Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

So sánh từ địa phương trong tiểu thuyết hồ biểu chánh và truyện nguyễn ngọc tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.28 KB, 110 trang )

Mục lục
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài

1

2. Lịch sử vấn đề

1

3. Mục đích, nhiệm vụ và đối tợng của đề tài

4

4. Phơng pháp nghiên cứu

5

5. Đóng góp của đề tài

5

6. Cấu trúc luận văn

5

Chơng 1:

Một số giới thuyết về đề tài

1.1. Sơ lợc về phơng ngữ Nam Bộ


1.1.1. Ngôn ngữ toàn dân và phơng ngữ

7

1.1.2. Khái niệm về phơng ngữ

9

1.1.3. Vài nét về phơng ngữ Nam Bộ
1.2.

10

Về từ địa phơng trong tác phẩm văn học

1.2.1. Từ ngữ trong văn học và từ địa phơng trong tác phẩm văn học

14

1.1.2. Vai trò của từ địa phơng trong tác phẩm văn học

15

1.3. Hồ Biểu Chánh và màu sắc Nam Bộ trong một số tiểu thuyết của ông
1.3.1. Vài nét về Hồ Biểu Chánh và tiểu thuyết của ông

17

1.3.2. Màu sắc Nam Bé trong ba tiĨu thut cđa Hå BiĨu Ch¸nh


19

1.4. Ngun Ngọc T và tập truyện Cánh đồng bất tận

20

Chơng 2 : Từ địa phơng NAM Bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh và truyện
Nguyễn Ngọc T
2.1. Từ địa phơng Nam Bộ trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh
2.1.1. Số lợng và tần số sử dụng từ địa phơng Nam Bộ trong tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh
2.1.2. Phân loại từ địa phơng Nam Bé trong ba tiÓu thuyÕt

25


của Hồ Biểu Chánh

26

2.1.3. Nhận xét về từ địa phơng đợc dùng trong tiểu thuyết
của Hồ Biểu Chánh

48

2.2. Từ địa phơng Nam Bộ trong tập truyện Cánh đồng bất tận
của Nguyễn Ngọc T
2.2.1. Thống kê định lợng

50


2.2.3. Nhận xét về từ địa phơng Nam Bộ trong tập truyện Cánh đồng
bất tận của Nguyễn Ngọc T

62

Chơng 3 : So sánh việc dùng từ địa phơng NAM Bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh và truyện Nguyễn Ngọc T
3.1. Những điểm tơng đồng

64

3.2. Những điểm nổi bật qua việc dùng từ địa phơng Nam Bộ
trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
3.2.1. Điểm nổi bật về ngữ âm

67

3.2.2. Điểm nổi bật về từ vựng

68

3.2.3. Điểm nổi bật về cú pháp

74

3.3. Những điểm nổi bật qua việc dùng từ địa phơng Nam Bộ
trong tập truyện Cánh ®ång bÊt tËn cđa Ngun Ngäc T
3.3.1. §iĨm nỉi bËt về ngữ âm


75

3.3.2. Điểm nổi bật về từ vựng

76

3.3.3. Điểm nổi bật về cú pháp

83
Kết LUậN

86
Tài liệu tham khảo
--------------------------Mở đầu

88


1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong mấy chục năm qua, việc nghiên cứu diện mạo và hoạt động hành
chức của các phơng ngữ tiếng Việt đà thu đợc nhiều kết quả. Tuy vậy, hớng nghiên
cứu diện mạo và vai trò của từ ngữ điạ phơng trong tác phẩm văn học cha đợc chú ý
nhiều. Trong khi dùng tiếng Việt văn học để sáng tác văn chơng, do những dụng ý
và quan niệm nhất định, khá nhiều tác giả, nhất là ở Nam Bộ vẫn dùng khá nhiều từ
ngữ địa phơng trong tác phẩm của mình. Hồ Biểu Chánh và Nguyễn Ngọc T là hai
trong số những tác giả Nam Bộ nh thế. Việc khảo sát theo hớng đối chiếu so sánh
diện mạo hình thức, đặc điểm ngữ nghĩa và vai trò của lớp từ ngữ địa phơng Nam
Bộ đợc dùng trong tác phẩm văn xuôi của họ là việc cần thiết và có ích đối với hớng nghiên cứu phơng ngữ Nam Bộ trong tác phẩm văn học nói riêng, trong giao
tiếp ngôn ngữ nói chung.
1.2. So với phơng ngữ Bắc và phơng ngữ Trung, phơng ngữ Nam Bộ là phơng

ngữ "trẻ" hơn và có tính thống nhất cao hơn giữa các địa phơng trong vùng. Mặt
khác, cũng nh tiếng Việt toàn dân, theo thời gian, nội bộ phơng ngữ Nam Bộ cũng
có những biến đổi nhất định về số lợng từ, về hình thức ngữ âm và về ngữ nghĩa. Do
đó, việc khảo sát, so sánh từ ngữ địa phơng Nam Bộ đợc dùng trong các tác phẩm
văn học của hai tác giả sống và sáng tác cách nhau gần một thế kỷ còn cho phép đề
tài, một mặt rút ra đợc sự tơng đồng và khác biệt trong cách dùng từ ngữ địa phơng
của họ, mặt khác nêu lên nhận xét về sự biến đổi của phơng ngữ này.
Mặt khác, việc nghiên cứu so sánh từ địa phơng trong tác phẩm của Hồ Biểu
Chánh và Nguyễn Ngọc T có thể góp phần làm rõ thêm một số nét về phong cách
ngôn ngữ tác giả trong việc sử dụng ngôn từ.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Các công trình nghiên cứu đặc điểm của phơng ngữ tiếng Việt, cho tới
nay cha có nhiều. Tuy vậy, qua các công trình đà công bố, các tác giả đà khái quát


đợc mối quan hệ giữa phơng ngữ và ngôn ngữ dân tộc, chỉ ra diện mạo và đặc điểm
của phơng ngữ tiếng Việt. Trong đó, đặc điểm các vùng phơng ngữ trong tiếng Việt
đà đợc phân biệt khá rõ ràng. Tuy đứng ở bình diện và mục đích nghiên cứu khác
nhau nhng các nhà nghiên cứu đà cho ta một cái nhìn tơng đối đầy đủ về vấn đề
các phơng ngữ trong tiếng Việt .
Các công trình của giáo s Hoàng Thị Châu : Tiếng Việt trên mọi miền đất nớc (phơng ngữ học) [5] và Phơng ngữ học Tiếng Việt [6] đà cung cấp một cái nhìn
bao quát về bức tranh các phơng ngữ tiếng Việt với những điểm chung lẫn điểm
riêng của các phơng ngữ đó.
2.2. Nghiên cứu phơng ngữ các vùng, gần đây đà có hàng trăm công trình
nghiên cứu, thu thập vốn từ địa phơng. Theo những tài liệu chúng tôi tham khảo đợc, có lẽ sau phơng ngữ Nghệ Tĩnh, phơng ngữ Nam Bộ là phơng ngữ đợc quan tâm
nhất . Có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu cũng nh các bài viết về phơng
ngữ Nam Bộ.
Năm 1987, cuốn Sổ tay phơng ngữ Nam Bộ của tác giả Nguyễn Văn ái [1] ra
đời. Quyển sách lần đầu đà ghi chép lại một số từ ngữ của vùng đồng bằng Nam
Bộ. Trên cơ sở đó, năm 1994 cuốn sách đợc chỉnh sửa và in thành "Từ điển phơng

ngữ Nam Bộ [16]. Với công trình này, lần đầu tiên phơng ngữ Nam Bộ đợc điều tra,
nghiên cứu, công bố kết quả dới dạng một từ điển.
Năm 2007, cuốn"Từ điển từ ngữ Nam Bộ của Huỳnh Công Tín [17] ra mắt
bạn đọc. Đây là một công trình đồ sộ, tổng hợp đợc những kết quả tơng đối toàn
diện. Những gì phản ánh trong cuốn từ điển này không đơn thuần là một danh sách
các từ ngữ địa phơng. Qua từng mục từ ngữ với cấu trúc tơng đối hợp lý và dẫn giải
ngắn gọn, tác giả đà cung cấp cho chúng ta những hiểu biết cần thiết nhất về bản
thân từ ngữ đang xét; đồng thời cuốn từ điển này đà thể hiện sắc thái văn hóa nào
đó trong lời ăn tiếng nói của c dânNam Bộ.
Trên cơ sở luận án tiến sĩ (bảo vệ năm 1993) của mình, năm 1995 tác giả


