu của đất. Ngay cả trên đất ba-zan, nếu cà phê
không được chăm sóc tốt vẫn dẫn tới hiện tượng cây mọc còi cọc, năng suất
thấp. Ngược lại ở những nơi không phải là đất ba-zan nếu đảm bảo được đủ
lượng phân hữu cơ, vô cơ, giải quyết tốt cây đậu đỗ, phân xanh trồng xen, tủ gốc
tốt cùng các biện pháp thâm canh tổng hợp khác như tưới nước vẫn có khả năng
tạo nên các vườn cà phê có năng suất cao [17].
1.3.2.2. Khí hậu
Không phải vùng nào ở trên trái đất cũng trồng được cà phê. Ngoài yếu tố
đất đai, cây cà phê còn đòi hỏi một số yêu cầu về nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa,
ánh sáng, gió. Vì vậy, khi chọn vùng trồng cà phê phải chú ý tới các yếu tố rất
quan trọng này.
* Nhiệt độ
Nhiệt độ là một yếu tố quyết định rất lớn tới năng suất, phẩm chất của cà
phê, có ý nghĩa hàng đầu trong việc xác định vùng trồng cà phê chè, xây dựng
các biện pháp kĩ thuật hạn chế tác hại bất lợi đến quá trình sinh trưởng, phát
triển của cây. Nói chung trong phạm vi nhiệt độ tương đối rộng từ 5
0
C đến 32
0
C
cây cà phê vẫn có khả năng tồn tại, sinh trưởng và phát triển. Song phạm vi
nhiệt độ phù hợp đối với từng giống cà phê có khác nhau. Cà phê chè ưa nơi mát
và hơi lạnh. Phạm vi thích hợp từ 18
0
C - 25
0
C, thích hợp nhất từ 20 - 22
0

C. Dưới
5
0
C cây sẽ ngừng sinh trưởng trên 32
0
C cây sẽ ngừng quá trình quang hợp. Do
yêu cầu về nhiệt độ như vậy nên cà phê chè thường được trồng ở miền núi có độ
cao từ 600 - 2.500 m (nguyên quán cà phê chè là ở Ethiopie nơi có độ cao trên
dưới 2.000 m). Các nước trồng cà phê chè có phẩm vị thơm ngon như: Kenya,
Tanzania, Ethiopie, Côlombia thường được trồng ở nơi có độ cao từ 800 m trở
lên. Nhiệt độ giảm xuống tới 0
0
C làm thui cháy các đọt non, nếu kéo dài làm
cháy cả lá già đặc biệt là vùng hay xuất hiện sương muối. Gió rét và gió nóng
đều bất lợi đối với sinh trưởng của cây cà phê [18].
Nhìn chung cây cà phê chè yêu cầu điều kiện khí hậu mát mẻ, đặc biệt có
mùa đông lạnh để phân hóa mầm hoa, có biên độ nhiệt ngày đêm lớn để tăng
quá trình tích lũy vào hạt, tăng năng suất và phẩm chất.
Đối với vùng Chiềng Pha có điều kiện nhiệt độ rất phù hợp, chỉ có một
bất lợi là mùa đông có sương muối vì vậy trồng cây che bóng là một khâu quan
trọng trong kĩ thuật trồng trọt.
* Lượng mưa
Lượng mưa cần thiết đối với cây cà phê chè thường 1.300 mm - 1.900
mm. Nếu lượng mưa được phân bổ tương đối đều trong năm có một mùa khô
hạn ngắn vào cuối và sau vụ thu hoạch, nhiệt độ thấp thì thuận lợi cho quá trình
phân hóa mầm hoa của cây cà phê. Nhìn chung, ở nước ta lượng mưa phân bố
không đều. Lượng mưa tập trung khoảng 70 - 80% vào trong mùa mưa gây ra
hiện tượng thừa nước. Mùa khô thường kéo dài từ 3 - 5 tháng, nhưng lượng
nước mưa chỉ chiếm từ 20 - 30%, do vậy có nhiều nơi cây cà phê thiếu nước
nghiêm trọng đặc biệt là các tỉnh ở Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Để

