Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.68 KB, 33 trang )

Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
Lời nói đầu
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là một chủ trương
lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo công ăn việc
làm, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, tạo tiền đề để giải quyết hàng loạt các
vấn đề chính trị và xã hội của đất nước, đưa nông thôn nước ta tiến lên văn minh,
hiện đại. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định, phải “đặc biệt coi trọng công
nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn”. Trong những năm gần đây,
nhờ có “ đổi mới”, nông nghiệp và nông thôn nước ta đã đạt được những thành tựu
đáng khích lệ. Tuy vậy, nông nghiệp và nông thôn hiện nay đang đứng trước
những thách thức to lớn, có nhiều vấn đề về sản xuất và đời sống của nông dân
đang nổi lên gay gắt:
Một là, kết qủa sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp còn chịu ảnh hưởng nặng nề
bởi thiên tai, cho đến nay ta chưa chủ động hạn chế được.
Hai là, trình độ sản xuất và công nghệ còn thấp kém, năng suất chất lượng
hàng nông, lâm, thuỷ sản, nhất là hàng chế biến xuất khẩu chưa đủ sức cạnh tranh
trong hội nhập với khu vực và thế giới.
Ba là, cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông và thị trường giao lưu hàng hoá
phát triển chậm, làm cho nông sản hàng hoá tuy chưa nhiều nhưng tiêu thụ đang
rất khó khăn, người sản xuất dễ bị thua lỗ.
Bốn là, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch chậm và cơ bản
vẫn là thuần nông, tỷ trọng ngành nghề dịch vụ còn rất thấp.
Năm là, tốc độ tăng dân số ở nông thôn còn ở mức cao và cao hơn thành
thị, lao động, việc làm, thu nhập đang là vấn đề bức xúc hiện nay ở nông thôn.
Đứng trước những vấn đề trên, đẩy nhanh tiến độ thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là nhu cầu rất cấp thiễt.
1
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
Nội dung
I, Thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá và công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp nông thôn.


1. Cơ sở lí luận về công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.1. Vấn đề lí luận chung.
Mỗi một phương thức sản xuất có một cơ sở vật chất - kỹ thuật ( CSVC-
KT ) tương ứng. CSVC-KT của một phương thức sản xuất là hệ thống các
yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật
( công nghệ ) tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra
của cải vật chất đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Căn cứ để đánh giá trình độ CSVC-KT của một phương thức sản xuất là:
+Trình độ của lực lượng sản xuất.
+ Trình độ của khoa học – kỹ thuật và công nghệ.
CSVC-KT của các phương thức sản xuất ( PTSX ) trước chủ nghĩa tư
bản( CNTB ) là các công cụ thủ công nhỏ bé, lạc hậu. CSVC-KT của CNTB
là nền đại công nghiệp cơ khí hoá. Chỉ đến khi xây dựng xong nền đại công
nghiệp cơ khí hoá, CNTB mới khẳng định được sự chiến thắng của nó đối với
các PTSX trước đó. Trong lịch sử, CNTB lần đầu tiên khẳng định được địa vị
thống trị của nó ở nước Anh vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, khi
mà cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất được hoàn thành: lao động thủ công
được thay thế bằng lao động cơ khí hoá.
Về mặt lôgic, CNXH là giai đoạn đầu của một PTSX mới cao hơn
CNTB, vì vậy nó đòi hỏi phải có một CSVC-KT mới cao hơn, tức là CSVC-
KT đó không chỉ là nền đại công nghiệp cơ khí mà CNTB đã đạt được vào
cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Thời đại ngày nay cuộc cách mạng
2
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
khoa học và công nghệ đang tác động một cách mạnh mẽ trên phạm vi toàn
thế giới làm biến đổi một cách sâu sắc cơ cấu lực lượng sản xuất và cơ cấu
kinh tế. Những dạng vật chất truyền thống đang dần được thay thế bằng
những dạng vật chất nhẹ, ngắn, mỏng, thấp với những tính năng và tác dụng
đôi khi vượt quá sức tưởng tượng của con người. Cơ cấu kinh tế cũng đang
có sự biến đổi sâu sắc: Tỷ trọng của các nghành sản xuất vật chất trong cơ

