Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Nhận thức và thái độ của sinh viên hiện nay về đồng tính (qua khảo sát sinh viên học viện báo chí và tuyên truyền) 30

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.65 KB, 34 trang )

Đồng tính là chủ đề tính dục khá nhạy cảm nhưng khơng cịn mới mẻ, xa
lạ trong xã hội hiện nay, đặc biệt là một vài năm trở lại đây, nhiều người đồng
tính khơng chỉ cơng khai giới tính thật, mà cịn khẳng định, bảo vệ quyền lợi
của chính họ và cộng đồng đồng tính nói chung. Trước đây dư luận coi đồng
tính là một vấn nạn của xã hội, một thứ tệ nạn cần bài trừ giống như ma túy,
mại dâm,…Tuy nhiên, cho đến nay, sự phát triển của các xu hướng biểu hiện
của đồng tính cùng với việc xã hội ngày càng đề cao tính khoa học và nhân
văn về các vấn đề liên quan đến con người, đã khiến đồng tính trở thành một
vấn đề xã hội ngày càng được quan tâm và đề cập nhiều hơn.
Kéo theo sự phổ biến của vấn đề đồng tính trong nước và trên thế giới,
dư luận xã hội đối với đề tài này cũng nảy sinh nhiều vấn đề. Đặc biệt khi các
phương tiện truyền thông đại chúng, tiêu biểu là báo chí, khai thác chủ đề
đồng tính trên nhiều phương diện, nó càng gây được sự chú ý và nhận được
nhiều phản ứng trái chiều từ dư luận. Dù cho xã hội đã có cái nhìn “thống”
hơn nhưng người đồng tính vẫn bị kỳ thị và phân biệt đối xử. Thông qua
những hoạt động xã hội của các diễn đàn, câu lạc bộ về người đồng tính, các
hội thảo nghiên cứu, cũng như việc đề xuất luật hôn nhân cho người đồng
giới, công nhận người chuyển giới,… người đồng tính phần nào đã được xã
hội chấp nhận và ủng hộ. Tuy nhiên, để xóa bỏ định kiến và kỳ thị người đồng
tính từ trong ý thức để tiến tới cơng nhận họ và đối xử bình đẳng với họ là cả
một q trình khó khăn, lâu dài và cần có sự nhận thức lại từ cộng đồng xã
hội. Đặc biệt, để xem xét đồng tính như một vấn đề của xã hội hơn là vấn đề
cá nhân, xóa bỏ hiểu nhầm họ là nhóm yếu thế tức là “bình thường hóa” vấn
đề đồng tính, như hội thảo về người đồng tính ở Việt Nam do Viện nghiên cứu
kinh tế, xã hội và môi trường Việt Nam (iSEE) đã khẳng định “Bình thường
hóa ở đây khơng có nghĩa là sự chuyển đổi từ cực này sang cực kia mà đơn

giản đó là nhu cầu chính đáng từ những người có giới tính khơng thuộc về số
đơng: được xã hội tơn trọng sự riêng tư và nhìn nhận một cách hồn tồn
bình đẳng” thì những nghiên cứu về đồng tính càng nên được quan tâm và đề
xuất. Đối tượng thanh niên, đặc biệt là sinh viên, là đối tượng có cơ hội tiếp


1


1

cận thông tin nhiều nhất và là bộ phận quan trọng của dư luận xã hội. Tìm
hiểu nhận thức của họ sẽ cho thấy phần nào nhận thức xã hội đối với vấn đề
đồng tính. Từ tầm quan trọng và những lý do cấp thiết trên, đề tài “Nhận thức
và thái độ của sinh viên hiện nay về đồng tính (Qua khảo sát sinh viên Học
viện Báo chí và Tuyên truyền)” xin được đưa ra xem xét và nghiên cứu để làm
rõ nhận thức và thái độ của sinh viên đối với chủ đề này.
Tổng quan tài liệu nghiên cứu:
2.
Đồng tính và những vấn đề liên quan đến người đồng tính ngày càng
được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Tuy nhiên, với tính nhạy cảm và khó
tiếp cận của vấn đề, khách thể nghiên cứu mới chỉ bó hẹp trong cộng đồng
đồng tính ở phạm vi nhỏ, cơ sở định lượng của nhiều nghiên cứu cịn thiếu
tính đại diện, các nhóm xã hội khác có liên quan thường được nhắc đến rất ít
trong khi các vấn đề cộng đồng, văn hóa, xã hội xung quanh người đồng tính
rất đáng được lưu tâm. Bên cạnh đó, các đề tài nghiên cứu thường khắc họa
chân dung người đồng tính, xoay quanh các vấn đề về sức khỏe tình dục,
phịng chống HIV/AIDS cho người đồng tính, nghiên cứu về sự kỳ thị và định
kiến xã hội ảnh hưởng như thế nào đến người đồng tính, quyền, nhu cầu và cơ
hội tiếp cận với các nguồn lực xã hội của họ. Theo những thu thập bước đầu
về tổng quan tài liệu, có thể thấy rằng số lượng những nghiên cứu trong nước
ít hơn nhiều so với các tài liệu của nước ngoài và các nghiên cứu tập trung về
nhận thức, thái độ của cộng đồng xã hội về người đồng tính cịn rất ít. Sau đây
tác giả xin điểm qua một vài nghiên cứu theo trình tự báo cáo nghiên cứu,
khóa luận, báo chí; ở Việt Nam và trên thế giới về người đồng tính và một số
vấn đề liên quan có ích cho đề tài này.

