Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

NHỮNG rủi RO TRONG THANH TOÁN QUỐC tế tại các NGÂN HÀNG THƯƠNG mại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.45 KB, 37 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Đề tài:
NHỮNG RỦI RO TRONG THANH TOÁN
QUỐC TẾ TẠI CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn : PGS. TS. Trầm Thị Xuân Hương
Nhóm thực hiện : Nhóm 15
Lớp : Ngân Hàng Ngày 2
Khóa : 21
Hệ: Sau Đại Học
Ngày 01/05/2013
Danh sách thành viên nhóm
Họ và tên Nhiệm vụ
1. Bùi Thị Thùy Anh
Phần 2-chương I
2. Nguyễn Thị Bảo Ngân
Chương III
3. Huỳnh Thảo Nguyên
Phần 3-chương I
4. Nguyễn Thị Thanh Thủy
Chương II
5. Lê Thị Thanh Thúy
Chương II +tổng hợp
6. Nguyễn Đào Xuân
Phần 1-chương 1+ Soạn Powerpoint
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết hoạt động giao thương quốc tế đã xuất hiện từ rất sớm và không
ngừng phát triển. Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa thì hoạt động ngoại thương giữ vị trí
quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Trong hoạt động này thì không thể
không kể đến sự tham gia của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng này đóng vai trò
như một trung gian thanh toán cho các đối tác nước ngoài.


Thông qua hệ thống ngân hàng thì việc nhận và chuyển tiền của các bên sẽ được an toàn và
nhanh chóng hơn. Ngoài ra, hoạt động thanh toán quốc tế không chỉ đem lại tiện ích cho
các bên giao thương mà còn đem lại một nguồn lợi rất cao cho các ngân hàng đó là góp
phần đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, gia tăng thu nhập từ việc thu phí chuyển tiền và các
hình thức tài trợ thương mại.
Tuy nhiên, thanh toán quốc tế cũng như các hoạt động khác cũng chứa đựng nhiều rủi ro
gây cho các ngân hàng cũng như các bên giao thương một tổn thất rất lớn. Vì vậy, mà nhóm
chọn đề tài “Những rủi ro trong thanh toán quốc tế” nhằm tìm hiểu và phân tích xem trong
hoạt động giao thương và thanh toán quốc tế có những rủi ro nào phát sinh, trên cơ sở đó
đưa ra các giải pháp để giảm thiểu rủi ro nhằm giúp các hoạt động giao thương quốc tế và
việc kinh doanh của các ngân hàng diễn ra an toàn hiệu quả.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ VÀ NHỮNG RỦI RO
TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ.
1. Tổng quan về thanh toán quốc tế 1
1.1. Khái niệm về thanh toán quốc tế 1
1.2. Các phương thức thanh toán quốc tế 1
1.2.1. Phương thức chuyển tiền 1
1.2.2. Phương thức ghi sổ 3
1.2.3. Phương thức nhờ thu 4
1.2.4. Phương thức tín dụng chứng từ 7
2. Những rủi ro trong thanh toán quốc tế 11
2.1. Rủi ro thương mại 11
2.1.1. Từ phía Người xuất khẩu 11
2.1.2. Từ phía người nhập khẩu 12
2.2. Rủi ro trong thanh toán 13
2.2.1. Rủi ro tín dụng 13
2.2.2. Rủi ro tỷ giá 15
2.2.3. Rủi ro tác nghiệp 16

2.2.4. Rủi ro khác 17
3.Những hệ quả của rủi ro trong thanh toán quốc tế 19
3.1 Phương thức chuyển tiền 19
3.2. Phương thức ghi sổ 19
3.3. Phương thức nhờ thu 20
3.3.1.Phương thức nhờ thu trơn 20
3.3.2.Phương pháp nhờ thu kèm chứng từ 20
3.4. Phương thức tín dụng chứng từ 21
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1. Khung pháp lý, tập quán và thông lệ quốc tế liên quan đến
hoạt động thanh toán quốc tế 23
2. Hoạt động thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại Việt Nam 23
2.1. Vietcombank 23
2.2. Vietinbank 23
2.3. Eximbank 24
3. Những tình huống thực tế về rủi ro phát sinh trong hoạt động thanh toán quốc tế tại các
Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam 24
3.2.1. Tình huống 1 24
3.2.2. Tình huống 2 25
3.3. Phương thức LC 26
CHƯƠNG III. CÁC GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ
TỪ PHÍA CÁC NGÂN HÀNG VÀ CÁC NHÀ QUẢN LÝ.
1.Các ngân hàng 29
2. Ngân hàng nhà nước 30
3.Chính phủ 30
4.Cơ quan khác 30
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ VÀ NHỮNG RỦI RO
TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ.
I.Tổng quan về thanh toán quốc tế:
1.1. Khái niệm về thanh toán quốc tế:
Thanh toán quốc tế là quá trình thực hiện các khoản thu chi tiền tệ liên quan đến các mối
quan hệ kinh tế, thương mại và các mối quan hệ khác phi kinh tế giữa các tổ chức, công ty,
cá nhân các nước với nhau thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng có quan hệ đại lý
trên toàn thế giới.
1.2. Các phương thức thanh toán quốc tế:
1.2.1. Phương thức chuyển tiền (remittance)
1.2.1.1. Khái niệm:
Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán đơn giản nhất, trong đó một khách hàng
(người trả tiền, người mua, người nhập khẩu…) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển
một số tiền nhất định cho người hưởng lợi (người nhận tiền, người bán, người xuất khẩu…)
ở một địa điểm nhất định trong một thời gian nhất định.
1.2.1.2. Đối tượng tham gia:
Người chuyển tiền (The Remitter, The Applicant, The Customer): người mua, nhà nhập
khẩu, người mắc nợ, kiều bào chuyển tiền về nước…là người yêu cầu ngân hàng chuyển
tiền.
Ngân hàng chuyển tiền (The Remitting bank, The Applicant bank): ngân hàng nhận ủy
thác chuyển tiền của người chuyển tiền.
Người thụ hưởng (The Beneficiary): người bán, nhà xuất khẩu, chủ nợ, người tiếp nhận
vốn đầu tư… hoặc một người nào đó do người chuyển tiền chỉ định.
Ngân hàng trung gian (Intermediary Bank): ngân hàng nắm giữ tài khoản Nostro của ngân
hàng chuyển tiền hoặc ngân hàng trả tiền.
Ngân hàng đại lý (The Corresponding/ Agent bank): Là ngân hàng có quan hệ đại lý với
ngân hàng chuyển tiền, thường đặt tại nước của người thụ hưởng.
Ngân hàng trả tiền (The Beneficiary bank): ngân hàng phục vụ người thụ hưởng.
1.2.1.3. Phân loại:
Chuyển tiền bằng thư (M/T Mail Transfer): Ngân hàng chuyển tiền thực hiện việc chuyển

