Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Nhịp trong thơ lục bát hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (612.81 KB, 101 trang )

1

Mở đầu

1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
1.1. Trong suốt chiều dài phát triển của lịch sử nhân loại, thơ luôn là nhu cầu
trong đời sống tâm linh của mỗi con ng-ời, là sản phẩm sáng tạo của tâm hồn và trí
tuệ con ng-ời. Khi con ng-ời nhận thức đ-ợc mối quan hệ giữa mình với thực tại và
có nhu cầu tự biểu hiện thì thơ ca xuất hiện. Thơ đi vào lòng ng-ời nh- một sức sống
mÃnh liệt và trở thành ng-ời bạn đồng hành không thể thiếu của con ng-ời và xà hội.
Có thể nói, thơ là hình thức sáng tác văn học đầu tiên của loài ng-ời và trong thời
gian dài thuật ngữ thơ đ-ợc dùng chung cho văn học. Về sau, khi con ng-ời phát
triển đến một trình độ nhất định thì những niêm luật đ-ợc ấn định cho thơ chẳng qua
là sự xác lập một cơ chế điều chỉnh cho ngôn ngữ thơ trong những khuôn hình âm
nhạc nhất định. Dĩ nhiên, mỗi dân tộc đều có một nền thi ca đặc tr-ng gắn với những
thể thơ nhất định. Thơ tiếng Việt có các thể từ hai đến m-ời hai tiếng nh-ng các thể
thơ quen thuộc của ng-ời Việt là lục bát, song thất lục bát, thơ năm chữ, thơ bảy chữ,
trong đó lục bát là thể thơ độc đáo bậc nhất trong nền thơ ca Việt Nam. Có thể nói,
những nét độc đáo tinh hoa của tiếng Việt thể hiện đặc điểm tâm lý - thẩm mỹ của
đời sống tinh thần dân tộc đà dồn đúc thành khuôn sáu - tám lục bát. Lục bát là thể
thơ song hành với sự phát triển ngôn ngữ và văn hóa Việt cần đ-ợc nghiên cứu một
cách công phu nhằm tôn vinh vẻ đẹp của nó.
1.2. Việc tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ thơ là vấn đề rất phức tạp. Từ tr-ớc đến nay,
các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu giá trị của thơ thì đều nhấn mạnh tính nhạc của thơ và cho
rằng "thơ là lời nói đà đ-ợc nhạc hoá" . Tuy nhiên, đối t-ợng nghiên cứu vẫn ch-a đ-ợc
định hình và rất mơ hồ. Nh-ng d-ới ánh sáng của ngôn ngữ học hiện đại, lý thuyết nhạc thơ
đ-ợc đặt ra cụ thể qua các công trình nghiên cứu và các bài viết của các tác giả nh-: Võ
Bình (1975, 1984, 1985), Mai Ngäc Chõ (1984, 1991, 2006), Ngun Phan C¶nh (2007),
Vũ Thị Sao Chi (2005), Nguyễn Thị Thanh Hà (2002), Nguyễn Hoài Nguyên (2007), Lí
Toàn Thắng (1999), Nguyễn Ph-ơng Thuỳ (2004),.... Với các ph-ơng diện nhạc tính trong
thơ nh- vần thơ, b-ớc thơ, phối thanh, nhịp thơ thì họ cho rằng nhịp là đặc tr-ng cơ bản


của hình thức thơ, là yếu tố quan trọng tạo nên tính nhạc cho thơ và đây cũng chính là cơ sở
để phân biệt thơ ca với văn xuôi. Hơn nữa, nhịp không chỉ tạo ra tính nhạc cho thơ mà còn


2

biểu hiện tình cảm, cảm xúc. Vì nhịp thơ có tính mỹ học do con ng-ời tạo ra để thể hiện tt-ởng tình cảm . Do vậy, các trạng thái rung cảm, cảm xúc chính là nhịp của trái tim, nhịp
của tâm hồn, là biểu hiện cung bậc tình cảm khác nhau trong tâm hồn của mỗi nhà thơ
tất cả đ-ợc in dấu qua cách ngắt nhịp.
1.3. Vốn là một thể thơ định hình từ ca dao - những bài hát đồng quê, qua
Truyện Kiều, lục bát trở thành mẫu mực nh-ng đến thời hiện đại, thể thơ này trở nên
phong phú, đa dạng nhờ những cách tân bắt đầu từ Tản Đà đến Huy Cận, Nguyễn
Bính, Tố Hữu, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn và hàng loạt tác giả trẻ khác. ở lục bát,
giữa cấu trúc ngôn ngữ đầy nhạc tÝnh vµ néi dung biĨu hiƯn lµ cã sù phï hợp cao.
Cấu trúc ngôn ngữ giàu nhạc tính đ-ợc thể hiện qua phân bố thanh điệu, hiệp vần,
ngắt nhịp đà hàm chứa các tham số của quá trình chọn lọc tự nhiên của ng-ời Việt
suốt tr-ờng kỳ lịch sử cho ®Õn ngµy nay. Trong ba yÕu tè ®ã, yÕu tè nhịp mang tính
đặc thù, là x-ơng sống của dòng thơ, đoạn thơ, bài thơ, có tác dụng liên kết các yếu
tố ngữ âm lại với nhau để tạo nên nhạc tính. Đó là lý do để chúng tôi chọn đề tài
Nhịp trong thơ lục bát hiện đại làm luận văn tốt nghiệp.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là thông qua việc khảo sát nhịp điệu trong các
bài thơ lục bát của Nguyễn Bính, Huy Cận, Tố Hữu, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn để
thấy đ-ợc sự kế thừa và cách tân sáng tạo về nhịp của các nhà thơ hiện đại so với thể
thơ lục bát truyền thống. Bên cạnh đó, luận văn cũng góp phần làm sáng tỏ giá trị
nhịp trong thơ lục bát nói riêng và thơ Việt Nam nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu về thơ lục bát, từ lâu đà có rất nhiều ng-ời quan tâm với những góc
độ khác nhau. Nh-ng theo chúng tôi tìm hiểu, cho đến nay vẫn ch-a có nhiều công trình
nghiên cứu độc lập về thơ lục bát và nhất là về nhịp trong thơ lục bát. Tất cả những công
trình nghiên cứu chỉ đề cập đến ph-ơng diện lý thuyết hoặc khảo sát qua một số tác giả mà

thôi. Chẳng hạn, có những bài viết tiêu biểu về thơ lục bát nh-: Tác giả Phan Ngọc, với bài
viết "Tác dụng và ảnh h-ởng của câu tục ngữ đối với việc hình thành câu lục bát ngày nay".
Tác giả Nguyễn Xuân Kính" Những đóng góp mới trong việc nghiên cứu thể loại thơ lục
bát", Tạp chí văn hoá dân gian, số 1/1990, và "Việc vận dụng thi pháp ca dao trong thơ trữ
tình hiện nay", Tạp chí văn học, số 11/1994. Tác giả Hà Quảng " Một số cách tân trong thể
thơ lục bát hiện đại", Tạp chí văn học, số 9/1987. ở các bài viết này, các tác giả mới chỉ tập
trung miêu tả, đánh giá kết cấu vần luật của thể thơ lục bát. Một số tác giả với cách nhìn


3

mới từ góc độ ngôn ngữ học, lấy ph-ơng pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học ứng dụng vào
việc phân tích để nhận ra các tầng bậc và các mối quan hệ về tổ chức ngôn ngữ bên trong
của thể thơ này. Theo hướng nghiên cứu này là các công trình Thử bàn thêm về thể lục
bát của Nguyễn Tài Cẩn và Võ Bình (1985), Tiếng Việt và thể thơ lục bát của Nguyễn
Thái Hòa (1999), Lục bát Huy Cận: Ngậm ngùi của Lý Toàn Thắng (1999), Lục bát và
song thất lục bát của Phan Thị Diễm Phương (1999), Thơ lục bát Việt Nam hiện đại từ
góc nhìn ngôn ngữ của Hồ Hải (2008), Công trình nghiên cứu của tác giả Hồ Hải
(2008) dành hai chương nghiên cứu về Sức quyến rũ của nhạc điệu thơ lục bát (chương 2)
và Các phương tiện tạo nghĩa trong thơ lục bát (chương 4). Cho đến nay, đây là công
trình có thể xem là t-ơng đối công phu, đầy đủ về ngôn ngữ thơ lục bát. Dĩ nhiên, những
thao tác định l-ợng, định tính cần phải có những số đo cụ thể, chính xác cho ngôn ngữ thơ
lục bát thì câu chuyện ch-a phải đà kết thúc.
Ngoài ra, một số luận văn, khoá luận bàn về nhịp trong thơ lục bát nh-: Phạm
Thị Ph-ơng Thuý (1982), với "Nhịp điệu thơ lục bát của Tố Hữu, luận văn thạc sĩ;
Đậu Thị L-ơng Anh (2007), với "Nhịp điệu thơ lục bát Huy Cận, khoá luận tốt
nghiệp đại học; Lê Thị Đào (2004), với "Luật bằng - trắc lục bát Tố Hữu", khoá luận
tốt nghiệp đại học. Tuy nhiên, những nghiên cứu trên mới chỉ ra những nét cụ thể về
nhịp trong thơ lục bát ở một số tác giả cụ thể còn nhìn trong thế tổng quát thì vẫn
ch-a đ-ợc đề cập đến. Với đề tài này, ở một mức độ nhất định, chúng tôi sẽ cố gắng

khảo sát cấu trúc nhịp trong thơ lục bát hiện đại, góp phần làm sáng tỏ thơ lục bát
hiện đại phát triển nh- thế nào so với thơ lục bát truyền thống, chỉ ra những giá trị
bất biến và khả biến của thể thơ này.
3. Đối t-ợng và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối t-ợng nghiên cứu
Luận văn khảo sát nhịp trong thơ lục bát hiện đại thông qua việc khảo sát nhịp
trong thơ lục bát của các tác giả tiêu biểu của thơ hiện đại nh-: Nguyễn Bính, Huy
Cận, Tố Hữu, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, cụ thể là khảo sát cách ngắt nhịp trong
câu lục, câu bát và câu thơ lục bát.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tôi đặt ra cho luận văn phải giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
- Thu thập và thống kê các bài thơ lục bát của Nguyễn Bính, Huy Cận, Tố
Hữu, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, xác lập các khuôn nhịp và những cách ngắt nhịp