Đối mặt với sự thật: Tình dục đồng giới nam (MSM) và HIV/AIDS ở
Việt Nam (Vũ Ngọc Bảo & Philippe Girault – Chuyên san giới tình dục và
sức khỏe tình dục, 2005). Nghiên cứu này đã cung cấp những thơng tin về
tình dục đồng giới nam (MSM) ở Việt Nam, thực trạng và nguy cơ lây nhiễm


HIV/ bệnh lây truyền qua đường tình dục trong nhóm MSM và bối cảnh xã
hội của MSM Việt Nam. Các kết quả dựa trên tổng quan chọn lọc các bài viết
và báo cáo nghiên cứu xã hội học từ năm 1990 đến năm 2000, đa số được tiến
hành tại các thành phố lớn TP Hồ Chí Minh và Hà Nội. Các thơng tin về đặc
điểm xã hội, văn hóa, bối cảnh xã hội thu thập được từ nghiên cứu định tính
2
2

xã hội học, do Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc Tế (FHI) và Ủy ban Phòng
chống AIDS TP.HCM thực hiện năm 2004. Báo cáo tập trung nhấn mạnh về
việc khơng có các chương trình dự phịng HIV cho MSM, đồng thời với sự kỳ
thị và phân biệt đối xử đi kèm, MSM đang đi vào bóng tối vơ thức về nguy cơ
và các biện pháp dự phòng HIV cho bản thân họ. Đặc biệt, việc bộc lộ khuynh
hướng và đặc tính tình dục hạn chế họ trong việc tiếp cận các nguồn lực như
giáo dục, y tế,… khiến họ bị kỳ thị và phân biệt đối xử. Bên cạnh đó nghiên
cứu cịn đưa ra khuyến nghị về các chương trình, chính sách nhằm cơng nhận
sự tồn tại của MSM. Tuy nhiên báo cáo chỉ nhằm tập trung nghiên cứu vào
nhu cầu dự phòng HIV của MSM nên tác giả nhấn mạnh “Để ra các quyết
định đúng đắn cần có thêm các nghiên cứu ước tính quần thể, các khía cạnh
văn hóa xã hội của MSM,…”
Báo cáo “Hình ảnh người đồng tính trên báo mạng và báo in”, Ths.
Nguyễn Thị Tuyết Minh, Khoa Xã hội học, Học viện Báo chí Tun truyền
(Các bài báo và cơng trình nghiên cứu về đề tài tính dục tại Học viện Báo chí
và Tuyên truyền năm 2008-2009).

Có thể nói báo cáo trên là cơ sở dữ liệu quan trọng, góp phần định hướng
cho việc nghiên cứu và phân tích ảnh hưởng của báo chí truyền thông đến
nhận thức và thái độ của sinh viên đối với vấn đề đồng tính. Thơng qua
nghiên cứu trường hợp trên 502 bài báo in và báo mạng trong năm 2004, 2006
và đầu năm 2008, báo cáo đã đưa ra những phát hiện quan trọng. Mặc dù số
lượng bài viết về nhóm đồng tính tăng lên theo thời gian song phần lớn các
bài viết này sử dụng đồng tính như một chi tiết gây sự chú ý của người đọc
theo hướng bất lợi cho người đồng tính (71% trong tổng số 500 bài báo), điều


này có thể là một trong những nguyên nhân gây nên sự kỳ thị trong xã hội.
Không quá bất ngờ khi báo cáo chỉ ra rằng các khái niệm liên quan đến đồng
tính vẫn bị nhầm lẫn tuy nhiên điểm đáng nói là sự thiếu hiểu biết về vấn đề
đồng tính của một số tác giả kéo theo việc gán nhãn sai cho nhóm người đồng
tính, điều này có xu hướng gây định kiến hoặc sự kỳ thị với nhóm này. Bên
cạnh đó, kết quả nghiên cứu cịn cho thấy, các bài viết chun sâu về đồng
tính cịn nặng về lý giải nguyên nhân đồng tính với thái độ thường là lên án,
chân dung người đồng tính thường được khắc họa theo định kiến giới hai giá
trị, chân dung cộng đồng đồng tính phiến diện và tiêu cực, mức độ kỳ thị cịn
3
3

cao khi khắc họa hình ảnh người đồng tính (41%/ 502 bài báo), ngơn ngữ mơ
tả mang định kiến có sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực (39% năm 2004
so với 16% năm 2008). Với hướng tiếp cận và phân tích đa chiều, đa dạng,
báo cáo này đã đặt ra những vấn đề cấp bách cần tiếp tục giải quyết: Những
thông điệp truyền thông chưa đầy đủ và thiếu chính xác về người đồng tính và
các vấn đề liên quan (đặc biệt là trên báo in và báo mạng) dễ gây ra sự hiểu
nhầm, thái độ kỳ thị của cơng chúng đối với nhóm người này. Tuy nhiên, xét
về mặt thời gian, số lượng các bài viết về chủ này này cùng với thái độ trung

tính hay khách quan ngày càng tăng, đặt ra câu hỏi: Liệu có sự chuyển đổi
theo hướng tích cực về nhu cầu quan tâm, nhận thức và thái độ của công
chúng đối với đồng tính? Những lý do nào dẫn đến sự chuyển đổi ấy và liệu
nó có bền vững? Quan điểm trong báo cáo cho rằng “Người đồng tính e dè
khi cơng khai mình dễ được thơng cảm hơn là người khơng giấu mình” có cịn
đúng ở thời điểm hiện tại và với đối tượng tiếp nhận như thế nào?...
Khóa luận tốt nghiệp: “Hòa nhập xã hội của người đồng tính tại Việt
Nam” (2009), Phan Thị Thu Trang, Khoa xã hội học K25, Học viện Báo chí
và Tuyên truyền.
Nghiên cứu đã cung cấp một bức tranh toàn cảnh về người đồng tính,
xây dựng chân dung người đồng tính qua lăng kính của chính họ. Đây là một
cách tiếp cận khá quan trọng, bổ sung vào việc thống nhất, tập hợp các quan


