Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

PHÂN TÍCH tác ĐỘNG của CHÍNH SÁCH TIỀN tệ THỜI kỳ KHỦNG HOẢNG KINH tế ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.13 KB, 72 trang )

Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
Chương I: Lý luận tổng quan về chính sách tiền tệ,các công cụ thực thi
chính sách tiền tệ và khủng hoảng kinh tế.
I.Chính sách tiền tệ (CSTT)
1.Khái niệm chính sách tiền tệ.
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ xuất phát từ ngân hàng
trung ương. Chính sách tiền tệ được xây dựng và khởi động từ NHTW, lan ra
đến mọi ngóc ngách của nền kinh tế thông qua hoạt động dây chuyền của hệ
thống ngân hàng trung gian và các tổ chức tài chính trong nước. Chính vì thế,
vận động của NHNN về các khía cạnh tiền tệ luôn luôn nằm trong hệ thống
những ý đồ chiến lược mà ta gọi là chính sách tiền tệ. Nếu chính sách tài chính
tập trung vào thành phần, kết cấu các mức chi phí, thuế khoá của Nhà nước, thì
CSTT quốc gia lại tập trung vào việc giải quyết khả năng thanh toán cho toàn
bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp ứng khối lượng tiền cung ứng cho
lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và tín dụng đáp ứng vốn cho hoạt động
kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường tiền tệ, thị trường vốn theo những quỹ
đạo đã định, kiểm soát hoạt động của hệ thống NHTM và các tổ chức tín dụng
khác, cùng với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy
kinh tế đối ngoại, hướng tới mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững sức
mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá.
Nói tóm lại, chính sách tiền tệ là tổng hoà những phương thức mà ngân
hàng trung ương thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng
tiền trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã
hội của đất nước trong một thời kỳ nhất định.
Chính sách tiền tệ tốt được biểu hiện cụ thể trong thực tế là các dấu hiệu
tiền tệ lưu thông ở mức thoả đáng sao cho việc trao đổi được dễ dàng và tương
ứng với mức cân bằng nhất định giữa cung hàng hoá sẵn có và cầu về hàng hoá
đó, đồng thời càng tạo ra được sự cân bằng về công ăn việc làm thì càng tốt.
Nếu các dấu hiệu tiền tệ khan hiếm tới mức không cung cấp đủ cho cầu các
Trang 1
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn


phương tiện thanh toán cần thiết. Thì nền kinh tế sẽ ở vào tình trạng giảm phát
vì cung thấp hơn cầu. Còn nếu các phương tiện thanh toán lại được phát hành
quá nhiều so với các nguồn kinh tế, thì cũng là một tai hoạ trầm trọng. Cung sẽ
cao hơn cầu và nền kinh tế ở trong tình trạng lạm phát. Nền kinh tế cũng không
thể và không nên có quá nhiều tiền hơn mức mà nó cần. Sự thừa thải của tiền
nằm trong “chính sách tiền tệ nới lỏng”. Sự khan hiếm và đắt đỏ của tiền nằm
trong “chính sách tiền tệ thắt chặt”. CSTT mới lỏng làm cho tiền trở nên thừa.
CSTT thắt chặt làm cho tiền tệ khan hiếm.
Mấu chốt cơ bản của CSTT là việc định lượng mức cung ứng tiền cho mỗi
thời kỳ của nền kinh tế. Hiện nay ở châu Âu và Bắc Mỹ người ta gọi chính sách
tiền tệ là chính sách về cung ứng tiền. Chính sách cung ứng tiền phải làm sao
cho cầu không giảm xuống do tiền tệ khan hiếm, nhưng cũng không tăng lên
quá mức so với sản xuất do tiền quá nhiều. Công tác điều chỉnh tiền tệ theo nhu
cầu của nền kinh tế, NHNN phải hướng vào việc đảm bảo cho sự phát triển tối
đa sức sống của các chủ thể kinh tế.
Chính sách tiền tệ có một số đặc điểm so với các công cụ khác của chính
sách kinh tế (chính sách ngân sách, chính sách thu nhập,…). Về mặt chính trị,
CSTT trung lập hơn đối với các chủ thể kinh tế. Chẳng hạn, việc thay đổi lãi
suất liên quan đến mọi chủ thể và các tầng lớp, giữa họ ít có sự khác biệt trước
biện pháp này hơn là trước sự thay đổi về thuế, về chính sách chi tiêu của nhà
nước hay chính sách tiền lương. Về mặt kỹ thuật, CSTT ít bị chậm trễ trong
việc thực thi hơn, ít bị ràng buộc bởi các khía cạnh hành chính hay chính trị
hơn. Mặt khác, CSTT lại kín đáo hơn và có thể được ban hành rất nhanh (ví dụ:
tăng lãi suất). CSTT còn được căn cứ vào một cơ sở thống kê đầy đủ và thường
xuyên.
Do đó, ở một góc độ nào đó, có thể định nghĩa chính sách tiền tệ bao gồm
toàn bộ các công cụ của nhà nước để điều tiết việc cung ứng tiền và việc sử
dụng đồng tiền của các chủ thể kinh tế vào lợi ích tổng thể, được cụ thể hoá
bằng các mục tiêu của chính sách kinh tế chung.
Trang 2

Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
2.Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Bất cứ chính sách nào đều có mục tiêu của nó. Vì chính sách tiền tệ là hoạt
động có ý thức của NHNN, cho nên những tác động của nó đến nền kinh tế
phải được hiểu là nằm trong hệ thống các mục đích mà NHNN cần đạt được.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ có thể quy về 2 nhóm sau: Mục tiêu tiền tệ và
mục tiêu kinh tế.
2.1. Mục tiêu tiền tệ
2.1.1.Điều hoà khối tiền tệ
Nhằm duy trì mối tương quan tiền – hàng được ổn định bằng cách giữ
nguyên, tăng hay giảm khối tiền tệ. Có một nguyên tắc tổng quát: nếu mỗi năm
kinh tế đều tăng trưởng, thì phải tăng khối tiền tệ bằng tỷ lệ tăng trưởng kinh
tế. Nguyên tắc này khắc chế xu hướng ấn định khối tiền tệ cứng nhắc một lần
cho khoảng thời gian dài. Một khối tiền tệ ấn định trước một cách chặt chẽ sẽ
có tác dụng làm cho giá cả và lương bổng giảm nếu sản xuất tăng lên. Nhưng
làm như vậy sẽ tạo ra nhiều căng thẳng trong các hoạt động sản xuất, lưu thông
phân phối, làm nguy hại đến mức tăng trưởng kinh tế.
Điều hoà khối tiền tệ ngày nay có nghĩa là điều chỉnh việc tạo tiền và sử
dụng tiền trong hệ thống ngân hàng hai cấp. Chức năng của hệ thống ngân hàng
hai cấp là tạo tiền, điều chỉnh mức cung tiền để ổn định tiền tệ. Do việc phân
chia hệ thông ngân hàng thành hai cấp, nên có việc phân chia hai loại tiền: tiền
ngân hàng trung ương và tiền ngân hàng. Tiền trung ương là tiền do NHTW tạo
ra thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, đặc biệt là tiền các tài khoản
thanh toán séc. Nó được tạo ra như là sự mở rộng gấp nhiều lần quỹ dự trữ
ngân hàng (thông qua hệ số tạo tiền).
Hệ thống NHTM không thể tạo tiền tín dụng từ hư không mà phải dựa vào
tiền trung ương. Mức tạo tiền tín dụng do hệ số tạo tiền hay tỷ lệ dự trữ bắt
buộc quyết định. Một đồng tiền NHTW mà NHTM huy động được tạo khả
Trang 3
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn

năng cho NHTM cung ứng cho nền kinh tế số tiền tín dụng gấp nhiều lần,
ngược lại mức cung tiền tín dụng của NHTM cũng giảm gấp nhiều lần khi tiền
trung ương trong tay họ giảm đi một. Cơ chế tạo ra tiền của NHTM xuất phát
từ 2 nguồn: a) tiền gửi của công chúng; b) sự cho vay của ngân hàng. Chính vì
khả năng tạo ra bút tệ (tiền tín dụng) của các NHTM trong việc điều hoà khối
tiền tệ, NHTW thường kiểm soát khối dự trữ của NHTM và theo dõi tỷ số giữa
các dự trữ của ngân hàng này với tổng số tiền gửi.
Như vậy, thông qua việc cung ứng tiền trung ương và các phương tiện trực
tiếp hoặc gián tiếp, NHTW hoàn toàn làm chủ khả năng điều hoà khối tiền
cung ứng cho nền kinh tế.
2.1.2.Kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền (M.V):
Ảnh hưởng mạnh mẽ đến vật giá, không phải chỉ có khối tiền tệ M, mà còn
có tốc độ lưu hành tiền tệ V nữa.Kiểm soát M.V là trào lượng tiền tệ, tức là
tổng số lượng tiền tệ dùng để chi trả trong khoảng thời gian nhất định với tốc
độ V.
Trên phương diện cả nước nói chung, số lượng tiền tệ M được lưu thông từ
tay người này sang tay người khác với một tốc độ nào đó, ta gọi là V. Với V, M
biến thành một trào lưu tiền tệ M. V tức là tổng số giá trị chi trả để trao đổi với
T (hàng hoá và dịch vụ), tổng số hàng hoá và dịch vụ được dùng trao đổi với M
qua V lần sử dụng. Nhưng việc kiểm soát M. V rất khó, bởi vì tuỳ thuộc vào
cách hành động của các chủ thể kinh tế riêng biệt trong sử dụng tiền tệ.
Ở những nước công nghiệp phát triển, các tiện ích ngân hàng được sử dụng
rộng rãi, các chủ thể kinh tế quen dùng séc trong thanh toán. Tổng số thanh
toán các cuộc giao dịch bằng phương tiện này lên đến 70-80% trên tổng số
thanh toán của dân cư. Vì vậy, NHNN kiểm soát số chi trả của toàn xã hội qua
hệ thống ngân hàng bằng cách tính tổng giá trị séc đưa đi giao hoán tại NHNN
và theo dõi biến chuyển của nó. Ở nước ta, việc dùng séc trong dân cư ít thông
dụng, dùng tiền mặt để chi trả là phổ biến, cho nên một khối tiền mặt rất lớn
Trang 4
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn

lưu thông bên ngoài hệ thống ngân hàng, vượt ra ngoài tầm kiểm soát của
NHNN. Đó cũng là lí do cần phải thu hút lượng tiền trong tay dân cư vào hệ
thống ngân hàng dưới hình thức tiền gởi không kỳ hạn và dùng séc để thanh
toán, một yếu tố cần thiết để cho việc thức hiện thi CSTT được hữu hiệu.
2.1.3.Bảo vệ giá trị quốc nội của đồng tiền bằng cách ổn định vật giá.
Giá trị quốc nội của đồng tiền là sức mua của nó đối với hàng hoá và dịch
vụ trong nước. Sức mua của đồng tiền biến đổi ngược chiều với vật giá. Khi
mức vật giá chung gia tăng, sức mua của đồng tiền giảm. Ngược lại, khi mức
vật giá chung giảm, sức mua của đồng tiền tăng. Sức mua đồng tiền tăng khi
mức vật giá chung giảm chỉ là điều đáng mừng khi nào do năng suất chung
tăng lên. Nếu vật giá chung giảm, không do năng suất mà do mức cầu trên thị
trường giảm, thì là một biểu hiện đáng lo. Vật giá giảm, sức mua đồng tiền tuy
có tăng, nhưng đó chỉ là tăng nhất thời, vì người sản xuất có thể rơi vào tình
trạng lổ lã. Tình hình đó mà lan rộng, thất nghiệp sẽ trầm trọng, làm giảm số
cầu của thị trường, làm cho kinh tế suy thoái thêm.
Do đó chính sách tiền tệ phải nhằm đảm bảo mức vật giá chung ổn định. Sự
ổn định của vật giá là điều cần thiết để mọi người được an tâm, tin tưởng trong
việc tính toán công việc đầu tư, vì đầu tư là cuộc tính toán lâu dài. Vậy cần có
sự ổn định lâu dài mới khuyến khích sức đầu tư. Lẽ tất nhiên, một chính sách
tiền tệ có thể tác động tới sự gia tăng năng suất trong hoạt động sản xuất của
các chủ thể kinh tế vẫn là điều mong mỏi.
2.1.4.Ổn định giá trị quốc ngoại của đồng tiền.
Giá trị quốc ngoại của đồng tiền được đo lường bởi tỷ giá hối đoái thả nổi.
Một sự biến động của tỷ giá hối đoái ít hay nhiều ảnh hưởng tới hoạt động kinh
tế trong nước tuỳ theo mức độ hướng ngoại của nền kinh tế. Mọi biến chuyển
về tiền tệ cũng tác động đến mối tương quan giữa tiền tệ trong nước với tiền tệ
nước ngoài. Tỷ giá hối đoái chịu sự tác động mạnh của khối dự trữ ngoại hối,
thị trường và chính sách hối đoái, tình hình giá cả trong nước. Do đó, một
Trang 5
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn

chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế trong nước cần phải đi đôi với những
biện pháp nhằm ổn định tỷ giá hối đoái.
Về phương diện tiền tệ, khối dự trữ ngoại hối, thị trường và chính sách hối
đoái, tỷ giá hối đoái là những yếu tố tác động mạnh đến khối tiền tệ. Theo đó,
NHNN thường dùng một số biện pháp để can thiệp giữ cho tỷ giá hối đoái
không thăng trầm quá đáng, làm dịu bớt tình trạng bất ổn định của nền kinh tế
trong nước. NHNN can thiệp trên thị trường hối đoái bằng cách tham gia mua
hay bán ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái biến đổi trong một biên vực không
quá lớn, nhờ đó chế ngự bớt tác động đối với nền kinh tế trong nước, khi giá
ngoại tệ lên cao, NHNN đưa ngoại tệ ra bán để làm chậm bớt nhịp tăng giá
ngoại tệ. Dĩ nhiên, chỉ làm được điều đó khi dự trữ ngoại hối còn ở mức độ
tương đối khả quan. Ngược lại, khi giá ngoại tệ xuống quá thấp, NHNN dùng
tiền trong nước mua ngoại tệ vào để duy trì một biên vực biến đổi ít tác động
mạnh đối với sinh hoạt kinh tế trong nước, nhất là để tái tạo khối dự trữ ngoại
tệ đã bị thiếu hụt.
2.2. Mục tiêu kinh tế của chính sách tiền tệ
2.2.1.Mục tiêu tăng trưởng kinh tế
Xác định tác động của lãi suất và số cầu tổng hợp của khối tiền tệ trên mức
tăng trưởng. Tác động đó thông qua hai ngõ:
Khi khối tiền tệ M tăng, có tác dụng làm giảm lãi suất, lãi suất giảm sẽ
khuyến khích việc đầu tư. Đầu tư gia tăng, tổng sản phẩm xã hội cũng tăng.
Nếu tỷ lệ gia tăng tổng sản phẩm xã hội lớn hơn nhịp gia tăng dân số sẽ có tăng
trưởng kinh tế. Mặt khác, sự gia tăng khối tiền tệ đưa đến tác dụng làm tăng số
cầu tổng hợp: các thành phần dân cư có tiền nhiều hơn, sẽ tiêu thụ nhiều hơn và
mãi lực trên thị trường. Cả hai sức cầu về sản phẩm tiêu dùng và sản phẩm đầu
tư đều tăng, từ đó tổng sản phẩm xã hội cũng tăng. Nếu mức gia tăng đó lớn
hơn nhịp gia tăng dân số, sẽ có tăng trưởng kinh tế.
Trang 6
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
Như vậy, muốn đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nhà nước phải thực

hiện linh động việc gia tăng khối tiền tệ trong chính sách tiền tệ, bên cạnh đó
cần có những biện pháp đẩy mạnh đầu tư sản xuất và thâm dụng nhân công.
2.2.2.Giảm thiểu những thăng trầm chu chuyển kinh tế
Sự tăng trưởng kinh tế bất cứ nước nào không thể kéo dài mãi với thời gian.
Khi nền kinh tế tăng trưởng liên tục, đến một lúc nào đó, nhân công khan hiếm,
hạn chế mức gia tăng sản xuất, sự khan hiếm nguyên liệu làm nâng cao giá
thành và giá bán trên thị trường. Vào thời điểm này, nếu khối lượng tiền tệ tiếp
tục gia tăng mà không kiềm chế, cầu tăng mạnh, hậu quả tất yếu làm tăng vật
giá, sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn
đến lạm phát từ yếu tố tiền tệ và CSTT sẽ là công cụ phát huy hiệu quả tốt nhất
trong việc kiểm soát lạm phát do nguyên nhân này. Trước tình hình này, buộc
NHNN phải sử dụng CSTT thắt chặt để giảm bớt khối tiền tệ trong lưu thông.
Tuy nhiên, nếu như quá chặt tay vô hình chung có thể dẫn đến làm giảm số
cầu, làm giảm khuynh hướng tiêu thụ của dân cư. Hoạt động kinh tế rơi vào
tình trạng ngưng trệ. Trước tình hình này, các đơn vị sản xuất hàng hoá bán
chậm lại, giảm bớt sản xuất. Không ai chịu đầu tư trong tình huống như thế:
tình trạng: suy thoái kinh tế lan rộng. Để chặn đứng đà suy thoái, NHNN sẽ
phải thi hành chính sách bành trướng khối tiền tệ, khuyến khích các ngân hàng
cho vay để nâng số cầu lên, các nhà sản xuất có một cái nhìn lạc quan trên thị
trường. Đưa nền kinh tế từ giai đoạn suy thoái sang giai đoạn phục hưng. Lúc
này, tiền được rót thêm vào guồng máy kinh tế kích thích tiêu thụ tăng mạnh
kéo theo sức gia tăng trong số lượng đầu tư. Từ đó có khả năng nền kinh tế
chuyển từ giai đoạn phục hưng sang giai đoạn tăng trưởng mạnh.
Trong mỗi giai đoạn kinh tế, chính sách tiền tệ đóng một vai trò quan trọng,
góp phần rút ngắn thời gian ngưng trệ và suy thoái kinh tế để chuyển sang giai
đoạn tăng trưởng kinh tế, nhất là làm sao duy trì một mức độ tăng trưởng với
lạm phát ở tỷ lệ chấp nhận được, có thể là tỷ lệ lạm phát một con số, hay tổng
quát hơn, một tỷ lệ lạm phát thấp với tỷ lệ thất nghiệp thấp.
Trang 7
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn

Mục tiêu của chính sách tiền tệ đã từng thay đổi, kế tiếp nhau trong thời
gian, phù hợp với trình độ hiểu biết ngày càng cao hơn về mối tương quan giữa
tiền tệ và nền kinh tế. Kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933, chính sách
tiền tệ mới trở thành khái niệm trung tâm trong hoạt động quản lý và điều tiết
kinh tế vĩ mô, là công cụ quan trọng để ổn định kinh tế và tác động đến quá
trình tăng trưởng. Ngày nay do những đối nghịch của các mục tiêu, các NHNN
khó có thể thực hiện được ngay mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ.
Thực hiện mục tiêu này sẽ cản trở việc đạt thành tích cao. Muốn có lạm phát
thấp thì khó lòng tăng trưởng cao. Duy trì tỷ giá hối đoái cố định thì dễ rơi vào
tình trạng “nhập khẩu lạm phát”. NHNN phải xác định những mục tiêu đặc thù
hay trung gian, từ đó phải có nghệ thuật phối hợp các mục tiêu ngắn hạn và dài
hạn trong quá trình thực thi CSTT trên thực tế.
3.Những công cụ để thực thi chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến nền kinh tế qua các kênh truyền của nó.
Hệ thống tài chính hiện đại đã chỉ ra bốn kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ, đó
là lãi suất, kênh giá tài sản trong nước, kênh tín dụng về kênh tỷ giá.
Ngân hàng nhà nước nói chung không giao dịch trực tiếp với công chúng,
mà quan hệ với bốn đầu mối chính sao đây:
- Giao dịch với chính phủ
- Giao dịch với ngân hàng trung gian,
- Giao dịch với các thị trường tiền tệ,
- Giao dịch với khu vực tài chính, tiền tệ đối ngoại.
Bốn đầu mối quan hệ của NHNN là bốn con kênh qua đó NHNN thực thi
CSTT thông qua các công cụ vĩ mô nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định.
3.1.Dự trữ bắt buộc.
Ngân hàng nhà nước được giao quyền bắt buộc các ngân hàng trung gian
phải ký gởi tại NHNN một phần của tổng số tiền gởi mà họ nhận được từ dân
Trang 8
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
cư và các thành phần kinh tế theo một tỷ lệ nhất định. Phần bắt buộc ký gởi đó