tiền bằng cách phát hành bankdraft (hối phiếu ngân hàng) yêu cầu ngân hàng đại lý ở nước
ngoài trả tiền cho người thụ hưởng. Bankdraft là phương tiện chuyển tiền do ngân hàng phát
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 1
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương
hành yêu cầu ngân hàng đại lý của mình ở nước ngoài trả tiền cho người xuất trình
bankdraft.
Chuyển tiền bằng điện: Ngân hàng chuyển tiền thực hiện việc chuyển tiền bằng cách điện
lệnh ra lệnh cho ngân hàng đại lý ở nước ngoài trả tiền cho người thụ hưởng. Gồm có:
chuyển tiền bằng T/T (telegraphic Transfer) và chuyển tiền thông qua hệ thống SWIFT
(Societies For Worldwide Interbank Financial Telecommunication).
1.2.1.4. Quy trình:
a.Quy trình chuyển tiền trả trước (advance payment):
Bước 1: Dựa trên hợp đồng ngoại thương đã ký kết, công ty nhập khẩu viết lệnh chuyển
tiền gửi đến ngân hàng phục vụ mình (ngân hàng chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng chuyển
tiền ứng trước tiền cho nhà nhập khẩu.
Bước 2: Sau khi kiểm tra, nếu hợp lệ và đủ khả năng thanh toán, ngân hàng chuyển tiền sẽ
trích tài khoản của đơn vị để chuyển tiền đồng thời gửi giấy báo nợ (giấy đã thanh toán) cho
công ty nhập khẩu.
Bước 3: Ngân hàng chuyển tiền ra lệnh (bằng thư hay điện báo) cho ngân hàng trả tiền ở
nước ngoài chuyển trả cho người thụ hưởng (trong trường hợp ngân hàng này có quan hệ
đại lý với ngân hàng trả tiền). Nếu trong thường hợp ngân hàng trả tiền không có quan hệ
đai lý với ngân hàng chuyển tiền thì sẽ thực hiện việc chuyển tiền thông qua ngân hàng đại
lý ở các bước 3a, 3b.
Bước 4: Ngân hàng trả tiền sẽ thực hiện việc chuyển tiền cho công ty xuất khẩu và gửi giấy
báo có cho đơn vị.
Bước 5: Công ty xuất khẩu thực hiện việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho công ty nhập
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 2
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương
khẩu đồng thời chuyển giao toàn bộ chứng từ (vận đơn, hóa đơn, chứng từ về hàng hóa và
chứng từ có liên quan cho công ty nhập khẩu).

b.Quy trình chuyển tiền trả sau (deffered payment):
Bước 1: Sau khi thỏa thuận đi đến ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương, công ty xuất
khẩu thực hiện việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho công ty nhập khẩu đồng thời chuyển
giao toàn bộ chứng từ (vận đơn, hóa đơn, chứng từ về hàng hóa và các chứng từ có liên
quan cho công ty xuất khẩu).
Bước 2: Công ty nhập khẩu sau khi kiểm tra chứng từ, hóa đơn, viết lệnh chuyển tiền gửi
đến ngân hàng phục vụ mình (ngân hàng chuyển tiền).
Bước 3: Sau khi kiểm tra, nếu hợp lệ và đủ khả năng thanh toán, ngân hàng chuyển tiền sẽ
trích tài khoản của đơn vị để chuyển tiền gửi giáy báo nợ cho công ty nhập khẩu.
Bước 4: Ngân hàng chuyển tiền ra lệnh (bằng thư hay bằng điện báo) cho ngân hàng trả tiền
ở nước ngoài chuyển trả cho người thụ hưởng (trong trường hợp ngân hàng này có quan hệ
đại lý với ngân hàng trả tiền). Nếu trong trường hợp ngân hàng trả tiền không có quan hệ
đại lý với ngân hàng chuyển tiền thì sẽ thực hiện việc chuyển tiền thông qua ngân hàng đại
lý ở bước (4a), (4b).
Bước 5: Ngân hàng chuyển tiền sẽ thực hiện việc chuyển tiền cho người thụ hưởng và gửi
giấy báo có cho công ty xuất khẩu.
1.2.2. Phương thức ghi sổ
1.2.2.1. Khái niệm:
Là phương thức thanh toán trong đó nhà xuất khẩu sau khi hoàn thành giao hàng thì ghi Nợ
tài khoản cho bên nhập khẩu vào một cuốn sổ theo dõi và việc thanh toán các khoản nợ này
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 3
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương
được thực hiện thông thường theo định kỳ như đã thỏa thuận.
1.2.2.2. Đối tượng tham gia:
- Nhà xuất khẩu.
- Nhà nhập khẩu.
- Ngân hàng.
1.2.2.3. Quy trình:
Bước 1: Trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương, công ty nhập khẩu yêu cầu các ngân
hàng bên xuất khẩu mở cho mình một tài khoản tín thác (Trust account).

Bước 2: Ngân hàng thông báo cho công ty xuất khẩu về việc công ty nhập khẩu mở tài
khoản tín thác và những yêu cầu liên quan đến việc xuất trình chứng từ.
Bước 3: Công ty xuất khẩu cung ứng hàng sang nước nhập khẩu theo đúng thỏa thuận trên
hợp đồng và có giám định của người đại diện hoặc của công ty giám định do người đại diện
của công ty nhập khẩu thuê.
Bước 4: Trên cơ sở giao hàng, công ty xuất khẩu xuất trình chứng từ cho ngân hàng chỉ
định thanh toán.
Bước 5: Ngân hàng kiểm tra chứng từ, đối chiếu bảng ghi nhớ trước đây, nếu đúng thì thanh
toán tiền cho công ty xuất khẩu từ tài khoản tín thác của đơn vị nhập khẩu.
Bước 6: Ngân hàng chuyển toàn bộ chứng từ cho công ty nhập khẩu và quyết toán tài khoản
tín thác.
1.2.3. Phương thức nhờ thu (collection)
1.2.3.1. Khái niệm:
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 4
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương
Phương thức thanh toán nhờ thu là phương thức trong đó công ty xuất khẩu sau khi hoàn
thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ sẽ tiến hành ủy thác cho ngân hàng phục
vụ mình thu hộ tiền từ công ty nhập khẩu dựa trên cơ sở hối phiếu (hoặc séc) và bộ chứng từ
do công ty xuất khẩu xuất trình.
1.2.3.2. Đối tượng tham gia
Người ủy thác (Principal): người bán (công ty xuất khẩu) nhờ ngân hàng thu hộ.
Người trả tiền (Drawee): bên mua, nhà nhập khẩu, là người được ký phát hối phiếu.
Ngân hàng chuyển chứng từ hay còn gọi là ngân hàng nhờ thu (remittance bank): Là
ngân hàng phục vụ cho bên bán (công ty xuất khẩu), được bên bán ủy thác thu hộ tiền cho
bên mua, có nhiệm vụ chuyển giao chứng từ qua ngân hàng nước ngoài để đòi tiền bên mua.
Ngân hàng thu hộ tiền (Collecting bank): có nhiệm vụ thu hộ tiền bên mua (công ty nhập
khẩu) thường là đại lý của ngân hàng chuyển chứng từ ở nước ngoài.
Ngân hàng xuất trình chứng từ (Presenting bank): thực hiện chức năng giống như ngân
hàng thu hộ, là đại lý của ngân hàng trực tiếp xuất trình chứng từ đòi tiền bên mua.
1.2.3.3. Phân loại