4

trong câu lục, câu bát và câu lục bát, khảo sát để xác định tần số xuất hiện các loại
nhịp trong thơ lục bát.
- Qua miêu tả và phân tích cách tổ chức nhịp điệu trong thơ lục bát hiện đại,
chỉ ra sự kế thừa và cách tân về hình thức thơ theo khuynh h-ớng hiện đại hoá.
- Xem xét nhịp trong mối quan hệ với vần và thanh điệu để thấy đ-ợc sự chi
phối của các yếu tố trong việc tổ chức nhạc tính trong thơ lục bát hiện đại.
4. Nguồn t- liệu và ph-ơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn t- liệu
4.1.1. Nguyễn Bính có 84 bài thơ của 11 tập thơ đ-ợc giới thiệu trong Tuyển tập
Nguyễn Bính, Nhà xuất bản văn học, Hà Nội, 1986, trong đó có 33 bài thơ lục bát: (Thời
tr-ớc; Không đề; Lỡ b-ớc sang ngang; Đàn tôi; Chân quê; Đêm cuối cùng; Qua nhà; Quan
trạng; Giấc mơ anh lái đò; Chùa vắng; Hoa cỏ may; Chờ nhau; Tình tôi; Ng-ời hàng xóm;
Không ngủ; Bóng b-ớm; Tr-a hè; Bên hồ; áo anh; Làm dâu; Vài nét rừng; Khách hẹn; Vài

nét Huế; Thu rơi từng cánh; Tựu tr-ờng; Lửa đò; Anh về quê cũ; Đ-ờng rõng chiỊu; Thgưi vỊ cha; ChiÕc nãn; Chun tiÕng s¸o diều, Đôi mắt; Trông bóng cờ bay).4.1.2. Huy
Cận trong tuyển tËp Huy CËn 2 tËp . TËp I xuÊt b¶n 1986, tập II xuất bản 1995.
Chúng tôi khảo sát có 40 bài. Các bài thơ lục bát lấy làm t- liệu của khoá luận đ-ợc
chúng tôi rút ra từ các tập thơ sau đây:
- Lửa thiêng (1930), 8 bài: (Buồn nửa đêm; Trông lên; Chiều x-a; Đẹp x-a;
Ngậm ngùi; Xuân ý; Thu rõng; Thun ®i).
- Vị trơ ca (1942), 2 bài: (Nắng đào; Nằm nghe ng-ời thở).
- Trời mỗi ngày lại sáng (1958), 6 bài: (Vệt lá trên than; Thu về trên đèo nai; Nằm
trong tiếng nói; Hoa lay bóng sáng; Đồng quê bát ngát; Quanh nơi làm việc).
- Đất nở hoa (1960), 3 bài: (Sang xuân; Hoa sấu bầy ong; Trăng xuân).
- Bài thơ cuộc đời (1963), 5 bài: (Chờ con ra đời; Mỗi buổi chiếu tới đón con
về; Nhật kí đi đ-ờng; Gió chuyển mùa; Trăng rằm mọc).
- Chiến tr-ờng gần đến chiến tr-ờng xa (1973), 2 bài: (Mẹ đi lấp hố bom; Về
thăm quê xà Đức Ân).
- Ngày hằng sống ngày hằng thơ (1975), 5 bài:(Thăm lò chum; Mẹ ơi; Đời mẹ;
Đêm trăng m-a; Cây hoàng lan v-ờn tôi; Chiều đông nghe nhạc Betthoven).
- Ngôi nhà giữa nắng (1978), 2 bài: (Đêm hè nghe nhạc; Gửi một ng-ời bạn
điêu khắc).


5

- Hạt lại gieo (1984), 4 bài: (Mẹ con con mèo; Chiêm bao; Nằm bệnh viện;
Nhớ con út; Nhạc ơi).
- Chim làm ra gió (1991), 3 bài: (Tuổi thơ chơi vụ; Gọi điện thoại; V-ờn hồng).
- Tao phùng (1993), 1 bài: (Yêu đời)
Ngoài ra con những bài thơ khác nh-: Cảm thông; Gối tay; Tóc em; Anh vào
hiệu sách; Hỡi em yêu, hỡi em th-ơng; Miken- lăng; Mùa xuân vĩnh viễn
4.1.3. Tố Hữu trong tuyển tập thơ Tố Hữu có 59 bµi
- Tõ Êy (1937 - 1946), 8 bµi: (TiÕng sáo li quê; Khi con tu hú gọi bầy; Đông;

Cảm thông; Đêm giao thừa; Tiếng hát trên đê; Vỡ bờ; Đói!Đói).
- Việt Bắc (1946 - 1954), 8 bài: (Tr-ờng tôi; Bầm ơi; M-a rơi; Bài ca của
ng-ời du kích; Cho ®êi tù do; NÕu thÇy mĐ chÕt; Ta ®i tíi; Việt Bắc).
- Gió lộng (1955 -1961), 2 bài: (Tiếng ru; Cánh chim không mỏi).
- Ra trận (1972 -1971), 7 bài: (Nhật kí đ-ờng về; Tiếng hát sang xuân; Đ-ờng
vào; Kính gưi cơ Ngun Du; MĐ St; Gưi ng-êi ®i Pa-ri; Chuyện em).
- Máu và hoa (1972 -1977) 4 bài (Cây hồng; Thăm trại Ba Vì; N-ớc non ngàn
dặm; Bài ca quê h-ơng).
- Một tiếng đờn (1979 -1992), 28 bài: (Phút giây; Mừng thọ bác Nguyễn Phan
Chánh; Đêm xuân 85; Xta-lin-grat anh hùng; Phồn x-ơng; Đêm thu quan họ; Hà
Trung; Luy Lâu; Cẩm Thuỷ; Ngọc Lặc; Nh- Xuân; Nông Cống; Tĩnh Gia; Hoằng
Hoá; Quẵng X-ơng; Hậu Lộc; V-ờn nhà; D-ỡng sinh; Nhớ Chế Lan Viên; một
thoáng Cà Mau; Đêm trăng năm căn; Nhà hoạ sĩ Tô Ngọc Vân; Chợ Đồng Xuân;
Mới; Lạ ch-a; V-ờn cam T-ờng Lộc; Đồng Tháp M-ời; Tằm tơ Bảo Lộc; Xuân hành
92).
4.1.4. Nguyễn Duy trong 2 tập có 57 bài
- Về (1994), 40 bài: (Bao cấp thơ; Hàng Châu; Chùm mộng du; Kính th-a liền
chị; Tôi và em, và; Chùm tơ lụa; Xẩm giọng; Cơm bụi ca; Vô t-; Đ-ợc yêu nhthể ca dao; Em ơi, gió; Chùm thi sĩ; Vọng Tô Thị; Giấc mộng trắng; Mùa n-ớc
nổi; Rau muối; Thuốc lào; Vải thiều; Mắt na; Chiều mận hậu; áo trắng má hồng;
Dịu và nhẹ; Mời vợ uống r-ợu; Cõi về; Vợ ốm; Thời gian).
- Mẹ và em (?), có 17 bài: (Hầm chữ A; Tre Việt Nam; Bầu trời vuông; Cỏ dại;
Nhớ bạn; Lời ru con cò biển; Lời ru đồng đội; Ngồi buồn nhớ mẹ ta x-a; Xuồng đầy;


6

Ca dao vọng; M-a trong nắng, nắng trong m-a; Đám mây dừng lại trên trời; Bất
chợt; Hoa gạo; Hoa phong lan; Hoa dại; T-ởng niệm).
4.1.5. Đồng Đức Bốn trong 3 tập có 115 bài.
- Con ngựa trắng và rừng quả đắng (1992), 39 bài: (Cái đêm em ở với chồng;

Cây Bồ Kết lắm gai; Đêm sông Cầu; Chạy m-a không chạy qua rào, Sông Th-ơng
ngày không em; Tình tôi, tình em; Chợ Th-ơng; Hội Lim; S-ơng mù và cô gài mù;
Ngõ quê; Sang sông; Phố Đèo; Đời tôi; Về Nhổn tìm em; Mong; T-ởng; Đ-ờng đi;
Con ơi; Đi đò; ở phố bờ sông; ở phố Bà Quẹo; Ba ngày m-a; Phố nối m-a rào; Buổi
sáng đ-ờng Lê Thánh Tông; Chơi thuyền trên sông H-ơng; Qua nhà ng-ời yêu cũ; ở
đâu; Nhà thờ; Chuông chùa Quán Sứ; Vu vơ chùa H-ơng; Thăm mộ Nguyễn Du; ở
quán bán thịt cho về chiều; Đám cháy rừng; Mẹ tôi; Thơ viết gửi ng-ời tình khi tôi
chết; Th- tình tôi viết cho Nga; Một mình; Nguyện cầu; Một thời đà mặc áo vua).
- Trở về với mẹ ta thôi (2000), 44 bài: (Chăn trâu đốt lửa; Chợ buồn; Hoa dong
riềng; Cuốc kêu; Đợi chờ tháng ba; Cơn m-a dừng ở Sóc Sơn; Chuồn chuồn cắn rốn
biết bơi; Nhớ Thuỵ Khuê; Vỡ đê; Đỏ và đen; Chín xu đổi lấy một hào; Thức với Côn
Sơn; M-ời cô gái ở ngà ba Đồng Lộc; Nhớ; Khóc một dòng sông; Phố nối m-a rào;
Chiều m-a trên phố Huế; Vu vơ chùa H-ơng; Viết ở bờ sông; Con sáo sang sông;
Nhà quê; Ngày không em; Vào chùa; Thơ viết gửi ng-ời tình khi tôi chết; Mây núi
Thái Hàng còn giông; Gửi Tân C-ơng; Viếng mộ nhà thơ Lê Tám ở trên đồi Thanh
T-ớc; Bố tôi; T-ởng; Đời tôi; Nửa đêm Đà Lạt; Ng-ời ở lại buồn; Trả bút cho trời;
Đi xích lô đ-ờng Bà Triệu; Trở về với mẹ ta thôi).
- Chuông chùa kêu trong m-a (2002) 43 bài (Về lại chốn x-a; Chuông chùa
kêu trong m-a; Đ-a em qua trận báo ng-ời; Xin ng-ời một khúc mộng mơ; Xéo gai
anh chẳng sợ đau; Nói chuyện với những cây cỏ dại; Tựa bÃo để sống làm ng-ời; Gai
rào ngõ quê; Cơn bÃo cho em; Th-ơng nhớ cho nhau; Đứng trong cơn bÃo mà trông;
Chuông buồn; ở nghĩa trang Tr-ờng Sơn; Bây giờ vàng chẳng là thau; Chia tay một
trận m-a rào; Tận cuối cơn m-a; Cuối cùng vẫn còn dòng sông; Hoang vắng; HÃy về
đây với bến sông; Em xa; ở với m-a giông; Với cây x-ơng rồng; Ra giêng anh lại
tìm em; Câu ca mẹ hát nh- đùa; anh ngồi uống cả cánh đồng heo may; Mùa xuân;
Em ®i lÊy chång; Nỵ em; Ngåi nhí ChÝ PhÌo; Em là lục bát của tôi; Lời ru cho cỏ
buồn; Ngõ nhỏ m-a dầm; Khi em ở Thái Nguyên về; Câu hát theo chồng; Duyên
quê; Mùa xuân đi phủ Tây Hồ; Ngõ cấm chỉ; Gái một con trông mòn con mắt; N-íc