Trần Thị Ngọc Lang đà xuất bản chuyên luận Phơng ngữ Nam Bộ. Những khác biệt
về từ vựng - ngữ nghĩa so với phơng ngữ Bắc Bộ [12] . Chuyên luận này đi sâu tìm
hiểu phơng ngữ Nam Bộ trên cơ sở so sánh với phơng ngữ Bắc Bộ. Trong đó tác giả
tập trung khảo sát các tơng ứng ngữ âm, ngữ nghĩa của các lớp từ vựng phơng ngữ
Nam Bộ theo hớng chỉ ra những nét khác biệt.
2.3. Hớng nghiên cứu từ địa phơng trong tác phẩm văn học cũng đà có một
số công trình tiêu biểu) khẳng định vai trò của từ ngữ địa phơng Nam Bộ trong sáng
tác văn học ở vùng đất này:
Hoàng Dũng, Một số ý kiến về vấn đề sắc thái ngôn ngữ địa phơng và văn
bản "Lục Vân Tiên", "Dơng Từ - Hà Mậu [7]; Lê Văn Trờng, Tiếng địa phơng
Miền Nam trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu [21]; Trần Đức Hùng, Từ địa phơng
trong ca dao - dân ca Nam Bộ [8]
2.4. Về ngôn ngữ trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh và Nguyễn Ngọc T, tuy
đà có một số nhà ngôn ngữ đề cập đến nhng còn rất chung chung. Đáng chú ý là
bài viết "Ngôn ngữ Hồ Biểu Chánh - những phơng diện cần nghiên cứu"của Trần
Thị Ngọc Lang [11]. ở bài viết này, tác giả đà nêu ra một số ý kiến về ngôn ngữ
trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh và đề cập đến việc sử dụng dày đặc từ địa phơng trong tiểu thuyết của ông. Tuy vậy, nó đang ở dạng nhận định khái quát, chung
chung.

Trên Website http:// hobieuchanh.com và công trình Hồ Biểu Chánh - ngời
mở đờng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (2006) do Trần quang Sen, Phan Tấn
Tài, Nguyễn Văn Nở biên soạn, có thể tìm thấy những bài viết khá súc tích của các
nhà văn, học giả viết về Hồ Biểu Chánh nh: Ngôn ngữ tiểu thuyết Hồ biểu Chánh
(Nguyễn Vi Khanh), Vài nét về phong cách ngôn ngữ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh"
(Huỳnh Thị Lan Phơng, Nguyễn Văn Nở)...
Đối với Ngun Ngäc T, hiƯn nay míi chØ cã mét sè bài viết lẻ tẻ về một số
nội dung ngôn ngữ. Đáng chú ý là tác giả Dơng Thanh Bình với bài viết "Tìm hiểu


ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc T [3]. Tác giả đà khẳng định "Ngôn ngữ là
yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công của nhà văn Nguyễn Ngọc T" và cho rằng
đặc sắc ngôn ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc T đợc thể hiện qua ba phơng
diện: ngữ âm, từ vựng và cú pháp. Tác giả đà dành 1/3 bài viết của mình để nói về
việc dùng từ địa phơng trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc T (số từ địa phơng trong
tác phẩm của Nguyễn Ngọc T đợc tác giả thống kê sơ bộ là 200 từ).
Bên cạnh đó phải kể đến Website http //www. viet-studies.org. Trang website
do Trần Hữu Dũng thiết kế và trông nom này đà tập hợp tất cả tác phẩm của
Nguyễn Ngọc T và nhiều bài viết về Nguyễn Ngọc T [27].
Từ thực tế nghiên trên có thể thấy việc nghiên cứu về ngôn ngữ Hồ Biểu
Chánh và Nguyễn Ngọc T tuy đà đợc quan tâm nhng cha đầy đủ. Một số công
trình, bài viết mới chỉ dừng lại ở mức độ đa ra những nhận định khái quát hoặc rất
chung hoặc còn sơ lợc. Cho đến nay cha có một đề tài hay công trình nào đi vào
khảo sát so sánh việc dùng từ ngữ địa phơng Nam Bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh và trong truyện Nguyễn Ngọc T. Do vậy, chúng tôi chọn đề tài "So sánh
việc dùng từ ngữ địa phơng Nam Bộ trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh và truyện
của Nguyễn Ngọc T" làm đối tợng nghiên cứu của luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và đối tợng của đề tài
3.1. Mục đích
Chỉ ra đợc sự tơng đồng và khác biệt về diện mạo, cách dùng từ ngữ địa ph¬ng Nam Bé trong mét sè tiĨu thut cđa Hå Biểu Chánh và trong tập truyện ngắn

" Cánh đồng bất tËn" cđa Ngun Ngäc T, cịng qua ®ã ®Ĩ thÊy đợc vai trò và sự
biến đổi trong cách dùng từ ngữ địa phơng Nam Bộ trong tác phẩm văn học qua
gần một thế kỷ (từ đầu đến cuối thế kỷ XX).
3.2. Nhiệm vụ
a) Thống kê, phân loại và phân tích, miêu tả việc dùng từ ngữ địa phơng Nam


Bộ trong tác phẩm văn học của hai tác gia này ở các mặt: số lợng, ngữ nghĩa (tính
dễ hiểu), vai trò đối với tác phẩm.
b) So sánh kết quả khảo sát để rút ra sự tơng đồng trong việc dùng vốn từ ngữ
địa phơng Nam Bộ đợc dùng giữa hai tác giả
c) Nhận xét về những điểm nổi bật trong cách dùng từ ngữ địa phơng Nam
Bộ trong tác phẩm văn học của mỗi tác giả này.
3.3. Đối tợng nghiên cứu
Cả Hồ Biểu Chánh và Nguyễn Ngọc T đều có số lợng tác phẩm đồ sộ. Trong
phạm vi đề tài luận văn này, chúng tôi chọn đối tợng khảo sát nh sau:
a) Đối với tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, luận văn thống kê và khảo sát các từ
ngữ địa phơng Nam Bộ đợc tác giả dùng trong ba cuốn tiểu thuyết: 1/ Ai làm đợc
(viết năm 1912), 2/ Cay đắng mùi đời (viết năm 1932), 3/ Thầy thông ngôn (viết
năm 1926). Cả ba tiểu thuyết này đều đợc in trong sách Văn học Việt Nam thế kỷ
XX - Quyển 1, tập 3[28].
b) Đối với tác phẩm của Nguyễn Ngọc T, luận văn thống kê và khảo sát các
từ ngữ địa phơng Nam Bộ đợc tác giả dùng trong 14 truyện của tập truyện ngắn
"Cánh đồng bất tận"[29]
4. Phơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi sẽ sử dụng các phơng pháp
nghiên cứu sau:
- Phơng pháp thống kê, phân loại
- Phơng pháp phân tích, miêu tả
- Phơng pháp so sánh, đối chiếu

- Phơng pháp qui nạp
5. Đóng góp của đề tài
- Lần đầu tiên tác phẩm của Hồ Biểu Chánh và Nguyễn Ngọc T đợc đi sâu


tìm hiểu dới góc độ ngôn ngữ theo hớng so sánh trên một phơng diện cụ thể là
việc dùng từ địa phơng. Qua đó, luận văn góp phần làm rõ những nét giống nhau
và khác nhau về phong cách ngôn ngữ giữa hai tác giả này.
- Đề tài nêu lên mét sè nhËn xÐt vỊ sù chun biÕn trong c¸ch dùng từ địa
phơng Nam Bộ trong tác phẩm văn học của các tác giả trớc đây và hiện nay.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn gồm 3 chơng:
Chơng 1: Một số giới thuyết về đề tài
Chơng 2: Từ địa phơng Nam Bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh và truyện
Nguyễn Ngọc T
Chơng 3: So sánh việc dùng từ địa phơng Nam Bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh và truyện Nguyễn Ngọc T.