cấu tổng sản phẩm quốc dân ngày càng giảm, tỷ trọng các nghành dịch vụ và
phi sản xuất vật chất khác ngày càng tăng nhanh hơn. Năng suất lao động
tăng nhanh nhưng liền với đó là tính vô chính phủ trong phát triển kinh tế của
CNTB cũng bộc lộ ngày càng gay gắt. Điều đó nói lên rằng, những đIều kiện
vật chất mà CNTB đã tạo ra là to lớn nhưng vẫn chưa hội tụ đủ những yếu tố
cần thiết cho CSVC- KT của CNXH. CSVC-KT cho CNXH đòi hỏi phải hội
tụ đủ yếu tố hiện đại của cách mạng khoa học và công nghệ, yếu tố kế hoạch
để khắc phục cho tính vô chính phủ của nền kinh tế TBCN. Do vậy, có thể
hiểu CSVC- KT của CNXH sẽ là nền sản xuất lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế
hợp lý, có trình độ xã hội hoá cao dựa trên trình độ khoa học – công nghệ
hiện đại, được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ
nền kinh tế quốc dân.
Tất cả các nước khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH đều phải xây
dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho CNXH. Đây là một quy luật kinh tế mang
tính phổ biến, xuất phát từ yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
1.2. Nội dung của công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam:
Trước đây một thời gian dài với quan niệm truyền thống về công nghiệp
hoá, chúng ta thường xác định nội dung của công nghiệp hoá theo trình tự:
- Tiến hành cách mạng khoa học – kỹ thuật để xây dựng CSVC- KT cho
CNXH
3
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội
Trong điều kiện giao lưu kinh tế giữa các nước chưa được mở rộng, quá trình
chuyển giao công nghệ giữa các nước chưa phát triển mạnh mẽ, phải “phải tự
lực cánh sinh là chính ” thì đó là một trình tự hợp lý để tiến hành công nghiệp
hoá. Song hiện nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tác động
một cách sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới, khoảng thời gian để cho một
phát minh mới ra đời thay thế phát minh cũ ngày càng được rút ngắn lại, xu

hướng chuyển giao công nghệ giữa các nước ngày càng trở thành đòi hỏi cấp
bách, không chỉ đối với các nước lạc hậu, mà ngay cả đối với cả những nước
phát triển. Sự phát triển của một quốc gia không thể tách rời với sự phát triển
của cộng đồng thế giới nói chung và khu vực nói riêng. Điều này cho phép
một nước đi sau không nhất thiết phải làm tất cả những công việc mà các
nước đi trước đã trải qua. Thực tế cho thấy những thành tựu khoa học – công
nghệ, về quản lý v.v của các nước đi trước chỉ có thể chuyển giao một cách
có hiệu quả cho các nước đi sau khi mà những nước đi sau đã có sự chuẩn bị
kỹ càng để đón nhân. Vấn đề đặt ra là các nước đi sau cần phải làm những gì
để tiếp nhận một cách có hiệu quả nhất những thành tựu mà những nước đi
trước đã đạt được. Bài học thành công trong quá trình công nghiệp hoá của
các nước NICS đã chỉ ra rằng: Việc xây dựng một cơ cấu kinh tế theo hướng
mở cửa với bên ngoài nhằm tiếp nhận một cách có chọn lọc những thành tựu
của những nước đI trước kết hợp với việc đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại, đó chính là con đường ngắn nhất, có hiệu quả nhất
quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với
một nước lạc hậu. Với quan niệm mới như vậy, nội dung của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nước ta cần được sắp xếp theo một trình tự mới như sau:
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý
4
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
- Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đi đôi với
tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ nước ngoài.
1.2.1. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý:
Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý bao giờ cũng phải dựa trên tiền đề là
phân công lại lao động – xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá lao động, do đó chuyên
môn hoá sản xuất giữa các nghành, trong nội bộ từng nghành và trong từng
vùng trong nền kinh tế quốc dân. Phân công lao động có tác động rất to lớn.
Nó là đòn bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất lao động. Cùng với