7

chảy qua sân; M-a gió về đâu; Những câu thơ dại; Tìm ng-ời; Th-ơng mình lặn lội
đ-ờng xa; Vẫn còn viết gửi Tân C-ơng).
Tổng cộng: 313 bài
4.2. Ph-ơng pháp nghiên cứu
- Để xác lập t- liệu cho đề tài, chúng tôi dùng ph-ơng pháp thống kê và phân
loại. Tr-ớc hết, chúng tôi tiến hành thống kê các bài thơ lục bát của các tác giả, sau
đó phân loại và xác lập các loại nhịp, cách ngắt nhịp trong câu lục, câu bát và câu lục
bát trong các bài thơ đó.
- Xử lý các t- liệu nhằm giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, chúng tôi dùng
ph-ơng pháp phân tích, miêu tả, chỉ ra những cách tân sáng tạo trong việc tổ chức
nhịp điệu trong thơ lục bát.
- Với một đối t-ợng nh- vậy, luận văn sử dụng ph-ơng pháp so sánh đối chiếu,
đó là so sánh thơ lục bát hiện đại với thơ lục bát truyền thống để thấy đ-ợc sự cách
tân sáng tạo của thơ lục bát hiện đại.
5. Đóng góp của luận văn
Lục bát là linh hồn của dân tộc nên đ-ợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đặc
biệt. Có ng-ời cho rằng, lục bát đ-ợc định hình trong ca dao và đến Truyện Kiều thì
nó hoàn thành sứ mệnh lịch sử, nh-ờng chỗ cho những thể thơ khác. Nh-ng trên thực
tế, dòng chảy lục bát vẫn tiếp tục cho đến ngày nay để thể thơ này có những đỉnh cao
mới. Các kết quả nghiên cứu về nhịp trong thơ lục bát hiện đại góp phần chứng tỏ
điều đó. Bằng những thao tác định l-ợng, định tính với những số đo cụ thể, chính xác
về nhịp trong thơ lục bát hiện đại, luận văn đà cố gắng phân tích, miêu tả nhịp của
thể thơ dân tộc một cách đầy đủ, toàn diện, có tính hệ thống nhằm chỉ ra giá trị bất
biến và khả biến của lục bát.
Trong thơ cách luật, âm thanh và ý nghĩa là hai mặt cơ bản cấu thành một bài
thơ. Vì vậy, theo h-ớng định l-ợng, định tính, luận văn xem xét nhịp trong thơ lục
bát hiện đại chỉ là sự xem xét mang tính t-ơng đối. Tuy nhiên, cá biệt hóa từng mặt
trong quá trình nghiên cứu đối t-ợng để đi đến kết luận có tính khác biệt là cần thiết.

Hơn nữa, nhịp là yếu tố đặc tr-ng, có vai trò quan trọng nhất tạo nên nhạc điệu thơ
lục bát nói riêng, thơ ca nói chung. Do đó, h-ớng nghiên cứu của luận văn cùng với
những kết quả đạt đ-ợc là làm sáng tỏ xu h-ớng của thơ lục bát và thơ ca hiện đại
nói chung: đi tìm cảm thức thời đại trong nhạc điệu, thứ âm thanh hòa quyện một
cách chặt chÏ víi ý nghÜa.


8

6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục luận văn gồm 3 ch-ơng:
- Ch-ơng 1: Những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài
- Ch-ơng 2: Cách tổ chức nhịp trong thơ lục bát hiện đại
- Ch-ơng 3: Quan hệ giữa nhịp với vần và thanh điệu


9

Ch-ơng 1
Những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài

1.1. Vài nét về thơ hiện đại
1.1.1. Đầu thế kỉ XX với sự phát triển của kinh tế hàng hoá, đất n-ớc Việt
Nam đi vào con đ-ờng t- sản hoá. Ngoài hai giai cấp cũ là địa chủ và nông dân còn
hình thành giai cấp t- sản và vô sản, thêm vào đó là giai cấp tiểu t- sản, giai cấp
trung gian. Tuy nhiên, tất cả đó mới trong giai đoạn hình thành. Bên cạnh sự biến
động của kinh tế xà hội thì văn học cũng vận động và phát triển theo một h-ớng mới.
Đây chính là quá trình biến đổi tất yếu khách quan, yêu cầu canh tân đất n-íc cịng
n»m trong khuynh h-íng chung cđa khu vùc vµ của Châu á. Văn học hiện đại v-ợt
khỏi ảnh h-ởng và hạn chế của văn học những thế kỉ tr-ớc (mang tính trung đại,

phong kiến). Dấu hiệu đầu tiên quan trọng là dùng chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ đÃ
trở thành công cụ đắc lực tuyên truyền vận động phong trào yêu n-ớc Duy Tân. Đặc
biệt, thời kỳ dân chủ phong trào truyền bá chữ quốc ngữ sâu rộng trong quần chúng
đà trở thành một hoạt động văn hoá, chính trị. Trên thực tế, những năm 20 về sau văn
học hầu nh- chỉ còn văn học quốc ngữ; chữ quốc ngữ đóng vai trò tích cực trong việc
hiện đại hoá văn học hiện đại. Đầu tiên đổi mới và tăng thêm vốn từ t-ơng ứng với
cuộc sống hiện đại, những vấn đề khoa học kỷ thuật, t- t-ởng văn hoá hiện đại ngoại
nhập nh- cú pháp, cách diễn đạt cũng phải mới nhanh hơn rõ hơn. Khi chữ quốc ngữ
sử dụng rộng rÃi thì công chúng văn học thực sự tăng nhanh và thoả mản yêu cầu đa
dạng của tầng lớp công chúng. Tuy nhiên, nó cũng mới chỉ giới hạn ở tầng lớp xà hội
các đô thị những thị dân nh-ng không còn thu hẹp với những ng-ời trí thức nho sĩ.
Thêm vào đó là sự xuất hiện những nhà in theo kỉ thuật hiện đại và báo chí cũng bắt
đầu phát triển tạo đà cho văn học. Trong văn học có nhu cầu khẳng định cái tôi cá
nhân, khẳng định cá tính sáng tạo của tác giả, có những tìm tòi về t- t-ởng nghệ
thuật. Từ đó, đà hình thành những quan điểm nghệ thuật khác nhau và những cuộc
tranh luận đòi hỏi phải cách tân văn học mạnh mẽ theo h-ớng ph-ơng Tây hiện đại.
1.1.2. Quá trình hiện đại hoá văn học là một quá trình với những nét chấm phá
ban đầu dần dần tạo nên những vùng, những mảnh mờ trong t- t-ởng, t- duy nghệ
thuật với những nổ lực cách tân to lớn làm nên khuôn mặt mới hiện đại của văn học.
Văn học thể hiƯn mét quan ®iĨm míi vỊ x· héi, cc sèng vµ con ng-êi. NhÊt lµ sau


10

chiến tranh thế giới thứ nhất với sự hình thành và phát triển của giai cấp tiểu t- sản ở
thành thị đà hình thành một lớp công chúng mới. Lớp công chúng này có yêu cầu
riêng về t- t-ởng, tình cảm và thị hiếu thẫm mỹ. Họ đòi hỏi trong sáng tác văn học
và thi ca phải có tiếng nói riêng với những hình thức diễn đạt và ph-ơng tiện biểu
hiện phù hợp và gần gũi với họ. Trở lực đầu tiên chính là sự gò bó của hình thức thơ
Đ-ờng luật. Thực ra, thơ Đ-ờng luật với những quy tắc sáng tác của nó đà từng là

một hình thức biểu hiện phù hợp với nội dung, t- t-ởng và thị hiếu thẫm mỹ của một
thời kỳ tr-ớc đây và đà để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Nh-ng ở giai đoạn này thì
hình thức thơ Đ-ờng luật đà trở thành trở ngại cho sự phát triển của t- t-ởng và cảm
xúc mới. Hình thức đó qua nhiều thế kỷ vốn đ-ợc suy tôn nh- một thể loại thi ca
chính thống nên việc phê phán thơ Đ-ờng luật không phải là phê phán riêng những
gò bó về hình thức mà còn là sự tấn công vào những giá trị tinh thần và những tiêu
chuẩn mỹ học của t- t-ởng phong kiến. Bên cạnh đó, chủ nghĩa t- bản bắt đầu thâm
nhập vào Việt Nam chúng tiến hành khai thác thuộc địa và đà vô tình đẩy nhanh làn
sóng ph-ơng Tây vào n-ớc ta. Cũng chính từ đó, giới trí thức trẻ đà nhanh chóng tiếp
thu văn hoá Pháp và đà nhận ra vần, luật, niêm luật của nho gia đà gò bó trong việc
thể hiện tiếng thơ của con ng-ời. Năm 1917 trên báo Nam Phong (số 5), Phạm
Quỳnh là ng-ời bảo thủ nổi tiếng cũng phải thừa nhận sự gò bó của những luật thơ
cũ: Ng-ời ta nói, tiếng thơ là tiếng kêu của con tim. Ng-ời Tàu định luật nghiêm cho
ng-ời làm thơ thực là muốn chữa lại, sữa lại tiếng kêu ấy cho nó bay hơn, nh-ng
cũng nhân đó mà làm mất đi cái giọng tự nhiên vậy. Sau đó, Phan Khôi cũng viết
nhiều bài báo chỉ chích những trói buộc của văn thơ cũ và đòi hỏi phải cởi trói cho
sáng tác thi ca. một thời gian sau, một cuộc tranh luận giữa thơ mới và thơ cũ cũng
diễn ra vô cùng gay gắt. Trong một thời gian ngắn mà văn học đà hoàn tất một quá
trình dài hàng thế kỉ, cuộc tranh luận mới chấm dứt do sự thắng thế của thơ hiện đại
và đỉnh cao là thơ mới. Tràng Kiều (1936) trên báo Hà Nội với lời nhận xét: Cuộc
cách mạng về thi ca ấy ngày nay đà yên lặng nh- mặt n-ớc hồ thu - thời gian đà định
đoạt các giá trị của thơ mới. Còn Huy Cận cho rằng: Một cảm xúc mới khi đà hình
thành thì nó nuôi văn học nghệ thuật hàng thế kỷ. Thơ mới cũng vậy, Thơ mới đà tạo
ra cảm xúc chung cho thời đại và những bài thơ đ-ơng thời có giá trị đều đà đ-ợc
sáng tác với luồng cảm xúc mới ấy, cho dù các đề tài mà các tác giả lựa chọn rất
khác nhau. Từ đây, văn học Việt Nam đi vào quỷ đạo riêng, con đ-ờng riêng của