điểm về người đồng tính, các vấn đề xã hội liên quan và đặc biệt là đã chạm
tới góc khuất trong đời sống của người đồng tính. Đóng góp quan trọng của
đề tài là đã khẳng định được nhu cầu hịa nhập xã hội của người đồng tính,
những nhu cầu rất đỗi bình thường và cơ bản của một con người: nhu cầu
khẳng định bản thân, nhu cầu về tình u, tình dục và hơn nhân, nhu cầu được
tơn trọng và công bằng xã hội, nhu cầu về giao tiếp và giải trí. Thơng qua
phương pháp phân tích tài liệu và phỏng vấn sâu 10 đồng tính nam và đồng
tính nữ từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2009 ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, kết
quả nghiên cứu cho thấy, định kiến xã hội, gia đình và sự kỳ thị của cộng
đồng là những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến sự hòa nhập xã hội của người
đồng tính, đặc biệt là vai trị của cộng đồng xã hội và những người xung
quanh. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra những điểm hạn chế đó là thiếu những
4
4

nghiên cứu định lượng nhằm kiểm định lại kết quả định tính và cần thiết phải

có nghiên cứu đối chiếu với nhận thức và thái độ cộng đồng xã hội.
Khóa luận tốt nghiệp: “Nhận thức và thái độ của sinh viên Học viện
Báo chí Tuyên truyền với đồng tính nam” (2009), Đặng Thị Thu Thủy,
Khoa Xã hội học K25, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Với mục đích là khảo sát nhận thức và thái độ của sinh viên Học viện
Báo chí Tun truyền với đồng tính nam, thơng qua điều tra và nghiên cứu,
tác giả đã phân tích các yếu tố tác động từ đó đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao nhận thức giúp cho sinh viên có thái độ tích cực hơn. Kết quả
nghiên cứu cho thấy rằng đa phần sinh viên HVBCTT nhận thức còn hạn chế
và sai lệch về đồng tính nam, dẫn đến những thái độ tiêu cực đối với chủ đề
này. Cho tới thời điểm nghiên cứu (tháng 4/2009) phần lớn sinh viên có thái
độ kỳ thị với đồng tính nam, chiếm 81,2% trên tổng số 208 người tham gia
nghiên cứu. Có đến 41,3% sinh viên đồng tình với ý kiến xã hội khơng nên
tồn tại đồng tính nam. Đặc biệt, tác giả đã đưa ra được phát hiện quan trọng,
bên cạnh yếu tố năm học và xuất thân tác động gián tiếp đến nhận thức và thái
độ kỳ thị của sinh viên trong các khía cạnh cụ thể của nghiên cứu, thì yếu tố


ngành/ khoa sinh viên học có tác động rõ rệt đến nhận thức của sinh viên về
đồng tính nam, cụ thể là những khoa nghiệp vụ có nhận thức đầy đủ hơn các
khoa lý luận (vì có chương trình giảng dạy lồng ghép các vấn đề về tính dục,
ví dụ khoa xã hội học có tỷ lệ sinh viên nhận thức đầy đủ về nguy cơ đối với
đồng tính nam là 14,5% so với khoa Triết 0%). Ngoài ra, các phương tiện
truyền thơng đại chúng cũng có tác động rất lớn đến nhận thức của sinh viên
(63,9% sinh viên nghe thơng tin về đồng tính nam từ sách báo và internet).
Tuy nhiên nghiên cứu chưa đưa ra được kết luận đâu là yếu tố tác động mạnh
mẽ nhất. Ngoài ra, nghiên cứu này chỉ tập trung vào đồng tính nam, vì vậy
chưa có cái nhìn bao qt về nhận thức và thái độ đối với vấn đề đồng tính nói
chung (trong đó có đồng tính nữ), cũng như so sánh thái độ đối với đồng tính
nam và đồng tính nữ trong sự ảnh hưởng của các yếu tố môi trường văn hóa –

xã hội. Nhìn chung, các kết quả trên của nghiên cứu có vai trị rất quan trọng
trong việc xác định hướng và trọng tâm nghiên cứu cơ bản, cụ thể là đặt nền
tảng cho việc xây dựng giả thuyết nghiên cứu về nhận thức và thái độ của
5
5

sinh viên, cũng như những bước tiếp theo để cải thiện hơn nữa nhận thức và
thái độ của sinh viên về đồng tính.
Quyền của người đồng tính, song tính và chuyển giới và iSEE 2012
(isee.org.vn | 25/12/2012, Bình Lê)
Qua bài viết “Quyền của người đồng tính, song tính và chuyển giới và
iSEE 2012” của tác giả Bình Lê đăng ngày 25/12/2012, có thể thấy rõ sự lan
tỏa và hiệu quả của các hoạt động thúc đẩy và bảo vệ quyền của cộng đồng
thiểu số tính dục trong năm 2012. Điều này đã thể hiện sự quan tâm rất lớn
của toàn xã hội và nhà nước đối với mục tiêu đánh giá đúng và xóa bỏ kỳ thị
đối với người đồng tính. Bài viết đã chỉ ra rằng, cuộc thảo luận trên báo chí và
trong xã hội về quyền của người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT)
đã được khai thơng theo hướng tích cực nhờ thơng tin về việc Bộ tư pháp
tham vấn các cơ quan chính phủ về hơn nhân cùng giới, đẩy cuộc thảo luận từ
“Đồng tính có phải là bệnh khơng?” qua “Có nên cho phép người đồng tính


kết hôn hay không?” Đây là bước tiến quan trọng nhờ những nỗ lực của bản
thân cộng đồng LGBT trong hơn bốn năm và sự ủng hộ, định hướng dư luận
xã hội đúng đắn của giới truyền thơng báo chí. Đã có nhiều sự kiện tập thể và
hoạt động nhằm đưa kiến thức đúng về cộng đồng LGBT cho sinh viên và xã
hội nói chung. Các buổi giao lưu, hội thảo, tọa đàm với sinh viên các trường
đại học đã tạo cơ hội để sinh viên có kiến thức đúng và ủng hộ sự bình đẳng
cho cộng đồng LGBT. Bên cạnh đó, những hoạt động nhân đạo mà cộng đồng
LGBT tham gia đã làm thay đổi xã hội theo hướng tích cực, thừa nhận và tơn