Chơng 1
Một số giới thuyết về đề tài
1.1. Sơ lợc về phơng ngữ Nam Bộ
1.1.1. Ngôn ngữ toàn dân và phơng ngữ
Ngôn ngữ dân tộc với t cách là phơng tiƯn giao tiÕp quan träng nhÊt gi÷a ngêi víi ngêi, bao giê cịng thèng nhÊt ®èi víi mét x· héi cơ thĨ. Khi x¸ héi cã giai
cÊp, sù giao tiÕp không thể bó hẹp vào phạm vi một giai cấp mà trớc hết là sự giao
tiếp giữa các giai cấp với nhau, cho nên ngôn ngữ không có tính giai cấp mà phục
vụ cho mọi ngời. ngôn ngữ là công cụ giao tiếp của mọi thành viên trong xà hội, từ
xà hội cổ xa (bộ lạc, bộ tộc) đến xà hội hiện đại ( dân tộc, quốc gia). Cho nên về
thực chất, ngôn ngữ có tính toàn dân trong mọi giai đoạn phát triển của nó

Ngôn ngữ đợc sử dụng hàng ngày trong mọi lĩnh vực hoạt động của con ngời. Ngôn ngữ phát triển cùng với sự phát triển cđa x· héi, tån t¹i m·i theo thêi gian
tõ x· hội này qua xà hội khác. Ngôn ngữ tồn tại theo sù tån vong cđa d©n téc.


Chính vì thế W. Humbôn đà cho rằng ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc.
Ngôn ngữ dân tộc thờng đợc hiểu là ngôn ngữ chung của cả dân tộc đó là
phạm trù lịch sử - xà hội, đợc thể hiện dới hai hình thức: nói và viết.
Ngôn ngữ dân tộc là ngôn ngữ đợc sử dụng rộng rÃi trong giao tiếp hàng
ngày, không bị hạn chế bởi phong cách và phạm vi sử dụng, ngôn ngữ đợc mọi ngời
trong qc gia biÕt, chÊp nhËn vµ sư dơng. [5; 16]
Nh đà biết, sự phát triển của ngôn ngữ gắn liền với sự phát triển của xà hội
loài ngời. Quá trình hình thành dân tộc đa đến sự hình thành một ngôn ngữ dân tộc
thống nhất. Mỗi ngôn ngữ dân tộc đều có sự thống nhất bên trong của mình. Tuy
nhiên, sự thống nhất của ngôn ngữ dân tộc không bắt buộc phải có sự giống nhau
của tất cả các biểu hiện ngôn ngữ trong thực tế. Tính thống nhất của ngôn ngữ dân
tộc đợc thừa nhận nh là một thuộc tính bản chất. Đồng thời, tình trạng tồn tại trong
lòng ngôn ngữ dân tộc những phơng ngữ địa lí và phơng ngữ xà hội là một sự thực
hiển nhiên. Chúng ta có thể quan sát đợc trong tiếng Việt hiện thực đó. Nói cách
khác, giữa ngôn ngữ dân tộc và các phơng ngữ trong lòng nó có sự thống nhất trong
sự đa dạng; giữa các phơng ngữ va ngôn ngữ dân tộc chứa đựng chúng có quan hệ
đa dạng trên một căn bản thống nhất.
Cùng với sự biến đổi của xà hội, ngôn ngữ không ngừng biến đổ do nhiều
nguyên nhân. Quan sát biểu hiện của ngôn ngữ trên từng khu vực địa lý, ngời ta
thấy sự khác nhau của các ngôn ngữ rõ ràng không phải là do nguyên nhân địa lý.
Nguyên nhân sâu xa là do sự phát triển, biến đổi bên trong của chính ngôn ngữ.
Điều kiện địa lý chỉ là nhân tố khách quan bên ngoài, nó làm cho các khác biệt của
ngôn ngữ đợc giữ lại và thể hiện ra. Nếu không có sự phân bố tách biệt nhau về địa
lý thì không có phơng ngữ, nhng đó chỉ là điều kiện để thay đổi ngôn ngữ đợc thể
hiện phổ biến trong vùng. Nhân tố thời gian không cụ thể bằng nhân tố không gian.
Nhng chính do nhân tố thời gian mà có sự phân hoá ngôn ngữ.

Tuy thế, sự khác nhau giữa các phơng ngữ dù lớn đến đâu cũng chỉ là sự


khác biệt không đáng kể so với ngôn ngữ toàn dân. Về cơ bản, các phơng ngữ trên
giống nhau về hƯ thèng cÊu tróc: chóng vÉn dïng chung mét m· (code) ngôn ngữ
thống nhất; hệ thống qui tắc ngữ pháp, phơng thức cấu tạo từ, hệ thống âm vị của
ngôn ngữ dân tộc và các phơng ngữ là giống nhau.
Đa số các ngôn ngữ dân tộc đều có phơng ngữ. Tuỳ thuộc điều kiện địa lý xà hội, só phơng ngữ trong mỗi ngôn ngữ dân tộc nhiều ít khác nhau. Các phơng
ngữ đó tạo thành hệ thống, có quan hệ gắn bó với ngôn ngữ toàn dân và là một biểu
hiện của tính phong phú đa dạng của ngôn ngữ toàn dân.
Nh vậy phơng ngữ là biến thể địa phơng của ngôn ngữ toàn dân ở một địa
phơng cụ thể. Phơng ngữ có các đặc điểm:
- Phơng ngữ là biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân trong quá trình phát triển,
biến đổi theo quy luật của ngôn ngữ.
- Phơng ngữ là nơi thể hiện kết quả của sự biến đổi về ngữ âm, từ vng- ngữ
nghĩa, ngữ pháp của ngôn ngữ.
- Phơng ngữ là một hệ thống biến thể của ngôn ngữ toàn dân bị hạn chế về
phạm vi sử dụng.
- Phơng ngữ là một hiện tợng lịch sử, nó ra đời nh một tất yếu do sự
phát triển, biến đổi của ngôn ngữ xà hội. Do đó với xu thế thống nhất ngôn ngữ
ngày càng cao, phạm vi sử dụng của phơng ngữ ngày càng bị thu hẹp. Về mặt lý
thuyết, nó sẽ mất đi trong tơng lai của một ngôn ngữ dân tộc thống nhất và đợc tiêu
chuẩn hoá cao.
Nh vậy, nói tới phơng ngữ là nói tới một hiện tợng phức tạp của ngôn ngữ
không chỉ về mặt hệ thống cấu trúc, cấu tạo cũng nh phơng diện thể hiện mà bản
thân nó còn là sự phản ánh của nhièu mối quan hệ trong và ngoài ngôn ngữ. Nh đÃ
trình bày, tiếng nói của một cộng đồng ngôn ngữ thờng là một thể thống nhất nhng
đa dạng. Trong cái chung giống nhau vẫn có những sai biệt giữa các địa phơng.
Những khác biệt địa phơng có thể là về cách phát âm, về lối dùng từ ngữ và có thể