11


mình tạo nên b-ớc nhảy vọt. Cuối những năm 30 đầu những năm 40 thơ mới đà làm
rạng rỡ cho thơ Việt Nam hiện đại và đ-ợc ghi nhận nh- một b-ớc phát triển mới của
thơ dân tộc và t- duy thơ về thi pháp, về thể loại và ngôn ngữ thơ theo h-ớng hiện đại
hoá.
1.1.3. Thơ hiện đại ra đời với đỉnh cao là thơ mới mang đến cho văn học một
diện mạo mới cả về nội dung lẫn hình thức. Thơ mới đà nói lên đ-ợc: Một nhu cầu
lớn về tự do, về phát huy bản ngà (Tố Hữu). Tr-ớc đây trong văn học chỉ biết đến cái
ta của cộng đồng, của dân tộc, mẫu hình con ng-ời bỉn phËn, con ng-êi nghÜa vơ
xt hiƯn trong vÞ thÕ quan hƯ mËt thiÕt víi vËn mƯnh d©n téc, mÉu hình này chỉ phù
hợp trong điều kiện lịch sử ấy. Trong t- t-ởng yêu n-ớc và duy tân thì mẫu hình này
đ-ợc nhấn mạnh tr-ớc hết là ph-ơng diện trách nhiệm, trách nhiệm tr-ớc quốc dân,
tr-ớc đồng bào về tình trạng đất n-ớc. Còn bây giờ cái tôi cá nhân b-ớc đầu đ-ợc
giải phóng. XÃ hội phong kiến không chấp nhận những con ng-ời đề cao cái tôi, đề
cao bản ngà nh- nữ sĩ Hồ Xuân H-ơng, Cao Bá Quát... Thơ hiện đại ra đời mang
theo một cái tôi cá nhân, một cái tôi cá thể hoá trong thẫm mỹ. Cái tôi trong thơ mới,
ở một mức nào đó đà nói lên một nhu cầu lớn về mặt giải phóng tình cảm, phát huy
bản ngà tự do cá nhân riêng cho cái nhìn cá thể hoá, cho sự đổi mới thi pháp và tduy thơ. Cho sự sáng tạo những hình thức biểu hiện phong phú mang sắc thái độc
đáo của phong cách cá nhân. Sự giải phóng cái tôi cá nhân của chủ thể sáng tạo đÃ
làm nở rộ một thời kì văn học với những bông hoa giàu h-ơng sắc: Tôi quyết rằng
trong lịch sử thơ ca Việt nam ch-a bao giờ có một thời đại phong phú nh- thời đại
này. Ch-a bao giờ ng-ời ta thấy xuất hiện cùng một hồn thơ rộng mở nh- Thế Lữ,
mơ màng nh- L-u Trọng L-, hùng tráng nh- Huy Thông, trong sáng nh- Nguyễn
Nh-ợc Pháp, Ão nÃo nh- Huy Cận, quê mùa nh- Nguyễn Bính, kì dị nh- Chế Lan
Viên và thiết tha rạo rực, băn khoan nh- Xuân Diệu (Thi nhân Việt Nam). Cùng
với đổi mới về nội dung là đổi mới về hình thức nghệ thuật. Thơ mới có khả năng
diễn đạt hơn thơ cũ là nhờ ở thể thơ linh hoạt, tuỳ theo sự cảm thụ của từng tác giả,
cách hiệp vần phong phú (vần liên tiếp, vần ôm nhau, vần gián cách, vần hỗn tạp...)
nhạc điệu dồi dào, lối ngắt nhịp động, ngôn ngữ gợi cảm, giàu hình t-ợng. Phong
trào thơ mới đà làm một cuộc cách mạng trong thi pháp và t- duy thơ, đà đ-a một cái
nhìn cá thể hoá về thiên nhiên, tạo vật thông qua cái tôi trữ tình, không có hiện t-ỵng



12

đối lập giữa ph-ơng Tây và ph-ơng Đông, hiện đại và truyền thống. Từ đó mở ra
Một thời đại thi ca (Hoài Thanh), mở đầu cho sự phát triển của thi ca hiện đại.
Thơ hiện đại Việt Nam với chặng mở đầu quan trọng là thơ mới đà thức tỉnh
cá nhân và một b-ớc đ-ờng đầy ý nghĩa của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự
chuyển biến từ thơ truyền thống sang thơ hiện đại là một quá trình biến đổi đột biến
đà góp phần làm phong phú tâm hån con ng-êi, më ra nh÷ng thÕ giíi bÝ Èn của cõi ý
thức lẫn cõi vô thức và cũng mở ra vô vàn cung bậc đầy sắc h-ơng của cảm xúc trữ
tình, đem lại cho thơ ca hiện đại một giọng điệu riêng.
1.1.4. Mỗi thời đại đều có một giọng điệu riêng. Tìm hiểu giọng điệu của một thời
đại thơ ca, một mặt tìm hiểu sâu hơn cấu trúc bên trong bản thể nghệ thuật, mặt khác nhận
thấy sự vận động của thơ ca trong tiến trình lịch sử. Nh- một tất yếu, để tồn tại, thơ ca luôn
phải tự đổi mới vì xét đến cùng hoạt động nghệ thuật là một hoạt động sáng tạo. Nhà thơ
chỉ có một sự lựa chọn duy nhất: sự mới mẻ của nhà thơ nằm trong những con chữ của
mình. Bởi thế, nhà thơ Lê Đạt từng tuyên bố: Chữ bầu lên nhà thơ. Cốt lõi của quan niệm
này là muốn nhấn mạnh đặc tr-ng của văn học là sáng tạo văn học là sáng tạo bằng chất
liệu ngôn từ. Các nhà thơ hiện đại đà thực sự nỗ lực làm mới thơ ca. Cố nhiên, việc tạo nên
cái mới trong thơ, một mặt không đ-ợc bóp méo và làm bạc màu ngôn ngữ dân tộc, mặt
khác phải đi theo lộ trình đổi mới t- duy nghệ thuật thơ ca. Nhìn vào thơ ca hiện đại dễ
nhận thấy thơ thực sự đà mang một diện mạo khác hẳn so với thơ truyền thống. Đổi mới
thơ tr-ớc hết là đổi mới cảm xúc, đổi mới cách nhìn, đổi mới tọa độ soi ngắm và lý giải thế
giới chứ không phải cố ý tạo nên những văn bản chắp vá hoặc những cách nói hiếu kỳ, lạ
tai. Nếu nh- do điều kiện lịch sử, các nhà thơ tr-ớc đây đặt lên hàng đầu nhiệm vụ thơ ca
phục vụ kháng chiến vị nhân sinh thì các nhà thơ hiện nay đà có điều kiện vị nhân sinh
trên cơ sở vị nghệ thuật. Chức năng thẩm mỹ của thơ ca đ-ợc trả về với ý nghĩa đích thực
của nó. Khác với văn xuôi, ngôn từ thơ ca mang vẻ đẹp nội tại. Vì thế, đọc thơ hiện ®¹i, cã
thĨ ng-êi ®äc ch-a hiĨu ngay nh-ng vÉn thÊy hay, vẫn rung cảm tr-ớc những ám ảnh đầy

mê hoặc của âm điệu, tiết tấu, nhịp điệu độc đáo, đa dạng. Đó chính là xu h-ớng hiện đại
hóa ngôn ngữ th¬ ca. Nã chđ tr-¬ng mét thø th¬ vơt hiƯn, đề cao sức ám gợi của âm thanh,
của tiết tấu, của nhịp điệu; coi trọng giá trị tự thân của chữ, giải phóng ngôn từ thơ ca ra
khỏi những nguyên tắc từ ch-ơng cổ điển để kiến tạo một thứ ngôn ngữ thơ ca thuần khiết.
Ngôn ngữ thơ hiện đại không chỉ là ph-ơng tiện chuyển tải t- t-ởng mà còn có khả năng
tạo ra t- t-ởng. Do đó, thơ ca hiện đại đà đa dạng hơn về cách thức thể hiện, độc đáo hơn
trong cách chiếm lĩnh và lý giải hiện thực. Riêng ngôn ngữ thơ lục bát hiện ®¹i cịng thùc


13

sự đổi mới so với truyền thống. Thơ lục bát hiện đại có cái ngọt ngào, mềm mại của Huy
Cận, Ngun BÝnh, cã chÊt giäng bơi bỈm cđa Bïi ChÝ Vinh, có cách nói tài hoa theo giọng
xẩm ngọng của Nguyễn Duy, có cái ngang ngang, t-ng tửng của Đồng Đức Bốn, có cái mơ
hồ, kỳ ảo của Bùi Giáng,
1.2. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.2.1. Sự khác nhau giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi
Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, là nghệ thuật gợi tình
cảm, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc,
giàu hình ảnh và nhất là có nhạc điệu. Bàn về thơ, từ tr-ớc đến nay đà có nhiều cách
hiểu khác nhau.
Nguyễn Tuân cho rằng: Theo tôi nghĩ, thơ là ảnh, là nhân ảnh, thơ cũng là
loại cụ thể hữu hình. Nh-ng nó khác với cái cụ thể của văn. Cũng mọc lên từ cái
đống tài liệu thực tế, nh-ng từ một cái hữu hình mà nó thức dậy đ-ợc những cái vô
hình bao la, từ một cái điểm nhất định mà mở ra đ-ợc một cái diện không gian, thời
gian, trong đó nhịp mÃi lên một tấm lòng sứ điệp (Thời và thơ Tú X-ơng, Văn Nghệ,
5 - 1951).
Nhà thơ Sóng Hồng viết: Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi....
thơ là tình cảm và lý trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm
và lý trí ấy đ-ợc diễn đạt bằng những hình t-ợng đẹp đà qua những lời thơ trong

sáng vang lên nhịp điệu khác th-ờng.
L-u Trọng L- khi tiếp xúc quan điểm nghệ thuật của ph-ơng Tây ông viết: Thơ sở
dĩ là thơ, bởi vì nó súc tích gọn gàng, lời ít mà ý nhiều và nếu cần tố nghĩa chỉ vì thi nhân
không xuất hiện một cách trực tiếp, lời nói của thi nhân phải là hình ảnh.
ý kiến của Xuân Diệu: Cái cá tính cốt yếu của thơ là sự khó. Đó là quan niệm
mới nhất mà cũng đúng nhất. Vì sao, vì thơ thực sự là thơ thì phải cho thuần tuý
ng-ời thi sĩ gắng sức đi tìm thơ thuần tuý nghĩa là đi thu góp những cái tinh hoa,
những cái cốt yếu, cái lõi của sự vật. Vì vậy thơ phải súc tích, phải sánh lại nh- một
thứ thuốc nấu nhiều lần.
Chế Lan Viên nhận định: Làm thơ là làm sự phi th-ờng, thi sĩ không phải là ng-ời,
nó là ng-ời mơ, ng-ời say, ng-ời điên, nó là ng-ời tiên, là ma, là quỷ, là tinh, là yêu. Nó
thoát khỏi hiện tại, nó sáo trộn dĩ vÃng. Nó ôm trùm cả t-ơng lai.