khắc phục hiện tượng này, vấn đề tủ gốc giữ ẩm, đai rừng phòng hộ, cây che
bóng và tưới nước có một ý nghĩa quan trọng [21].
* Ấm độ
Ẩm độ của không khí phải trên 70% mới thuận lợi cho sinh trưởng và
phát triển của cây cà phê. Đặc biệt giai đoạn cà phê nở hoa cần ẩm độ cao, do đó
tưới nước bằng biện pháp phun mưa rất thích hợp cho quá trình nở hoa của cà
phê. Ẩm độ quá thấp cộng với điều kiện khô hạn, nhiệt độ cao dẫn tới hậu quả
làm cho các mầm, nụ hoa bị thui, quả non bị rụng [19].
* Ánh sáng
Cà phê chè là loại cây thích ánh sáng tán xạ (nguồn gốc mọc trong rừng
thưa tại châu Phi), ánh sáng trực xạ làm cho cây bị kích thích ra hoa quá độ dẫn
tới hiện tượng khô cành, khô quả, vườn cây xuống dốc nhanh, ánh sáng tán xạ
có tác dụng điều hòa sự ra hoa, phù hợp với cơ chế quang hợp tạo thành và tích
lũy chất hữu cơ có lợi cho cây cà phê, giữ cho vườn cây lâu bền, năng suất ổn
định. Ở những nơi có ánh sáng trực xạ với cường độ mạnh làm cho quá trình
quang hợp của cây bị cản trở, mặt khác kết hợp với nhiệt độ cao quá sẽ kích
thích cây phân hóa mầm hoa quá mức, quá sớm dẫn tới suy kiệt khô cành, khô
quả đặc biệt sâu Borer phá hại mạnh hơn, thì cây cà phê cần lượng cây che
bóng để điều hòa ánh sáng, điều hòa quá trình quang hợp của vườn cây (theo
Đoàn Triệu Nhạn và CS, 1999) [6].
* Gió
Gió lạnh, gió nóng, gió khô đều có hại đến sinh trưởng của cây cà phê.
Gió quá mạnh làm cho lá bị rách, rụng lá, gãy cành, đổ cây các lá non bị thui
đen, gió nóng làm cho lá bị khô héo. Gió làm tăng nhanh quá trình bốc thoát hơi
nước của cây và đất đặc biệt là trong mùa khô [21]. Gió to ở giai đoạn nở hoa
làm hoa cà phê bị dập nát, rụng, quá trình bốc hơi nước tăng, đất nhanh chóng bị
khô kiệt và cây bị thiếu nước, hoa không nở được ngả sang màu tím "hoa
chanh’’, theo Đoàn Triệu Nhạn và CS (1999) [6]. Vì vậy cần giải quyết trồng tốt
hệ đai rừng chắn gió chính và phụ; cây che bóng để hạn chế tác hại của gió [21].
Trên đây là các yêu cầu sinh thái của cây cà phê chè. Nếu ta đảm bảo