Căn cứ vào loại hối phiếu sử dụng trong phương thức nhờ thu:
• Nhờ thu trơn (Clean collection): nhờ thu trơn là phương thức thanh toán, trong đó
công ty xuất khẩu sau khi giao hàng cho bên công ty nhập khẩu, chỉ ký phát tờ hối
phiếu đòi tiền công ty nhập khẩu và yêu cầu ngân hàng thu số tiền ghi trên tờ hối
phiếu đó, không kèm theo một điều kiện nào cả của việc trả tiền.
• Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary collection): Phương thức nhờ thu kèm chứng
từ là phương thức thanh toán mà trong đó công ty xuất khẩu nhờ ngân hàng thu hộ
tiền từ công ty nhập khẩu không những căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ
chứng từ hàng hóa, với điều kiện nếu công ty nhập khẩu đồng ý trả tiền hoặc chấp
nhận hối phiếu thì ngân hàng mới giao bộ chứng từ hàng hóa cho công ty nhập khẩu
để nhận hàng.
Căn cứ vào thời hạn trả tiền nhờ thu kèm chứng từ có hai loại:
• Nhờ thu trả ngay (Documents against payment-D/P): Được sử dụng trong trường
hợp mua bán trả tiền ngay khi người mua trả tiền thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ
thanh toán.
• Nhờ thu trả chậm (Documents against acceptance-D/A): Được sử dụng trong
trường hợp mua bán chịu, chỉ khi nào người mua chấp nhận trả tiền trên hối phiếu thi
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 5
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương
ngân hàng mới giao bộ chứng từ để nhận hàng. Đến hạn thanh toán hối phiếu, người
mua có nhiệm vụ thanh toán đúng hạn cho người cầm hối phiếu.
1.2.3.4. Quy trình:
Bước 1: Căn cứ vào hợp đồng ngoại thương được ký kết giữa hai đơn vị, công ty xuất khẩu
thực hiện việc giao hàng sang nước nhập khẩu.
Bước 2: Trên cơ sở giao hàng công ty xuất khẩu ký phát hối phiếu đòi tiền công ty nhập
khẩu kèm theo bộ chứng từ hàng hóa gửi đến ngân hàng phục vụ mình (remitting bank) đề
nhờ thu hộ tiền từ công ty nhập khẩu.
Bước 3: Ngân hàng nhờ thu gửi hối phiếu, bộ chứng từ hàng hóa kèm theo chỉ thị nhờ thu
gửi ngân hàng thu hộ (Collecting Bank) nhờ thu hộ tiền từ nhà nhập khẩu.
Nếu không đồng ý thu hộ thì phải thông báo ngay (Fax, Telex, Swift).

Bước 4: Ngân hàng nhờ thu giữ lại bộ chứng từ gốc, gửi hối phiếu và bản sao chứng từ cho
công ty nhập khẩu (trong trường hợp ngân hàng thu hộ cũng là ngân hàng phục vụ cho nhà
nhập khẩu). Nếu trong trường hợp ngân hàng thu hộ không có quan hệ đại lý với ngân hàng
nhờ thu thì sẽ gửi hối phiếu và bản sao chứng từ cho công ty nhập khẩu thông qua ngân
hàng xuất trình.
Bước 5: Công ty nhập khẩu kiểm tra hối phiếu và bản sao chứng từ, đối chiếu với hợp đồng
mà quyết định đồng ý hay từ chối thanh toán. Nếu đồng y thì có hai trường hợp:
• Nếu là nhờ thu trả tiền ngay (D/P): công ty nhập khẩu thanh toán thì ngân hàng mới
giao bộ chứng từ gốc để nhận hàng.
• Nếu là nhờ thu chấp nhận trả tiền theo chứng từ (D/A): công ty nhập khẩu chỉ cần ký
chấp nhận hối phiếu ngân hàng sẽ giao bộ chứng từ.
Bước 6: Ngân hàng thu hộ tiền chuyển giao chứng từ hàng hóa cho công ty nhập khẩu để
nhận hàng (ngân hàng đã nhận được sự đồng ý thanh toán).
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 6
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương
Bước 7: Ngân hàng thu hộ thực hiện các bút toán chuyển tiền và gửi thông báo hoặc hối
phiếu đã chấp nhận về ngân hàng nhờ thu bên xuất khẩu hoặc thông báo về sự từ chối thanh
toán của bên nhập khẩu.
Bước 8: Ngân hàng nhờ thu tiến hành thanh toán, gửi giấy báo có cho công ty xuất khẩu
hoặc chuyển hối phiếu đã chấp nhận hoặc thông báo về sự từ chối thanh toán của bên nhập
khẩu.
1.2.4. Phương thức tín dụng chứng từ:
1.2.4.1. Khái niệm:
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thỏa thuận mà trong đó một ngân hàng (ngân hàng
mở thư tín dụng) đáp ứng những nhu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng)
cam kết hay cho phép ngân hàng khác chi trả hoặc chấp nhận những yêu cầu của người
hưởng lợi khi những điều kiện quy định trong thư tín dụng được thực hiện đúng và đầy đủ.
1.2.4.2. Đối tượng tham gia:
Người yêu cầu mở L/C (Applicant for L/C): bên mà L/C được phát hành theo yêu cầu của
họ, thường là nhà nhập khẩu, yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành một L/C và có

trách nhiệm pháp lý về việc ngân hàng phát hành trả tiền cho người thụ hưởng L/C.
Người hưởng lợi (Beneficiary of L/C): bên được hưởng tiền thanh toán hay sở hữu hối
phiếu đã chấp nhận thanh toán, thường là người bán hay người xuất khẩu hàng hóa.
Ngân hàng phát hành thư tín dụng (Issuing bank): ngân hàng thực hiện việc phát hành
L/C theo đơn người yêu cầu, nghĩa là nó cung cấp tín dụng cho người yêu cầu. Ngân hàng
phát hành thường được hai bên mua bán thỏa thuận và quy định trong hợp đồng. Nếu không
có sự thỏa thuận trước thì nhà nhập khẩu được phép chọn ngân hàng phát hành.
Ngân hàng thông báo thư tín dụng (Advising bank): ngân hàng được ngân hàng phát hành
ủy quyền thông báo L/C cho người thụ hưởng. Ngân hàng thông báo thường là ngân hàng
đại lý hay một chi nhánh của ngân hàng phát hành ở nước nhà xuất khẩu.
Ngân hàng xác nhận (Confirming bank): ngân hàng bổ sung sự xác nhận của mình vào
L/C theo yêu cầu hoặc theo sự ủy quyền của ngân hàng phát hành.
Ngân hàng thanh toán (Paying bank).
Ngân hàng chiết khấu (Negotiating bank).
Ngân hàng chấp nhận (Accepting bank): ngân hàng thực hiện chấp nhận hối phiếu kỳ hạn.
Ngân hàng bồi hoàn (Reimbursing bank): ngân hàng có nhiệm vụ hoàn tiền cho ngân hàng
thanh toán bộ chứng từ.
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 7
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương
Ngân hàng chuyển nhượng (Transfering bank): trong trường hợp L/C được phép chuyển
nhượng thì ngân hàng này sẽ đứng ra làm thủ tục chuyển nhượng L/C từ người thụ hưởng
thứ nhất sang người thụ hưởng thứ hai theo yêu cầu của người yêu cầu.
1.2.4.3. Phân loại:
Căn cứ vào thời hạn trả tiền của LC:
• LC trả ngay (Sight letter of credit): là loại LC được ngân hàng phát hành hoặc ngân
hàng chỉ định thanh toán ngay khi các điều khoản và điều kiện của LC được thực
hiện đúng và đầy đủ.
• LC trả chậm (Deferred letter of credit): là loại LC được ngân hàng phát hành hoặc
ngân hàng chỉ định thanh toán sau một thời gian do LC quy định khi các điều khoản
và điều kiện của LC được thực hiện đúng và đầy đủ.