cả về mặt ngữ pháp nữa. Điều đó có nghĩa là ở mỗi địa phơng, tiếng nói có những
nét chung với nhau và mỗi địa phơng nh vậy đà hình thành một phơng ngữ.
Hơn nữa, do phơng ngữ là một hiện tợng rất phức tạp nên nó nằm trong mỗi
quan hệ chằng chéo trong và ngoài ngôn ngữ và bản thân nó là kết quả của sự phát
triển và biến đổi ngôn ngữ nên nó có quan hệ với dân tộc. Đồng thời,do phơng ngữ
có quan hệ gắn bó với cộng đồng ngời của một vùng địa phơng nhất định nên nó
liên quan đến sự hình thành và phát triển của lịch sử, văn hóa ở vùng địa phơng đó.
Bên cạnh đó, do phơng ngữ có quan hệ với ngôn ngữ dân tộc nên phơng ngữ cũng
liên quan đến sự hình thành và phát triển của lịch sử văn hóa dân tộc.
1.1.2. Khái niệm về phơng ngữ
Nh chúng ta đà thấy, phơng ngữ là một hiện tợng phức tạp nằm trong nhiều
mỗi quan hệ chằng chéo trong và ngoài ngôn ngữ. Phơng ngữ là đối tợng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học liên quan.
Theo tác giả Hoàng Thị Châu, Phơng ngữ là một thuật ngữ ngôn ngữ học để
chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phơng cụ thể với những nét khác
biệt của nó với ngôn ngữ toàn dân hay với một phơng ngữ khác. [5; 24]
Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Vơng Toàn nhấn mạnh đến tính hệ thống
của phơng ngữ: Phơng ngữ là hình thức ngôn ngữ có hệ thống từ vựng, ngữ pháp
và ngữ âm riêng biệt đợc sử dụng ở một phạm vi lÃnh thổ hay xà hội hẹp hơn là
ngôn ngữ. Là một hệ thống ký hiệu và quy tắc kết hợp có nguồn gốc chung với hệ
thống khác đợc coi là ngôn ngữ (cho toàn dân tộc) các phơng ngữ có ngời gọi là
tiếng địa phơng, phơng ngôn) khác nhau trớc hết là cách phát âm, sau đó là vốn từ
vững [13; 275]
Theo Nguyễn Nhà Bản, Nguyễn Hoài Nguyên, Hoàng Trọng Canh thì Phơng ngữ không phải là ngôn ngữ riêng, nó là biến dạng của ngôn ngữ văn hóa ở một
địa phơng cụ thể mà có hai sự đối lập: đối lập với ngôn ngữ văn hóa và với các phơng ngữ khác về ngữ âm, từ vững, ngữ pháp (trong đó đối lập nét khác biệt rõ nhÊt


là ngữ âm). [2; 14]
Tuy các tác giả phát biểu kh«ng gièng nhau song chóng ta cã thĨ rót ra điểm

thống nhất căn bản trong cách hiểu của họ về phơng ngữ: Phơng ngữ là một hệ
thống biến thể của ngôn ngữ toàn dân trên một vùng địa phơng, có sự khác biệt ít
nhiều về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp so với ngôn ngữ toàn dân. Nói cách khác, phơng ngữ là sự thể hiện của ngôn ngữ dân tộc trên một vùng địa lý dân c nào đó (nh
một vài tỉnh) có sự khác biệt so với ngôn ngữ toàn dân.
Những điều vừa nói tới là thuộc về vấn đề phơng ngữ địa lý. Nói tới phơng
ngữ còn phải nhắc đến phơng ngữ xà hội. Phơng ngữ xà hội thờng đợc xem là sự
thể hiện của ngôn ngữ dân tộc trên một lớp ngời sử dụng nào đó và có sự khác biệt
so với ngôn ngữ toàn dân.
1.1.3. Vài nét về phơng ngữ Nam Bộ
Tính thống nhất của tiếng Việt rất cao, nhất là chữ viết. Nhng tiếng Việt
không nằm ngoài quy luật chung của mọi ngôn ngữ trên thế giới, nghĩa là nó vẫn
có những khác biệt giữa các địa phơng về phát âm, về từ ngữ và ít nhiều về ngữ
pháp. Do lÃnh thổ phát triển theo chiều dài, lại hình thành trong một quá trình tiệm
tiến trải qua nhiều thế kỷ nh vết dầu loang, cho nên về mặt ngôn ngữ, các biến thể
nh những con sóng mạnh yếu khác nhau, sức lan tỏa khác nhau, theo thêi gian
chóng cø chång xÕp lªn nhau. Cïng với các đợt di dân trong lịch sử cứ từng chặng
xuôi vào Nam trong điều kiện địa lý, hoàn cảnh lịch sử, yếu tố thời gian, sự giao lu
ngôn ngữ khác nhau nên từ đó hình thành các phơng ngữ khác nhau trong lòng
tiếng Việt. Phơng ngữ Nam Bộ là một bộ phận trong dòng chảy phát triểncủa ngôn
ngữ dân tộc Việt
Theo giải nghĩa của Từ điển Tiếng Việt [14], phơng ngữ là biến thể địa phơng
hoặc biến thể xà hội của ngôn ngữ. Nh vậy, có thể nói phơng ngữ Nam Bộ là một
biến thể địa lý của ngôn ngữ toàn dân; hay nói cách khác, phơng ngữ Nam Bộ là
những biểu hiện khác biệt của ngôn ngữ tiếng Việt trên vùng địa lý c dân Nam Bộ


đợc ngời Nam Bộ quen dùng, là lời ăn tiếng nói tự nhiên hằng ngày của ngời dân
Nam Bộ.
Lịch sử phát triển vùng đất phơng Nam của tổ quốc cũng ®i liỊn víi lÞch sư
cđa nhiỊu cc chiÕn tranh chia cắt có tính chất dai dẳng, quyết liệt, và chính

những cuộc chiến tranh này đà chia cắt hẳn sự tiếp xúc giữa các vùng miền. Đó là
cuộc chiến tranh giữa hai họ Trịnh - Nguyễn (Đàng ngoài - Đàng trong), sự chia
cắt kéo dài trong suốt hơn hai thế kỷ (từ khi Nguyễn Hoàng đợc lệnh vào Nam mùa
đông năm 1558 đến ngày Nguyễn ánh lấy lại Phú Xuân, thống nhất đất nớc 1802).
Sau đó, từ 1858, thực dân Pháp đà chia cắt nớc ta thành 3 miền để trị: B¾c kú Trung kú - Nam kú. Ba miỊn víi những thế chế hành chính và những luật lệ khác
nhau đà góp phần tạo thêm sự khác biệt nhiều mặt, trong đó có ngôn ngữ giữa các
miền. Sau năm 1954, đất nớc lại bị chia làm hai và nhân dân cả nớc lại phải tiếp tục
cuộc kháng chiến Chống Mỹ cho đến ngày thống nhất đất nớc 1975. Do đó, có thể
xem sự phân chia lÃnh thổ chính trị - hành chính do lịch sử để lại là nhân tố quan
trọng, sau nhân tố sự biến đổi bên trong của ngôn ngữ làm hình thành nên phơng
ngữ Nam Bộ. Bên cạnh đó, sự chia cắt tự nhiên về mặt địa lý làm cho sự giao lu tiếp
xúc giữa các vùng gặp khó khăn càng củng cố thêm sự khác biệt ngôn ngữ giữa các
vùng.
Phơng ngữ Nam Bộ đợc hình thành và phát triển cùng với tiến trình phát triển
lịch sử 300 năm của vùng đất mới Nam Bộ. Bắt đầu từ thế kỷ XVII, cùng lúc với
những đoàn ngời Việt đầu tiên vào định c khai khẩn vùng đất niềm Đông Nam Bộ,
rồi sau đó phát triển mạnh xuống Miền Tây. Họ vào đồng bằng này thoạt đầu với
nhiều giọng nói khác nhau của nhiều địa phơng trong cả nớc, rồi quần tụ nhau lại,
hợp tác với nhau trong lao động sản xuất và giao lu tình cảm . Do đó, tiếng nói của
nhiều địa phơng quê hơng trớc đây mà họ mang theo dần dần đợc hòa đồng thống
nhất do sự điều chỉnh tự nhiên của việc tiếp xúc thờng xuyên và mạnh mẽ trong
cộng đồng dân c ở đây. Từ đó, tiếng Vịêt ở đồng bằng Nam Bộ cïng víi cuéc sèng


của ngời dân nơi đây đà không ngừng phát triển, biến đổi thành sắc thái riêng nh
hiện nay và khác biệt với ngôn ngữ toàn dân và các phơng ngữ khác.
Phơng ngữ Nam Bộ đợc hình thành trên một vùng ®Êt kh¸ réng lín. cã sù
giao lu rÊt ®Ëm nÐt với các phơng ngữ khác trong khu vực, nh phơng ngữ của đồng
bào Khơme, đồng bào Chăm, đồng bào Hoa và một số tiếng nói khác. Điều đó đÃ
làm nên một diện mạo và bản sắc riêng không thể nhầm lẫn của phơng ngữ Nam