14

Thiên về biểu hiện cảm xúc, hàm súc cô đọng, ngôn ngữ có nhịp điệu đó là
đặc tr-ng cơ bản của thơ. Khác với văn xuôi, thơ ca là thể loại chỉ dùng một l-ợng
hữu hạn các đơn vị ngôn ngữ để biểu hiện cái vô hạn của cuộc sống, bao gồm các sự
kiện của tự nhiên và xà hội cũng nh- tất cả các cung bậc tình cảm thầm kín, riêng tcủa con ng-ời. Để thực hiện thiên chức đó, thơ ca phải tính đến những kiểu tổ chức
đặc biệt. Nó là hình thức nghệ thuật dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh và có nhịp điệu để
biểu hiện nội dung một cách hàm xúc trong khi đó văn xuôi chỉ là hình thức ngôn
ngữ đ-ợc trau chuốt cho hay, cho đẹp.
Theo Nguyễn Phan Cảnh (2001), trong văn xuôi, lặp là một điều tối kỵ và ph-ơng
trình không đ-ợc xây dựng thành thông báo. Nh-ng chính cái điều mà văn xuôi rất kỵ ấy
lại là thủ pháp làm việc của thơ: trong thơ, tính t-ơng đồng của các đơn vị ngôn ngữ lại
đ-ợc dùng để xây dựng các đơn vị thông báo {6,52}. Sử dụng đặc tr-ng t-ơng đồng của
các đơn vị ngôn ngữ làm nên chiết đoạn tạo thành thông báo bao giờ cũng bao hàm sự
t-ơng đ-ơng về nghĩa {6,60}. Nghĩa là sức mạnh của cơ cấu lặp lại, của kiến trúc song song
chính là chỗ để tạo ra đ-ợc một sự láy lại song song trong t- t-ởng. Việc chức năng mỹ học

chiếm -u thế trong các thông báo thơ trong khi không loại trừ chức năng giao tế nh- thế, đÃ
làm cho thông báo thành ra đa nghĩa, có tính chất n-ớc đôi, thành ra nhập nhằng hiểu theo
nghĩa tích cực của từ này. Đây là điều quan trọng của thơ, tức là ý tại ngôn ngoại.
Tomasépky nhận xét: Ngôn ngữ trong thơ không dày đặc nh- trong văn xuôi,
mà chia cắt ra những phần ngắn hay dài theo âm luật. Các thành phần này đ-ợc
chia ra thành câu thơ và th-ờng th-ờng lại chia ra các dòng thơ nhỏ hơn. Cùng
chung một nội dung, khi Hồ Chủ tịch viết văn xuôi, Ng-ời viết: Bất kỳ đàn ông, đàn
bà, bất kỳ ng-ời già, ng-ời trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là ng-ời
Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu tỉ qc. Ai cã sóng dïng sóng,
ai cã g-¬m dïng g-ơm, không có g-ơm thì cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức
chống thực dân cứu nước. Khi làm thơ Bác viết:
Đàn ông nào
Đàn bà nào!
Kẻ có súng dùng sóng
KỴ cã dao dïng dao
KỴ cã cc dïng cc
KỴ cã cµo dïng cµo


15

Thấy Tây cứ chém phứa
Thấy Nhật cứ chặt nhào
Đoạn văn xuôi và đoạn thơ trên viết cách nhau gần bốn năm, về nội dung gần
trùng khớp nhau. Đoạn văn xuôi dày đặc thành một khối từ ngữ. Đoạn thơ thì bị chia
cắt thành các câu thơ, các dòng thơ ngắn gọn hơn.
Tác giả Gôntrarốp lại cho rằng: Cấu trúc âm thanh của ngôn ngữ văn xuôi chỉ
có một bình diện, nghĩa là ngữ điệu và giọng điệu trùng khít với nhau; còn ngữ điệu
và giọng điệu trong thơ không trùng khít với nhau. Trong thơ giọng điệu và ngữ điệu
(cụ thể là cách đọc) cho phép câu thơ đ-ợc ngắt nhịp tự do hơn văn xuôi. Do vậy, bản

thân giọng đọc và cách đọc cũng làm gia tăng l-ợng thông tin cho câu thơ ngoài giá
trị thông tin của văn bản. Chẳng hạn, độ cao thấp, nhanh hay chậm, khi đọc đoạn văn
xuôi trên là thống nhất ngữ điệu để thể hiện trong văn bản. Còn ở câu thơ có thể đọc
theo nhiều cách, theo nhiều cách ngắt nhịp, theo nhiều cách chia đoạn khác nhau. Do
đó có những chỗ nghỉ hơi, ngắt hơi và dài hơi t-ơng đối tự do hơn và sắc thái lúc biểu
hiện tình cảm trong từng khúc nhỏ cũng đa dạng hơn. Ví dụ, ta có thể đọc:
Đàn ông / nào/
Đàn bà / nào //
Giọng đọc có thể cao, mạnh, dứt khoát, có tính chất kêu gọi.
Kẻ có súng / dùng súng /
Kẻ có dao / dïng dao /
KỴ cã cc / dïng cc/
KỴ cã cào / dùng cào //
Giọng đọc khúc này có thể chậm rÃi, từ tốn hơn, tiết tấu điềm đạm hơn.
Thấy Tây /cứ chém phứa /
Thấy Nhật/ cứ chặt nhào //
Giọng đọc khúc này nhanh, kiên quyết, có tính chất mệnh lệnh, giục giÃ.
Toàn bộ đoạn này có ngữ điệu chung. Bản thân giọng đọc, cách đọc lại biến
hoá, đ-a thêm sắc thái riêng của ng-ời đọc, tạo thêm l-ợng thông tin cho đoạn thơ.
Thơ và văn xuôi còn khác nhau ở đặc tr-ng riêng. Mặc dù ngôn ngữ văn xuôi
và ngôn ngữ thơ đều thuộc loại ngôn ngữ của phong cách nghệ thuật nh-ng ngôn ngữ
thơ mang đặc tr-ng riêng là có tính nhạc. Tính nhạc đ-ợc tạo bởi nhiều yếu tố nh-:
kết cấu ngữ pháp, từ vựng ... nh-ng chủ yếu nó đ-ợc tạo bởi ba yếu tố cơ bản, đó là:


16

vần điệu, thanh điệu và nhịp điệu. Cũng khai thác ngôn ngữ tự nhiên nh-ng chỉ có
thơ mới có nhạc. Bởi vì trong ngôn ngữ thơ, các tham số thanh học của ngôn ngữ mới
đ-ợc tổ chức một cách chặt chÏ. C¸c tham sè thanh häc bao gåm: c¸c thuéc tính âm

thanh (độ cao, độ mạnh, độ dài) và các đơn vị âm thanh (nguyên âm, phụ âm). Các
thuộc tính âm thanh đ-ợc l-u giữ, truyền đạt trong khi tổ chức các quá trình thơ ca,
làm nên tiết tấu cho thơ. Các đơn vị âm thanh thì đ-ợc l-u giữ truyền đạt trong khi
tổ chức các quá trình thể loại làm nên vần thơ. Tác giả Nguyễn Phan Cảnh khẳng
định: Chính hiệu quả của tiết tấu và vần này mà đà chỉ cho phép xuất hiện các hợp
thành thi pháp ch-ơng trình hoá mang cơ chế tự điều chỉnh trong mình, thơ ca đà đi
vào quỹ đạo của những hệ bền vững {6,123}. Đồng thời, cũng d-ới hiệu quả này mà
chất liệu ngôn ngữ ở đây có nét riêng rất tiêu biểu là đặc tr-ng nhạc tính, t-ơng tự
nh- tiết tấu và hoà thanh trong âm nhạc. Nhiều bài thơ, do có tính nhạc đà trở thành
phần lời cho nhiều ca khúc.
Ngoài ra, giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi còn có một sự khác biệt
nữa, đó là ngôn ngữ văn xuôi cần sự chính xác - t-ờng minh, còn ngôn ngữ thơ lại
cần phải có sự đa nghĩa, có sự tiềm ẩn, hàm súc, sâu xa.
1.2.2. Thể thơ lục bát
1.2.2.1. Quá trình hình thành thể lục bát
Lục bát là một thể thơ truyền thống của dân tộc, mang cốt cách linh hồn ng-ời
Việt. Trong nền văn học dân tộc, thể thơ này có vai trò rất quan trọng, tạo ra sức
sống riêng cho văn học Việt Nam. Lục bát là thể thơ cách luật thuần tuý Việt Nam.
Nh-ng đà có ý kiến cho rằng đâu chỉ riêng ở dân tộc Việt mới có lục bát mà ngay cả
dân tộc khác cũng có lục bát nh- lục bát Chăm chẳng hạn. Thực ra, lục bát Chăm là
để chỉ thơ Ariya Chăm. Theo Insara, Ariya trong tiếng Chăm có nghÜa lµ: 1.
Tr-êng ca Ariya cam - Bini (Tr-êng ca chăm Bacni); 2. Thơ: Sakadha Ariya; 3. Thể
thơ: thể Ariya, cặp sáu - tám Chăm (Insara - lục bát Chăm) [ 35 ].
Ariya Chăm và lục bát Việt Nam theo phân tích của Insara có nhiều điểm khá
giống nhau nh-: a. đều có hiện t-ợng gieo vần l-ng; b. đều có thể gieo vần bằng và
vần trắc và thanh điệu phát triển khá thoải mái. Tuy nhiên, tiếng Chăm là một ngôn
ngữ đa âm tiết khác với tiếng Việt, số l-ợng đ-ợc đếm trong Ariya cũng khác. Hiện
nay, các nhà nghiên cứu cũng ch-a khẳng định đ-ợc lục bát Việt và Ariya Chăm thể