gọi là dự trữ bắt buộc. NHNN ấn định tỷ lệ đó khi tăng khi giảm tuỳ theo tình
hình. Mục đích của việc bắt buộc dự trữ như vậy là để giới hạn khả năng cho
vay của NHTM, tránh trường hợp ngân hàng này ham kiếm lợi nhuận bằng
cách cho vay quá mức, có thể phương hại tới quyền lợi của người ký gởi tiền ở
ngân hàng. Hơn nữa, việc tập trung dự trữ của NHTM ở NHNN còn là một
phương tiện để ngân hàng này có thêm quyền lực điều khiển hệ thống ngân
hàng, tạo sự lệ thuộc của NHTM đối với NHNN. Khả năng cho vay của NHTM
bị hạn chế do tỷ lệ dự trữ bắt buộc nêu trên sẽ buộc họ phải đi vay lại ở NHNN.
NHNN là người cho vay sau cùng của mọi ngân hàng và là vị cứu tinh của họ
trong những trường hợp khẩn cấp như trường hợp xảy ra tình trạng đồng loạt
rút tiền gởi của công chúng.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là công cụ khối lượng quan trọng nhất của NHNN.
Việc quy định dự trữ bắt buộc này làm tăng khả năng điều tiết của NHNN đối
với NHTM. Về nguyên tắc, khi ấn định một mức dự trữ bắt buộc ở mức thấp
NHNN muốn khuyết khích các ngân hàng trung gian mở rộng mức cho vay của
họ, tức là muốn bành trướng khối tiền tệ. Ngược lại, khi nâng cao mức dự trữ
bắt buộc, NHNN giới hạn khả năng cho vay của ngân hàng trung gian, báo hiệu
một chính sách tiền tệ “thắt chặt”
Dự trữ bắt buộc là công cụ mang tính chất hành chính của NHNN nhằm
điều tiết mức cung tiền tệ của NHTM cho nền kinh tế, thông qua hệ số tạo
tiền(hệ số nhân tiền tín dụng) đối với lượng tín dụng của các NHTM cung ứng
cho nền kinh tế. Dự trữ bắt buộc là biện pháp kiểm soát cung ứng tiền tệ, nó có
ý nghĩa to lớn để điều hoà cung cầu trên thị trường tiền tệ, thực hiện yêu cầu
của CSTT.
3.2.Công cụ chiết khấu, tái chiết khấu.
Trong điều hành chính sách tiền tệ, NHNN phải sắp xếp các loại lãi suất để
đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ giữa các loại lãi suất của NHNN với nhau và lãi
Trang 9
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
suất thị trường. NHNN ngày càng nâng cao độ nhạy cảm về hệ thống lãi suất

của mình trên thị trường tiền tệ, phát triển kênh truyền dẫn tác động tới các thị
trường tài chính. Biểu hiện hoạt động của các thị trường tài chính là giá cả như
lãi suất, tỷ giá, giá tài sản. Tất cả những loại giá này phải được hình thành theo
quan hệ cung cầu, giảm thiểu đến mức thấp nhất yếu tố can thiệp hành chính và
trực tiếp. Cơ chế chuyển tải tác động của CSTT tới nền kinh tế ngày càng được
khai thông, đặc biệt là kênh tác động trực tiếp qua lãi suất chiết khấu.
NHNN cấp tín dụng cho NHTM qua nhiều hình thức. Hình thức thông dụng
và cổ điển là chiết khấu các thương phiếu của NHTM (hoặc tái chiết khấu nếu
NHTM đã chiết khấu thương phiếu đó). Hình thức thứ hai là thế chấp hay ứng
trước.Với việc nâng cao hoặc giảm mức lãi suất chiết khấu, NHNN có thể
khuyến khích giảm hoặc tăng mức cung ứng tín dụng NHTM đối với nền kinh
tế, đồng thời thông qua đó cũng giảm hoặc tăng mức cung ứng tiền tệ. Chính
sách chiết khấu, tái chiết khấu còn là công cụ định hướng tín dụng. NHNN
muốn kích thích xuất khẩu, sẽ cho tái chiết khấu trước hết các thương phiếu đó.
Ngoài lãi suất tái chiết khấu, NHNN có thể lựa chọn lãi suất trên thị trường
tiền tệ liên ngân hàng. Thị trường này có thể là thị trường giao dịch trực tiếp
giữa các NHTM, có thể là thị trường vốn ngắn hạn do NHNN tổ chức để giải
quyết nhu cầu vốn ngắn hạn của các NHTM thông qua tài khoản của họ ở
NHNN nhằm bù đắp thiếu hụt quỹ dự trữ bắt buộc, đáp ứng nhu cấu thanh
toán, bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng. Đây cũng là
nơi trao đổi vốn khả dụng giữa các ngân hàng với nhau khi cần giải quyết mối
quan hệ cung cầu về vốn. Trên thị trường này có nhiều loại giao dịch như hợp
đồng tiền gửi/tiền vay liên ngân hàng, đặc biệt là các khoản vay qua đêm nhằm
bù đắp nhu cầu vốn tạm thời của đối giao dịch.
Nghiệp vụ cho vay qua đêm cũng được các ngân hàng sử dụng nhiều trong
quan hệ tín dụng với NHNN. Đây là loại tái cấp vốn rất linh hoạt, lãi suất rất
cao. Nghiệp vụ cho vay qua đêm là do từng ngân hàng khởi xướng, nó gần như
Trang 10
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
là một “van báo động” về tình hình khẩn cấp. Mọi ngân hàng đều có khả năng

vay qua đêm, vì mục đích của NHNN là tính bền vững của cả hệ thống.
3.3.Chính sách lãi suất tiền vay và tiền gởi ngân hàng
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn, việc thay đổi lãi suất sẽ kéo theo
sự biến đổi của chi phí tín dụng, từ đó tác động đến việc thu hẹp hay mở rộng
khối lượng tín dụng trong nền kinh tế. Do đó, lãi suất là một trong những công
cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ. NHTW kiểm soát trực tiếp lãi suất thị trường
bằng cách quy định các loại lãi suất như: lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay
theo từng kỳ hạn, sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay để tạo nên khung
lãi suất giới hạn, công bố lãi suất cơ bản cộng với biên độ giao dịch,…Dựa vào
các lãi suất ấn định NHTM áp dụng để giao dịch kinh doanh với khách hàng.
Lãi suất vừa là đối tượng quản lý, vừa là một công cụ quan trọng của CSTT.
Lãi suất nếu được sử dụng đúng đắn và phù hợp với những điều kiện, tình hình
kinh tế trong từng thời kỳ nhất định, sẽ có tác dụng trực tiếp đến kiểm soát lạm
phát, kích thích tiết kiệm và đầu tư phát triển, cũng như ảnh hưởng đến những
thay đổi của tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ với cán cân thanh toán quốc tế.
Ngược lại, nếu sử dụng nó cứng nhắc, không phù hợp với điều kiện thực tế của
nền kinh tế, lãi suất lại trở thành vật cản kìm hãm, trói buộc nền kinh tế.
3.4.Chính sách thị trường mở
Công cụ thị trường mở phản ánh việc NHTW mua hoặc bán chứng từ có giá
trên thị trường tài chính công cộng, nhằm đạt đến mục tiêu điều chỉnh lượng
tiền trong lưu thông. Các chứng từ có giá mà các NHTW thường sử dụng để
tiến hành nghiệp vụ thị trường mở là các chứng khoán kho bạc, bởi vì thị
trường của những chứng khoán này “rất lỏng” và có dung lượng kinh doanh
lớn.
Khi NHTW đem chứng khoán ra thị trường mở bán sẽ thu được tiền mặt và
séc về. Điều này làm cho khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông giảm, dự trữ
Trang 11
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
của các ngân hàng trung gian giảm, làm giảm khả năng cung ứng tín dụng của
các ngân hàng trung gian, và như thế cung ứng tiền trong nền kinh tế bị thắt