Căn cứ vào hình thức của LC:
• L/C có thể hủy ngang (Revocable L/C): là L/C mà người mở (nhà nhập khẩu) có
quyền đề nghị ngân hàng phát hành sửa đổi, bổ sung, hoặc hủy bỏ bất cứ lúc nào mà
không cần có sự chấp thuận và thông báo trước của người thụ hưởng (nhà xuất
khẩu). Tuy nhiên, khi hàng hóa đã giao, các lệnh trên sẽ không có giá trị và ngân
hàng phát hành vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán như đã cam kết, coi như
không có việc hủy bỏ xảy ra.
• L/C không thể hủy ngang (Irrevocable L/C): là L/C mà sau khi đã mở, thì ngân
hàng phát hành không được sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ trong thời hạn hiệu lực của
L/C nếu không có sự đồng thuận của người thụ hưởng và ngân hàng xác nhận (nếu
có).
• L/C không hủy ngang, xác nhận (confirmed irrevocable L/C): là L/C không thể
hủy bỏ. Theo yêu cầu của ngân hàng phát hành, một ngân hàng khác xác nhận trả
tiền cho L/C này. Trách nhiệm trả tiền L/C của ngân hàng xác nhận giống như ngân
hàng phát hành, do đó ngân hàng phát hành phải trả phí xác nhận và thường là ký
quỹ tại ngân hàng xác nhận, tỷ lệ ký quỹ có khi lên tới 100% trị giá của L/C. Do có
hai ngân hàng đứng ra cam kết nên L/C loại này là đảm bảo nhất cho nhà nhập khẩu.
• L/C chuyển nhượng (transferable L/C): là L/C không thể hủy ngang, theo đó người
hưởng lợi thứ nhất chuyển nhượng một phần hay toàn bộ nghĩa vụ thực hiện L/C và
quyền đòi tiền mà mình có được cho những người hưởng lợi thứ hai, mỗi người
hưởng lợi thứ hai nhận cho mình một phần của thương vụ. Việc chuyển nhượng L/C
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 8
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương
không có nghĩa hợp đồng mua bán cũng được chuyển nhượng, người hưởng lợi ban
đầu vẫn là người chịu trách nhiệm chính với nhà nhập khẩu.
• L/C giáp lưng (back to back L/C): sau khi nhận được L/C do người nhập khẩu mở
cho mình hưởng, nhà xuất khẩu căn cứ vào nội dung L/C này và dùng chính L/C này
để thế chấp mở một L/C khác cho người khác hưởng với nội dung gần giống như
L/C ban đầu.
• L/C tuần hoàn (revolving L/C): là L/C không thể hủy ngang mà sau khi đã sử dụng

hết giá trị của nó hoặc đã hết thời hạn hiệu lực thì nó lại tự động có giá trị như cũ và
tiếp tục sử dụng một cách tuần hoàn trong một thời hạn nhất định cho đến khi tổng
giá trị hợp đồng được thực hiện. L/C tuần hoàn phải ghi rõ ngày hết hiệu lực cuối
cùng, số lần tuần hoàn và số tiền tối thiểu của mỗi lần. Đồng thời phải ghi rõ có cho
phép số dư của L/C trước cộng dồn vào những L/C tiếp theo hay không, nếu không
cho phép thì gọi là L/C tuần hoàn không tích lũy (non-cumulative revolving L/C),
còn nếu cho phép cộng dồn thì gọi là L/C tuần hoàn tích lũy (cumulative revolving
L/C).
• L/C dự phòng (standby L/C): để bảo vệ quyền lợi của nhà nhập khẩu trong trường
hợp nhà nhập khẩu đã nhận được L/C, tiền đặt cọc, tiền ứng trước, nhưng không có
khả năng giao hàng, hoặc không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng như đã quy định
trong L/C, đòi hỏi ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu phát hành một L/C trong đó
cam kết với nhà nhập khẩu là sẽ hoàn trả lại số tiền đã đặt cọc, tiền ứng trước, và chi
phí mở L/C cho nhà nhập khẩu. Một L/C như vậy gọi là L/C dự phòng.
• L/C đối ứng (Reciprocal L/C): L/C chỉ bắt đầu có hiệu lực khi L/C kia đối ứng với
nó được mở.
• L/C điều khoản đỏ (Red Clause L/C): Gọi là L/C điều khoản đỏ vì trước đây được
in bằng mực đỏ để tăng sự chú ý. Là L/C mà ngân hàng phát hành cho phép ngân
hàng thông báo ứng trước cho người thụ hưởng để mua hàng hóa, nguyên liệu phục
vụ sản xuất hàng hóa theo L/C đã mở. Điều cần hiểu là tiền ứng trước được lấy từ tài
khoản của người mở, nghĩa là tín dụng thương mại, mà không phải là tín dụng của
ngân hàng thông báo hay ngân hàng phát hành. Ngân hàng thông báo chỉ thực hiện
các thủ tục theo điều khoản của L/C mà không cam kết hoặc không chịu trách nhiệm
về số tiền đó. Việc ứng trước tiền được ngân hàng phát hành ủy quyền cho ngân
hàng thông báo thực hiện. Sau đó (hoặc trước đó) ngân hàng phát hành sẽ (hoặc đã)
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 9
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương
trích tài khoản của người mở chuyển (hoặc hoàn trả) cho ngân hàng thông báo.
1.2.4.4. Quy trình:
Bước 1: căn cứ vào hợp đồng mở mua bán ngoại thương công ty nhập khẩu viết đơn đề

nghị mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng phục vụ mình (nơi đơn vị mở tài khoản ngoại tệ để
yêu cầu ngân hàng mở một thư tín dụng cho công ty xuất khẩu hưởng).
Bước 2: căn cứ vào yêu cầu mở thư tín dụng của công ty nhập khẩu và các chứng từ có liên
quan, nếu đồng ý, ngân hàng viết thư tín dụng gửi cho công ty xuất khẩu thông qua ngân
hàng thông báo tại nước xuất khẩu.
Bước 3: khi nhận được thư tín dụng của ngân hàng mở L/C gửi đến, ngân hàng thông báo
sẽ tiến hành kiểm tra tính xác thực của thư tín dụng, rồi chuyển bản chính L/C cho nhà xuất
khẩu.
Bước 4: công ty xuất khẩu nhận được thư tín dụng do ngân hàng thông báo gửi đến, tiến
hành kiểm tra, dịch thuật, đối chiếu với hợp đồng mua bán ngoại thương đã được ký kết
trước đây, nếu đồng ý thì tiến hành giao hàng cho công ty nhập khẩu, nếu không đồng ý thì
đề nghị công ty nhập khẩu điều chỉnh hoặc bổ sung thêm cho đến khi hoàn chỉnh thì mới
giao hàng.
Bước 5: sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, công ty xuất khẩu lập bộ chứng từ theo
đúng điều khoản trong thư tín dụng xuất trình cho ngân hàng để yêu cầu thanh toán.
Bước 6: ngân hàng phục vụ người xuất khẩu nhận, kiểm tra và xử lý bộ chứng từ do đơn vị
nhập khẩu nộp vào.
Sau khi kiểm tra thì tùy vào tình trạng cụ thể của bộ chứng từ mà ngân hàng sẽ giải quyết
như sau:
• Nếu bộ chứng từ không có sai sót thì ngân hàng phụ vụ của nhà xuất khẩu chuyển bộ
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 10
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương
chứng từ kèm theo thư đòi tiền gửi về ngân hàng phát hành yêu cầu thanh toán.
• Nếu bộ chứng từ có sai sót thì tất cả các sai sót hoặc bất hợp lệ của chứng từ đều
được thanh toán viên ghi vào phiếu kiểm chứng từ xuất khẩu. Sau đó sẽ xử trí tùy
theo mức độ sai sót của bộ chứng từ.
Bước 7: ngân hàng mở L/C nhận được bộ chứng từ thanh toán do ngân hàng của bên xuất
khẩu gửi đến tiến hành kiểm tra đối chiếu với những điều khoản quy định trên L/C đã mở
trước đây. Nếu thấy phù hợp thì ngân hàng mở L/C sẽ thanh toán cho bên xuất khẩu thông
qua ngân hàng bên xuất khẩu. Nếu bộ chứng từ không phù hợp với những điều kiện và điều