17

nào có tr-ớc thể nào có sau và cũng không biết dân tộc nào sinh ra nó. Nh-ng ta có
thể hiểu rằng giữa chúng có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
Lục bát có nguồn gốc lâu đời. Hiện nay cũng ch-a một nhà nghiên cứu nào
xác định đ-ợc niên đại ra đời của nó. Theo Phạm Đình Toái, người có lời tựa Quốc
âm từ điệu (1886) có nghĩa là từ thời Trần - Lê (TK XIII - XIV) lục bát đà đ-ợc
sáng tác rất nhiều. Trong thơ nôm đời Trần (TK XIII - XIV) trên các th- tịch còn ghi
lại ngày nay ng-ời ta thấy thể lục bát đ-ợc ghi lại rất sớm nhất là trong bài hát của
Lê Đức Mao (1462 - 1529) , xen kẽ giữa thể nói và song thất. Trần Danh án, trong
cuốn Nam phong giải trào cũng ghi được một số bài ca dao lục bát rút ra từ các bài
hát Cửa đình thời Lê. Từ các cứ liệu trên cho thấy thể lục bát đà khá phổ biến với
thơ nôm cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI. Các tác phẩm nôm đ-ợc dùng thể thơ này ở
cuối thế kỉ XVI là Lâm tuyền vÃn gồm (2000 câu) của Phùng Khắc Hoan, Ngoạ
long c-ơng vÃn (136 câu) và Tư dung vÃn (236 câu) của Đào Duy Từ. Cuối thế
kỉ XVI đầu thế kỉ XVII xuất hiện Thiên Nam ngữ lục một tập diễn ca dài 8136
câu lục bát. Nếu ở giai đoạn này (XIII - XVII) , thơ lục bát phát triển mạnh và đạt
đến trình độ cổ điển. Lục bát là thể thơ đ-ợc dùng chủ yếu trong ca dao. Thực tế
thống kê từ cuốn Tục ngữ, ca dao, dân ca của Vũ Ngọc Phan in lần thứ 8 (1978)
trong đó có 1585 bài ca dao thì có tới 1282 bài đ-ợc sáng tác theo thể lục bát và lục
bát biến thể chiếm 90%. Bên cạnh đó, lục bát còn vận dụng rất nhiều trong sáng tác
văn học nhất là các tác phẩm truyện nôm và đỉnh cao là Truyện Kiều của Nguyễn
Du. Đây là một kiệt tác có giá trị nghệ thuật đà đ-a thể loại lục bát đạt đến trình độ
cổ điển. Trong văn học nôm bác học thời trung đại về sau, lục bát vẫn tiếp tục phát
triển và đ-ợc mọi ng-ời yêu thích và cho đến nay lục bát vẫn là thể thơ đ-ợc sử dụng
và vận dụng nhiều. Phải chăng, lục bát là một thể thơ diễn tả đ-ợc nhịp điệu của cảm
xúc, của những diễn biến tâm lý hết sức tinh tế và sâu lắng, thể hiện đa dạng, phong
phú hiện thực cuộc sống, với nhịp điệu uyển chuyển, linh hoạt, không gò bó, không
hạn định về độ dài ngắn nên lục bát trở thành một thể loại tin dùng và đ-ợc dùng phổ
biến trong văn học và đ-ợc rất nhiều quần chúng yêu thích. Đúng nh- lời nhận xét

của Cao Huy Đỉnh: Từ thế kỉ XVII lục bát trở nên vạn năng, dùng để diễn tả mọi thứ
cảm nghĩ, tự sự, trữ tình, nghị luận cũng nh- diễn kịch dù dung l-ợng dài ngắn, rộng
hẹp, khó dễ đến đâu cũng thích nghi ®-ỵc [19].


18

Lục bát là một thể thơ đa chức năng với sự biểu hiện phong phú nhiều loại
hình nội dung nh-ng lục bát cũng nh- các thể loại khác luôn lựa chọn và chiếm -u
thế riêng của mình trong biểu đạt nội dung cụ thể nào đó. Mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn
phát triển của lịch sử khác nhau thì chức năng và thể loại của lục bát cũng có những
nét khác nhau. Trong văn học trung đại, giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX,
các nhà thơ đà phát huy tối đa sức mạnh tự sự của thơ lục bát. Lịch sử thơ ca giai
đoạn này đà chứng kiến sự nở rộ của thể loại thơ nôm với những tác phẩm xuất sắc
nh- Tống Trân Quốc Hoa, Lục Vân Tiên, đặc biệt là Truyện Kiều. Đây là tác phẩm
đà đ-ợc phát phát triển thành truyện trong đó diễn ra nhiỊu biÕn cè, sù kiƯn cã th¾t
nót, më nót và mỗi nhân vật là một số phận. Nghĩa là một câu chuyện hoàn chỉnh, có
tình tiết hẳn hoi và câu chuyện đà diễn nôm, diễn ca bằng thể loại lục bát. Thực ra,
ng-ời ta không thể diễn nôm bằng các thể loại khác. Từ thế kỉ XVIII trở về tr-ớc,
ng-ời ta đà dùng thể Đ-ờng luật để kể chuyện nh-ng thể thơ Đ-ờng luật với nhiều
bài đ-ợc xây dựng theo lối liên hoàn khép kín khiến cho tác phẩm trở nên rời rạc,
vụn vặt, cắt nhỏ nội dung thành những câu chuyện nhỏ. Mặt khác, nó lại quá nặng về
trữ tình, với những hạn chế này đà cản sự tích cực của thể thơ đ-ờng luật trong vai
trò kể chuyện. Có lẽ, đây là thử nghiệm của truyện nôm nh-ng không thành công. Vì
vậy, lục bát tỏ ra thích hợp hơn cả với vai trò này và đây chính chức năng chủ yếu
của lục bát trung đại. Bên cạnh chức năng tự sự, thể thơ lục bát còn chứng tỏ chức
năng bộc lộ cảm xúc trữ tình. Hầu hết, truyện nôm đều sử dụng thể loại lục bát vì nó
tỏ ra rất thích hợp cho việc tự sự. Mặt khác, nó cũng cho phép việc trữ tình thể hiện
tâm trạng.
Tóm lại, thể lục bát trong lịch sử thơ ca và văn học dân tộc từ xa x-a cho đến

hiện nay vẫn là thể đ-ợc -a chuộng và có rất nhiều nhà thơ lựa chọn thể loại này để
sáng tác.
1.2.2.2. Vận luật của thể lục bát
Từ tr-ớc đến nay, lục bát là thể thơ đ-ợc các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều
nhất. Hầu nh- các nhà nghiên cứu đà đề cËp hÕt mäi vÊn ®Ị vỊ lý ln cđa thĨ thơ lục
bát nh- vần, nhịp, luật phối thanh, các biến thể Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ sẽ thấy
còn rÊt nhiỊu vÊn ®Ị ch-a cã ý kiÕn thèng nhÊt, nhất là vận luật và âm luật. Theo tác
giả Nguyễn Tài Cẩn và Võ Bình, muốn hiểu vận luật của thể thơ lục bát không thể
dùng khái niệm bài, khác với thể thất ngôn bát cú. Vì thể lục bát thoát thai từ văn học
dân gian nên đơn vị tế bào của nó là cặp 6 - 8. Do đó, một tác phẩm lục bát (bài)


19

gồm nhiều chu kỳ lặp đi lặp lại; mỗi chu kỳ nh- vậy tạo thành một đơn vị tế bào, tức
là một chỉnh thể tối thiểu, vậy là thể thơ lục bát khác với tác phẩm lục bát. Bài lục
bát đơn giản nhất (gồm một chu kỳ) bao giờ cũng có hình thức 6 + 8, tức là đơn vị có
độ dài 14 tiếng: mở đầu bằng một dòng 6 và kết thúc bằng một dòng 8. Cặp 6 - 8 là
một đơn vị tế bào, một chỉnh thể tối thiểu của thể thơ lục bát. Tiếp theo, thành tố trực
tiếp của đơn vị tối thiểu là dòng thơ. Kết quả phân tích về mặt bằng trắc và về mặt
vần cho thấy đằng sau tiếng thứ 6 quả có một đ-ờng ranh giới cấu trúc đi qua, tách 6
tiếng đầu thành một bộ phận riêng (sau tiếng thứ 6 là một chỗ nghỉ hơi khá rõ), sau
tiếng thứ 6 cũng là chấm dứt quy tắc luân phiên thanh điệu của bộ phận tr-ớc.
Việc cắt đôi chu kỳ thành dòng 6, dòng 8 là có cơ sở vận luật rõ ràng và cái gọi là
dòng đúng là một khái niệm chỉ thành tố trực tiếp của đơn vị tối thiểu. D-ới dòng là
b-ớc thơ. Thành tố trực tiếp của b-ớc thơ là vị trí của tiếng. Dòng 6 gồm ba b-ớc: 2 - 2 2, cßn dßng 8 gåm bèn b-íc 2 - 2 - 2 - 2. Căn cứ chủ yếu để cắt dòng thành b-ớc thơ là
quy tắc chi phối sự nhấn mạnh và sự luân phiên thanh điệu ở các tiếng thứ 2, thứ 4 (cả
dòng 6 và dòng 8) cũng nh- quy tắc luân phiên thanh điệu và hiệp vần ở các tiếng thứ 6
(cả hai dòng) và tiếng thứ 8 (của dòng 8). Quy tắc đó dẫn đến hệ quả là xem các tiếng ở
các tiếng ở các vị trí 2, 4, 6, 8 nh- là những tiếng quan trọng, đ-ợc phát âm rõ hơn và có

vai trò đặc biệt hơn: vai trò làm cột mốc để chia cắt dòng thơ thành các b-ớc thơ. Hệ quả
tiếp theo là, trong mỗi b-ớc tồn tại hai vị trí: đà tách các vị trí 2, 4, 6, 8 xem là quan trọng
thì các vị trí 1, 3, 5, 7 cũng đ-ợc tách ra. Các b-ớc trong lục bát nói chung có độ dài nhnhau, b-ớc nào cũng gồm hai tiếng. Không phải ngẫu nhiên mà từ lâu ng-ời ta đà rút ra
nhận định khái quát là thơ tiếng Việt -a nhịp chẵn, tr-ớc hết đ-ợc thể hiện ở lục bát. Về
hiệp vần, trong thơ lục bát có hai loại vần: vần l-ng và vần chân và hiệp vần là để kết hợp.
Cụ thể, vần chân (cuối dòng 6) và vần l-ng (giữa dòng 8) là sự kết hợp dòng với dòng để
tạo thành chu kỳ. Còn vần chân (cuối dòng 6) chính là vần có chức năng làm ph-ơng thức
trực tiếp nối với chu kỳ tr-ớc, còn vần chân (cuối dòng 8) chính là vần có chức năng làm
ph-ơng thức nối chặt với chu kỳ sau. Nh- vậy, nếu coi mỗi tác phẩm lục bát nh- một tập
hợp những chu kỳ, những cặp 6 - 8 thì những chu kỳ này kết hợp với nhau một cách hữu
cơ nhờ ph-ơng thức hiệp vần. Về phối thanh và nhịp trong thơ lục bát chúng tôi sẽ trình
bày ở phần tiếp sau.
1.2.3. Nhịp và nhịp trong thơ lục bát
1.2.3.1. Khái niƯm nhÞp


20

Nhịp có vài trò rất quan trọng để tạo ra tính nhạc cho thơ. Từ tr-ớc đến nay,
giới nghiên cứu vẫn ch-a có một quan điểm hay một định nghĩa nào thống nhất phổ
quát về nhịp nói chung và nhịp trong thơ nói riêng.
Nhịp là x-ơng sống của thơ; thơ có thể bỏ vần, bỏ quan hệ đều đặn về số chữ,
bỏ mọi quy luật bằng trắc, nh-ng không thể vứt bỏ nhịp. Theo cách hiểu giÃn đơn:
Nhịp là kết quả của một sự chuyển động nhịp nhàng, sự lặp lại những âm tiết nào đó
trong thơ {9, 248}. Do đó, nhịp thơ phải đánh dấu bằng chỗ ngừng, chỗ ngắt trong
dòng thơ, trong việc tổ chức âm thanh của thơ. Nhịp điệu thơ xuất hiện trên cơ sở
nhịp lao động, nhịp cơ thể con ng-ời. Nhịp điệu còn là ph-ơng tiện quan trọng để tổ
chức hình thức nghệ thuật trong văn học. Nhịp thơ trên sự lặp lại có tính chất chu kỳ,
cách quÃng, luân phiên các yếu tố t-ơng đồng trong thời gian hay quá trình nhằm
chia tách và kết hợp các ấn t-ợng thẩm mỹ.