được các điều kiện này thì sẽ giúp cây sinh trưởng, phát triển tốt, nâng cao tính
chống chịu nên phần nào hạn chế tác hại của sâu borer hại cà phê chè.
PHẦN 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, thời gian, địa điểm nghiên cứu.
2.1.1. Vật liệu nghiên cứu
- Cây cà phê chè Coffea arabica giống Catimor
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu
- Các loại sâu hại cà phê chè
- Sâu đục thân mình trắng Xylotrechus quadripes Chevrolat hại cà phê
2.1.3. Dụng cụ thí nghiệm
- Lọ đựng mẫu, bông, cồn 70
0
, kéo, dao, sơn đánh dấu, sổ ghi chép…
2.1.4. Thời gian nghiên cứu
- Tiến hành từ tháng 7/2010 đến tháng 10/2010
2.1.5. Địa điểm nghiên cứu
- Tại xã Chiềng Pha, Thuận Châu, Sơn La.
2.2 Nội dung nghiên cứu
- Điều tra tình hình trồng sản xuất cà phê tại xã về diện tích, năng suất, sản
lượng qua một số năm.
- Điều tra thành phần sâu hại trên cây cà phê chè tại xã Chiềng Pha, huyện
Thuận Châu - Sơn La, mô tả triệu chứng sâu hại cà phê chè.
- Đánh giá mức độ gây hại, diễn biến số lượng, tỉ lệ các pha phát dục và yếu
tố ảnh hưởng đến số lượng của sâu đục thân mình trắng Xylotrechus quadripes
Chevrolat hại cà phê chè tại xã Chiềng Pha, huyện Thuận Châu - Sơn La.
2.3 Phương pháp nghiên cứu
2.3.1 Điều tra tình hình sản xuất cà phê tại vùng nghiên cứu
- Thu thập tài liệu của sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Sơn La.
- Điều tra thực tế từ các hộ nông dân trồng cà phê thông qua phiếu điều tra
nông hộ (mỗi bản điều tra 5 hộ).

2.3.2 Điều tra thành phần sâu hại trên cây cà phê chè
Sử dụng phương pháp nghiên cứu bảo vệ thực vật về điều tra cơ bản dịch
hại cây trồng nông nghiệp và thiên địch của chúng của Viện BVTV (1997) và
các tiêu chuẩn ngành liên quan. Chọn vùng điều tra đại diện 5-10 ha.
- Tiến hành điều tra định kì 15 ngày 1 lần ở nhiều khu vườn cà phê chè khác
nhau.
- Mỗi vùng lấy 10 vườn, mỗi vườn lấy 10 điểm điều tra ngẫu nhiên theo
đường chéo góc
- Tại mỗi điểm điều tra 1 cây điển hình. Tại điểm điều tra, quan sát kỹ
toàn bộ cây cà phê và thu thập các loài sâu hại hiện diện.
+ Đối với nhóm rệp: điều tra, quan sát kỹ các cành, chồi, chùm, quả.
+ Đối với nhóm đục thân: quan sát thân thấy vùng đục, lỗ đục, viền đục
chẻ cây thu mẫu.
+ Đối với nhóm rệp rễ: bới đất xung quanh gốc, đặc biệt thấy có kiến bò
từ gốc lên.
+ Đối với nhóm ăn lá: châu chấu, câu cấu … quan sát kỹ cách gây hại trên
lá.
+ Đối với nhóm mọt đục quả: quan sát lỗ đục trên quả.
+ Đối với nhóm mọt đục cành: quan sát cành bị đục.
-Chỉ tiêu theo dõi: điều tra đánh giá mức độ phổ biến của sâu hại cà phê để từ
đó biết được loài nào gây hại mạnh và có mặt nhiều, tỉ lệ các loài sâu hại, ở các
điểm /tổng số điểm điều tra. Từ đó tính tỷ lệ điểm có sâu.
+ : ít phổ biến (tỷ lệ điểm có sâu từ >1% - <25%)
++ : phổ biến ( tỷ lệ điểm có sâu từ >25% - < 50%)
+++ : rất phổ biến (tỷ lệ điểm có sâu >50% )
2.3.3. Điều tra diễn biến của sâu đục thân mình trắng hại cà phê
2.3.3.1. Điều tra tỷ lệ cây cà phê bị sâu đục thân mình trắng gây hại
- Chọn cố định 3 vườn cà phê tuổi kinh doanh, mỗi vườn 1 ha, 5 hàng điều
tra 1 hàng, 5 cây điều tra 1 cây, quan sát kĩ cây bị đục.
- Chỉ tiêu theo dõi: Tỷ lệ cây bị hại

