Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Bài thi học kỳ xã hội học đại học thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.42 KB, 5 trang )

Họ và tên: Nguyễn Thị Hà Anh
Mã sinh viên: 19D120142
Lớp học phần: 2002RLCP0421
BÀI THU HOẠCH
HỌC PHẦN XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG
Mã đề thi số: 28
I. BÀI THU HOẠCH:
Đề bài: Thế nào là biến đổi xã hội? Trình bày một số vấn đề biến đổi xã hội ở Việt Nam hiện
nay. (Kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại….)
Bài làm
Cũng giống như tự nhiên, mọi xã hội đều không ngừng vận động và biến đổi. Tất cả xã hội đều
ở trong một thực trạng đứng yên trong sự vận động liên tục. Sự ổn định của xã hội chỉ là sự ổn định
của bề ngồi, cịn thực tế nó khơng ngừng thay đổi bên trong bản thân nó. Bất cứ xã hội nào và bất cứ
nền văn hóa nào, cho dù nó có bảo thủ và cổ truyền đến đâu chăng nữa cũng ln biến đổi. Xã hội
trong q trình vận động sẽ tạo ra sự thay đổi dù nhỏ hay lớn, dù ít hay nhiều. Vậy thế nào là biến đổi
xã hội? Và vấn đề biến đổi xã hội ở Việt Nam hiện nay diễn ra như thế nào?
1. Thế nào là biến đổi xã hội
Theo nghĩa hẹp thì biến đổi xã hội là biến đổi về cấu trúc của xã hội (hay tổ chức xã hội), có ảnh
hưởng sâu sắc tới phần lớn thành viên của xã hội đó. Quan niệm này chỉ quan tâm đến những biến đổi
nào diễn ra ở tầm vĩ mơ, có tác động lớn đến đa số thành viên của xã hội.
Hiểu theo nghĩa rộng thì biến đổi xã hội là sự thay đổi tình trạng xã hội hoặc nếp sống có trước.
Quan niệm này cho rằng chỉ cần tạo ra sự khác biệt dù nhỏ thì đó chính là biến đổi xã hội.
Có rất nhiều quan niệm về biến đổi xã hội, tuy nhiên theo quan niệm của GS. Phạm Tất Dong và
TS. Lê Ngọc Hùng thì, ‘‘biến đổi xã hội là một q trình, qua đó những khn mẫu của các hành vi
xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi theo
thời gian’’.
2. Một số vấn đề biến đổi xã hội ở Việt Nam hiện nay
Tính đến thời điểm này Việt Nam đã trải qua gần 30 năm theo con đường đổi mới toàn diện đất
nước do Đảng đề ra. Trong khoảng thời gian đó, Việt Nam đã diễn ra rất nhiều biến đổi trên các lĩnh
vực của đời sống như kinh tế, văn hóa, đối ngoại, chính trị… ở đây em xin được trình bày những biến
đổi về lĩnh vực kinh tế và văn hóa.


Về mặt kinh tế
Trước thời kỳ đổi mới Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về mặt kinh tế - xã
hội. Đây là hậu quả của sự duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp một cơ chế được các nước XHCN thời kỳ đó sử dụng. Từ năm 1986, Đại hội VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam bắt đầu đề ra đường lối đổi mới đất nước, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm. Việt Nam quyết
định xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế cũ, chọn lựa mô hình cùng cơ chế quản lý kinh tế mới. Mơ hình
kinh tế tổng quát của Việt Nam được xác định tại đại hội Đảng lần thứ IX (2001) là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế mới với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
1


kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp và nhiều hình thức kinh doanh đã tạo ra động lực mới cho sự
phát triển. Nền kinh tế này vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Dưới áp lực
của tình thế khách quan, nhằm thốt khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, Việt Nam đã có những bước
cải tiến nền kinh tế theo hướng thị trường, tự túc được lương thực, trở thành một nước xuất khẩu nông
thủy sản quan trọng, vượt qua ngưỡng những nước có thu nhập thấp, gia nhập nhóm nước có thu nhập
trung bình thấp. Một ưu điểm nổi bật trong cải cách ở Việt Nam là Việt Nam đã sớm vượt qua được
thế bị bao vây, cấm vận về kinh tế, từ một nước chỉ có quan hệ kinh tế, thương mại chủ yếu với các
nước xã hội chủ nghĩa trước đây, Việt Nam đã tích cực và chủ động hội nhập kinh tế khu vực và toàn
cầu, quan hệ quốc tế và thương mại quốc tế đã mở rộng mạnh mẽ, nhất là tham gia Tổ chức thương
mại thế giới (2007) và hiện nay là các hiệp định thương mại tự do của thế giới (TPP) và khu vực
(RCEP).
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có sự thay đổi tích cực hơn nhiều so với thời kỳ “bao
cấp” trước đây. Chúng ta biết khai thác sức mạnh nội lực toàn Đảng, toàn dân, khai thác sức mạnh
ngoại lực từ bên ngoài, đặc biệt nắm bắt xu hướng tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế để tạo thành
sức mạnh tổng lực của dân tộc. Nhờ vào nỗ lực và sự năng động của người dân khi có động lực của
kinh tế thị trường, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm nhanh chóng qua các năm, đời sống vật chất và tinh thần
của người dân được nâng cao đáng kể. Cụ thể năm 1993 tỷ lệ hộ nghèo chiếm 58,1% nhưng đến 2019
thì con số này chỉ dưới 4%. Kinh tế ngày càng phát triển, GDP bình quân đầu người qua các năm tăng,
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế sang hướng cơng nghiệp hóa hiện đại
hóa và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa. Việt Nam đang đứng thứ 6 tại Đông Nam Á và top 50 nền kinh

tế quy mô nhất thế giới. Thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 2.200 USD (tương đương 48,6
triệu đồng/năm), trở thành một nước có thu nhập trung bình khá của thế giới.
Như vậy, khái quát lại, những cải cách ban đầu về kinh tế và sự mở đường cho kinh tế thị trường
đã giải phóng những tiềm lực to lớn của đất nước và mở ra trước mắt chúng ta những sự thay đổi thần
kỳ trong phát triển kinh tế. Tốc độ phát triển kinh tế đã vượt trước những cải cách về chính trị và xã
hội. Sự phát triển nhanh chóng này đặt ra yêu cầu về những cải cách tiếp theo trên mọi mặt của đời
sống xã hội.
Về văn hóa
Hơn ba mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới (1986 - 2020), Việt Nam đã có nhiều chuyển
biến sâu sắc, mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội trong
đó có sự nghiệp phát triển văn hóa. Dưới tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa những hệ giá trị văn hóa của Việt Nam truyền thống đang có sự thay đổi theo hai chiều hướng
phức tạp, đan xen nhau. Giá trị văn hóa Việt Nam hiện nay đang có bước chuyển biến căn bản.
Theo chiều hướng tích cực
Sau đổi mới, Việt Nam ngày càng đạt đến những nhận thức đúng đắn, sâu sắc và tồn diện hơn
về văn hóa. Sức mạnh của văn hóa, những giá trị tiềm tàng, đích thực của các di sản văn hóa, của các
khơng gian văn hóa vùng miền; vai trị của văn hóa, mơi trường văn hóa trong xây dựng hệ thống
chính trị, nhà trường, gia đình, cộng đồng ngày càng được ghi đậm trong các mục tiêu, kế hoạch, chiến
lược phát triển từ trung ương đến địa phương. Hội nghị TW 9 khóa XI (2014) tiếp tục khẳng định:
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững của đất nước, văn
2


hóa đã được xác định là động lực của sự phát triển kinh tế và được đặt lên ngang hàng các lĩnh vực
chính trị, kinh tế và xã hội.
Nếu trước kia các hệ giá trị cân bằng nhằm hướng tới trạng thái “yên bình” xã hội một thời từng
là lý tưởng của nền văn hóa truyền thống Việt Nam thì nay được thay thế dần bằng những quan niệm,
những ý thức, hành vi khuyến khích và phấn đấu cho nhịp sống sơi động bởi nó đang được coi là phù
hợp với xu hướng phát triển của xã hội.
Hiện nay, văn hóa đã được coi là mục tiêu trọng tâm của sự phát triển và gắn với sự phát triển