Bộ. Đồng thời, đặc điểm chung của phơng ngữ là một trạng thái ngôn ngữ toàn dân
bị chia cắt do hoàn cảnh lịch sử để lại, làm biến dạng đi ít nhiều, tạo ra một số nét
riêng biệt. Đó là tiếng nói sinh động của nhân dân lao động, đợc sử dụng chủ yếu
trong khuôn khổ một vùng địa phơng nhất định. Cho nên, phơng ngữ Nam Bộ cũng
nh các phơng ngữ khác của tiếng Việt không tránh khỏi có những phát triển biến
đổi riêng biệt trong nội bộ hệ thống phơng ngữ, gắn liền với đặc điểm xà hội và tâm
lý con ngời, thói quen sử dụng của ngời địa phơng. Trải qua thời gian sử dụng, phơng ngữ Nam Bộ đà tự khẳng định bản sắc riêng của mình bằng con đờng khẩu ngữ
, bằng những sáng tạo nghệ thuật dân gian trong đó có ca dao dân ca.
Sự phát triển tự nhiên - tự do của phơng ngữ Nam Bộ đợc thể hiện qua một số
hiện tợng cha định âm (phát âm cha chuẩn) và cha định hình (cách viết chính tả cha
ổn định nhất quán). Ví dụ: Ngời dân Nam Bộ thờng cã thãi quen sư dơng 5 dÊu
thanh (thanh ng· vµ thanh hỏi trùng làm một); thờng nói sai phụ âm đầu (v-d, h-g);
có sự biến đổi trong phát âm ( i- iê, ng - n); hay nói gộp âm trong một số từ xng hô
(bả, chả, ảnh, chỉ, ổng); trong từ chỉ địa điểm (ngoải, trỏng, trển); hay dùng từ cổ
(bể, bợ, bông, heo); thích dùng yếu tố phụ để tạo từ có sắc thái (dơ hầy, nhọn lểu,
rẻ rề, vàng ngoách, đỏ hóet); thích mợn từ ngữ của ngôn ngữ khác (nh: chạp phô,
tàu hủ, khổ qua, bao tử, hột xoàn, hên xui, cần xé, cù lao, )
Phơng ngữ Nam Bộ không chỉ đợc sử dụng trong cuộc sống hàng ngày của
ngời dân nơi đây mà nó còn đợc phát triển mạnh mẽ trong địa hạt văn hóa thông
qua văn học. Nền văn học Nam Bộ và đội ngũ những nhà thơ, nhà văn ở đây đà nối


tiếp nhau phát triển liên tục và mạnh mẽ qua các thời kỳ lịch sử, nhất là nền văn
học cận đại và hiện đại của Việt Nam. Bằng con đờng sáng tác, những nhà thơ, nhà
văn của địa phơng này đà dày công khai thác và sử dụng vốn từ ngữ bình dân của
phơng ngữ Nam Bộ vào trong lĩnh vực văn hóa nh một phong cách hay một thị hiếu
thẩm mỹ về ngôn ngữ, làm cho sự khác biệt của phơng ngữ này nh càng đợc củng
cố, khắc sâu. Ngoài ra, những hình thức văn học dân gian nh: ca dao, hò, vè, lý , cải
lơng phát triển rất phong phú ở vùng đồng bằng Nam Bộ cũng là điều kiện tốt giúp
cho việc phổ biến lời ăn tiếng nói của địa phơng mình.

Nhận diện đợc các đặc điểm của phơng ngữ sẽ giúp chúng ta có thể hiểu một
cách thực tế sinh động sự phong phú của tiếng nói toàn dân. Việc nhận diện phơng
ngữ Nam Bộ cũng nh các phơng ngữ khác sẽ giúp chúng ta có thể hiểu thêm về một
khía cạnh dùng từ của ngời dân nơi đây và sự đóng góp của phơng ngữ Nam Bộ vào
trong ngôn ngữ toàn dân. Có thể khái quát sơ lợc những nét chính cuộc sống và thói
quen nói năng của ngời Nam Bộ nh sau.
Trên mảnh đất Nam Bộ, chúng ta có thể nhìn thấy những căn nhµ vµ cÊu tróc
lµng xãm cịng gièng nh con ngêi Nam Bộ; thoải mái, ít bị ràng buộc mà ta gọi là
phóng khoáng. Ngời Nam Bộ bộc trực, thích bông đùa, hài hớc. Chính phơng ngữ
nơi đây đà phản ánh khá trung thực các nét tính cách đó. Từ ngữ đợc dùng thờng rất
linh hoạt và ngắn gọn. Chẳng hạn, những cách nói nh: ông ấy, anh ấy, chị ấy, bà ấy
đợc dùng quen thuộc trong ngôn ngữ toàn dân nhng lại ít đợc ngời dân nơi đây sử
dụng; ngợc lại họ lại tạo ra cách gọi - gộp: ổng, ảnh, chỉ, bả, nhng không nói là củ,
ẻm (cụ ấy, em ấy) cả bởi phơng ngữ Nam Bộ ra đời là do tiện dụng và không phải
phụ thuộc vào một nguyên tắc nào. Tuy nhiên, phơng ngữ Nam Bộ cũng nh các phơng ngữ khác là ngôn ngữ nói phát sinh từ hoàn cảnh cuộc sống xà hội địa phơng
cho nên nó khá gần gũi với tiếng lóng.
Từ khi hình thành và khai phá để lập nên mảnh đất mới này, Nam Bộ từng là
nơi tiếp nhận và chung sống với cộng đồng ngời Hoa và ngời Khơmer. Cho nên


trong phơng ngữ Nam Bộ cũng có một số tiếng lai, ví dụ: dzách, rầu, mắc, xiêm la,
mình ên, cà tha, lì xì, xí muội, thò lò,; một số địa danh đợc gọi tên có yếu tố của
ngôn ngữ tiếp xúc nh: Sa Đéc, Sóc Trăng, BÃi Xấu, Chắc Cà Đao
Phơng ngữ Nam Bộ bắt nguồn từ nếp sống, cách suy nghÜ vµ nãi r»ng cđa ngêi Nam Bé, cịng nh sự bộc trực, thăng thắn, ít thích văn chơng rào đón. Ngôn ngữ
Nam Bộ thờng cụ thể, ngắn gọn, nóng bỏng, huỵch toẹt, ít diễn tả những trạnh thái
tâm t, nhất là những nội dung sâu kín tế nhị, mà thờng thể hiện hành vi, tính cách,
hành động của con ngời bộc trực nhng rất giàu hình tợng và thích ngoa dụ với mục
đích làm vui. kiểu nói không lÉn víi vïng kh¸c. VÝ dơ: bi dai bi lín, bi nhiều, bi
tuổi, đép thật ớn, xấu thấy sợ, say quắc cần câu, lời thối thây..
Nh vậy, phơng ngữ Nam Bộ đợc sử dụng trong một vùng địa phơng rộng lớn

với một phần ba số dân cả nớc. Có một trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ
thuật và chính trị nổi bật, đóng vai trò chi phối mọi mặt sinh hoạt của toàn vùng
Nam Bộ, đó là thành phố Sài Gòn, nay là Thành phố Hồ Chí Minh. Với thời gian
hình thành phơng ngữ tơng đối mới, ở một vùng đồng bằng thẳng tắp với nhiều đờng giao thông thủy bộ thông suốt, nền kinh tế phát triển nhanh chóng, việc giao lu
trao đổi hàng hóa mở rộng thờng xuyên và đều khắp .. đà tạo ra tính thống nhất cho
phơng ngữ Nam Bộ rất cao về các mặt phát âm, từ ngữ cũng nh phong cách. Tính
thống nhất cao về mặt tiếng nói đó cũng là một khía cạnh biểu hiện sự gắn bó tâm
lý, tình cảm, tập quán, phơng thức sinh hoạt của cộng đồng dân c ở đây.
1.2. Việc dùng từ địa phơng trong tác phẩm văn học
1.2.1. Từ ngữ trong văn học và từ địa phơng trong tác phẩm văn học
Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Trong tay ngời sáng tạo, ngôn ngữ trở thành
một công cụ kỳ diệu tạo nên những tác phẩm mang hơi thở của cuộc sống, lay động
trái tim, khối óc của muôn ngời. Ngôn ngữ khi đợc sử dụng trong tác phẩm văn học
không còn là một loại phơng tiện giao tiếp thông thờng mà trở thành công cụ giao
tiếp sáng tác đà đợc tác giả gọt giịa, chän läc c«ng phu.