khoa học và công nghệ nó góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế
hợp lý. Sự phân công lại lao động xã hội trong quá trình CNH,HĐH cần phải
tuân thủ các quá trình có tính quy luật sau:
Một là, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần; tỷ trọng
và số lao động công nghiệp ngày một tăng lên.
Hai là, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm
ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hôị.
Ba là, tốc độ tăng lao động trong các nghành phi sản xuất vật chất (dịch
vụ) tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các nghành sản xuất vật chất.
Đi đôi với quá trình phân công lại lao động xã hội, một cơ cấu kinh tế mới
cũng dần được hình thành. Cơ cấu kinh tế của một nước là tổng thể các quan
hệ kinh tế hay các bộ phận hợp thành của nền kinh tế; gắn với vị trí, trình độ
kỹ thuật công nghệ, quy mô, tỷ trọng tương ứng với từng bộ phận và mối
quan hệ tương tác giữa các bộ phận, gắn với điều kiện kinh tế xã hội trong
từng giai đoạn phát triển nhất định, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế đã
được hoạch định. Cấu trúc của cơ cấu kinh tế bao gồm:
+ Cơ cấu nghành nghề.
+ Cơ cấu vùng kinh tế.
5
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
+ Cơ cấu giữa thị tứ, thị xã, thị trấn, thành phố và đô thị.
+ Cơ cấu thành phần kinh tế
Để tối ưu hoá cơ cấu kinh tế được hình thành phải đạt được các yêu cầu sau:
Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, trước hết là các quy luật
kinh tế; cho phép khai thác tối đa các tiềm năng kinh tế của đất nước; sử dụng
được nhiều lợi thế so sánh của các nước phát triển muộn về công nghiệp; phù
hợp với xu thế của cách mạng khoa học – công nghệ, xu hướng toàn cầu hoá,
khu vực hoá và đem loại hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
1.2.2. Đẩy mạnh cuộc cách mạng và công nghệ hiện đại đi đôi với tiếp
nhận chuyển giao công nghệ mơí từ nước ngoài:

Cho tới nay thế giới đã 2 lần trải qua cách mạng về kỹ thuật và công nghệ,
lần thứ nhất với tên gọi là cuộc cách mạng kỹ thuật diễn ra vào cuối thế kỷ
XVIII, được thực hiện đầu tiên ở nước Anh mà nội dung chủ yếu là thay thế
lao động thủ công bằng lao động cơ khí hoá; lần thứ 2 với tên gọi là cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại được bắt đầu từ giữa thế kỷ XX
mà nội dung của nó không chỉ dừng lại ở tính chất hiện đại của các yếu tố tư
liệu sản xuất, mà còn ở kỹ thuật công nghệ sản xuất hiện đại, phương pháp
sản xuất tiên tiến. Hiện nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ có nhiều
nội dung phong phú, trong đó có thể chỉ ra các nội dung nổi bật sau:
+ Một là, cách mạng về phương pháp sản xuất:
Đó là tự động hoá. Ngoài phạm vi tự động như trước đây, hiện nay tự
động hoá còn bao gồm cả việc sử dụng rộng rãi người máy thay thế con
người điều khiển quá trình vận hành sản xuất.
+ Hai là, cách mạng về năng lượng:
Bên cạnh những năng lượng truyền thống mà con người sử dụng trước
kia như nhiệt đIện, thuỷ đIện, thì ngày nay con người ngày càng khám phá ra
6
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
nhiều năng lượng mới và sử dụng rộng rãi trong sản xuất như năng lượng
nguyên tử, năng lượng mặt trời.
+ Ba là, cách mạng về vật liệu mới:
Ngày nay, ngoài việc sử dụng các vật liệu tự nhiên, con người ngày càng
tạo ra nhiều vật liệu nhân tạo mới thay thế có hiệu quả cho các vật liệu tự
nhiên khi mà các vật liệu tự nhiên đang có xu hướng ngày càng cạn dần.
+ Bốn là, cách mạng về công nghệ sinh học:
Các thành tựu của cuộc cách mạng này đang được áp dụng rộng rãi trong
lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hoá chất, bảo vệ môi trường sinh
thái.
+ Năm là, cách mạng về điện tử và tin học:
Đây là một lĩnh vực mà hiện nay loài người đang đặc biệt quan tâm,