2.3.3.2. Điều tra tỷ lệ, mật độ các pha phát dục của sâu đục thân mình trắng theo
thời gian
- Chọn 30 cây bị sâu đục thân mình trắng, chẻ cây tìm sâu, phân tuổi cây và
các pha phát dục (sâu non, nhộng, trưởng thành vừa vũ hóa trong cây).
- Tiến hành điều tra định kì 15 ngày 1 lần ở các khu vườn cà phê chè
- Chỉ tiêu theo dõi :
-Tỷ lệ các pha phát dục của sâu đục thân mình trắng
- Mật độ sâu non, nhộng, trưởng thành/cây
2.3.4. Điều tra yếu tố ảnh hưởng đến đến tỉ lệ cây cà phê bị sâu đục thân mình
trắng gây hại
2.3.4.1. Ảnh hưởng của cây che bóng đến tỉ lệ sâu đục thân mình trắng
- Mỗi loại vườn cà phê (vườn che bóng, vườn thuần) chọn 3 vườn đại diện,
mỗi vườn 0.5 ha.
+ Cứ 5 hàng điều tra một hàng, 5cây điều tra 1 cây.
+ Chỉ tiêu theo dõi: tỷ lệ % cây bị hại ở các loại vườn
2.3.4.2. Ảnh hưởng của tuổi cây đến đến tỉ lệ cây cà phê bị sâu đục thân mình
trắng gây hại
- Mỗi tuổi cây chọn vườn rộng 0.5 ha (cây tuổi 1, tuổi 2, tuổi 3, tuổi 4, tuổi 5,
tuổi 10).
+ Cứ 5 hàng điều tra một hàng, 5 cây điều tra 1 cây.
+ Chỉ tiêu theo dõi: tỷ lệ % cây bị hại ở các loại vườn
2.3.4.3. Ảnh hưởng của chế độ chăm sóc đến đến tỉ lệ cây cà phê bị sâu đục
thân mình trắng gây hại
- Chọn vườn tuổi kinh doanh, vườn tốt chọn 3 vườn, vườn xấu chọn 3 vườn.
- Tại các vườn cứ 5 hàng điều tra một hàng, 5 cây điều tra 1 cây.
- Chỉ tiêu theo dõi: tỷ lệ % cây bị hại ở các loại vườn
2.3.4.4. Ảnh hưởng của vị trí trồng (sườn núi phía Đông, phía Tây) đến tỉ lệ cây
cà phê bị sâu đục thân mình trắng gây hại
- Mỗi vị trí (sườn núi phía Đông, phía Tây) chọn sườn đại diện mỗi sườn
rộng khoảng 0.5 ha. Cứ 5 hàng điều tra một hàng, 5 cây điều tra 1 cây.

- Chỉ tiêu theo dõi: tỷ lệ % cây bị hại ở các loại vườn
2.4 Công thức tính toán và phương pháp xử lí số liệu
2.4.1 Công thức tính toán
- Tỷ lệ điểm có sâu (%) = x 100
- Tỷ lệ cây bị hại (%) = x 100
- Mật độ sâu non, nhộng, trưởng thành (con/cây) =
- Tỷ lệ các pha phát dục (%) = x 100
2.4.2 phương pháp xử lí số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Microsoft excel và Irristat


III KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khái quát tình hình phát triển cà phê tại xã Phỏng Lái, huyện Thuận
Châu - Sơn La
Chiềng Pha là một xã vùng II của huyện Thuận Châu, giáp xã Phổng Lăng,
Phổng Lái, Phổng Lập, Chiềng La. Với tổng số bản là 1317 gia đình, 6471 nhân
khẩu, tỷ lệ người sản xuất nông nghiệp lên tới hơn 90%. Các ngành nghề phi
nông nghiệp chưa phát triển nhỏ lẻ manh mún, tự cung tự cấp, chủ yếu là dệt thổ
cẩm, bán hàng tạp hóa...Vùng có khí hậu nhiệt đới, có mùa đông lạnh sương
muối, đất đai khá tốt, lao động dồi dào có nền nông nghiệp khá phát triển so với
mặt bằng chung của huyện, sản xuất nông lâm nghiệp liên tục tăng trưởng cơ
cấu nông nghiệp chuyển dịch theo hướng thâm canh tăng vụ áp dụng khoa học
vào sản xuất. Diện tích đất tự nhiên của xã là 2607.8 ha. Với diện tích đất nông
nghiệp là 552 ha cà phê là cây công nghiệp mới khá triển vọng, với diện tích 87
ha, năng suất bình quân đạt 75 tạ/ha sản lượng đạt 652.5 tấn vào năm 2008 các
năm sau còn tiếp tục mở rộng diện tích. Dân cư của xã tập trung không đồng đều
và trình độ của người dân cũng khác nhau: các đồng bào dân tộc thiểu số thì
trình độ dân trí còn thấp, còn dân cư từ các vùng miền xuôi lên định cư thì trình
độ cao hơn. Kĩ thuật canh tác của người dân trong trồng cây cà phê cũng khác
biệt giữa người dân bản địa và dân lên định cư. Các biện pháp canh tác như: tỉa