chặt hơn. Bên cạnh đó, việc NHTW bán chứng khoán ra thị trường mở sẽ làm
tăng cung chứng khoán, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá chứng
khoán sẽ hạ, và do vậy, lãi suất của chứng khoán tăng lên. Lãi suất chứng
khoán tăng buộc các NHTM phải tăng lãi suất ngân hàng lên theo để tránh tình
trạng công chúng rút tiền ra khỏi ngân hàng đem đầu tư chứng khoán, nghĩa là
gián tiếp thắt chặt thêm khối tiền tệ. Ngược lại, khi NHTW đem tiền mặt hoặc
séc mua chứng khoán trên thị trường mở, thì lượng tiền mặt trong lưu thông
tăng lên, dự trữ của NHTM tăng lên. Mặt khác, việc NHTW mua chứng khoán
sẽ làm tăng cầu về chứng khoán, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi,
giá chứng khoán sẽ tăng, dẫn đến lãi suất chứng khoán giảm, và đến lượt lãi
suất ngân hàng giảm, kích thích doanh nghiệp đi vay, nghĩa là một cách bành
trướng khối tiền tệ.
3.5.Kiểm soát tín dụng chọn lọc
Cơ cấu tín dụng mà ngân hàng trung gian cấp cho khách hàng. Nếu không
áp dụng chính sách kiểm soát tín dụng “chọn lọc”, ngân hàng trung gian sẽ chỉ
hướng tín dụng vào những ngành kinh doanh lớn, cho xí nghiệp nước ngoài
vay hoặc cho vay để mua bán chứng khoán, ít chú trọng đến những ngành hoạt
động có lợi ích xã hội nhiều hơn.
Một chính sách kiểm soát tín dụng chọc lọc sẽ giới hạn mức tín dụng tối đa
cấp cho những ngành mà nhà nước không muốn phát triển nữa, ngược lại ưu
đãi những ngành hoạt động nào được xem như ưu tiên, cần yểm trợ tín dụng
mạnh hơn. Chính sách này muốn đạt mục tiêu của nó, cần nâng cao chất lượng
kiểm soát và thanh tra ngân hàng trung gian, chất lượng đó tuỳ thuộc trình độ
nghiệp vụ chuyên môn của đội ngũ cán bộ và đạo đức liêm khiết của họ.
Bên cạnh đó, NHTW sử dụng kết hợp với công cụ hạn mức tín dụng – một
công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của NHTW để khống chế
Trang 12
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là
mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các NHTM phải chấp hành khi cấp tín dụng

cho nền kinh tế.
3.6.Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là đại lượng biểu thị mối tương quan về mặt giá trị giữa
đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng của đồng nội
tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại hối. Sự biến đổi của tỷ giá hối đoái
có tác động mạnh mẽ đến mọi hoạt động kinh tế, từ hoạt động xuất nhập khẩu
đến sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước qua biến đổi của giá cả hàng
hoá. Do vậy, tỷ giá hối đoái là một công cụ để NHTW thực thi chính sách tiền
tệ thông qua việc ổn định tỷ giá ở một mức độ nào đó được coi là hợp lý, phù
hợp với đặc điểm, điều kiện thực tế của đất nước trong từng giai đoạn, để tác
động chung cuộc của nó đối với kinh tế là tốt nhất.
Biện pháp chủ yếu mà các NHTW thường dùng để can thiệp vào cung – cầu
ngoại tệ là sử dụng dự trữ ngoại hối và quỹ bình ổn hối đoái. Cụ thể, khi tỷ giá
hối đoái tăng cao, NHTW tung ngoại tệ bán, làm cho khả năng cung ngoại tệ
trên thị trường tăng lên, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, tỷ giá sẽ từ
từ giảm xuống. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm, NHTW sẽ mua vào ngoại
tệ, làm cho cầu ngoại tệ tăng lên, tỷ giá hối đoái sẽ từ từ tăng lên. Ngoài ra,
NHTW còn sử dụng linh hoạt biên độ dao động tỷ giá để đưa tỷ giá về mức cân
bằng của cung – cầu mà vẫn nằm trong sự kiểm soát của NHTW.
II)Khủng hoảng kinh tế:
1.Khái niệm:
Khủng hoảng kinh tế, là sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm
trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế.
Một định nghĩa khác với cách hiểu ngày nay là trong học thuyết Kinh tế
chính trị của Mác-Lênin. Từ ngữ chỉ này khoảng thời gian biến chuyển rất
Trang 13
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
nhanh sang giai đoạn suy thoái kinh tế. Bài viết này chủ yếu về khái niệm
Khủng hoảng kinh tế của Karl Marx vốn vẫn được dùng thịnh hành trong
Kinh tế chính trị Marx. Khủng hoảng kinh tế đề cập đến quá trình tái sản xuất

đang bị suy sụp tạm thời. Thời gian khủng hoảng làm những xung đột giữa các
giai tầng trong xã hội thêm căng thẳng, đồng thời nó tái khởi động một quá
trình tích tụ tư bản mới.
Nhiều nhà quan sát sự áp dụng của học thuyết Marx cho rằng tự bản thân
Karl Marx không đưa ra kết luận cuối cùng về bản chất của khủng hoảng kinh
tế trong chủ nghĩa tư bản. Thực vậy, những nghiên cứu của ông gợi ý nhiều lý
luận khác nhau mà tất cả chúng đều gây tranh cãi. Một đặc điểm chủ yếu của
những lý luận này là khủng hoảng không phải ngẫu nhiên và không tự nhiên
mà nó bắt nguồn từ bản chất của chủ nghĩa tư bản với vai trò là một hình thái
xã hội. Marx viết, “cản trở của nền sản xuất tư bản chính là tư bản”.
Những lý luận này bao gồm:
• Xu hướng suy giảm tỷ suất lợi nhuận. Tích tụ tư bản gắn liền xu
hướng chung của mức độ tập trung tư bản. Điều này tự nó làm giảm tỷ
suất lợi nhuận rồi kìm hãm chủ nghĩa tư bản và có thể đưa đến khủng
hoảng.
• Tiêu thụ dưới mức. Nếu giai cấp tư sản thắng thế trong cuộc đấu tranh
giai cấp với mục đích cắt giảm tiền lương và bóc lột thêm lao động, nhờ
đó tăng tỷ suất giá trị thặng dư, khi đó nền kinh tế tư bản đối mặt với
vấn đề thường xuyên là nhu cầu tiêu dùng không tương xứng với quy
mô sản xuất và tổng cầu không tương xứng với tổng cung.
• Sức ép lợi nhuận từ lao động. Tích tụ tư bản có thể đẩy nhu cầu thuê
mướn tăng lên và làm tăng tiền lương. Nếu tiền lương tăng cao sẽ ảnh
hưởng đến tỷ suất lợi nhuận và khi đạt đến một mức độ nhất định sẽ gây
ra suy thoái kinh tế.
Trang 14
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
Về mặt lý luận, ít nhất những quan điểm trên không mâu thuẫn với nhau và
có thể đóng vai trò là những nội dung trong một học thuyết tổng hợp về khủng
hoảng kinh tế.
2.Nguyên nhân của Khủng hoảng:

Từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay, trên thế giời đã có nhiều cuộc khủng hoảng
kinh tế xẩy ra như khủng hoảng kinh tế … Nhưng gần đây nhất là cuộc khủng
hoảng tài chính Châu Á năm 1997 và cuộc khủng hoảng Kinh tế Mỹ bắt đầu
năm 2007 là ảnh hưởng nhiều nhất đến nền kinh tế nước ta.
2.1.Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997
2.1.1.Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà
kinh tế gọi là Bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị
đồng tiền của mình vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do
hóa tài khoản vốn). Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập niên
1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ
giá cố định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính sách
tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính sách
vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vô hình
chung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt
ngoại trừ việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong
thời kỳ từ sau năm 1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc
suy yếu vì giá hàng xuất khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế
tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái
neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản
vãng lai được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi vay nước
ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.
Trang 15
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
Năm 1994, nhà kinh tế Paul Krugman của trường đại học Princeton, (lúc đó
còn ở MIT), cho đăng bài báo tấn công ý tưởng về "thần kỳ kinh tế Đông
Á".Ông ta cho rằng: Sự tăng trưởng kinh tế của Đông Á, trong quá khứ, là do
kết quả của đầu tư theo hình thức tư bản, dẫn tới sự tăng năng suất lao động.
Trong khi đó, năng suất tổng nhân tố lại chỉ được nâng lên ở một mức độ rất

nhỏ, hoặc hầu như giữ nguyên. Krugman cho rằng việc chỉ tăng trưởng năng
suất tổng nhân tố không thôi, mà không cần đầu tư vốn, đã có thể mang lại sự
thịnh vượng dài hạn. Krugman có thể được nhiều người coi như một nhà tiên
tri sau khi khủng hoảng tài chính lan rộng, tuy nhiên chính ông ta cũng đã từng
phát biểu rằng ông ta không dự đoán cơn khủng hoảng hoặc nhìn trước được
chiều sâu của nó.
2.1.2.Các dòng vốn nước ngoài kéo vào
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và
Nhật Bản cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền
cao quá mức. Các nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm
cách thay đổi danh mục tài sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước
ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài
khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì
thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á.
Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của
chính phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á
bất chấp mạo hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo
hiểm để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo
hiểm rủi ro. (Hiện tượng thông tin phi đối xứng dẫn tới lựa chọn nghịch và rủi
ro đạo đức.)
2.1.3.Những thay đổi bất lợi của kinh tế thế giới
Nhật Bản, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước
châu Á bị trì trệ từ đầu thập niên 1990. Nhân dân tệ được định giá thấp so với
Trang 16
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
Dollar Mỹ từ năm 1994 cùng nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu của
Trung Quốc rẻ hơn so với hàng xuất khẩu cùng loại của Đông Nam Á. Trong
khi đó, nền kinh tế của Mỹ đang được khôi phục lại sau tình trạng suy thoái
đầu những năm 1990, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Alan
Greenspan bắt đầu nâng lãi suất của Mỹ lên để ngăn chặn lạm phát. Việc này

làm cho Mỹ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu tư hơn so với các nước ở
Đông Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tư ngắn hạn thông qua lãi suất
ngắn hạn cao và làm tăng giá đồng Đô La Mỹ. Và do đồng tiền của các nước
Đông Nam Á được neo vào Dollar Mỹ, nên xuất khẩu của các nước này trở nên
kém cạnh tranh. Từ mùa Xuân năm 1996, tăng trưởng trong xuất khẩu của
Đông Nam Á giảm xuống một cách nhanh chóng, làm suy yếu tài khoản vãng
lai của họ.
2.1.4.Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt
Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là
những cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á.
Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động
sản của Thái Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không
còn tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát
hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á,
một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu
tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra.
Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lục xử lý khủng
hoảng yếu kém. Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ
các nước châu Á phải lập tức thả nổi đồng tiền của mình chứ không nên cố sức
bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối nhà nước mà lại càng làm
cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài.
Ngoại trưởng 10 nước ASEAN lúc đó tin rằng, việc liên kết các hệ thống
tiền tệ chặt chẽ là một nỗ lực thận trọng nhằm củng cố vững chắc các nền kinh
Trang 17
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
tế ASEAN. Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 30 diễn ra tại Subang Jaya,
Malaysia đã thông quan một Tuyên bố chung vào ngày 25 tháng 7 năm 1997
nêu rõ mối quan ngại sâu sắc và kêu goi các nước ASEAN cần hợp tác chặt chẽ
hơn nhằm bảo vệ và tăng cường lợi ích của ASEAN trong giai đoạn này.Ngẫu
nhiên là trong cùng ngày này, các Ngân hàng Trung ương của hầu hết các nước

chịu tác động của khủng hoảng đã gặp nhau tại Thượng Hải trong Hội nghị cấp
cao Đông Á Thái Bình dương EMEAP, và thất bại trong việc đưa ra một biện
pháp Dàn xếp cho vay mới. Trước đó một năm, Bộ trưởng Tài chính của các
nước này cũng đã tham dự Hội nghị Bộ trưởng Tài chính APEC lần thứ 3 tại
Kyoto, Nhật Bản vào ngày 17 tháng 3 năm 1996, và theo như Tuyên bố chung,
các bên đã không thể nhân đôi được Quỹ tài chính phục vụ cho Hiệp định
chung về cho vay và Cơ chế Tài chính trong tình trạng khẩn cấp. Vì vậy, cuộc
khủng hoảng có thể xem như một thất bại trong việc xây dựng năng lực phù
hợp kịp thời, thất bại trong việc ngăn chặn sự lôi kéo tiền tệ.
2.2.Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ hiện nay:
Cuộc khủng hoảng lần này không phải là quá bất ngờ với giới tài chính Mỹ
nói riêng và thế giới nói chung. Nó là kết quả của một chuỗi những rủi ro liên
tiếp mà chính các tổ chức tài chính, ngân hàng ở Mỹ tạo ra cho chính mình.
Có thể tóm lại một số nguyên nhân chính, mà thực chất là hệ quả của nhau
– đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tất yếu này ở Mỹ.
2.2.1.Cho vay dưới chuẩn
Các ngân hàng đầu tư Mỹ đã sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa
(securitisation) để biến các khoản cho vay mua bất động sản thành các gói trái
phiếu có gốc bất động sản (MBS, CDO) đầy rủi ro cung cấp cho thị trường.
Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản
vay mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các
danh mục tín dụng bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia
Trang 18
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
tăng thì việc phát mại tài sản càng tăng làm giá bất động sản càng giảm. Điều
này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của trái phiếu càng giảm và rủi ro tín dụng
càng tăng.
Vòng xoáy khủng hoảng cứ tiếp tục như vậy, làm cho giá chứng khoán sụt
giảm mạnh. Các ngân hàng đầu tư mặc dù không nắm giữ toàn bộ rủi ro nhưng
cũng trực tiếp hoặc gián tiếp duy trì một số danh mục chứng khoán liên quan