trọng cộng đồng LGBT và gia đình họ. Sự lên tiếng của Hội cha mẹ có con là
đồng tính, song tính và chuyển giới (PFLAG) đã thuyết phục được nhiều nhà
làm luật cũng như xã hội về sự cần thiết phải hợp pháp hóa quan hệ cùng giới
và bảo vệ quyền bình đẳng của người LGBT và hạnh phúc gia đình. Những
thành quả trên cần được toàn cộng đồng và xã hội tiếp tục ủng hộ và thúc đẩy
hơn nữa để bảo vệ quyền bình đẳng của người đồng tính, song tính và chuyển
giới trong hơn nhân gia đình cũng như trong giáo dục, y tế và công ăn việc
làm.
Ảnh hưởng của những rào cản từ xã hội và luật pháp đến sự quan
tâm, khuyến khích việc nâng cao sức khỏe tình dục và về HIV/AIDS cho
6
6

nam giới có quan hệ tình dục với nam giới ở Bangladesh và Ấn Độ (Nhà
xã hội học Shivananda Khan và Aditya Bondyopadhyay).
Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng số lượng MSM bị lạm dụng, bạo hành và
cưỡng hiếp là rất cao. Trong đó, mơi trường xã hội và luật pháp đã có những
ảnh hưởng tiêu cực đến những can thiệp về sức khỏe tình dục cho MSM.
Những rào cản này đã trực tiếp dẫn đến thực trạng làm gia tăng khả năng dễ
lây nhiễm HIV và các bệnh khác cho MSM. Bên cạnh đó, những rào cản này
cịn là tác nhân khiến thực trạng bạo lực và vi phạm quyền con người đối với
các MSM gia tăng đồng thời vơ hình tạo ra sự sợ hãi cho họ. Nghiên cứu này
đã góp phần đưa ra chiến lược nhằm giảm thiểu sự phân biệt đối xử và tình
trạng bị quấy rối cho MSM. Một lần nữa, những vấn đề về nhân quyền và


nguy cơ bệnh tật lại được đặt ra đối với người đồng tính, khi mà xã hội thiếu
sự cảm thơng, quan tâm và nhìn nhận lại vấn đề đồng tính.
Như vậy, qua tổng quan một số tài liệu nghiên cứu, ta có thể hình dung
phần nào tình hình nghiên cứu về đề tài đồng tính cũng như thấy được vị trí

và tầm quan trọng của những nghiên cứu về nhận thức và thái độ cộng đồng
đối với vấn đề đồng tính. Điều này đã đặt ra cho đề tài “Nhận thức và thái độ
của sinh viên hiện nay về đồng tính” những yêu cầu về việc nghiên cứu tổng
quát và cụ thể nhận thức và thái độ của sinh viên đối với vấn đề này; cũng
như phân tích thái độ của sinh viên đối với sự kỳ thị, phản đối của những
người xung quanh người đồng tính; tìm hiểu được những yếu tố ảnh hưởng
đến sự nhận thức và thái độ đó của sinh viên. Các vấn đề của đồng tính vốn đã
rất đa dạng, trong bối cảnh văn hóa Việt Nam mang đậm các giá trị truyền
thống thì việc cấp thiết phải có những nghiên cứu sâu rộng hơn, tập trung
nhiều hơn vào mức độ quan tâm, quan điểm, thái độ của thanh niên sinh viên
– nhóm đối tượng có nhu cầu nhận thức các vấn đề xã hội, hưởng ứng và
tham gia vào các hoạt động xã hội rất lớn. Để bổ sung thêm những dữ liệu
định lượng về nhận thức và thái độ của sinh viên về đồng tính, cũng như cung
cấp những số liệu có thể so sánh với các nghiên cứu trước, hy vọng rằng đề
tài sẽ góp phần thúc đẩy những nghiên cứu chuyên sâu và đầy đủ hơn sau này.
7
7

Mục đích – nhiệm vụ nghiên cứu:
3.
3.1. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu và xác định được mức độ nhận thức của sinh viên đối với vấn
đề đồng tính, mức độ quan tâm, thái độ của sinh viên đối với những vấn đề
liên quan đến người đồng tính như thế nào (ủng hộ/ phản đối).


- Tìm hiểu về những nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến nhận
thức và thái độ đó của sinh viên.
- Đánh giá được thực trạng nhận thức và thái độ của sinh viên từ đó đề ra
được các khuyến nghị với nhà trường cũng như một số giải pháp để khắc phục.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ các khái niệm có liên quan đến đề tài làm cơ sở cho tìm hiểu
nhận thức của sinh viên về đồng tính. Khảo sát các tài liệu, báo cáo, nghiên
cứu có liên quan nhằm đưa ra định hướng, cách tiếp cận cho đề tài.
- Mô tả thực trạng nhận thức và thái độ của sinh viên về đồng tính và các
vấn đề liên quan.
- Trên cơ sở các kết luận khách quan, chỉ ra và lý giải được các nguyên
nhân dẫn đến nhận thức và thái độ của sinh viên về đồng tính.
- Đưa ra các khuyến nghị giúp nhà trường nâng cao và cải thiện hơn nữa
nhận thức, thái độ của sinh viên về đồng tính thơng qua:
+ Chương trình giảng dạy lồng ghép các vấn đề về đồng tính, quyền và
nhu cầu chính đáng của họ.
+ Các chương trình tun truyền, nâng cao nhận thức của Đồn trường,
các hoạt động thường niên, câu lạc bộ,… nhằm giúp giảm bớt sự kì thị đối với
người đồng tính.
Đối tượng- khách thể - phạm vi nghiên cứu:
4.
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Nhận thức và thái độ của sinh viên hiện nay
về đồng tính.
4.2. Khách thể nghiên cứu: Sinh viên Học viện Báo Chí Tuyên Truyền.
4.3. Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian tiến hành điều tra: từ ngày 1/4/2013 đến 7/4/2013.
- Địa điểm: Học viện Báo chí tuyên truyền.
8
8