trong đó phải kể đến lĩnh vực máy tính điện tử.
Như vậy, khái niệm công nghệ ngày nay bao gồm một phạm vi rộng, nó
không chỉ là các phương tiện, thiết bị do con người sáng tạo ra mà còn là bí
quyết biến các nguồn lực sẵn có thành sản phẩm. Với ý nghĩa đó khi nói tới
công nghệ thì cũng sẽ bao hàm cả kỹ thuật. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện
nay, khoa học và công nghệ luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau: Khoa học là
tiền đề trực tiếp của công nghệ và công nghệ lại là kết quả trực tiếp của khoa
học.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đã và đang đóng vai
trò rất to lớn đối với sự nghiệp CNH,HĐH trong tất cả các nước, nhất là các
nước có nền kinh tế kém phát triển. Tuy nhiên, cách thức tiến hành ở những
nước khác nhau lại không giống nhau, có nước tiến hành bằng cách tự nghiên
cứu, tự trang bị công nghệ mới cho các nghành kinh tế trong nước, có nước
tiến hành thông qua chuyển giao công nghệ, cũng có nước tiến hành bằng
cách kết hợp giữa tự nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Thực ra việc kết
7
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
hợp giữa tự nghiên cứu và chuyển giao công nghệ là cần thiết đối với bất cứ
quốc gia nào, nếu như muốn đạt trình độ phát triển cao. Song kinh nghiệm
của Nhật Bản và các nước NICS trong thời kỳ tiến hành CNH, xây dựng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã chứng minh rằng chuyển giao công nghệ là
cách làm rẻ nhất, có hiệu quả nhất để có được công nghệ hiện đại.
Như vậy, thực chất của chuyển giao công nghệ là đưa công nghệ bao gồm
cả phần cứng (máy móc thiết bị) và phần mềm (quy trình, phương pháp công
nghệ) từ nước này sang nước khác, làm thay đổi quyền sở hữu và quyền sử
dụng công nghệ được chuyển giao. Thực tế cho thấy việc chuyển giao công
nghệ chỉ phát huy được hiệu quả trong mô hình chiến lược CNH hướng
ngoại, “ hướng vế xuất khẩu”.
Chuyển giao công nghệ có những tác dụng sau:
Một là, rút ngắn khoảng cách tụt hậu của các nước chậm phát triển so với

các nước phat triển.
Hai là, tạo điều kiện để khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực ở trong
nước nhằm tăng trưởng kinh tế nhanh.
Ba là, đối với những nước đang trong quá trình chuyển từ mô hình chiến
lược CNH hướng nội, “thay thế nhập khẩu” sang mô hình chiến lược CNH
hướng ngoại, “hướng về xuất khẩu” thì nó thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch
này và cho phép đạt được hiệu quả kinh tế cao.
ở Việt Nam sau một thời gian dài áp dụng không thành công mô hình CNH
theo kiểu Liên Xô (cũ), mà thực chất là mô hình CNH hướng nội, nhờ đường
lối đổi mới kinh tế, Đảng ta đã nhanh chóng vận dụng những bài học thành
công về CNH của các nước trên thế giới và trong khu vực để chuyển sang mô
hình CNH hướng ngoại. Điều này đã tạo thuận lợi cho Việt Nam tham gia
vào qua trình chuyển giao công nghệ với các nước trên thế giới và trong khu
vực. Hiện nay trình độ công nghệ của Việt Nam còn rất thấp kém so với các
8
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
nước láng giềng, chậm so với Trung Quốc khoảng 10 năm, chậm so với Đài
Loan từ 20-30 năm ở vào thời đIểm bắt đầu CNH. Vì vậy tiếp nhận chuyển
giao công nghệ từ nước ngoài là rất cần thiết. Tuy nhiên trong quá trình tiếp
nhận chuyển giao công nghệ phải rất tỉnh táo để tránh nhập công nghệ lỗi thời
do các nước thải ra, tránh để không cho Việt Nam trở thành “bãi thải công
nghệ” của các nước phát triển.
Song song với quá trình tiếp nhận chuyển giao công nghệ, Việt Nam còn
phảI xây dựng cho mình chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc
gia mang tính tổng thể lâu dài, bao cả nghiên cứu, chuyển giao, thử nghiệm
và ứng dụng, bởi vì đây là năng lực nội sinh đảm bảo sự phát triển vững chắc
và lâu bền của đất nước, Đại Hội IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam – 4/2001
đã khẳng định vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ: ”Phát triển khoa
học công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,
là nền tảng và động lực đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.”