đến bất động sản. Hậu quả là hàng loạt ngân hàng đầu tư lần lượt báo cáo các
khoản lỗ kinh doanh.
2.2.2.Mua bán khống
Khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn dính líu đến
cho vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra,
tạo nên một áp lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm đến
một mức nào đó, họ sẽ mua và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí, còn
bao nhiêu tiền chênh lệch họ sẽ hưởng trọn.
Thậm chí, họ còn áp dụng cách thức mua bán khống đến hai lần (naked
short sale), tức là không thèm vay chứng khoán nữa mà cứ ra lệnh bán theo
kiểu “đánh xuống” vì lợi dụng khe hở, mua bán ba ngày sau mới giao cổ phiếu.
Bộ trưởng Tư pháp bang New York, Andrew Cuomo than: “Họ giống như kẻ
hôi của sau một cơn bão”.
2.2.3.Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ
Có tiền, các công ty cứ thoải mái cho người vay bằng tiền của các ngân
hàng đầu tư cung cấp thông qua mua lại danh mục cho vay của các công ty này.
Các ngân hàng này trên cơ sở danh mục cho vay vừa mua lại sẽ phát hành CK
để vay tiền. Danh mục cho vay được chia ra, ít rủi ro, rủi ro cao, tùy định mức
tín nhiệm, nhà đầu tư tha hồ lựa chọn theo sự mạo hiểm của mình. Có loại CK
không cần định mức tín nhiệm, có thể thu lãi cao nhưng rủi ro cũng lớn.
Trang 19
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
Như vậy, rủi ro trong cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là công ty tài
chính sang NH đầu tư. Nhà đầu tư lắm tiền trên thế giới đã đổ tiền mua CK
này, nhờ vậy đã cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho thị trường BĐS ở Mỹ
tăng nóng.
Giáo sư kinh tế Joseph Stiglitz, người được giải thưởng kinh tế Nobel kinh
tế 2001, kết luận: “Hệ thống tài chính của Mỹ đã không thực hiện được hai
trách nhiệm chính của mình đó là quản lý rủi ro và phân chia vốn. Cả hệ thống
tài chính Mỹ đã không làm những gì mà nó đáng ra phải làm - chẳng hạn như

tạo ra các sản phẩm để giúp người Mỹ quản lý được những rủi ro nguy hiểm
nghiêm trọng của mình, như là giữ lại được nhà khi mức lãi suất cho vay tăng
cao hoặc khi giá nhà rớt giá”.
2.2.4.Khủng khoảng niềm tin
Theo GS. Joseph Stiglitz, cuộc khủng hoảng bắt đầu tư sự sụp đổ thảm khốc
của niềm tin. Các ngân hàng đánh đố lẫn nhau về mức độ cho vay cũng như tài
sản. Những giao dịch phức tạp được tạo ra để loại bỏ rủi ro và che giấu những
trượt giá giá trị tài sản thực của ngân hàng. Đây là một trò chơi mà con người
ta khi bắt đầu cảm nhận thấy mùi của sự thua lỗ và nhìn vào hệ thống tài chính,
khi đó thua lỗ xuất hiện, cả thị trường xuống dốc và tất cả mọi người đều bị
thua lỗ.
III) Bài học kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới.
1.Bài học kinh nghiệm từ khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997.
Vậy đâu là những bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á?
Bài học thứ nhất: Phải có công cụ điều tiết luồng vốn.
Không phải tình cờ khi hai nước châu Á ít bị ảnh hưởng nhất của cuộc
khủng hoảng tài chính, Trung Quốc và Ấn Độ, cũng chính là những nước
không tự do hóa thị trường vốn. Và trong số những nước đã tự do hóa thị
Trang 20
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
trường vốn, cũng không phải ngẫu nhiên mà nước khống chế tốt nhất những tác
động của cuộc khủng hoảng, Singapore, chính là nước có hệ thống luật pháp tốt
nhất.
Do thiếu các biện pháp kiểm soát, nhiều nền kinh tế châu Á đã rơi vào tình
trạng quá phụ thuộc vào nguồn tài chính rất dễ biến động từ bên ngoài - đó là
các khoản vay ngắn hạn. Cuối năm 1996, các nước Đông Á đã nợ các ngân
hàng châu Âu 318 tỷ USD, ngân hàng Nhật Bản 260 tỷ USD và ngân hàng Mỹ
46 tỷ USD, đa số là dưới hình thức vay ngắn hạn - dưới 1 năm.
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho biết trong 3 năm trước thời điểm 1997, các
khoản nợ ngắn hạn của Thái Lan chiếm tới 7-10% GDP, trong khi tổng vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ chiếm 1% GDP.
Khi xảy ra khủng hoảng, các nguồn vốn ngắn hạn này biến mất cũng nhanh
như khi xuất hiện, vì không hề có các công cụ điều tiết.
Bài học thứ hai: Cần xây dựng hành lang pháp lý phù hợp.
Cũng giống như việc nối các thị trấn nhỏ với đường cao tốc mà trước đó
không trang bị cho chúng hệ thống đường xá và cảnh sát giao thông phù hợp để
giám sát việc tuân thủ luật lệ, sẽ thật liều lĩnh khi mở cửa nền kinh tế của các
nước đang phát triển với thị trường vốn quốc tế mà chưa xây dựng hệ thống
luật pháp phù hợp và đào tạo được đội ngũ cán bộ liêm khiết.
Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo vào những năm trước thời
điểm 1997 đã dẫn đến sự phát triển quá mức của thị trường tín dụng ở nhiều
nước châu Á, như Indonesia, Malaysia, Philippines, Hàn Quốc và Thái Lan,
kéo theo việc đầu tư dư thừa vào một số ngành kinh tế.
Việc dư thừa nguồn tín dụng còn dẫn đến tình trạng lãng phí, với cuộc chạy
đua sở hữu tòa nhà cao nhất thế giới ở các nước châu Á là một ví dụ. Tệ hơn,
việc “thừa tiền” còn châm ngòi cho sự phát triển bong bóng của thị trường bất
động sản, từ đó lại quay lại tình trạng dư thừa tín dụng, vì các ngân hàng cho
Trang 21
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
vay nhiều hơn giá trị thực của tài sản thế chấp. Kết quả là khi “bong bóng” vỡ,
các ngân hàng phải hứng chịu hậu quả.
Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo còn cho phép các ngân hàng
có tỷ lệ vốn lưu động không phù hợp. Theo số liệu năm 1997 của Ngân hàng
Thanh toán Quốc tế (BIS), ở Philippines (17%), Hồng Kông (18%) và
Singapore (19%), tỷ lệ này cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn tối thiểu quốc tế.
Bài học thứ ba: Nguy cơ dư thừa vốn.
Chính phủ của các nền kinh tế mới nổi không thể làm gì nhiều để ngăn “lũ”
vì nguồn cơn của sự mất cân bằng trên thị trường tài chính quốc tế không nằm
trong tầm kiểm soát trực tiếp của họ.
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á không phải chỉ do sự “tắc trách” của