khoản đã ghi trong L/C, ngân hàng mở L/C có quyền từ chối thanh toán L/C hoặc có thể xin
ý kiến của người xin mở L/C về việc thanh toán lô hàng nhập khẩu.
Bước 8: nhận được điện báo có về khoản thanh toán bộ chứng từ hàng xuất khẩu, ngân hàng
báo có cho công ty xuất khẩu và cũng có thể nhận được thông báo từ chối của ngân hàng
mở L/C.
Bước 9: ngân hàng mở L/C yêu cầu người mở L/C thanh toán toàn bộ chứng từ và chuyển
bộ chứng từ cho người mở L/C. Nhà nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với
những điều kiện đã ghi trong L/C, thì hoàn trả lại tiền cho ngân hàng mở thư tín dụng, hoặc
vay ngân hàng để thanh toán L/C.
2. Những rủi ro trong thanh toán quốc tế:
2.1. Rủi ro thương mại:
Loại rủi ro này hiện diện trong tất cả các giao dịch giữa các thương gia, rủi ro trong giao
dịch quốc tế cũng giống như rủi ro trong các giao dịch nội địa.
Rủi ro này được xem xét một cách khác nhau từ phía người xuất khẩu và từ phía người nhập
khẩu.
2.1.1. Từ phía Người xuất khẩu:
Họ thường gặp phải những khuyết tật trong thanh toán như:
Sự suy yếu tài chính của con nợ (người mua hàng): người mua hàng bất ngờ rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán trong kỳ hạn đã thỏa thuận, khi ngân quỹ của họ hết tiền, họ
sẽ đề nghị gia hạn trả nợ. Sự thanh toán có thể được thỏa hiệp nếu người mua chưa thể cải
thiện được tình hình tài chính.
Những quy định pháp lý: trường hợp người mua tuyên bố không còn khả năng chi trả,
doanh nghiệp đó sẽ bị giải thể theo luật pháp. Nợ của nhà xuất khẩu chỉ được thanh toán sau
khi các khoản nợ khác gọi là được ưu tiên giải quyết xong như các khoản tiền lương, các
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 11
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương
khoản tố chức xã hội, thuế…Nhà xuất khẩu có rất ít cơ hội thu hồi dù rất nhỏ các khoản mà
người mua đã nợ. Trước khả năng mất thanh toán của người mua, có rất ít biện pháp hữu
hiệu nếu nhà xuất khẩu không thực hiện các điều kiện an toàn về thanh toán trước khi thực
hiện hợp đồng thương mại, hoặc không mua bảo hiểm của các công ty chuyên trách về vấn

đề này.
2.1.2. Từ phía người nhập khẩu:
Cũng như các quan hệ giao dịch thương mại nội địa, rủi ro xảy ra ngay cả đối với người
mua (người nhập khẩu) rủi ro xảy ro khi nhà xuất khẩu vi phạm các điều khoản của hợp
đồng thương mại.
Thời hạn gửi hàng: theo hợp đồng đã ký kết, người nhập khẩu bắt buộc phải nhận hàng
trong thời hạn đã thoả thuận để họ có thể giao hàng cho đối tác của mình. Mọi sự chậm trể
trong quá trình vận chuyển từ người xuất khẩu đều gây khó khăn cho việc nhận hàng hoá
theo đúng hạn của hợp đồng, gây ra tổn thất cho người mua trong thoả thuận với đối tác.
Vận chuyển hàng từng phần: khi hàng hoá được vận chuyền làm nhiều lần (từng phần mỗi
lần) nếu sự vận chuyển hàng thuộc trách nhiệm người nhập khẩu, thì người nhập khẩu sẽ
không được giá ưu đãi khi vận chuyển hàng với khối lượng lớn
Số lượng hàng: khi người nhập khẩu nhận được hàng với số lượng ít hơn như đã yêu cầu
thoả thuận trong hợp đồng sẽ gây hậu quả:
• Lượng hàng thiếu gây tổn hại cho người nhập khẩu vì không thể thực hiện đầu tư
hay dự án như đã định trước, không thu được lợi nhuận như đã dự tính. Ngược lại
vẫn phải bỏ ra một chi phí trả lãi cho khoản vay để mua hàng.
• Nguy cơ đối tác của người nhập khẩu sẽ hủy hợp đồng, tẩy chay không hợp tác đối
với người nhập khẩu nếu hàng hóa đó có vai trò quan trọng trong kinh doanh, điều
này gây ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của người nhập khẩu trên thị trường.
Sự thay đổi về điều kiện và thời gian thanh toán: nhiều khi hợp đồng thương mại đã ký qui
định cụ thể về các điều kiện và thời gian thanh toán, song người xuất khẩu đơn phương thay
đổi buộc nhà nhập khẩu phải thanh toán luôn một lần toàn bộ số tiền hàng mới được nhận
hàng, điều này khiến cho nhà nhập khẩu bị động phải có khoản vay từ ngân hàng để tài trợ
cho việc thanh toán với phần lãi phải trả. Nếu khoản vay lớn sẽ gây khó khăn trong việc vay
vốn và ảnh hưởng đến khả năng nhận hàng.
Yếu tố giá cả: trong quá trình thực hiện hợp đồng, với lý do đặc biệt như chính trị, thiên
tai… người xuất khẩu yêu cầu người nhập khẩu phải trả theo một giá cao hơn so với giá
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 12
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương

thoả thuận. Trong trường hợp này người nhập khẩu có thể từ chối hợp đồng và tìm người
cung cấp mới, song sẽ bị nhận hàng chậm hơn so với quy định với đối tác. Nhiều khi người
nhập không có lựa chọn nào khác buộc phải chấp nhận giá cao và tổn thất trong lợi nhuận.
Những thay đổi trong điều kiện vận chuyển hàng hóa: tuy hợp đồng đã ký cụ thể phương
tiện vận chuyển, song quá trình vận chuyển hàng có những tình huống thay đổi chuyến hàng
bằng những phương tiện chậm hơn, gây sự chậm trễ trong nhận hàng, ảnh hưởng đến giao
hàng với đối tác.
Rủi ro trong bảo hiểm: trong hợp đồng thương mại được ký, các bên tham gia thiếu sự
quản lý chặt chẽ có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng trong vận chuyển hàng hóa, hàng hóa
được đền bù với giá cao nhất như trong thỏa thuận bảo hiểm nhưng khoản tiền được nhận
thấp hơn nhiều so với giá trị thực của hàng hóa.
Các yếu tố khác như: chất lượng của hàng hóa, nguồn gốc của hàng hóa, điều kiện về vệ
sinh, y tế, rủi ro liên quan tới chi phí hàng phải lưu kho…cũng ảnh hưởng không nhỏ tới các
giao dịch trong thương mại quốc tế.
2.2. Rủi ro trong thanh toán:
Đây là những bất ngờ gây tổn thất cho các bên tham gia thanh toán, đặc biệt đối với các
ngân hàng khi thực hiện cung ứng dịch vụ thanh toán cho các bên tham gia kinh doanh, giao
dịch quốc tế.
2.2.1. Rủi ro tín dụng:
Đây là rủi ro mất khả năng thanh toán của một trong các bên tham gia vào thanh toán đặc
biệt trong phương thức tín dụng chứng từ.
Rủi ro tín dụng của nhà nhập khẩu: khi nhà nhập khẩu trong hoạt động kinh doanh của
mình bị vỡ nợ, phá sản mất khả năng thanh toán sẽ gây rủi ro cho ngân hàng phát hành thư
tín dụng (L/C). Khi ngân hàng phát hành L/C thay mặt người nhập khẩu cam kết trả tiền cho
bên xuất khẩu, trong trường hợp các ngân hàng không yêu cầu ký quỹ 100%, mà ngược lại
ngân hàng tài trợ cho vay đối với người nhập khẩu, gặp trường hợp mất khả năng thanh toán
của người nhập khẩu, rủi ro trong thanh toán hàng nhập xảy ra, sẽ gây không ít khó khăn,
tổn thất cho ngân hàng phát hành.
Rủi ro tín dụng của nhà xuất khẩu: rủi ro này thường xảy ro trong trường hợp ngân hàng
thực hiện chiết khấu chứng từ. Do tình trạng sai sót trong hồ sơ thanh toán bị từ chối thanh