Phương pháp luận- phương pháp nghiên cứu:
5.
5.1. Phương pháp luận:

Phương pháp luận chung: Vận dụng những nguyên tắc và phương pháp
luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, trên cơ sở hệ thống các quan điểm,
pháp luật của Đảng và Nhà nước về quyền con người và hôn nhân gia đình.
Phương pháp luận chuyên biệt: Một số lý thuyết về chuẩn mực xã hội,
định kiến và kỳ thị xã hội, Thuyết tương tác ba ngôi của George Mead.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
5.2.1. Phương pháp thu thập thông tin:
- Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng kết hợp với nghiên
cứu định tính, trong đó nghiên cứu định lượng là phương pháp chủ yếu để thu
thập thông tin, phương pháp định tính góp phần hỗ trợ, bổ sung cho nghiên
cứu định tính. Các thơng tin thu thập được từ nghiên cứu định tính sẽ được sử
dụng để làm dẫn chứng, giải thích thêm cho số liệu định lượng.
- Đề tài sử dụng bộ công cụ thu thập thông tin:
+ Nghiên cứu định lượng: bảng hỏi (Anket).
+ Nghiên cứu định tính: hướng dẫn phỏng vấn sâu.
5.2.2. Phương pháp chọn mẫu:
+ Phương pháp chọn mẫu cho nghiên cứu định lượng:
Từ danh sách các lớp trong HV BC&TT, sử dụng phương pháp chọn
mẫu ngẫu nhiên hệ thống chọn ra 15 lớp, mỗi lớp lấy ngẫu nhiên ra 20 mẫu.
Số lượng mẫu được chọn là 300 mẫu.
+ Chọn mẫu (cho nghiên cứu định tính):
Đề tài sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện, lựa chọn phỏng vấn


sâu 10 sinh viên từ 4 khoa.
+ Phương pháp xử lý dữ liệu thơng tin: SPSS11.5
Trong q trình xử lý, bên cạnh việc chạy tần suất và tương quan để
phân tích dữ liệu, tác giả cịn sử dụng cách tính trung bình cộng để tiện so
sánh các mức độ đồng tình của sinh viên trong các trường hợp cụ thể.
9

9

Giả thuyết nghiên cứu – Khung lý thuyết – Biến số:
6.
6.1. Giả thuyết nghiên cứu:
Giả thuyết 1: Đa số sinh viên HV BC&TT hiện nay có nhận thức sai
lệnh về khái niệm người đồng tính và nguyên nhân dẫn đến đồng tính.
Giả thuyết 2: Đa số sinh viên HV BC&TT hiện nay vẫn cịn thái độ kỳ
thị với người đồng tính.
Giả thuyết 3: Mức độ quan tâm của sinh viên HV BC&TT hiện nay đến
nhu cầu và quyền lợi của người đồng tính cịn thấp.
Giả thuyết 4: Đa phần sinh viên khơng đồng tình với thái độ phản đối


và kỳ thị của gia đình, bạn bè, TTĐC đối với người đồng tính.
10
10

6.2. Khung lý thuyết:
Mơi trường Xã hội –
Văn hóa – Pháp luật.
Đặc điểm nhân khẩu học:
Giới tính.
Q quán.
Nhận thức của sinh viên về: - Khái niệm người đồng tính.
- Nghĩ đến dạng ĐT nào đầu tiên.
- Xu hướng về người đồng tính.
Nơi ở hiện tại.
- Những nguyên nhân của đồng tính.
Người trong gia đình/ người thân/ bạn bè là người đồng tính.

Tham gia các hoạt động xã hội/ tình nguyện
Có người u hay chưa.
.
Mức độ tiếp cận thông tin trên TTĐC.
Thái độ của sinh viên về:
Mức độ chấp nhận.
Thái độ của gia đình, bạn bè, hàng xóm, lãnh đạo – Đoàn thể, TTĐC đối với người


đồn
- Truyền thông đại chúng.
- Người xung quanh.
- Các chương trình, hội thảo vì
quyền của người ĐT.
- Người đồng tính.
11
11

6.3. Biến số:
6.3.1. Biến số độc lập:
Đặc điểm nhân khẩu học: giới tính, nơi sinh sống thuộc khu vực (nơng thơn/ thành
thị), nơi ở hiện tại (ký túc xá/ ở trọ/ ở cùng gia đình).
Người trong gia đình/ người thân/ bạn bè là người đồng tính (có/khơng).
Tham gia các hoạt động xã hội/ tình nguyện (có/khơng).
Có người u hay khơng (có/khơng).
-


Số lần đọc các thơng tin về đồng tính trên các phương tiện TTĐC (Dưới 3 lần/ Từ
3

đến 5 lần/ Trên 5 lần).
Tham gia các hội thảo về đồng tính, viết bài về đồng tính (có/khơng).
6.3.2. Biến số phụ thuộc: Nhận thức và thái độ của sinh viên về đồng tính:
Nhận thức về đồng tính bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau, tuy nhiên trong giới
hạn của nghiên cứu tác giả chỉ tìm hiểu nhận thức của sinh viên ở các vấn đề sau:

Khái niệm về người đồng tính.

Khi nhắc đến đồng tính nghĩ đến đầu tiên là đồng tính nam/ đồng tính nữ/ cả 2/
lưỡng
tính/ chuyển giới.