2.Về công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở Việt
Nam
Theo tinh thần của nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và hội
nghị trung ương lần thứ bảy (khoá VII), công nghiệp hoá nông thôn là quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với việc đổi mới căn bản về công nghệ và kỹ
thuật ở nông thôn, tạo nền tảng cho việc phát triển nhanh, bền vững theo hướng
nâng cao hiệu quả kinh tế ở nông thôn, góp phần phát triển bền vững nền kinh
tế quốc dân với tốc độ cao.
Quá trình công nghiệp hoá nông thôn bao gồm:
+ Đưa phương pháp sản xuất công nghiệp, máy móc thiết bị vào sử dụng
trong nông nghiệp và sản xuất ở nông thôn để thay thế lao động thủ công;
+ áp dụng phương pháp quản lý hiện đại tương ứng với công nghệ và thiết
bị vào nông nghiệp và nông thôn;
9
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
+ Tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng thích hợp với việc đưa máy móc thiết bị và
công nghệ mới vào nông thôn.
Như vậy, công nghiệp hoá nông thôn không có nghĩa là chỉ phát triển công
nghiệp ở nông thôn, mà bao gồm cả việc phát triển toàn bộ các hoạt động, các
lĩnh vực sản xuất – dịch vụ và đời sống văn hoá tinh thần ở nông thôn phù hợp
với nền sản xuất công nghiệp ở nông thôn và cả nước nói chung.
Công nghiệp hoá nông nghiệp là một bộ phận của công nghiệp hoá nông
thôn. Nội dung chủ yếu là đưa máy móc thiết bị, ứng dụng các phương pháp
sản xuất kiểu công nghiệp, các phương pháp và hình thức tổ chức kiểu công
nghiệp vào các lĩnh vực của sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp hoá nông
nghiệp còn bao hàm cả việc tạo ra sự gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất công
nghiệp với sản xuất nông nghiệp nhằm khai thác triệt để lợi thế của nông
nghiệp, nâng cao hàm lượng chế biến sản phẩm của nông nghiệp để tăng giá trị
của chúng, mở rộng thị trường cho chúng.
Hiện đại hoá là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học – kỹ thuật và

công nghệ vào sản xuất và đời sống ở nông thôn, cảI tiến và hoàn thiện tổ chức
sản xuất và tổ chức đời sống ở nông thôn, tạo ra một nền sản xuất trình độ ngày
càng cao, cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ. Hiên đại hoá nông thôn
không chỉ bao gồm công nghiệp hoá, nâng cao trình độ kỹ thuật – công nghệ và
tổ chức trong các lĩnh vực khác của sản xuất vật chất ở nông thôn, mà còn cả
việc bao gồm cả việc không ngừng nâng cao đời sống văn hoá - tinh thần, phát
triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội, hệ thống giáo dục, đào tạo, y tế, và các dịch
vụ phục vụ đời sống khác ở nông thôn. Về bản chất, hiện đại hoá là quá trình
phát triển toàn diện có kế thừa ở nông thôn. Hiện đại hóa hoàn toàn không có
nghĩa là xoá bỏ toàn bộ những gì đã tạo dựng trong quá khứ, càng không có
nghĩa là phải đưa toàn bộ công nghệ, thiết bị tiên tiến và hiện đại vào nông
thôn ngay một lúc, mà là tận dụng, cải tiến, hoàn thiện từng bước nâng cao
10
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
trình độ khoa học – kỹ thuật – công nghệ và tổ chức, quản lý nền sản xuất và
đời sống xã hội ở nông thôn lên ngang tầm với trình độ thế giới.
Hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình không ngừng nâng cao trình độ khoa
học – kỹ thuật – công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp.
Đây cũng là quá trình cần được thực hiện một cách liên tục vì luôn có những
tiến bộ kỹ thuật mới xuất hiện và được ứng dụng trong sản xuất.
II. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn:
1.Vì sao phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và
nông thôn:
ở nước ta, 80% dân số sống ở nông thôn, trên 70% lực lượng lao động xã
hội làm việc ở nông thôn. Việc phát triển toàn diện nông thôn có ý nghĩa to lớn
đối với phát triển kinh tế – xã hội của cả nước. Kinh nghiệm thế giới đã chỉ ra
rằng, nếu không phát triển nông thôn thỉ không một nước nào có thể phát triển
ổn định, bền vững với tốc độ cao một cách lâu dài được. Các nước công nghiệp
phát triển hiện nay cũng đã phải giải quyết mối quan hệ giữa công nghiệp hoá
và phát triển các đô thị, với công nghiệp hóa, hiện đại hoá và cả đô thị hoá