toán, trường hợp này ngân hàng chiết khấu có quyền truy đòi lại số tiền đã thanh toán cho
người xuất khẩu, song nếu người xuất khâu không có khả năng thanh toán sẽ gây hậu quả
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 13
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương
rủi ro cho ngân hàng chiết khấu.
Rủi ro của ngân hàng phát hành:
Nếu ngân hàng phát hành mất khả năng thanh toán vì một lý do nào đó, hoặc bị đóng cửa, bị
vỡ nợ phá sản… sẽ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng chiết khấu và người xuất khẩu, điều này
phụ thuộc nhiều vào mức độ tín nhiệm của ngân hàng phát hành. Tuy ít khi xảy ra trong lịch
sử, song cũng đã có những ngân hàng thương mại bị sụp đổ.
Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng:
• Thứ nhất: trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp cũng như các ngân hàng
thương mại phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt, chịu sự chi phối lớn
của các qui luật cung-cầu, quy luật cạnh tranh…nên phải thường xuyên đối mặt với
rủi ro từ mọi phía. Có khi, do giá cả thay đổi, do công nghệ lạc hậu, khả năng quản lý
và điều hành yếu kém, khủng hoảng tài chính…gây phản ứng dây chuyền khiến các
doanh nghiệp gặp khó khăn, thua lỗ trong kinh doanh, thậm chí thua lỗ, vỡ nợ phá
sản.
• Thứ hai: do thông tin tín dụng không đầy đủ, nếu một bên không nắm vững tình
hình tài chính, uy tín khả năng thanh toán của đối tác, không am hiểu, không kiểm tra
các thông số kỹ thuật và hiệu quả của dự án mà mình tài trợ, thì rủi ro tín dụng là
điều khó tránh khỏi. Đây chính là thông tin không cân xứng. Vì vậy lựa chọn khách
hàng và ngân hàng nước ngoài có quan hệ tín dụng tốt là điều vô cùng quan trọng
trong thanh toán quốc tế.
2.2.2. Rủi ro tỷ giá:
Là rủi ro xảy ra khi việc thanh toán được ấn định bằng ngoại tệ nào đó. Khi tỷ giá biến động
sẽ gây tổn thất cho một trong hai phía. Trong giao dịch thanh toán L/C các ngân hàng cũng
gặp phải rủi ro về ngoại hối, những rủi ro này xuất hiện khi các ngân hàng có trạng thái
“đoản” về ngoại tệ khi ngoại tệ này lên giá ngân hàng phải đối mặt với rủi ro, ngược lại nếu
trạng thái loại ngoại tệ đó “trường” khi ngoại tệ đó mất giá ngân hàng phải gánh chịu tổn

thất.
Những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ giá tác động đến rủi ro hối đoái:
• Thứ nhất: là ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài đó là tình hình kinh tế, thị trường
tài chính quốc tế và chính sách can thiệp của các nước, các chính sách này không
nằm trong tầm khống chế, can thiệp của một quốc gia.
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 14
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương
• Thứ hai: là sự tương tác nhiều chiều của chính sách kinh tế– tài chính - tiền tệ ở mỗi
quốc gia.
Hình thức biểu hiện tổng hợp về sự tương tác từ hai phương diện trên chính là quan hệ cung
cầu ngoại hối trên thị trường. Nói chung có rất nhiều yếu tố tác động lên tỷ giá, một số yếu
tố cơ bản đó là :
• Trạng thái của cán cân thanh toán quốc tế ảnh hưởng trực tiếp đến cung cầu ngoại tệ
thông qua đó tác động trực tiếp lên tỷ giá.
• Sức mua của các đơn vị tiền tệ và tốc độ lạm phát ở các nước.
• Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước, giữa thị trường tiền tệ nội địa và thị trường
tiền tệ quốc tế.
2.2.3. Rủi ro tác nghiệp:
Là những rủi ro sai sót kỹ thuật do chính các bên tham gia gây nên, rủi ro này được thể hiện
trong việc lập các hồ sơ chứng từ không hoàn hảo, không đáp ứng đầy đủ các điều khoản và
điều kiện của L/C hoặc hành động không đúng theo UCP-600 và các thông lệ, tập quán
quốc tế khác.
Đặc biệt rủi ro tác nghiệp thường xảy ra nhiều trong phương thức tín dụng chứng từ. Đặc
thù của phương thức thanh toán này là các Ngân hàng chỉ thực hiện nghiệp vụ thanh toán
trên bề mặt các chứng từ, vì vậy, phương thức này đòi hỏi một cách khắt khe về sự phù hợp
tuyệt đối giữa bộ chứng từ thanh toán và L/C. Một sự sai khác dù nhỏ cũng có thể bị người
mua và Ngân hàng phát hành L/C bắt lỗi, và từ chối thanh toán. Đây là trở ngại lớn đối với
người bán (xuất khẩu) vì họ khó khăn trong việc đáp ứng đầy đủ các yêu cầu khắt khe đó,
như các sai sót liên quan đến chứng từ hồ sơ trực tiếp do người bán lập (các sai sót trong
hóa đơn thương mại, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết hàng hóa ) người bán có thể chủ