cành, làm cỏ, bón phân, phòng trừ sâu bệnh người dân định cư làm đúng với sự
hướng dẫn của trạm cà phê, cán bộ khuyến nông xã Chiềng Pha nhưng còn
người bản địa thì thường đầu tư thâm canh thấp, việc chăm sóc cũng không làm
đúng theo hướng dẫn mà có thể làm qua loa hoặc làm theo kinh nghiệm truyền
nhau, làm cỏ không thường xuyên, đốn tỉa qua loa, bón phân ít hơn, khi có tiền
thì mua đủ lượng phân, khi có ít hay không có tiền thì mua ít hơn, không theo
dõi sâu bệnh thường xuyên, thường ít hiểu biết về các triệu trứng sâu bệnh hại,
chỉ khi thấy cây bị sâu bệnh tấn công nhiều, ảnh hưởng tới sinh trưởng phát
triển, giảm năng suất, thậm chí có cây chết họ mới để ý tới và đi hỏi mua thuốc
và phun trừ, đến lúc này việc phun thuốc thường đạt hiệu quả thấp thậm chí
không có hiệu quả (như bệnh khô cành, khô quả và sâu đục thân borer). Khi thu
hái thì họ thu hái cả quả xanh, quả bị sâu, bệnh thối hỏng nên cà phê của họ
năng suất và phẩm chất thường kém.
Đất đai của Chiềng Pha chủ yếu là đất đỏ vàng, đất nâu sẫm, có độ phì nhiêu
lớn. Khí hậu ở đây mát mẻ, khá dễ chịu, có một mùa đông lạnh, thỉnh thoảng có
sương muối và gió lào. Tuy vậy nhưng cà phê rất thích hợp với điều kiện tự
nhiên của vùng, đó là thế mạnh để phát triển cây cà phê của xã. Cây cà phê mới
được phát triển tại Chiềng Pha cách đây vài năm nó đã tỏ rõ ưu thế và giúp
người dân nơi đây tăng nguồn thu nhập, cải thiện cuộc sống song lại gặp một số
khó khăn như thời tiết, thiếu nước, kĩ thuật canh tác…. Để góp một phần giải
quyết vấn đề trên với Chiềng Pha tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Điều tra
thành phần sâu hại cà phê chè, diễn biến và một số yếu tố ảnh hưởng đến sâu đục
thân mình trắng Xylostrechus quadies Chevr trong năm 2010 tại xã Chiềng Pha
Thuận Châu, Sơn La năm 2010”.
3.2. Thành phần sâu hại cà phê tại xã Chiềng Pha, huyện Thuận Châu, tỉnh
Sơn La
Muốn phòng trừ sâu hại trên cà phê cần có cái nhìn tổng thể về tình hình sâu
hại chúng tôi tiến hành điều tra xác định các loài sâu hại trên cây cà phê chè để
đánh giá được mức độ gây hại của từng loài sâu hại trên cây cà phê chè tại xã
Chiềng Pha các loài sâu đục thân, mọt, rệp…kết quả được ghi lại ở bảng 3.1

Bảng 3.1: Thành phần sâu hại cà phê chè tại Chiềng Pha năm 2010

×