của con người với tư cách là chủ thể sáng tạo, chủ nhân của các nền văn hóa. Nhiệm vụ của văn hóa
được xác định là: “Xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, là trọng tâm, cốt lõi của phát
triển văn hóa; mọi hoạt động văn hóa đều phải hướng tới xây dựng, phát triển con người”. Gắn kết
chặt chẽ với mục tiêu, mơi trường văn hóa, con người trở thành trung tâm của mọi sự phát triển, vị thế
và vai trò của con người trong xã hội dần thay đổi căn bản. Từ chỗ lệ thuộc vào cơ chế cũ giờ đây con
người trở thành chủ thể thực sự trong các quan hệ kinh tế và mọi q trình vận hành xã hội. Từ chỗ
ln đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân bây giờ con người đã quan tâm nhiều đến bản thân
hơn, dung hịa lợi ích cá nhân và tập thể.
Tiếp đến, chuẩn mực văn hóa thời phong kiến, thời bao cấp vốn xem nhẹ yếu tố vật chất, đề cao
yếu tố tinh thần đã dần được thay thế bằng việc ưu tiên cho hoạt động vật chất và xem trọng yếu tố
vật chất hơn. Khát khao làm giàu cho cá nhân, cho gia đình, cho quê hương, đất nước được khuyến
khích, nâng cao. Chủ nghĩa bình qn thời bao cấp được thay thế bằng sự khuyến khích cho tính vượt
trội, khuyến khích sự phấn đấu thăng tiến của mỗi cá nhân. Các chuẩn mực văn hóa đạo đức đậm đà
tình cảm nhân nghĩa cộng đồng nay được bổ sung các yếu tố lý trí, tính chính xác và giá trị pháp lý.
Một số mơ hình, thiết chế, phong trào văn hóa (như Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa),
đã được thiết lập, triển khai sâu rộng và đem lại nhiều kết quả tích cực. Mặt khác, các chủ trương, định
hướng cơ bản về văn hóa đã xác định khá rõ những nguyên tắc, định chế căn bản cho việc xây dựng
các chính sách phát triển văn hóa, quản lý văn hóa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa được thể
hiện bằng các văn bản pháp quy với sự ra đời của nhiều đạo luật, pháp lệnh, nghị định về văn hóa,
trong đó nổi bật là Luật di sản văn hóa, Luật giáo dục, Luật bình đẳng giới…
Theo chiều hướng tiêu cực
Cùng với sự biến đổi, hình thành nhanh chóng những tư tưởng, ý thức, hành vi theo chuẩn mực
mới, tạo nhiều giá trị văn hóa tích cực thì mặt trái của kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh nhiều quan
niệm, tư tưởng hành vi lối sống theo tiêu chí phi văn hóa, phản văn hóa. Nhiều giá trị đạo đức, quan
hệ xã hội, di sản văn hóa truyền thống của gia đình, cộng đồng bị xói mịn, méo mó nghiêm trọng.
Ngày nay nhiều người còn quá đề cao yếu tố vật chất, coi nặng đồng tiền, lấy vật chất làm tiêu
chí, thước đo giá trị con người. Bên cạnh những nhân tố lành mạnh, tích cực trong lối sống với các
đức tính cần cù, trung thực, khiêm tốn, giản dị, vị tha cũng đang xuất hiện những lệch lạc trong lối
sống: hưởng thụ, thực dụng, tôn thờ vật chất, tiền tài của cải. Sự phát triển chủ nghĩa cá nhân cực đoan,
thờ ơ với xã hội, lãnh cảm xã hội ở một bộ phận dân cư, trong đó có lớp trẻ, sự suy đồi đạo đức, từ

những người lớn với con em họ, đạo đức giả của những quan chức và công chức thối hố trong bộ
máy cơng quyền. Tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức suy thối về phẩm
chất, lối sống tham ơ, tham nhũng, yếu kém năng lực, tham quyền cố vị, cản trở sự phát triển, gây
phiền hà, nhũng nhiễu nhân dân… đang gây mất lòng tin nghiêm trọng vào Đảng vào chế độ. Tình
3