Thông thờng xét trên bình diện chuẩn ngôn ngữ, nếu chỉ nhằm mục đích thông báo
nội dung mà không nhằm mục đích nghệ thuật thì ngôn ngữ toàn dân sẽ đợc sử
dụng. Tuy nhiên trong tác phẩm nghệ thuật, ngời ta có thể dùng ngôn ngữ toàn dân
để thông báo cũng có thể dùng những từ ngữ mang sắc thái địa phơng để cho tác
phẩm của mình có tính sáng tạo phong phú và giàu sắc thái biểu cảm.
Bên cạnh đó, do thói quen sử dụng từ địa phơng, không ít tác giả khi sáng tạo
văn chơng đà sử dụng những ngôn ngữ thân thuộc của mình. Vì vậy, tuy tác phẩm
văn học là một thể loại mang tính nghệ thuật cao nh ng trong đó từ địa phơng vẫn
đợc sử dụng từ địa phơng nh một tất yếu.
Việc khảo sát từ địa phơng trong tác phẩm văn học là cần thiết, không chỉ
nhằm mục đích nhận thức về đặc điểm từ địa phơng trong hệ thống vốn từ mà còn
để thấy vai trò, chức năng thi ca hay còn gọi là chức năng sáng tác văn học của lớp
từ này.

Nhìn chung, trong các tác phẩm văn học Nam Bộ, số từ địa phơng đợc tác giả
dùng rất dày đặc đà tạo nên sắc thái địa phơng rõ nét, thể hiện đợc tình cảm quê hơng thân thiết trong sáng tác của mình. Những tác phẩm này mang dấu ấn nhà văn
khá rõ. Hồ Biểu Chánh và Nguyễn Ngọc T, là những tác giả đà sử dụng từ địa phơng làm cho tác phẩm của họ mang hơi thở mộc mạc, chân chất của cuộc sống.
Tìm hiểu từ địa phơng trong sáng tác của Hồ Biểu Chánh và Nguyễn Ngọc T
là để thấy đợc vai trò của từ địa phơng trong hành chức, một dạng hành chức ít
nhiều mang tính đặc trng riêng (ở đây phần lớn từ địa phơng đảm trách chức nghệ
thuật), và cũng qua đó hiểu thêm khía cạnh, tâm hồn tình cảm và ứng xử của những
ngời Nam Bộ.
1.2.2. Vai trò từ địa phơng trong tác phẩm văn học
Sử dụng từ địa phơng trong sáng tác văn học có vai trò trớc hết đó là về hình
thức, nó tạo nên sự bình dị, tự nhiên hơn. Bên cạnh đó nó còn có vai trò thể hiện với
nghệ thuật. Tác phẩm văn học là một công trình nghƯ tht, viƯc sư dơng ch©n thùc,


sinh động những từ phơng ngữ và sáng tác của mình góp phần thể hiện rõ những
bức tranh xà hội, những lời ăn tiếng nói với cách ứng xử, giao tiếp của con ngời nói
chung và ngời dân Nam Bộ nói riêng: Thông qua những phơng ngữ mà tác giả sử
dụng chúng ta có thể bắt gặp đủ loại nhân vật, nhìn thấy đủ mọi quang cảnh, tập
tục, lề thói, cũng nh sự sinh hoạt từ thành thị đến thôn quê. Chính vì vậy những phơng ngữ đợc sử dụng và tác phẩm văn học là nguồn tài liệu quý hóa, rất cần thiết
cho những ai muốn tìm hình ảnh xà hội trớc đây.
Giữa từ địa phơng với từ toàn dân có thể có sự tơng đồng về nghĩa nhng
chúng thờng phân biệt nhau về sắc thái biểu cảm nhất định. Ngoài lý do quen thuộc
đây là một nguyên nhân khiến cho tác giả phải lựa chọn từ để diễn tả đợc một cách
tinh tế các trạng thái tâm hồn tình cảm của con ngời nơi đây, rút ngắn khoảng cách
trong giao tiếp giữa nhà văn và ngời đọc. Cho nên cái tinh tế, cái hay của từ ngữ ở
đây trớc hết là nó phù hợp với nhân dân Nam Bộ.
Ví dụ: Từ mắc trong phơng ngữ Nam Bộ là tính từ, nghĩa tơng đơng nh từ đắt toàn
dân, thế nhng từ đắt chỉ kết hợp hạn chế (giá cao hơn mức trung bình), mắc ngoài
nghĩa tơng ứng nh vậy còn đợc dùng với nghĩa khác nữa, đó là chỉ sự xấu hổ nh
mắc cỡ.

Bên cạnh đó trong tác phẩm văn học nếu sử dụng từ địa phơng quá nhiều sẽ
làm cho văn phong thiếu trong sáng và gây nên khó hiểu đối với độc giả cả nớc.
Chẳng hạn từ vớ, nếu không đối chiếu với Từ điển phơng ngữ Nam Bộ thì
khó ai có thể hiểu đợc đó là bÝt tÊt, hay tõ hèi cã nghÜa lµ thóc dơc thì cũng rất khó
hiểu.
Xét về phong cách giao tiếp hội thoại thì đại bộ phận từ địa phơng đợc các
tác giả thể hiện trong tác phẩm của mình đều thể hiện phong cách riêng không ai
giống ai: nhẹ nhàng, giản dị, rất gần với cuộc sống, phong tục của con ngời nơi đây
và rất gần với ngôn ngữ bình dân. Chính vì vậy mà ngời đọc tìm thấy đợc sự quen
thc gÇn gịi .


1.3. Hồ Biểu Chánh và màu sắc Nam Bộ trong một số
tiểu thuyết của ông
1.3.1. Vài nét về Hồ Biểu Chánh và tiểu thuyết của ông
Hồ Biểu Chánh tên thật là Hồ Văn Trung, tự là Biểu Chánh, hiệu là Thứ
Tiên. Ông sinh ngày 1. 10. 1885 tại làng Bình Thành, Gò Công (nay là Tiền Giang).
Hồ Biểu Chánh là con thứ năm trong một gia đình gồm 12 anh chị em. Sinh trởng
trong một gia đình nghèo, thuở nhỏ Hồ Biểu Chánh chịu nhiều vất vả, thiếu thốn.
Năm lên chín tuổi, ông bắt đầu đi học chữ Nho tại trờng làng. Sau khi thi đậu
thành chung (1905), Hồ Biểu Chánh có ý định xin đi dạy học, nhng nhờ thầy giáo
cũ khuyên ông nên thi vào ngạch kí lục để sau đợc lên chức huyện, phủ. Năm 1906,
ông thi đậu Kí lục Soái phủ Nam Kỳ và về làm việc tại dinh thợng th ở Sài Gòn.
Ngày 4/8/1941, Hồ Biểu Chánh đợc cử làm nghị viên Hội đồng liên bang Đông Dơng. Từ năm 1942 1944, ông là ủy viên Hội đồng quản trị Sài Gòn Chợ Lớn.
Năm 1946, sau khi thủ tớng Nguyễn Văn Thinh tự tử vì chính phủ của ông gặp
nhiều thử thách, Hồ Biểu Chánh già từ chính trờng, về ở ẩn tại Gò Công. Kể từ đó
ông hớng đến cuộc sống an nhàn và dành trọn thời gian cho công việc sáng tác.
Ngày 4/11/1958, Hồ Biểu Chánh qua đời tại nhà riêng ở Phú Nhuận, hởng thọ 74
tuổi, an táng tại xà Thông Tây Hội, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định (nay lµ qn Phó
Nhn, thµnh phè Hå ChÝ Minh).