động sửa chữa sai sót này, song có những chứng từ không phải do người bán lập mà có sai
sót, như sai sót trong vân đơn, xuất sứ hàng hóa, phiếu kiểm định hàng hóa hoặc các
chứng từ do bên thứ 3 lập, thì người bán không thể khắc phục được, hoặc khắc phục sai sót
rất khó khăn.
Trường hợp nếu các ngân hàng tham gia thanh toán, chiết khấu bộ chứng từ không phát hiện
ra sai sót, hoặc bỏ qua các lỗi cho là nhỏ, sau khi thực hiện thanh toán, hoặc chiết khấu cho
nguời bán, ngân hàng đó sẽ chịu mọi rủi ro nếu ngân hàng phát hành L/C từ chối thanh toán.
Đặc biệt trong trường hợp Ngân hàng chiết khấu L/C đồng thời là ngân hàng xác nhận L/C
thì nó sẽ không có quyền truy đòi lại người xuất khẩu số tiền đã chiết khấu.
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 15
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương
Rủi ro có thể xảy ra đối với ngay cả ngân hàng phát hành L/C cũng như trong kiểm tra
chứng từ mở L/C, đối với loại L/C không thể huỷ ngang khi đã được phát hành thì ngân
hàng không thể tự ý huỷ bỏ hoặc sửa đổi, chỉ được phép thông báo sai sót trong vòng 5 ngày
làm việc kể từ khi nhận được hồ sơ chứng từ, nếu quá thời gian đã quy định đó ngân hàng
mất quyền từ chối mọi rủi ro.
Nguyên nhân gây ra rủi ro tác nghiệp:
Rủi ro tác nghiệp xảy ra chủ yếu là do trình độ ngoại thương và thanh toán quốc tế của các
bên tham gia còn yếu nên chưa nắm bắt được các yêu cầu khắt khe của L/C, của quy tắc
thực hành thống nhất tín dụng chứng từ (UCP 600), dẫn đến sai sót trong qúa trình giao dịch
từ lúc soạn thảo và ký kết hợp đồng ngoại thương cho đến khi lập chứng từ và thanh toán.
Ngoài ra cũng phải kể đến trình độ nghiệp vụ, ý thức thực hiện nghiệp vụ của các thành viên
tham gia thiết lập hồ sơ thanh toán và các văn bản liên quan.
2.2.4. Rủi ro khác:
2.2.4.1. Rủi ro quốc gia:
Rủi ro quốc gia là những rủi ro liên quan đến sự thay đổi về chính trị, kinh tế, về chính sách
quản lý ngoại hối – ngoại thương của một quốc gia làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán
và sự đáp ứng các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng của các bên. Suy thoái kinh tế và
biến động chính trị sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và giao lưu thương mại quốc tế.

Ví dụ:
+ Người mua hoàn toàn có khả năng và sẵn sàng thanh toán cho người bán, song do những
sự biến động hoặc biến cố bất thường trong quốc gia nhập khẩu ảnh hưởng đến chính trị,
kinh tế… khiến cho chính phủ nước đó cấm các công ty của nước mình thanh toán ngoại tệ
ra nước ngoài, hoặc hàng hóa nhập về thuộc diện cấm không làm thủ tục thông quan nên
không thể thanh toán tiền cho người bán hoặc bị rủi ro không thể nhập hàng.
+ Có sự thay đổi về chính sách ngoại thương, thuế quan xuất khẩu tăng, hoặc hàng hóa đó bị
cấm xuất khẩu nên gặp rủi ro không thể chuyển hàng đi. Đôi khi do quan hệ thanh toán giữa
hai quốc gia có biến cố không bình thường, nên khó khăn trong việc nhận tiền hàng của
người xuất khẩu.
Những nguyên nhân chính gây ra rủi ro quốc gia:
+ Mâu thuẫn về sắc tộc, đảng phái, tôn giáo đe dọa sự ổn định nội bộ của một nước.
+ Xung đột xã hội thông qua các cuộc biểu tình, đình công, bạo động, chiến tranh.
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 16
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương
+ Vấn đề nợ nước ngoài chồng chất khiến cho chính phủ nước nhập khẩu buộc phải đưa ra
biện pháp cấm thanh toán hoặc chuyển ngoại tệ ngoại hối ra nước ngoài.
+ Dự trữ ngoại hối ở mức thấp và cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia bị thâm hụt
nghiêm trọng, khiến cho Chính phủ nước nhập buộc phải đưa ra biện pháp cấp bách dừng
thanh toán với nước ngoài.
+ Sự cấm vận về kinh tế của quốc tế đối với nước nhập khẩu cho mọi hoạt động thương mại
quốc tế và các tài khoản NOTRO của nước đó ở nước ngoài bị kiểm soát chặt chẽ thậm chí
bị phong tỏa nên ngân hàng không thể thanh toán tiền hàng cho nước ngoài.
+ Chính sách ngoại hối của nước nhập khẩu đột ngột thay đổi thực hiện chính sách ngoại
hối thắt chặt hay cấm vận trong thanh toán gây ra rủi ro cho nhà nhập khẩu và ngân hàng
của họ.
2.2.4.2. Rủi ro pháp lý
Rủi ro về pháp lý xảy ra trong trường hợp có tranh chấp, hay khiếu kiện giữa các bên tham
gia thanh toán. Khi đó vấn đề đặt ra là tòa án nước nào thụ lý, và xử lý vụ án trên cơ sở pháp
lý của nước nào? Cho dù hợp đồng ngoại thương đã đề cập đến vấn đề này, song không phải

là không có những phức tạp. Bởi vì một bên nào có thể thông thạo và nắm vững luật pháp
quốc gia của bên đối tác.
Nguyên nhân sâu xa của rủi ro pháp lý
Chính là môi trường pháp lý và luật pháp của các bên khác nhau, dù cho thanh toán quốc tế
lựa chọn phương thức tín dụng chứng từ theo UCP 600, song ở nhiều nước khác nhau giao
dịch này cũng bị điều chỉnh, chi phối bởi hệ thống luật pháp quốc gia. UCP và luật pháp
quốc gia tạo thành hành lang pháp lý cho giao dịch L/C của các ngân hàng thương mại nói
chung khi tham gia thanh toán quốc tế. Tuy nhiên mức độ vận dụng UCP vào thực tiễn của
các nước rất khác nhau, tùy thuộc vào pháp luật nước đó. Luật quốc gia thông thường tôn
trọng và ít khi đối đầu với thông lệ quốc tế, nhưng không phải là hoàn toàn không có mâu
thuẫn. Nếu có sự khác biệt thậm chí là đối nghịch với UCP thì luật pháp quốc gia sẽ vượt
lên trên tất cả và phải tuân thủ.
2.2.4.3. Rủi ro đạo đức:
Là rủi ro xảy ro khi một bên tham gia cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình gây
thiệt hại tới quyền lợi của người khác. Đạo đức hay còn hiểu là tín nhiệm, uy tín trong kinh
doanh. Đây là vấn đề quan trọng trong thương mại và thanh toán quốc tế, vì các bên đối tác
tham gia thương vụ thường ở rất xa nhau trong quá trình thực hiện thương vụ.
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 17
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương
Rủi ro đạo đức của nhà nhập khẩu
Nếu khác hàng nhập khẩu không phải là bạn hàng lâu năm, có tín nhiệm thì rất dễ có những
hành vi lừa người bán xếp hàng lên tàu, rồi trì hoãn từ chối thanh toán bằng những thủ đoạn
nghiệp vụ bắt lỗi sai sót chứng từ. Trong nhiều trường hợp nhà xuất khẩu đành chịu bán lỗ
còn hơn thuê tàu chở hàng về, có khi do giá cả hàng hóa nhập khẩu giảm người mua hàng
sợ thua lỗ trong kinh doanh cố tình không nhận bộ chứng từ để lấy hàng, hoặc trì hoãn
không thanh toán đẩy ngân hàng vào tình thế khó khăn trong xử lý vốn, đặc biệt trong
nghiệp vụ trả chậm.
Rủi ro đạo đức của nhà xuất khẩu
Khi nhà xuất khẩu cố ý giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng nhưng lại xuất trình bộ
chứng từ hoàn hảo phù hợp với các điều khoản ký kết của hợp đồng thương mại, hoặc nhà