trạng tham nhũng và làm ngơ trước tham nhũng, mặc dù thời gian gần đây bị lên án kịch liệt trong đời
sống tinh thần xã hội, nhưng dường như vẫn chưa giảm bớt được bao nhiêu. Chính những cạnh tranh
gay gắt để tồn tại và phát triển dẫn đến con người trở nên lạnh lùng trong các quan hệ xã hội. Cùng
với sự phát triển của thời đại công nghệ mà con người dần ít quan tâm đến nhau, đơi khi chỉ nói chuyện
qua màn hình điện thoại chứ chưa gặp mặt lần nào.
Như vậy, quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
Việt Nam hiện nay luôn phải gắn liền, quan tâm đúng mực việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa chúng ta xây dựng phải tác động tích cực vào sự phát triển kinh tế xã
hội, giữ vững nền độc lập dân tộc, bảo vệ lợi ích của dân tộc đồng thời đảm bảo đích hướng tới là xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Kết luận
Trên đây là một số biến đổi xã hội có tính điển hình và phổ biến ở Việt Nam trong điều kiện kinh
tế thị trường, mở cửa, hội nhập. Bản thân là sinh viên năm nhất trường Đại học Thương Mại, trước hết
em cần hiểu rõ về sự biến đối của Việt Nam trong từng giai đoạn từ đó tiếp thu chọn lọc theo hướng
tích cực, phê phán và tránh những giá trị xấu còn tồn đọng lại như nền văn hóa nói trên. Thay đổi cách
sống, rèn luyện những thói quen tốt giúp phát triển bản thân, dung hòa bản thân cùng với sự phát triển
xã hội. Bên cạnh việc học hỏi tiếp thu kiến thức trên trường, em cần phải học hỏi nhiều kỹ năng mềm,
học ngoại ngữ hay kỹ năng làm việc nhóm… Chính những sự thay đổi và cố gắng nhỏ từng ngày của
từng người đó sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế cũng như văn hóa xã hội Nước nhà ngày một phát
triển hơn nữa.
II. BÀI TẬP TÌNH HUỐNG:
Đề bài: Hiện nay tình trạng ly hơn trong xã hội ngày càng tăng cao, độ tuổi ly hôn ngày càng trẻ
hóa. Bằng lý thuyết về biến đổi xã hội, anh/chị hãy lý giải tình trạng trên. Nêu quan điểm của mình về

vấn đề này.
Bài làm
Hơn nhân là cơ sở của gia đình và gia đình là tế bào của xã hội mà trong đó kết hợp hài hịa lợi
ích của công dân và nhà nước cũng như của xã hội. Để hơn nhân được bền vững thì điều kiện cơ bản
nhất đó là vợ chồng phải sống chung thủy với nhau, quý trọng và chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau; cùng
nhau lao động, chăm lo, vun vén cho hạnh phúc gia đình. Thế nhưng hiện nay tình trạng ly hơn trong
xã hội ngày càng tăng cao, điều đáng lo ngại là số vụ ly hôn đa số rơi vào cặp vợ chồng trẻ và càng
ngày trẻ hóa, gây ảnh hưởng đến xã hội, dẫn đến tình trạng suy giảm về đạo đức, lối sống, bạo lực
trong gia đình ngày càng trở nên phổ biến. Vậy nguyên nhân do đâu xảy ra tình trạng trên?
1. Giải thích
Thứ nhất, do thiếu kỹ năng sống: Cùng với sự biến đổi xã hội ở Việt Nam, điều kiện kinh tế xã
hội phát triển kéo theo nhu cầu cuộc sống cũng thay đổi. Sự phát triển về xã hội, phát triển về tâm sinh
lý, giới trẻ hiện nay thường yêu nhanh cưới vội, đặc biệt bên cạnh sự bùng nổ của khoa học mà chúng
ta không thể phủ nhận số cặp yêu qua mạng cũng tăng. Hầu hết các bạn trẻ chưa được chuẩn bị những
kiến thức, hiểu biết cần thiết về cách tổ chức cuộc sống cho gia đình mới, quản lý chi tiêu, chăm sóc
và ni dạy con cái; nhận thức về tình u cịn hời hợt, nơng cạn, thường chỉ thiên về hình thức bề
ngồi, u theo cảm tính…. Chính vì vậy, trong q trình chung sống khơng thể thấu hiểu, cảm thông
4