Trong tËp ký ức Đời của tôi về văn nghệ, Hồ Biểu Chánh cho biết vào năm
1907, một số nhà nho ở Nam Kỳ đề xớng việc đa Quan Công về Tàu và mời
Thích Ca về ấn Độ, gây thành phong trào quốc gia phục hng, làm sôi nổi d luận ở
Nam Kỳ. Hồ Biểu Chánh đà chọn những truyện hay trong Tình sử, Kim cổ kỳ
quan, Kim cổ kỳ văn đem dịch ra quốc văn. Ngoài ra Hồ Biểu Chánh cũng tập làm
thơ quốc ngữ với các nhà nho trong phong trào Duy tân diệt tục. Năm 1909, Hồ
Biểu Chánh viết truyện dài đầu tay là U tình lục bằng thể lục bát, gồm 1790 câu và
4 bài thơ đờng luật thất ngôn bát cú. U tình lục là một tác phẩm chịu ảnh hởng của


Đoạn trờng tân thanh. Điểm mới của tác phẩm này là tuy nhằm chủ đích luân lý
nhng tác giả vẫn để cho hai nhân vật chính Tấn Nhơn và Cúc Hơng đợc tự do luyến
ái và có nhiều hành động táo bạo vợt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo phong kiến. Có thể
nói, U tình lục là tác phẩm đánh dấu giai đoạn quá độ từ các truyện thơ Nôm sang
tiểu thuyết mới. Tiếp đó, Hồ Biểu Chánh đợc đọc Truyện thầy Lazarô Phiền,
Hoàng Tố Anh hàm oan và Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân. Ba tác phẩm này
đà ảnh hởng đến hớng sáng tác của ông. Nhất lµ Hoµng Tè anh hµm oan, mét tiĨu
thut víi cèt truyện li kỳ, tác giả theo thuyết nhân quả mà cho ngời tốt đợc hạnh
phúc, kẻ xấu bị trừng phạt. Hồ Biểu Chánh quyết định viết tiểu thuyết theo đờng lối
ấy để cảm hoá quần chúng mà đa họ trở lại con đờng chính trực. Năm 1912, Hồ
Biểu Chánh đổi xuống làm việc ở Cà Mau, ở đây ông đà viết cuốn tiểu thuyết đầu
tiên là Ai làm đợc. Từ ®ã cho ®Õn khi qua ®êi, Hå BiĨu Ch¸nh ®Ĩ lại một khối lợng
sáng tác không nhỏ. Sự nghiệp sáng tác của ông gồm 64 cuốn tiểu thuyết, 12 tập
truyện ngắn và truyện kể, 12 vở hài kịch và ca kịch, 5 tập thơ và truyện thơ, 8 tập
kí, 28 tập khảo cứu và phê bình. Ngoài ra còn các bài diễn thuyết và các tác phẩm
dịch.
Tác phẩm của Hồ Biểu Chánh có nhiều thể loại. Thế nhng, trớc đây cũng nh
hiện nay, ngời ta thờng chỉ nhớ đến ông với t cách là một nhà viết tiểu thuyết. ông
là cây bút tiêủ thuyết sáng giá bậc nhất Việt Nam ở giai đoạn văn học 1913-1932.
Từ năm 1932 về sau nhất là từ năm 1945, trớc sự xuất hiện của nhiều nhà văn trẻ

trung, mới mẻ, tài hoa, vai trò văn học của ông có lu mờ đi. Chính vì vậy chúng tôi
đà lựa chọn khảo sát 3 tiểu thuyết tiêu biểu cho thời kỳ hoàng kim của ông, đó là:
Ai làm đợc (1912), Cay đắng mùi đời(1923), Thầy thông ngôn(1926).
Ai làm đợc là cuốn tiểu thuyết gồm 6 chơng. Đây là cuốn tiểu thuyết bằng
văn xuôi đầu tiên của Hồ Biểu Chánh, viết năm 1912. Các việc trong chuyện xảy ra
mạch lạc và dẫn đến kết cục một cách tự nhiên. Với Ai làm đợc, ngoài mục đích
luân lý (lòng thơng ngời của Khiếu Nhàn, chí tự lập của Chí Đại, long trinh bạch


của Băng Tâm, sự cải hoá của Trờng Khanh) tác giả còn muốn trình bày cái uy
quyền tuyệt đối của ngời cha (ông Phủ) đối với con (Bạch Tuyết), nhất là trong việc
hôn nhân và đặt vấn đề tự do luyến ái. ở vào thời mà việc cới gả hoàn toàn do cha
mẹ định đoạt, con cái không có quyền lựa chọn ngời bạn đời của mình thì để chống
lại sự độc đoán của cha mẹ kẻ làm con không có cách nào khác ngoài việc tự tử
hoặc bỏ nhà ra đi. Bạch Tuyết đà bỏ theo Chí Đại và sự tiền dâm hậu thú xảy ra.
Theo luân lý nho giáo, nàng là ngời con bất hiếu. Tuy nhiên hành động của nàng có
lý do để biện minh: Bạch Tuyết phải trốn theo Chí Đại vì bà phủ Hai đà đẩy nàng
vào cái thế chẳng đặng đừng và nàng cần phải sống để tìm cách báo thù cho mẹ.
Dẫu vậy, sau khi tội ác đợc đa ra ánh sáng, nàng đà toan tự sát để khỏi hổ thẹn là
gái bất hiếu, bất trinh. Nhờ thế nàng đà chiếm đợc trọn vẹn cảm tình của độc giả và
đó cũng là một chủ ý luân lý khác nữa của tác phẩm. Về phơng diện hình thức, đây
là tác phẩm có văn phong bình dị sáng sủa và giàu sắc thái địa phơng.
Tiểu thuyết Cay đắng mùi đời (1923) là một tiểu thuyết dài đợc chia làm hai
tập. Đây là tiểu thuyết mô phỏng tiểu thuyết Không gia đình của Hector Malot
(Pháp). Đọc Cay đắng mùi đời , ngời ta hiểu rõ nhân tình thế cố, thơng xót cho
cuộc đời vất vởng, cơ cực của những đứa con hoang. Nhng, vì là một truyện mô
phỏng, cái giá trị của Cay đắng mùi đời là ở chỗ Hồ Biểu Chánh đà biết dựa vào cốt
truyện của tiểu thuyết Pháp mà viết nên một tác phẩm hợp với nếp sinh hoạt của xÃ
hội Việt Nam và diễn tả đúng tâm lý ngời mình.
Tiểu thuyết Thầy thông ngôn(1926) gồm 12 chơng và đoạn chuyện sau. Có

thể nói, quÃng đời làm thông ngôn ký lục của Hồ Biểu Chánh đà để lại dấu vết sâu
đậm trong tác phẩm này. Thật vậy, truyện Thầy thông ngôn phần lớn xảy ra tại Cà
Mau và Long Xuyên là hai nơi mà ông đà đổi tới làm việc. Qua tiểu thuyết Thầy
thông ngôn, tác giả muốn mô tả cuộc sống, thái độ nịnh bợ quan trên bắt nạt kẻ dới
và nhất là lòng tham phú phụ bần của phần đông các thầy thông, thầy ký thời Pháp
thuộc mà Phong là một trờng hợp điển hình. Ông đà cực tả tâm lý cña Phong, mét