xuất khẩu lập bộ chứng từ khống giả mạo (không giao hàng) Ngân hàng theo bộ hồ sơ hoàn
hảo vẫn buộc phải thực hiện thanh toán cho người hưởng lợi, khi đó Nhà nhập khẩu phải
gánh chịu mọi rủi ro. Nếu ngân hàng tài trợ cho người nhập khẩu thì rủi ro này ngân hàng
cũng phải chịu một phần. Bởi vậy người mua phải có những biện pháp kiểm tra thông tin
qua các hãng vận tải xem hàng hóa có thực sự được giao lên phương tiện vận tải hay không,
nếu phát hiện có dấu hiệu lừa đảo thì cần kết hợp với ngân hàng đưa ra những biện pháp
ngăn chặn kịp thời.
Trường hợp giá cả hàng hóa quốc tế tăng người bán hàng sợ thiệt không muốn giao hàng
chongười mua nữa, điều này gây thiệt hại cho người mua, vì kế hoạch sản xuất kinh doanh
bị phá vỡ. Tất cả những vi phạm trên của nhà xuất khẩu đều được coi là những rủi ro đạo
đức.
Rủi ro đạo đạo đức của nhà chuyên chở.
Người bán hàng giao hàng cho người chuyên chở, nhưng bị lừa đảo nhận lấy hàng lấy tiền
rồi biến mất, hoặc bán mất hàng. Trong khi đó ngân hàng vẫn phải thực hiện việc thanh toán
cho người bán hàng theo hồ sơ chứng từ. Còn việc kiện hãng chuyên chở, hoặc chờ bảo
hiểm hoàn toàn tách rời nhau, việc chờ đợi, kiện tụng rất mất thời gian và tốn kém, gây thiệt
hại cho cả người mua và người bán.
Rủi ro đạo đức của ngân hàng
Trong nhiều trường hợp ngân hàng phát hành cũng vi phạm cam kết của mình như: trì hoãn,
hoặc từ chối thanh toán bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu. Hoặc ngược lại đối với sự thiếu
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 18
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương
trung thực của ngân hàng chiết khấu khi bộ hồ sơ không hoàn hảo vẫn gửi điện cam kết hồ
sơ chuẩn đòi tiền ngân hàng phát hành. Ngân hàng phát hành tin tưởng thanh toán sẽ gặp rủi
ro, việc đòi lại tiền rất khó khăn.
Nguyên nhân gây ra rủi ro đạo đức
Nguyên nhân sâu xa của rủi ro đạo đức là vấn đề thông tin không đủ, không cân xứng.
Thiếu những thông tin chính xác về khả năng tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh,
cũng như uy tín, tính trung thực của đối tác. Vì vậy đã đưa ra những quyết định sai lầm gây
nên rủi ro trong thanh toán. Đặc biệt phương thức tín dụng chứng từ theo UCP 600 quy

định việc thanh toán dựa hoàn toàn vào chứng từ hồ sơ thanh toán mà không căn cứ vào
thực trạng hàng hóa đã tạo ra khe hở cho một số tổ chức, cá nhân tiến hành lừa đảo, vì thế
rủi ro đạo đức vẫn còn cơ sở để tồn tại.
3.Những hệ quả do rủi ro trong thanh toán quốc tế gây ra:
3.1 Phương thức chuyển tiền:
Người bán: đây là phương pháp rủi ro lớn nhất dành cho người bán nếu như việc thanh toán
được thanh toán sau khi người mua nhận hàng, vì việc thanh toán sẽ hoàn toàn dựa vào
người mua. Rủi ro của nhà xuất khẩu là khi hàng hóa đã được chuyển giao nhưng tiền hàng
không được thanh toán, bị chậm trễ thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ, hoặc nếu
người mua gặp khó khăn thì người bán khó có thể thu được tiền đã bán hàng hóa.
Người mua: nếu người mua phải thanh toán toàn bộ tiền hàng trước khi giao hàng, đặt cọc,
tạm ứng… thì rủi ro lớn cho người mua, người mua rất dễ mất khoản tiền ứng trước nếu
người bán không trung thực hay gặp khó khăn. Trường hợp này nhà nhập khẩu có thể sẽ
phải gánh chịu rủi ro nếu tiền đã chuyển mà hàng không được giao đúng thời hạn, đúng chất
lượng hoặc số lượng…
Ngân Hàng: với phương thức này, Ngân hàng chỉ là người trung gian thực hiện việc thanh
toán theo ủy nhiệm của người mua để hưởng một phí mà không bị ràng buộc gì cả về trách
nhiệm.
3.2. Phương thức ghi sổ:
- Người bán: Đây thực chất là phương thức tín dụng thương mại của bên bán dành cho bên
mua, khá rủi ro đối với bên bán vì việc thanh toán được thực hiện sau khi người mua nhận
hàng và người bán cũng đã chuyển giao toàn bộ chứng từ, vì việc thanh toán sẽ hoàn toàn
dựa vào người mua. Rủi ro của nhà xuất khẩu là khi hàng hóa đã được chuyển giao nhưng
tiền hàng không được thanh toán, bị chậm trễ thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ,
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 19
GVHD:PGS.TS.Trầm Thị Xuân Hương
hoặc nếu người mua gặp khó khăn thì người bán khó có thể thu được tiền đã bán hàng hóa.
- Người mua: đây là một phương thức có lợi do được thanh toán chậm (thanh toán theo
đinh kỳ hàng tháng, hàng quý…). Tuy nhiên, phương thức này được sử dụng khá hạn chế vì
đòi hỏi các bên phải có quan hệ thường xuyên, tin cậy lẫn nhau, giữa nội bộ các công ty với

nhau, giữa công ty mẹ với công ty con, hoặc sử dụng trong các thanh toán phi mậu dịch, giá
trị các hợp đồng thường không quá lớn
- Ngân hàng: Với phương thức này, Ngân hàng chỉ là người trung gian thực hiện việc thanh
toán theo ủy nhiệm của người mua để hưởng một phí mà không bị ràng buộc gì cả về trách
nhiệm.
3.3. Phương thức nhờ thu:
3.3.1.Phương thức nhờ thu trơn:
Người bán: Trong phương thức này, NH chỉ đóng vai trò trung gian cho thanh toán do bộ
chứng từ hàng hóa đã giao cho người mua nên NH người bán không thể khống chế người
mua được. Phương thức nhờ thu trơn không đảm bảo quyền lợi của bên bán, vì việc nhận
hàng và thanh toán không ràng buộc với nhau. Vì vậy:
+ Người mua có thể nhận hàng rồi mà không chịu trả tiền hoặc chậm trễ trong thanh toán.
+ Người mua không nhận hàng, không thanh toán, người bán nhận hàng về gây tốn chi phí
vận chuyển hàng hóa.
+ Người mua nhận hàng, đồng ý thanh toán nhưng bên chính sách bên nước người bán
không cho phép chuyển tiền vì vậy người bán có thể mất cả tiền và hàng.
Người mua: Hàng hóa giao nhận không đúng mẫu mã, quy cách và phẩm chất như trong
hợp đồng đã ký, gây nhiều ra việc chậm trễ trong sản xuất hàng hóa, kinh doanh.
Ngân hàng: Trong phương pháp này NH chỉ đứng trung gian, người mua có thanh toán hay
không, ngân hàng cũng không có nhiệm vụ thanh toán giúp.
3.3.2.Phương pháp nhờ thu kèm chứng từ:
Người bán:
+ Người mua có thể bị phá sản trước khi đến hạn thanh toán, trong trường hợp này, người
bán sẽ không được thanh toán.
+ Người mua không nhận hàng, không thanh toán, người bán nhận hàng về gây tốn chi phí
vận chuyển hàng hóa.
Người mua:
+ Hàng hóa giao nhận không đúng mẫu mã, quy cách và phẩm chất như trong hợp đồng đã
Nhóm 15-lớp NH ngày 2-K21 trang 20

×