Tỷ lệ người đồng tính trong cộng đồng.

Xu hướng tăng, giảm người đồng tính.

Xu hướng tăng, giảm sự quan tâm của mọi người đến vấn đề.



Tỷ lệ người đồng tính HIV tăng.


Quyền của người đồng tính đc chấp nhận.

Cho rằng người đồng tính giàu – nghèo, hạnh phúc – đau khổ.

Những nguyên nhân của đồng tính.
Thái độ của sinh viên về các vấn đề sau với mức độ chấp nhận (RKĐT, KĐT, BT,
ĐT, RĐT):


Khi một người là người đồng tính (người xa lạ, bạn bè, người thân).

Luật pháp cơng nhận (quyền của người đồng tính, hơn nhân đồng tính, gia đình
người
đồng tính).
 Thái độ của sinh viên khi gia đình của người đồng tính:



Kịch liệt phản đối (có sử dụng vũ lực).

Phản đối (bằng lời nói).

Khun giải họ quay trở về giới tính ban đầu.

Để cho họ thế nào cũng được.

Ủng hộ họ bộc lộ.

Thái độ của sinh viên khi bạn bè của người đồng tính (ở 2 mức độ riêng): bạn
bè ở trường và bạn bè xung quanh (nhóm, hội…):

Xa lánh, kỳ thị.
12
12


Khuyên giải họ trở về giới tính ban đầu.




Không quan tâm.

Ủng hộ họ bộc lộ.
 Thái độ của sinh viên khi hàng xóm:

Xa lánh, kỳ thị.

Khơng quan tâm.

Khun giải họ trở về giới tính ban đầu.

Ủng hộ họ bộc lộ.
 Thái độ của sinh viên khi lãnh đạo, Đoàn thể (các cơ quan địa phương,
tổ dân phố):

Phản đối.



Vận động.

Ủng hộ họ bộc lộ.
 Thái độ của sinh viên khi nhà nghiên cứu:

Quan tâm, chia sẻ

Động viên, ủng hộ


Khuyến khích họ bộc lộ mình
 Thái độ của sinh viên khi truyền thông đại chúng thể hiện thái độ:

Ủng hộ

Phản đối




Trung lập
6.3.3. Biến số can thiệp:
Môi trường xã hội, văn hóa, pháp luật.
Những người xung quanh.
Các phương tiện truyền thơng đại chúng.
Các chương trình, hội thảo, hoạt động xã hội vì quyền của người đồng tính.
Người đồng tính.
Kết cấu khóa luận
Trong kết cấu của khóa luận, bên cạnh các phần mở đầu, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và danh mục bảng, biểu thì phần nội dung nghiên cứu
bao gồm những chương cơ bản sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2. Nhận thức của sinh viên về đồng tính.
Chương 3. Thái độ của sinh viên về đồng tính.
13
13


Chương 4. Những yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức và thái độ của sinh
viên về đồng tính.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.
Thao tác hóa khái niệm:
Trong nghiên cứu này, việc làm rõ khái niệm nhận thức và khái niệm thái
độ giúp cho người nghiên cứu hiểu chính xác và đầy đủ nội dung của hai khái
niệm này để từ đó xây dựng những chỉ báo quan trọng cho đối tượng nghiên
cứu là nhận thức và thái độ của sinh viên về đồng tính.
Khái niệm nhận thức:
Theo Từ điển Tiếng Việt, Nhận thức là kết quả của quá trình phản ánh
và tái hiện hiện thực vào trong tư duy, kết quả con người nhận biết, hiểu biết
thế giới khách quan; Nhận ra, biết được, hiểu được [10; 917].
Còn theo Từ điển xã hội học Oxford, nhận thức, ý thức (cognition,
cognitive) là quá trình của sự biết (suy nghĩ), đôi khi được dùng để phân biệt
với cảm nhận (cảm xúc) và ý chí (ý muốn) trong một cặp ba các quá trình tinh
thần của con người [11, 407].
Khái niệm thái độ:
Theo Từ điển Tiếng Việt, Thái độ được định nghĩa là tổng thể nói chung
những biểu hiện của ý nghĩ, tình cảm được thể hiện ra bên ngồi qua nét mặt,
cử chỉ, lời nói, hành động trước một đối tượng, một sự việc nào đó; cách nghĩ,
cách nhìn và cách hành động theo một hướng nào đó trước một vấn đề hay
một tình hình cụ thể [10;1170].
Theo từ điển xã hội học, định nghĩa phổ biến của Milton Rokeach mô tả
thái độ là “một tổ chức niềm tin tương đối bền bỉ xung quanh một đối tượng
hay một tình huống khiến người ta phản ứng lại theo một kiểu ưu tiên nào đó”
[11; 642].
Như vậy, có thể hiểu nhận thức của sinh viên về đồng tính là q trình
họ biết và hiểu về đồng tính để từ đó có những thái độ (ủng hộ hay phản
đối,…) đối với vấn đề này. Trong khi đó, sự hình thành của dư luận xã hội
phụ thuộc rất nhiều vào trạng thái định hình của thái độ xã hội về vấn đề mà



nó đề cập đến, chịu tác động và có cơ sở là thái độ của cá nhân [4,163].
Khái niệm đồng tính:
14
14

Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về đồng tính, tuy nhiên tác giả
đã cố gắng tìm ra những đặc điểm chung nhất trong các định nghĩa đó để vận
dụng vào đánh giá nhận thức của sinh viên về khái niệm đồng tính, mà ở
chương sẽ được nói rõ hơn. Dưới đây một số định nghĩa hay được sử dụng khi
nhắc đến đồng tính:
Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường: Người chịu sự hấp dẫn
của người cùng giới tính gọi là người đồng tính luyến ái [8; 11].
Theo Lawrence J. Hatterer, tác giả quyển Để thay đổi xu hướng tình dục
đồng giới ở nam giới, thì đồng tính luyến ái là nói đến một người trưởng
thành bị hấp dẫn về mặt giới tính đối với người cùng giới và thường mà
khơng phải nhất thiết có quan hệ tính dục với người cùng giới. Tuy nhiên định
nghĩa này còn khá mơ hồ về nhận diện người đồng tính là “người trưởng
thành” vì chưa có xác nhận chính xác về độ tuổi chủ yếu của những người
đồng tính, tức là những người đồng tính vẫn có thể có ở độ tuổi vị thành niên,
thậm chí là nhỏ hơn. Điều này cũng phủ nhận đồng tính là do bẩm sinh.
Theo ICS - Tổ chức thúc đẩy và bảo vệ Quyền LGBT Việt Nam, Đồng
tính là chỉ việc bị hấp dẫn bởi người cùng giới, đồng tính là một trong những
xu hướng tính dục [12].
1.2.
Cơ sở lý thuyết:
Thuyết tương tác ba ngôi của George Mead:
Việc nghiên cứu nhận thức và thái độ của sinh viên trong đề tài này là
tập trung tìm hiểu những kiến thức, quan điểm, mức độ quan tâm của họ đối
với người đồng tính. Tuy nhiên, tác giả muốn đi sâu khai thác thái độ, phản

ứng của sinh viên bằng cách để cho họ đánh giá các mức độ biểu hiện thái độ
của những người xung quanh người đồng tính. Điều này có thể giúp làm rõ


thái độ của sinh viên đối với những phản ứng tiêu cực của những người xung
quanh người đồng tính, đồng thời tìm hiểu được thái độ của họ trong những
tình huống đó như thế nào.
Cách nghiên cứu này dựa trên lý thuyết tương tác ba ngơi của George
Mead (1934). Ơng cho rằng, “cái tôi” là một cấu trúc xã hội nảy sinh từ kinh
nghiệm xã hội mà cá nhân đã trải qua trong mối quan hệ ba ngôi của: cá nhân
với bản thân, cá nhân với người khác và cá nhân với xã hội. Các biểu hiện của
cơ chế hành động của cá nhân (tương tác với bản thân và người khác) là việc
15
15

đặt mình vào vị trí của người khác, đóng vai người khác để hiểu và tham gia
vào các quá trình xã hội [2; 329].
Nhận thức và thái độ của một cá nhân về một vấn đề nào đó ln nằm
trong tương quan với mơi trường văn hóa xã hội, hệ thống các chuẩn mực, giá
trị tồn tại trong xã hội ấy. Vì vậy nhận thức và thái độ của sinh viên về đồng
tính cũng chịu sự tri phối rất lớn của điều kiện phát triển xã hội hiện tại, cũng
như những giá trị thước đo chuẩn mực có sẵn mà ở đây chính là những định
kiến và kỳ thị về người đồng tính.
Định kiến xã hội:
Định kiến xã hội là những quan điểm, quan niệm tiêu cực để phản ứng
lại những nhóm xã hội nhất định theo những cách nhất định. Đó là thái độ,
quan điểm hình thành dựa trên cơ sở những thông tin khuyết thiêu hoặc không
đầy đủ. Thông thường định kiến xã hội được hình thành theo cách thức: dựa
trên sự chọn lọc một số đặc điểm và phớt lờ đi một số đặc điểm khác. Định
kiến thơng thường có xu hướng dẫn đến sự phân biệt đối xử.

Kỳ thị xã hội:
Dovidio: Major & Gocker (2000) & Arboleda-Florez (2003): Kỳ thị là
một quá trình mà ở đó các cá nhân, nhóm đánh mất giá trị xã hội của bản
thân. Quá trình này diễn ra các bước như: gán nhãn cho các khuôn mẫu hành
vi, tách biệt, đánh mất vị thế xã hội và phân biệt đối xử. Sự kỳ thị được định
nghĩa là hội tụ hầu hết các yếu tố này.


Chuẩn mực xã hội:
Theo cuốn Xã hội học về dư luận xã hội của Nguyễn Quý Thanh, thì
chuẩn mực xã hội là quy tắc điều chỉnh, là thước đo hành vi của cá nhân và
nhóm mà được xã hội chia sẻ. Đó là những địi hỏi mong muốn của xã hội, là
sự cụ thể hóa các giá trị xã hội, sự cụ thể hóa ở các nhóm khác nhau thường
khơng giống nhau. Dư luận xã hội tạo ra các chuẩn mực xã hội mới và loại bỏ
những chuẩn mực lỗi thời. Như vậy, mỗi khi xuất hiện bất kỳ một hành vi nào
khác với những chuẩn mực đang có thì trong xã hội sẽ xuất hiện những ý kiến
khác nhau, căn cứ vào nhận thức của xã hội về xu thế phát triển, về tính tất
yếu của hành vi này. Nếu như xã hội cho rằng một hành vi thực sự là “lệch
lạc”, cho dù nhận định đó đúng hay sai thì hành vi này vẫn sẽ bị phản đối và
hành vi này không thể chuyển thành một hành vi “chuẩn”, do đó khơng thể
16
16

tạo ra một chuẩn mực mới. Và chuẩn mực xã hội mà dư luận xã hội căn cứ
vào đó để đưa ra đánh giá của mình tồn tại rất lâu và khơng dễ gì thay đổi
[4;68].
1.3.
Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề đồng tính:
Ở nhiều nước trên thế giới, người đồng tính được coi là người thuộc giới
tính thứ 3 và họ được xác nhận giới tính, họ có thể kết hôn, quan hệ hôn nhân

của họ được pháp luật bảo vệ như mọi cơng dân bình thường khác. Tuy nhiên,
với quan niệm truyền thống và quy định pháp luật của nước ta hiện nay,
chuyện “đồng tính” vẫn được liệt vào danh sách những vấn đề “nhạy cảm”.
Theo Khoản 2, Điều 8 Luật Hơn nhân gia đình năm 2000 quy định: "Kết hôn
là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về
điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn"; và Khoản 5 Điều 10 Luật Hơn nhân
gia đình năm 2000 cịn quy định "nghiêm cấm việc kết hôn giữa những người
cùng giới tính". Do đó, khi những cặp đồng tính tổ chức đám cưới và chung
sống với nhau như vợ chồng là vi phạm pháp luật. Năm 2002, Bộ Lao động,