cho nhau từ đó dẫn đến các cuộc cãi vã mâu thuẫn. Khi vợ chồng khơng cịn tiếng nói chung, họ khơng
cịn vui vẻ bên nhau và họ muốn ly hơn để mỗi người có thể tìm hạnh phúc cho riêng mình.
Thứ hai, ảnh hưởng bởi nền văn hóa trong quá trình đổi mới: Trải qua hơn 30 năm đổi mới, Việt
Nam có những chuyển biến tích cực nhất định trong nền kinh tế thị trường, cuộc sống của người dân
ổn định hơn, tuy nhiên có thể do điều kiện sống được cải thiện mà nền văn hóa cịn tồn đọng một số
tiêu cực về lối sống chủ nghĩa cá nhân. Một số người quá đề cao cái tôi mà ít quan tâm đến đối phương,
hay khi họ tự chủ được nền kinh tế mà dẫn đến coi trọng nghề nghiệp hơn xây dựng hạnh phúc gia
đình. Bên cạnh những trường hợp đó thì khơng thể nhắc đến những đơi ly hơn do hồn cảnh kinh tế
khó khăn, thu nhập bấp bênh, khơng chu cấp trọn vẹn cho gia đình cũng rất dễ dẫn đến các mâu thuẫn.
Ngồi ra cịn một số nguyên nhân dẫn đến ly hôn khác như tư tưởng lạc hậu phải sinh con trai,

mâu thuẫn giữa mẹ chồng nàng dâu hay vì những lý do cá nhân nào đó… Nhưng chung lại thì tất cả
ngun nhân trên chủ yếu nhất vẫn là nhận thức của mỗi người trong hôn nhân, họ cần phải hiểu và
chia sẻ cảm thơng cùng nhau vượt qua khó khăn để xây dựng hạnh phúc gia đình.
2. Quan điểm
Theo quan điểm của em, xã hội ngày càng phát triển và văn minh hơn nên việc ly hơn là chuyện
bình thường, pháp luật không cấm nhưng nên hạn chế.
Trong quan hệ hôn nhân, khi hai bên cảm thấy không thể tiếp tục được nữa thì việc ly hơn là điều
tất yếu. Ly hơn giúp họ thoải mái hơn, cho họ có cuộc sống tự do, khơng gị bó. Cũng như việc đi sai
đường có thể chọn lại, ly hơn cũng là con đường để họ có thể sửa sai, tìm một người phù hợp để sống
chung đến cuối đời. Nhưng ly hôn, không chỉ là sự hợp rồi tan của hai người mà còn ảnh hưởng nhiều
đến mọi người xung quanh đặc biệt là đến con của họ. Tất nhiên có nhiều gia đình khi ly hơn, hai bên
vẫn hịa hợp cùng chăm sóc cho con của họ, con họ vẫn hưởng trọn vẹn hạnh phúc từ bố mẹ, nhưng ắt
hẳn đứa trẻ nào cũng không muốn bố mẹ xa nhau hay đi thêm bước nữa, chúng ln muốn có một gia
đình chính nghĩa. Bên cạnh đó thường ly hơn thì phụ nữ sẽ là người chịu thiệt nhiều hơn, đặc biệt khi
họ nhận ni con thì việc bắt đầu một mối quan hệ với một phụ nữ đã có chồng sẽ khó hơn nhiều so
với đàn ơng hay thậm chí có những lời ra nói vào khơng tốt về họ.
Nói chung với em, em khơng phản đối chuyện ly hơn đó là quyền tự do của mỗi con người.
Nhưng khơng vì thế mà em ủng hộ mọi người cứ thích thì u rồi cưới mà khơng thích lại ly hơn. u
là một chuyện, hôn nhân lại là một chuyện quan trọng hơn vì đó là người mà ta chung sống đến cuối
đời. Vì vậy trước khi kết hơn các cặp đơi nên suy nghĩ kỹ, không nên vội vàng khi yêu, nâng cao nhận
thức của mình về hạnh phúc gia đình để từ đó góp phần giúp xã hội phát triển và tiến bộ hơn.

Người viết thu hoạch
Hà Anh
Nguyễn Thị Hà Anh
5




×