Trong văn học, Nhịp điệu là sự lặp lại cách quÃng đều đặn và có thay đổi tạo
ra cảm giác vận động của sự sống, chống lại sự đơn điệu của văn bản nghệ thuật
{26}
Nhà thơ Sóng Hồng đà viết:
Vần hay không tôi vẫn cho là thứ yếu
Nh-ng vắng âm thanh réo rắt khó thành thơ
Không âm thanh hình t-ợng, chấp cánh -ớc mơ
Thì thơ đó còn thua về một chút.
(Gửi nhà thơ trẻ)
Thơ là lĩnh vực thể hiện tình cảm rất mÃnh liệt, là thế giới tâm hồn con ng-ời. Mỗi
trạng thái rung động là biến thái tinh vi của cảm xúc, tất cả đều ảnh h-ởng rất lớn đến nhịp
trong thơ. Trumannepxki nhận định: Nhịp điệu của bài thơ trên bản chất, chất liệu ngôn
ngữ, dù có cấu tạo bài thơ riêng biệt và có đặc thù bao nhiêu đi nữa thì cơ cấu ấy cũng
thuộc về một ngôn ngữ và không lặp lại ngoài giới hạn của các hình thức dân tộc trong lời
nói. (Dẫn theo Bùi Công Hùng, 1983, tr 168)
Để khẳng định thêm phần quan trọng của nhịp thì trong Làm thơ nh- thế
nào? Maiacôpxki cũng đà nói rõ vai trò của nhịp: Nhịp là sức mạnh cơ bản, năng
l-ợng cơ bản của câu thơ. Sự ngắt đoạn và ngắt nhịp của bài thơ hệ trọng hơn việc
chấm câu đ-ợc dùng cho khuôn sáo cũ, nó phải đ-ợc phục tùng ngắt đoạn và nhịp là
sáng tạo những khoÃng cách và tổ chức thời gian phải đ-ợc dựa trên quy tắc cơ bản


21

của mọi sách giáo khoa thực hành về thơ. Việc thể hiện nhịp trong thơ, thể hiện bản
sắc của từng nhà thơ.
Nhịp trong thơ xuất hiện trên cơ sở lao động, dựa vào hơi thơ gắn liền với
trạng thái cảm xúc, là sự nối tiếp của các tiếng xếp thành khung đều đặn của giọng
theo thời gian. Lúc đầu là khiêu vũ, thơ ca âm nhạc nói chung và nguồn gốc sự vận
động nhịp nhàng của con ng-ời nói chung là trong lao động. Trong bài hát, lời thơ

làm thành nội dung của âm nhạc, âm nhạc là hình thức của thơ rồi tách dần ra.. Thơ
thể hiện sự rung động nội tâm của riêng nó, xuất phát từ tâm trạng, cảm xúc của con
ng-ời. Các nhà tâm lý học đà khẳng định: Khi vui vẻ ta thở 17 nhịp/phút, khi buồn,
chán nản ta thở 9 nhịp/phút, khi sợ hÃi 64 nhịp/ phút, và khi tức giận 10 nhịp/phút.
Nhịp điệu dù tính theo đơn vị nào cũng gắn với cảm xúc và t- duy đ-ợc diễn
đạt qua lời thơ. Timôfiep đà nói rất đúng: Đơn vị có nhịp điệu không thể tách ra khỏi
lời nói, nghĩa là đơn vị của ngữ nghĩa và ngữ điệu (Sơ thảo nguyên lý và lịch sử thơ
Nga, phần I, ch-ơng I). Ngoài ra, các nhà thơ còn xác định nhịp điệu nh- là sự rung
động của tâm hồn, thoát khỏi những đều đặn, cân đối, không phải sự chia cắt, lặp lại
và luôn có xu h-ớng khát vọng, giao hoà và lan toả.
Trong bài mấy ý nghĩa về thơ (1949) Nguyễn Đình Thi quan niệm: Nhịp điệu
của thơ không những là nhịp điệu bằng bằng, trắc trắc, lên bỗng, xuống trầm của
tiếng đàn bên tai. Thơ có một thứ nhạc nữa, một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ
nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, nói chung là của tâm hồn. Đó là nhịp điệu hình thành
của những cảm xúc, hình ảnh liên tiếp hoà hợp mà những tiếng và chữ gợi ra nhnhững ngân vang dài ngay nh-ng khoÃng lung linh giữa chữ, những khoảng lặng
cũng là nơi trú ngụ kín đáo của xúc động. Theo quan niệm đó, nhịp điệu không
những trùng với âm luật, không cần giúp đỡ của thanh điệu mà nó tự tạo ra những
yếu tố tự do phù hợp. Với rung động của tâm hồn, nhịp điệu không thể là những
khuôn mẫu buồn tẻ mà tr-ớc hết là tất cả.
Nh- vậy, ng-ời nghệ sĩ là ng-ời sáng tạo ra nhịp thơ cảm xúc của chính tâm
hồn mình. Từ đó làm nên giọng điệu riêng của tác giả, tác phẩm. Chính vì thế, nhịp
điệu có ý nghĩa quan trọng đối với thơ, nó nh- nguồn sức mạnh thổi thêm sinh lực
cho thơ. Thơ không có nhịp thì thơ không còn là thơ nữa. Tuy nhiên trong thơ không
hoàn toàn chịu sự gò bó của các thể thơ mà nhịp của nó có thể thay đổi theo nhiều
yếu tố khác nhau.


22

Nh- vậy, trong thơ, nhịp điệu mang tính đặc thù. Nó là x-ơng sống của dòng

thơ, đoạn thơ, bài thơ, là kết quả hòa phối âm thanh đ-ợc tạo ra từ sự ngắt nhịp. Nhịp
điệu đ-ợc xem xét từ cơ sở hình thành đó là sự ng-ng nghỉ theo một cách thức nhất
định khi phát âm. Cho đến nay, ngắt nhịp trong thơ gồm hai loại: ngắt nhịp cú pháp
và ngắt nhịp tâm lý. Hai loại nhịp này có khi hòa quyện với nhau, có khi tách rời tùy
thuộc vào cấu trúc ngôn ngữ của dòng thơ, thể thơ và cảm hứng. Nhịp điệu là thông
số quan trọng cho phép ng-ời đọc nhận ra những đặc tr-ng của mỗi bài thơ, mỗi tác
giả và mỗi thời đại. Hơn nữa, nhịp điệu là nhân tố quan trọng nhất trong các nhân tố
tạo nên nhạc điệu cho thơ, phân biệt thơ khác với văn xuôi. Theo chúng tôi, nhịp thơ
là cái đ-ợc nhận thức thông qua toàn bộ sự lặp lại có tính chất chu kỳ, cách quảng
hoặc luân phiên theo thời gian của những chỗ ngừng, chỗ ngắt của những đơn vị văn
bản nh- dòng thơ (câu thơ), khổ thơ, thậm chí đoạn thơ. Nh- vậy, yếu tố tạo nên nhịp
điệu quan trọng nhất ở đây là những chỗ ngừng, chỗ ngắt trong sự phân bố mau th-a,
đa dạng của chúng, là độ dài ngắn khác nhau của các quảng nghỉ hơi sau mỗi câu
thơ, khổ thơ, đoạn thơ. Thiên về cảm xúc một cách hàm xúc, cô đọng, giàu nhịp điệu
là đặc tr-ng cơ bản của ngôn ngữ thơ. Mây Lăc đà nhận xét: từ những suy t- chiêm
nghiệm của các nhà thơ khác nhau, có thể kết luận đ-ợc rằng trong việc làm thơ, vần
luật và nhịp điệu nảy sinh một cách tự nhiên, một cách tự thân nh- là một thành tố
của quá trình sáng tạo do dự đồ chung quy định (T/c văn học, 1981, số 2). Còn các
nhà hình thức luận Nga thì cho rằng thiếu vần, thơ có thể tồn tại nh-ng thiếu nhịp
điệu thì không phải là thơ. Ngôn ngữ thơ, đó là sự chia khổ, phân dòng, gieo vần,
ngắt nhịp, phối thanh tạo nên những mô hình âm thanh lặp đi lặp lại ở các câu thơ.
Dĩ nhiên, văn xuôi cũng có nhịp điệu nh-ng nhịp điệu thơ khác nhịp điệu văn xuôi
một cách căn bản. Trong thơ có sự ngắt nhịp, phân dòng, chia khổ tạo ra những giải
phân cắt đều đặn các chiết đoạn âm thanh và ở đó có sự lặp lại một cách đều đặn
cách ngắt nhịp, gieo vần, hòa thanh còn trong văn xuôi thì không có những tổ chức
dòng, khổ đặc biệt nh- thế. Dòng ngôn từ trong văn xuôi đ-ợc chia thành các câu và
đoạn câu vốn có ở lời nói hàng ngày nh-ng đà đ-ợc tu chỉnh lại. Nghĩa là nhịp điệu
trong văn xuôi gần với nhịp điệu của lời nói hàng ngày, không đi theo một khuôn
hình nhất định. Tóm lại, thơ là một cấu trúc đặc biệt đ-ợc đặc tr-ng bởi sự phụ thuộc
của toàn thể các yếu tố vào nguyên tắc nhịp điệu. Mỗi thể thơ có một cấu trúc nhịp