thầy thông tâm trí luôn luôn mơ ớc cới đợc vợ giàu, không phải bằng lối giảng giải
mà bằng chính ý nghĩ, ngôn ngữ và cử chỉ của nhân vật.
1.3.2. Màu sắc Nam Bộ trong ba tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh
Trong các tiểu thuyết nói chung và trong ba tiểu thuyết chúng tôi đề cập ở
đây nói riêng, Hồ Biểu Chánh đà dùng rất nhiều từ địa phơng. Đơn giản ông là một
nhà văn Miền Nam. Không những trong lời đối thoại của các nhân vật mà cả trong
lời thuật truyện, mô tả của tác giả. Đó là những tiếng phổ thông trong ngôn ngữ đại
chúng miền Nam: nín khe; không thèm léo vô bếp, lơn tơn trở về, cời ngỏn nghẻn,
xẩn bẩn một bên, dữ hôn, hổng dắt đi, sớng giống gì, té ra, đi riết, làm lung lắm,
day lại, đứng xớ rớ, xí đợc, sắp cháu, lạ hoắc, dục dặc không muốn đi, la tiếng bài
hải, đỏ hực hở, xẻn lẻn lắm, ...
Nh vậy, khảo sát từ địa phơng trong tác phẩm của ông chúng ta có thể thấy
đợc vai trò từ địa phơng trong hành chức - một dạng hành chức ít nhiều mang tính
đặc trng. Cũng qua đó ta có thể hiểu thêm khía cạnh tâm hồn, tình cảm và ứng xử
của ngời Nam Bộ.
Chúng tôi đà tiến hành thống kê trong ba tiểu thuyết tiêu biểu của Hồ Biểu
Chánh (tổng cộng 394 trang) và thu đợc 831 từ địa phơng với 5.294 lần dùng.
Trung bình mỗi trang có 2,11 từ địa phơng xuất hiện, với 13,47 lợt dùng. Bình quân
mỗi từ địa phơng có 6,37 lợt dùng.
1.4. Nguyễn Ngọc T và tập truyện Cánh đồng bất tận
Nguyễn Ngọc T sinh năm 1976, quê quán ở xà Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi,
tỉnh Cà Mau. Tuy là nhà văn trẻ Nam Bộ nhng những tác phẩm của chị xuất hiện

rất đều đặn trên văn đàn và thu hút đông đảo độc giả. Truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc T cã søc hÊp dÉn ®èi víi ngêi ®äc, nhÊt là ngời Nam Bộ. Truyện ngắn của chị
không cầu kỳ từ đề tài đến ngôn ngữ thể hiện. Nguyễn Ngọc T thờng khai thác
những vấn đề rất đời thờng và cuộc sống của ngời dân miền Nam. đó là chuyện một
ông già đi tìm con, chuyện tình cảm gia đình, tình cảm nam nữ, chuyện về những -


ớc mơ bình dị, chuyện về sự tha hoá ở một lớp ngời nghèo túng, thất học Tất cả
đều đợc thể hiện với một dọng văn nhẹ nhàng, tự nhiên, với ngôn ngữ đậm đà chất
Nam Bộ. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng nhận xét: Với giọng văn mộc mạc, bình
dị, với ngôn ngữ đời thờng đà tạo nên một không khí rất tự nhiên về màu sắc, hơng
vị của mảnh đất cuối cùng Tổ Quốc- mũi Cà Mau, của những con ngời mà cha ông
là ngời tứ xứ về mũi đất của rừng, của sông nớc, của biển cả đẫ dày công khai phá,
đà đứng lên khơi nghĩa. Qua ngòi bút của Nguyễn Ngọc T, những con ngời lam lũ,
giản dị , bộc trực ấy chứa bên trong cả một tâm hồn vừa nhân hậu, vừa tinh tế qua
cách đối nhân xử thế. Tiến sĩ Huỳnh Công Tín trong quyển Cảm nhận bản sắc
Nam Bộ [15] cũng có những đánh giá cao về ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc T: Ngôn ngữ trong tất cả truyện ngắn của chị, từ ngôn ngữ dẫn truyện đến
ngôn ngữ nhân vật, nhất là ngôn ngữ nhân vật, đều khá thuần chất Nam Bộ. Số lợng
từ ngữ Nam Bộ trong tác phẩm của chị khá ln. Đặc điểm này tạo nên ở truyện của
chị một văn phong riêng mà nhiều ngời cảm thấy yêu thích.
Đọc truyện của chị ngời đọc sẽ cảm nhận đợc chất Nam Bộ thể hiện khái
quát ở nhiều phơng diện của tác phẩm. Bối cảnh trong các truyện ngắn phần lớn là
vùng đất U Mịnh. Đó là mảnh đất cuối trời quê hơng mà nhiều ngời chỉ nghe nói
tới , chứ cũng không có lần đợc đặt chân đến, đừng nói chi đến việc đi hết vùng đất
Mũi. Trong tác phẩm của chị có một không gian Nam bộ với những loại cây, tên
gọi nghe quen, dân già (mắm, đớc, sú, vệt, bần, tra, chàm, choại, quao, ô rô, dừa nớc...) với những vàm, kinh, rạch, xẻo, tắt chằng chịt, mà tên gọi cũng gợi trí tò mò
tim hiểu ở ngời đọc (Vàm Cỏ Xớc, vàm Mắm,Kinh Cỏ Chác, kinh Mời Hai, kinh
Thợ Rèn, Rạch Mũi, Rạch Ráng, Rạch Ruộng, Xẻo Mê, Xẻo Rô, lung Lớn, gò Cây
Quao...) hay những tên ấp, tên làng, tên chợ nhiều chất Nam bộ (Xóm Xẻo, Xóm

Rạch, Xóm Kinh Cụt, Xóm Miễu, Chợ Ba Bảy Chín, Cái Nớc, Trảng Cò, Đất Cháy,
Mút Cà Tha...). Nhân vật trong tác phẩm của chị là những ngời Nam Bộ với những
cái tên cũng hết sức bình dị, chân chất, đặt tên theo thứ, và cách xng gọi kÕt hỵp víi


tên: Hai, Ba, T, Chín, út, T Nhớ, Năm Nhỏ, Sáu Đèo,... mang những tâm t nguyện
vọng cũng hết sức nhỏ bé, đời thờng. Đó là những con ngời sinh sống bằng những
ngành nghề gắn liền với quê hơng sông nớc Nam Bộ, nh: nghề sông nớc, nghề nuôi
vịt chạy đồng, nghề theo gánh hát ..., ngoài những ngành nghề truyền thống làm
ruộng, làm rẫy, đan lát. Đặc biệt, vùng đất và con ngời Nam Bộ trong các sáng tác
của chị đợc dựng lại bằng chính chất liệu của nó là ngôn từ và văn phong nhiều
chất Nam Bộ.
Truyện của chị đa phần dừng lại ở những tình cảnh gia đình nghèo, đề cập
đến những số phận buồn của những con ngời bé nhỏ, những nông dân chân chất với
những ớc mơ và cuộc sống hết sức bình dị đời thờng rất đáng cảm thông, trân
trọng, nhng đôi khi cuộc đời nghiệt ngà cũng không cho họ đợc nh ý, đợc toại
nguyện.
Cho tới nay, ngoài những truyện đăng với những tác giả khác (những tuyển
tập chung), Nguyễn Ngọc T đà có đợc những tập truyện ngắn riêng: Ngọn đèn
không tắt [29], Ông ngoại [30], Biển trời mênh mông [31], Giao thừa [32] , Nớc
chảy mây trôi [33], Truyện ngắn Nguyễn Ngọc T [34], Cánh đồng bất tận [35] và
rất nhiều truyện ngắn, tản văn, tạp văn, tạp bút,khác.
Cánh đồng bất tận là tập truyện có nhiều tiếng vang: khen, chê đều có. Nhng
dù sao thì hiện nay tên tuổi Nguyễn Ngọc T và các tác phẩm của chị đà đợc nhiều
bạn đọc ở cả trong nớc lẫn ngoài nớc nớc quan tâm. Nhiều truyện đợc chọn in ở
những tập sách khác nhau, vì sức thu hút ngời đọc của chúng.
Tập Cánh đồng bất tận [35] gồm 14 truyện ngắn. Nguyễn Ngọc T vẫn với
bút pháp giản dị, gọn ghẽ đầy ắp âm sắc Nam Bộ, cách chọn lọc ngôn ngữ, cử chỉ
sống động nh đẽo nh tạc, trên bối cảnh tiêu sơ ruộng đồng sông nớc Cửu Long vẫn
là những mảnh đời nghèo khó, xiêu dạt bơ phờ vì áo cơm. Nhng không cũ mòn,

không nhàm chán, mạch văn liên kết chặt chẽ với những chi tiết, hình ảnh thú vị.
Trong truyện vẫn là tình cảnh của những gia đình nghÌo, nh÷ng sè phËn bn cđa


×