Thương binh và Xã hội kêu gọi liệt kê đồng tính luyến ái trong các "tệ nạn xã
hội" cần phải bài trừ như mại dâm và ma túy.
Tháng 7 năm 2012, Bộ Tư pháp đưa ra đề xuất sửa đổi Luật Hơn nhân và
Gia đình, trong đó có thể cơng nhận hơn nhân đồng tính; việc này làm nhiều
báo chí nước ngồi cho rằng Việt Nam có khả năng trở thành nước châu Á
đầu tiên công nhận hôn nhân đồng tính. Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường
cho biết "Việc cơng nhận hay khơng cơng nhận hơn nhân đồng tính cần phải
dựa trên những nghiên cứu hết sức cơ bản, những đánh giá tác động nghiêm
túc trên rất nhiều khía cạnh xã hội và pháp lý như quyền tự do cá nhân, sự
tương thích với văn hóa, tập qn của xã hội và gia đình Việt Nam, tính nhạy
cảm, hậu quả xã hội của quy định pháp luật… Các vấn đề này đang được
nghiên cứu trong quá trình chuẩn bị dự án Luật Hơn nhân và Gia đình."
1.4.
Bối cảnh xã hội ảnh hưởng tới quan niệm về đồng tính và cộng đồng
người đồng tính.
Trong nhiều nền văn hóa trước đây quan hệ đồng tính rất phổ biến.
Trong lịch sử, đồng tính luyến ái, dưới góc độ cá nhân, từng được ca tụng
hoặc lên án vì mỗi xã hội có những chuẩn mực tình dục khác nhau. Ở những
nơi đồng tính được ủng hộ, những quan điểm đó được coi là một cách làm

17
17

cho xã hội tiến bộ. Ở những nơi đồng tính bị lên án, những hành vi cụ thể bị
coi là tội lỗi hoặc bệnh hoạn và một số hành vi đồng tính bị luật pháp trừng
trị.
Mặc dù đồng tính luyến ái đã khơng cịn bị coi là phạm pháp nhiều nơi ở
phương Tây, như Ba Lan 1932, Đan Mạch 1933, Thụy Điển 1944 và Anh
1967, cộng đồng đồng tính vẫn chưa có quyền hợp pháp cho đến giữa những
năm 70. Một bước ngoặt quan trọng là vào năm 1973, Hiệp hội Tâm thần Hoa
Kỳ đưa đồng tính luyến ái ra khỏi Danh sách các rối loạn tâm thần. Năm


1977, Quebec tại Canada đã trở thành bang đầu tiên cấm kỳ thị dựa trên thiên
hướng tình dục. Những năm 80 và 90, nhiều nước phát triển đã hợp pháp hóa
đồng tính luyến ái và cấm kỳ thị người đồng tính trong cơng việc, cư trú và
dịch vụ. Tính tới năm 2012, trong tổng số 207 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới, có 11 quốc gia đã hợp pháp hóa hơn nhân đồng tính, 21 nước chấp
nhận hình thức đăng ký sống chung. Tới năm 2012, chưa có quốc gia Châu Á
nào cơng nhận hơn nhân đồng tính hoặc đăng ký sống chung. Tại Thái Lan có
cộng đồng LGBT sơi nổi, nhưng điều này chỉ có ở ngành kinh doanh giải trí
thu lợi nhuận vốn tách biệt với nền chính trị và xã hội Thái bảo thủ. Ở những
quốc gia Hồi giáo như Indonesia đã ban hành luật cấm nghiêm khắc chống lại
người đồng tính. Quan hệ tình dục đồng tính có thể bị phạt 20 năm tù và bị
đánh roi ở Malaysia. Ở Singapore, quan hệ tình dục đồng tính nam là bất hợp
pháp tuy nhiên luật này thường không được thực thi. Năm 2003 ở Đài Loan,
một dự luật được đưa ra để công nhận hôn nhân đồng tính đã khơng đạt đủ số
phiếu để thơng qua. Ở Nhật Bản, văn hóa và những tơn giáo lớn khơng có thái
độ thù ghét những cá nhân đồng tính, nước này khơng có luật nào chống lại
đồng tính luyến ái nhưng hơn nhân đồng tính thì khơng được công nhận.

Người LGBT ở Việt Nam bao gồm những người đồng tính, lưỡng giới và
chuyển đổi giới tính ở Việt Nam. Một nghiên cứu do tổ chức phi chính phủ
CARE thực hiện ước tính Việt Nam có khoảng 50-125 ngàn người đồng tính,
chiếm khoảng 0,06 đến 0,15% dân số. Trong hội thảo “Kinh nghiệm Quốc tế
về bảo vệ quyền của LGBT trong quan hệ hơn nhân và gia đình” 21/12/2012,
Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) đã cung cấp các thông
tin và số liệu về khoảng 1.65 triệu người đồng tính, tức là khoảng 1,8% dân số
là người đồng tính.
18
18

Hiện nay, tuy khơng có luật cấm quan hệ tình dục đồng tính, nhưng luật
hơn nhân và gia đình năm 2000, Điều 10 – Những trường hợp cấm kết hơn có
cấm hơn nhân giữa những người cùng giới tính. Năm 2012, Bộ Tư pháp cho


×