23

điệu riêng. Sự đều đặn có tính ổn định của những mô hình nhịp điệu đà đ-ợc nâng
lên để xác lập các mô hình thi luật cho các khổ thơ khác nhau.
1.2.3.2. Nhịp trong thơ lục bát
Lục bát là thể thơ dân tộc đ-ợc hoàn thiện vào thế kỷ XVIII với đỉnh cao là
truyện Kiều Nguyễn Du. Lục bát có những nét riêng biệt về lối gieo vần và về lối
ngắt nhịp. Nhịp điệu của câu thơ lục bát đ-ợc thể hiện hoàn chỉnh qua hai dòng thơ:
sự kết hợp giữa hai loại vần chân và vần l-ng và th-ờng đ-ợc gieo ở vị trí chẵn đà tạo
cho thể lục bát một âm h-ởng và một nhịp điệu riêng, đặc biệt là vần chân cũng nhvần l-ng bao giờ cũng hiệp vần với thanh bằng. Tiếng cuối của câu lục hiệp với tiếng
thứ 6 của câu bát, rồi tiếng cuối của câu bát hiệp với tiếng thứ 6 của câu lục nên câu
bát có hai vần, vần l-ng ở tiếng thứ 6 và vần chân ở tiếng thứ 8. Trong đó nhịp đôi là
nhịp cơ sở. Về thanh, th-ờng tiếng thứ 2 là thanh nặng, tiếng thứ 4 là thanh trắc,
tiếng thứ 6 và tiếng thứ 8 là thanh bằng. ở những vị trí còn lại là tự do. Có thể xem
qua bảng sơ đồ:
Vị trí
Dòng
thơ

1

2

3

4

5


6

Câu lục

-

Bằng

-

Trắc

-

Bằng

Câu bát

-

Bằng

-

Trắc

-

Bằng


7

8

-

Bằng

Xét về tính hoàn chỉnh của thể lục bát, về mặt ngữ nghĩa cũng nh- về âm và
ngữ điệu thì cặp lục bát m-ời bốn tiếng đ-ợc coi nh- là một đơn nhịp điệu, một
chỉnh thể về nhịp. Trong đơn vị đó lại có thể ngắt từng tiết tấu tuỳ theo cách diễn
đạt của các câu thơ Nhưng không phá vỡ nhịp điệu của câu thơ, xét trong toàn bộ
kết cấu của nó (Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức, Thơ ca Việt Nam hình thức và thể
loại, 2006). Nói nh- thế, không có nghĩa là chia câu thơ ra một cách máy móc từng
đôi một. Câu lục 2/2/2, câu bát 2/2/2/2. Tuy nhiên đây cũng là nhịp cơ bản và phổ
biến trong thơ lục bát.
Một số thể thơ cách luật, ngắt nhịp bị chi phối bởi yếu tố tâm lý và cấu trúc âm điệu.
Đối với thơ lục bát, sự ngắt nhịp tr-ớc hết diễn ra d-ới áp lực của vần l-ng vµ xu h-íng
song tiÕt hãa - vèn lµ thãi quen nói năng của ng-ời Việt. Vì vậy, trong thơ lục bát, lúc nào


24

cũng chứa đựng một loại nhịp đặc thù: nhịp tâm lý. Nhịp tâm lý có nguồn gốc là nhịp lẻ bị
đồng hóa bởi tính nhịp nhàng của nhịp đôi trong từng dòng thơ và giữa các cặp 6 - 8 với
nhau. Về điểm này, lục bát chứa đựng tất cả dấu ấn và đặc tr-ng ngữ âm của tiếng Việt.
Các kết quả nghiên cứu lâu nay đà đi đến nhận định, nhịp 2 - 2 - 2 và nhịp 2 - 2 - 2 - 2 có cơ
sở tồn tại khách quan là xu h-ớng song tiết hóa trong tiếng Việt chiếm địa vị chủ đạo qua
những cấu trúc ngôn ngữ phổ biến nh- từ láy đôi, từ ghép hai âm tiết,... Nh- vậy, tiết điệu

nhịp đôi đà hình thành từ lâu và là nét khác biệt của tiếng Việt. Loại nhịp này dễ dàng
t-ơng hợp với mỗi dòng thơ lục bát vốn có số tiếng chẵn. Bên cạnh đó là sự chi phối của
nhịp cuối trong dòng bát do tồn tại vần l-ng với t- cách là một nốt nhấn trong dòng chảy
nhịp điệu của dòng thơ. Dĩ nhiên, cấu trúc tiếng Việt không loại trừ nhịp lẻ mặc dù loại
nhịp này không chiếm -u thế. Vì vậy, nhịp lẻ xuất hiện phải là nhịp lẻ cân đối 3 - 3, sau đó
mới đến nhịp lẻ độc lập, tức là nhịp lẻ không liên kết với một nhịp lẻ t-ơng tự trên cùng một
dòng thơ. Nh- vậy, nhịp lẻ độc lập và nhịp lẻ cân đối đ-ợc xem là những biến cách và
không phổ biến ở thể thơ lục bát. ở thể thơ này, nhịp chẵn có -u thế là tạo đ-ợc sự nhịp
nhàng, cân đối nh-ng lại dễ tạo nên cảm giác đơn điệu, tẻ nhạt. Nh-ng với sự ổn định của
vần l-ng ở dòng bát (vị trí thứ 6) nên nhịp chẵn là nền móng tạo nên nhịp điệu cho thể thơ
này. Các tác giả Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức [50] đà khái quát thành 6 dạng nhịp
dòng lục và 10 dạng nhịp dòng bát điển hình. Sáu dạng nhịp dòng lục là: S = 6; S1 = 2 + 2 +
2; S2 = 2 + 4; S3 = 4 + 2; S4 = 3 + 3; S5 = 1 + 5. Còn 10 dạng nhịp dòng bát là: t = 2 + 2+ 2 +
2; t1 = 2 + 6; t2 = 6 + 2; t3 = 4 + 4; t4 = 3 + 5; t5 = 5 + 3; t6 = 1 + 7; t7 = 2 + 4 + 2; t8 = 1 + 3 +
4; t9 = 2 + 2 + 4. Trong 16 dạng nhịp trên có 6 dạng nhịp lẻ. Con số này cũng phần nào
chứng tỏ -u thế bền vững của nhịp chẵn. Việc nghiên cứu sự xuất hiện của nhịp lẻ trên cái
nền của nhịp chẵn cũng có thể cho ta biết những biểu hiện và sự vận động trong hình thức
thơ lục bát.
Với cách ngắt nhịp theo khuôn thi điệu quen thuộc, đà trở thành khuôn mẫu
sẵn trong thơ lục bát nên nhịp điệu trong thơ lục bát nói chung dễ đơn điệu và tẻ
nhạt. Câu lục th-ờng có hai cách ngắt nhịp 2/2/2 và 3/3, câu bát cũng th-ờng có hai
cách ngắt nhịp 2/2/2/2 và 4/4. Cho nên, đọc thơ lục bát dễ bị trôi theo khuôn sáo thi
điệu. Chính vì thế, nếu không cách tân thi điệu trở thành phong phú, đa dạng thì lục
bát dễ rơi vào gò bó và đơn điệu. Nhịp của bài thơ lục bát cũng nh- nhịp của một bản
nhạc, trên cái nhịp cơ bản đó tạo ra những biến thiên khác để đem đến tính đa dạng.


25

Nh- vậy, từ nhịp của câu lục là 2/2/2 và 3/3; câu bát là 2/2/2/2 và 4/4, các nhà

thơ đà tạo ra nhiều cách ngắt nhịp cho thơ lục bát và cũng chính từ đó mà thơ lục bát
có chức năng biến hoá theo nhiều dạng khác nhau.
1.2.4. Vai trò của nhịp điệu trong thơ
Đánh giá về nhịp trong thơ, lâu nay các nhà nghiên cứu đà có nhiều ý kiến
khác nhau. Chẳng hạn, theo Đinh Văn Đức: Nhịp thơ là một trong những yếu tố quan
trọng tạo nên tiết tấu, giai điệu, âm h-ởng trong câu thơ, có giá trị góp phần khu biệt
thi ca với văn xuôi [20,915]. Tác giả Nguyễn Trung Thu khẳng định: X-a nay dù làm
thơ theo kiểu nào đi nữa ng-ời ta cũng không thể bỏ quên nhịp. ở n-ớc ngoài cũng
nh- ở n-ớc ta, những ng-ời ủng hộ nhiều nhất cho thơ không vần cũng khẳng định
vai trò của nhịp không thể thiếu đ-ợc đối với thơ. Thơ có thể thiếu vần, nh-ng thiếu
nhịp thì thơ không còn là thơ nữa (Nhạc điệu thơ Tố Hữu, Nghiên cứu bình luận thơ
Tố Hữu, Nxb, VHTT, 2006, Tr 228). Maiacôpxki cho rằng: Nhịp điệu là sức mạnh
cơ bản, năng lực cơ bản của câu thơ, không giải thích đ-ợc nó đâu, chỉ có thể nói về
nhịp điệu nh- nói về lực hay từ điện - đó là những dạng năng l-ợng. (Dẫn Bùi Công
Hùng, 1998). Thơ là một cấu trúc đặc biệt đ-ợc đặc tr-ng bởi sự phụ thuộc của toàn
thể các yếu tố vào nguyên tắc nhịp điệu. Hay nói cách khác, trong thơ, nhịp là nhân
tố cấu trúc. Do đó, nhịp là x-ơng sèng cđa th¬. NÕu nh- th¬ cã mét tø th¬ thực hay
chỉ cần có nhịp là đủ, vần luật không cần cho lắm. Tự thân cái tứ thơ hết sức nên thơ
trên cơ sở nhịp có thể hoán cải tất cả để đem đến cho bài thơ cái vẻ hoàn chỉnh nên
thơ. Nh-ng nếu tứ thơ thuộc loại trung bình khá mà vứt bỏ vần luật thì chắc chắn là
hỏng. Trong tr-ờng hợp tứ thơ không siêu việt cho lắm thì nhịp lại hết sức cần thiết
vì nó đà đem lại tính đa dạng và thúc đẩy sự suy nghĩ, tạo nên một kiểu lựa chọn có
giá trị biểu cảm trong thơ. Nh- vậy, nhịp điệu trong thơ có một vai trò hết sức quan
trọng. Nó luôn có tác động nâng đỡ cảm xúc, làm tăng thêm sức biểu đạt trong thơ.
Mặt khác, cùng với vần và thanh điệu, nhịp góp phần tạo nên giai điệu, tính nhạc cho
thơ. Với mỗi cách ngắt nhịp khác nhau ta sẽ có các tiết tấu, cung bậc khác nhau. Với
thơ cũ, nhịp câu thơ xuất hiện trên cơ sở lặp lại và luân phiên các đơn vị âm luật theo
sự cấu tạo của ngôn ngữ. Cách ngắt nhịp này một phần do tâm lí sáng tác theo khuôn
mẫu, một phần để tuân thủ các quy tắc vận luật của thơ Đ-ờng. Còn các nhà thơ hiện
đại nh- Nguyễn Bính, Huy Cận, Tố Hữu, Chế Lan Viên không chỉ kế thừa cách



×