người châu Á gây ra. Ngân khố của hầu hết các nền kinh tế châu Á đều ở mức
cân bằng hoặc thặng dư, và không hề có lạm phát. Cuộc khủng hoảng xảy ra
phần nhiều là do những thay đổi về mô hình của hoạt động trung gian tài chính
quốc tế.
Thứ nhất, sự mở rộng đáng kể của khả năng thanh khoản quốc tế vào thập
niên 90 đã làm gia tăng sự cạnh tranh trong ngành dịch vụ tài chính trên toàn
thế giới. Vì thế, các giám đốc tài chính buộc phải tìm kiếm những khoản lợi
nhuận cao hơn, thông qua các dự án đầu tư mạo hiểm.
Thứ hai là chính sách kinh tế vĩ mô của các cường quốc kinh tế đóng vai trò
quan trọng trong sự mở rộng của khả năng thanh khoản quốc tế. Ví dụ như ở
Mỹ, việc thâm hụt ngân sách giảm xuống trong khi khả năng sản suất tăng lên
đã dẫn đến tốc độ lạm phạt giảm và do đó lãi suất giảm.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi luồng vốn đổ vào châu Á tăng lên, vì lãi
suất ở châu Á cao hơn, còn các nước châu Á nhận thấy việc vay mượn quy đổi
bằng đồng đôla Mỹ hoặc yên Nhật có lợi hơn là bằng đồng nội tệ.
Trang 22
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
Tuy nhiên, tình trạng mất cân đối này không thể kéo dài. Việc tăng nguồn
vốn đã gia tăng sức ép đối với việc tăng tỷ giá hối đoái, từ đó làm trầm trọng
thêm tình hình thâm hụt thương mại. Và khi thị trường tạo sức ép giảm giá
đồng tiền, tình hình càng trở nên xấu đi do sự rút vốn đột ngột của các nhà đầu
tư nước ngoài. Thị trường tài chính châu Á chao đảo.
2.Bài học kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ hiện nay:
Mặc dù cuộc khủng hoảng chưa kết thúc và cần thời gian để kiểm định,
nhưng có thể rút ra 3 bài học lớn từ cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ hiện
nay:
Thứ nhất, không có ngoại lệ và miễn dịch phá sản cho bất kỳ đại gia nào
trong cuộc chơi trên sân kinh tế thị trường. Nói cách khác, một doanh nghiệp
dù lớn đến đâu, thâm niên dài bao nhiêu và trước đó có thành công như thế
nào, cũng có thể sụp đổ nếu vi phạm luật chơi, mà cụ thể ở cuộc khủng hoảng

tài chính Mỹ hiện nay là vi phạm chuẩn cho vay bất động sản có sự dung túng
của chính phủ…
Thứ hai, vai trò của công tác thông tin, dự báo và giám sát, cảnh báo an
toàn, nhất là an toàn hệ thống tài chính - ngân hàng là hết sức quan trọng và
không thể coi nhẹ trong bất luận trường hợp nào và vào thời điểm nào… ngoài
ra, cần luôn tỉnh táo với các tác động lan tỏa, dây chuyền của các sự biến kinh
tế trên thị trường trong nước và quốc tế. Cần dập ngòi khủng hoảng từ khi nó
còn nhen nhúm, thay vì khi nó đã thành đám cháy mạnh và lan rộng, thì chi phí
là khó đo lường, nhất là với một nước còn nghèo và các thiết chế thị trường còn
chưa phát triển, hoàn thiện.
Thứ ba, nhà nước có vai trò không thể thiếu được và ngày càng to lớn trong
cuộc chiến với các chấn động kinh tế chu kỳ hoặc bột phát, nhất là khủng
hoảng tài chính - ngân hàng, dù nó xảy ra không trực tiếp từ sai lầm của chính
phủ hoặc trong khu vực kinh tế nhà nước… Tuy nhiên, sự can thiệp này phải
tuân thủ các yêu cầu và lợi ích thị trường, không làm xấu đi sự ổn định kinh tế
Trang 23
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
vĩ mô và bảo đảm hài hòa các lợi ích, nhất là không đổ gánh nặng khủng hoảng
lên người dân, người tiêu dùng. Sử dụng các công cụ nợ, biến nợ xấu thành
chứng khoán có thể mua - bán trên thị trường nợ là một trong các lựa chọn cần
thiết và hiệu quả trong trường hợp này và cho mục tiêu đó.
Yêu cầu và cách thức đối phó với khủng hoảng tài chính Mỹ có khác nhau
với các doanh nghiệp và ngân hàng trong nước. Điều này tùy thuộc vào mức độ
liên quan trực tiếp và gián tiếp tới cuộc khủng hoảng từ mỗi doanh nghiệp…
Có một số nguyên tắc chung sau:
Một là, cần rà roát lại các dự án và hoạt động đầu tư – kinh doanh của đơn
vị, tự phân loại tính chất, cách thức và mức độ ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng
này, từ đó chủ động có phương án xử lý cụ thể hiệu quả cho đơn vị và đối tác
cụ thể trong giả định tình huống xấu nhất có thể xảy ra.
Hai là, thực hiện đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh và thị trường, cũng

như các đối tác có liên quan.
Ba là, thường xuyên theo dõi thị trường, cập nhật thông tin, học hỏi kinh
nghiệm, nâng cao kỹ năng dự báo và năng lực xử lý kịp thời các tình huống
phát sinh từ bên ngoài. Có thể lập các đội đặc nhiệm, với các kịch bản “tác
chiến” linh hoạt và tối ưu cho các tình huống khẩn cấp.
Bốn là, tiếp tục cải thiện năng lực và sự lành mạnh tài chính, chất lượng bộ
máy và quản trị kinh doanh, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ,
có tầm nhìn dài hạn trong liên doanh, liên kết, hợp tác và cạnh tranh kinh tế cả
trong quá trình phát triển bên trong, cũng như trong cuộc chiến với các động
thái thị trường và chấn động kinh tế bên ngoài…
Trang 24
Chuyên Đề Tốt Nghiệp SVTH: Trương Mạnh Tuấn
Chương II: Thực trạng khủng hoảng kinh tế Việt nam trong quá trình đổi
mới và chính sách tiền tệ của chính phủ Việt nam.
I.Giai đoạn từ khi ra đời của 2 pháp lệnh Ngân hàng đến những năm cuối
của thế kỷ 20:
1. Tổng quan nền kinh tế Việt Nam
1.1 Tốc độ tăng trưởng GDP:
 Giai đoạn 1988-1990: Các số liệu thống kê về động thái tăng trưởng
kinh tế nước ta từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đến nay đã cho thấy, tốc
độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của nước ta trong giai đoạn 1988-
1990 còn đạt được ở mức thấp 4,4% do nền kinh tế nước ta vừa bước ra khỏi
cuộc khủng hoảng đã kéo dài suốt cả thời kỳ 10 năm trước khi đổi mới(1975-
1986). Trong giai đoạn này, việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát
triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu được đánh
giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của CNH XHCN trong chặng
đường đầu tiên. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ
chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống KTXH và giải
phóng sức sản xuất.
 Giai đoạn 1991-1996: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trình trệ,

suy thoái, đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện. Cụ
thể là: 1991 (5,81%); 1992 (8,7%); 1993 (8,08%); 1994 (8,83%); 1995
(9,54%); 1996 (9,34%).
 Giai đoạn 1997-2000: Tốc độ tăng trưởng GDP năm 1997 (8,15%),
1998 (5,76%), 1999 (4,77%), 2000 (6,79%). Hai năm 1998 và 1999 đã có sự
suy giảm tương đối, một phần nguyên nhân là do nằm trong bối cảnh chung
của khu vực Đông Á khi đó đang chịu ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng
hoảng tài chính - tiền tệ 1997-1998.
Trang 25

×