nông thôn. Những nước chưa giải quyết vấn đề này một cách thoả đáng đang
phải trả giá bằng những hành động khắc phục hậu quả của lịch sử công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trước đây. Vừa qua, không chỉ các nhà kinh tế thế giới bàn
luận nhiều về vấn đề này, mà nhiều tổ chức quốc tế cũng đã tổ chức nhiều cuộc
hội thảo về phát triển nông thôn, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và
nông thôn. Vì vậy, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và
11
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
nông thôn là một tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước
ta nhằm :
Thúc đẩy quá trình phân công lao động ở nông thôn, từ đó nâng cao hiệu
quả kinh tế, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, tăng khả năng tích luỹ từ nội
bộ nông thôn, nâng cao khả năng đầu tư và tiếp nhận đầu tư vào khu vực nông
thôn. Điều này thể hiện ở chỗ thu nhập giữa các hộ thuần nông và các hộ ngành
nghề ở nông thôn nước ta đang có sự chênh loch ngày càng lớn và thực tế là
sau khi đưa vào chế biến nông nghiệp, giá trị của các sản phẩm nông nghiệp sẽ
cao hơn rất nhiều.
Mở rộng thị trường, tạo cơ sở phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp
và các ngành kinh tế khác ở nông thôn cũng như trên cả nước. Điều này có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, khi các doanh nghiệp nước ta đang gặp phải sự cạnh
tranh rất gay gắt trên thị trường quốc tế, trong khi đó thị trường trong nước, thị
trường nông thôn có tiềm năng lớn nhưng chưa được khai thác tốt.
Giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội ở nông thôn, đặc biệt là vấn đề việc
làm, khai thác các nguồn lực ở mỗi địa phương, khắc phục sự chênh loch
không đáng có giữa các địa phương, giữa các dân tộc, xoá đói giảm nghèo ở
nông thôn. Hiện nay nước ta có khoảng 5 triệu người đang cần có việc làm
hoặc có thêm việc làm, riêng ở nông thôn, ngoài số lao động có việc làm
thường xuyên, còn phải giải quyết việc làm tạm thời cho người lao động lúc
nông nhàn. Khắc phục tình trạng này là một nhiệm vụ đặt ra cho công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông thôn. ở đây cần khắc phục quan niệm cổ điển xem việc

đưa máy móc thiết bị tiến hành công nghiệp hoá nông thôn là làm giảm bớt số
lao động ở nông thôn. Bởi lẽ nó sẽ làm giảm số lao động trực tiếp thực hiện
công việc trước đay phải làm thủ công, xong lại tạo ra nhiều chỗ làm việc mới
cho các hoạt động khác.
12
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
+ Thực hiện đô thị hoá nông thôn, giảm bớt sức ép của dòng dân cư từ nông
thôn chuyển vào đô thị, tạo điều kiện để các đô thị có thể phát triển thuận lợi.
2.Thực trạng của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
và nông thôn.
2.1. Nông nghiệp đã phát triển nhanh về sản lượng,đặc biệt là lương
thực,nhưng chất lượng nông sản còn thấp,khả năng cạnh tranh yếu,hiệu quả
thấp.
Từ năm 1981 đến nay,nông nghiệp đã phát triển với nhịp độ bình quân 4,5
% là tốc dộ phát triển khá cao.Sản xuất lương thực đã tăng nhanh,khắc phục
được tình trạng thiếu lương thực và có dư để xuất khẩu.Đồng thời,trong những
năm gần đây,sản xuất các mặt hàng nông sản khác đều tăng nhanh so với nhu
cầu trong nước; hàng hoá cần được xuất khẩu cũng tăng nhanh.Hiện nay chúng
ta chỉ còn phải nhập khẩu với số lượng đáng kể 6 mặt hàng nông sản gồm:
bông,dầu thực vật,sữa bò,thịt bò cao cấp,bột giấy và gỗ. Do vậy,giá cả hàng
nông sản trong nước nói chung phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu.Trong thời
gian vừa qua,nhiều nơi,nhiều lúc giá một số mặt hàng nông sản như lúa
gạo,hoa quả,thịt lợn,thịt gà đã xuống thấp,chủ yếu do xuất khẩu kém hiệu quả.
Do vậy trong hệ thống các biện pháp thúc đẩy nông nghiệp phát triển, thì
việc tiêu thụ sản phẩm phải là vấn đề ưu tiên hàng đầu. Để làm được việc
này,đối với sản xuất nông nghiệp cần phải nhanh chóng thay đổi cơ cấu và chất
lượng giống,áp dụng các qui trình và công nghệ tiên tiến và đồng bộ từ sản
xuất đến chế biến,bảo quản để nâng cao chất lượng hàng hoá,trong đó phát
triển công nghiệp chế biến để nâng cao chất lượng hàng nông sản xuất khẩu là
yếu tố hết sức quan trọng.Đồng thời, để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh

của hàng nông sản nước ta,thì trên cơ sở đa dạng hoá sản xuất,tập trung phát
triển những mặt hàng chiến lược dựa vào những lợi thế so sánh của cả nước và
từng vùng.
13
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
2.2 Hình thành các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh tập trung
như:lúa,cao su,cà phê, điều,mía,rau quả,lợn,bò,tôm,cá,nhưng nhìn chung sản
xuất còn phân tán,manh mún;quy mô sản xuất hộ gia đình nhỏ bé,trước mắt có
thể có hiệu quả,nhưng về lâu dài là trở ngại lón cho quá trình công nghiệp
hoá,hiện đại hoá nông nghiệp.
Trong khi các vùng chuyên canh cao su,cà phê và chè đã khá ổn định thì các
vùng chuyên canh khác còn đang trong quá trình hình thành,ít về số lượng và
nhỏ bé về qui mô,lại chưa ổn định.Các vùng cây ăn quả,chăn nuôi gia súc chủ
yếu phát triển dựa trên cơ sở các vùng truyền thống,thiếu sự tác động của khoa
học công nghệ,chưa đáp ứng được các yêu cầu nguyên liệu của công nghiệp.
Hiện nay cả nước có gần 10 triệu hộ dân với đất nông nghiệp bình quân 0,8
ha/hộ và có tới hàng triệu thửa đất nhỏ và manh mún,quả thật chỉ phù hợp với
sản xuất bằng lao động thủ công,nếu không sử lý thì không thể công nghiệp
hoá,hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn,nhất là đồng bằng sông Hồng và
miền Trung.
2.3. Nông nghiệp nước ta đã bước đầu được thuỷ lợi hoá,hoá học hoá,cơ
khí hoá,điện khí hoá và áp dụng các thành tựu của cách mạng sinh học,nhưng
cơ sở hạ tầng còn thấp kém,lao động thủ công vẫn còn phổ biến,trình độ khoa
học công nghệ còn thấp,thua kém nhiều nước trên khu vực và thế giới
Trong nhiều năm qua,Nhà nước và nhân dân đã đầu tư lớn vào việc xây
dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp và cơ sở hạ tầng nông thôn.Tới năm
1995,các công trình thuỷ lợi đã tưới cho 3 triệu ha đất canh tác ( chiếm 53
% ),tiêu 1,4 triệu ha, ngăn mặn 0,7 triệu ha và chống lũ cho hơn 2 triệu ha; có
94 % số xã có đường ô tô tới khu trung tâm; 63 % số xã với 51 % số hộ đã có
điện để dùng.Tuy vậy,chất lượng các công trình thuỷ lợi còn thấp,cần tiếp tục

tu bổ,nâng cấp và xây dựng mới.Đường được dùng cho bơm nước,các cơ sở
14
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
chế biến ngành nghề và thắp sáng,nhưng mức độ sử dụng còn thấp,chất lượng
đIện nông thôn kém.
Trình độ cơ giới hoá còn thấp,tỷ lệ cơ giới hoá làm đất mới đạt 26 %,riêng
đồng bằng sông Cửu Long đạt 60 %.
Việc sử dụng các loại hoá chất trong nông nghiệp nước ta cũng ngày càng
tăng,nhưng so với thế giới vẫn chỉ thuộc nhóm các nước trung bình. Mặc dù
các loại hoá chất đã góp phần quan trọng trong việc gia tăng sản lượng nông
phẩm,nhưng cũng đang đặt ra những vấn đề về môi trường, do vậy cần được
quản lí và hướng dẫn chặt chẽ để sử dụng hợp lý.
Về ứng dụng thành tựu cách mạng sinh học: trong 10 năm gần đây đã tạo ra
được nhiều giống lúa, ngô, rau, cây ăn quả, cây lâm nghiệp, nhất là các loại
giống lai cho năng suất cao. Những tiến bộ khoa học trong lĩnh vực chăn nuôi
và thuỷ sản như :lợn có tỷ lệ lạc cao, sinh hoá có thể trọng lớn và gà công
nghiệp có tốc độ sinh trưởng nhanh, tiêu tốn ít thức ăn cũng đã được cung cấp
rộng rãi. Tuy nhiên, trình độ áp dụng thành tựu cách mạng sinh học của nước ta
còn thấp so với các nước láng giềng.
2.4. Công nghiệp chế biến nông lâm sản đã có bước tiến bộ đáng kể nhưng
còn nhỏ bé và có trình độ thấp.
+ Về chế biến nông sản.
Nhìn chung, công nghiệp chế biến nông sản của nước ta đã bước đầu vượt
qua được những khó khăn của thời kì đầu chuyển sang cơ chế thị trường và đã
có một số tiến bộ. Những năm vừa qua, là thời kì tập trung cao cho công
nghiệp chế biến nông sản. Hầu hết các doanh nghiệp chế biến nông sản đã đi
vào đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu, đổi mới thiết bị và công nghệ, tăng
thêm cơ sở và công suất, làm cho năng lực chế biến nông sản tăng nhanh, đặc
biệt là công nghệ chế biến mía đường.
15

Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
Các doanh nghiệp cũng đã xúc tiến nhanh việc tiếp cận thị trường trong và
ngoài nước,bố trí lại sản xuất,đa dạng hoá sản phẩm và cải tiến mẫu mã phù
hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Sản phẩm chè chế biến từ 7 mặt hàng (3 loại
chè đen và 4loại chè hương),nay đã có 45 mặt hàng chè tham gia vào thị
trường;về cà phê, ngoài cà phê nhân đã có các mặt hàng cà phê hoà tan, cà phê
rang xay xuất khẩu;mặt hàng gạo xuất khẩu cũng đa dạng hơn.
Sản lượng công nghiệp chế biến nông sản cũng đã tăng đáng kể: sản lượng
ngô,gạo qua chế biến là 12,5 triệu tấn,tăng 4,5 triệu tấn so với 5 năm trước
đó;đường mật các loại 393.000 tấn,tăng 70.000 tấn. Đặc biệt là gạo chất lượng
cao đã tăng rất nhanh chiếm 75 %, làm thay đổi hẳn cơ cấu và giá trị gạo xuất
khẩu ở nước ta.
Như vậy, giá trị sản lượng chế biến nông sản liên tục tăng với tốc độ cao,
giá trị sản lượng chế biến lương thực tăng 17,4 % năm, giá trị sản lượng chế
biến thực phẩm tăng 12,7 % năm.
Tuy nhiên,trong lĩnh vực chế biến nông sản cũng còn nhiều mặt yếu kém,
nổi bật là: tỷ trọng nông sản được chế biến công nghiệp còn thấp,chỉ đạt 30 %
sản lượng mía,gần 60 % chè, dưới 20 % rau quả.
Phần lớn các cơ sở chế biến lúa, gạo,chè được xây dựng đã lâu, thiết bị và
quy trình công nghệ lạc hậu.Tuy nhiên, hiện nay đã có một số nhà máy mới
được xây dựng có máy móc thiết bị tương đối hiện đại,nhất là các cơ sở liên
doanh hay đầu tư vốn nước ngoài, nhưng số lượng các cơ sở này chưa
nhiều.Chất lượng nông sản chế biến chưa cao nên sức cạnh tranh trên thị
trường quốc tế kém,làm cho nông dân nước ta phải chịu nhiều thua thiệt.
+ Về chế biến lâm sản
Đến nay, công nghiệp chế biến gỗ nước ta đã phát triển thành một mạng
lưới toàn quốc, gồm hơn 800 doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp nhà nước là
271, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 473,doanh nghiệp liên doanh với nước
16
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn

ngoàI là 30. Tuy các doanh nghiệp đã cố gắng đầu tư chiều sâu, nhập thiết bị
công nghệ mới để tinh chế và nâng cao chất lượng sản phẩm,nhưng nhìn chung
công nghiệp chế biến gỗ ở nước ta đang ở trình độ thấp, sản xuất chủ yếu là
quy mô nhỏ, phân tán, nguyên liệu chủ yếu là gỗ rừng tự nhiên;tỷ lệ thành
phẩm thấp;sản phẩm chủ yếu là gỗ xẻ và đồ mộc các loại từ gỗ nguyên chiếm
tỷ lệ 68,5 % ; đồ mỹ nghệ 3,0 %.ván nhân tạo chỉ đạt11,3%.
Mặc dù vậy,việc kết hợp sử dụng nhân công với tay nghề truyền thống cao,
hàng lâm sản chế biến của nước ta đã cạnh tranh chiếm lĩnh có hiệu quả thị
trường của một số mặt hàng,như thị trường đồ gỗ ngoàI trời ở EU.
2.5. Ngành nghề nông thôn đang phát triển nhanh ,đóng góp vai trò quan
trọng trong việc tạo việc làm và tăng thu nhập ở nông thôn,nhưng công
nghệ,kỹ thuật,chất lượng sản phẩm còn thấp.
Hiện nay ở nông thôn nước ta có nhiều cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng,
chế tạo và sửa chữa cơ khí, rèn đúc, xây dựng,dệt, may,thêu ren,làm đồ
gốm,sứ,thuỷ tinh,da, nhựa,giấy,thủ công mỹ nghệ và dịch vụ.Cả nước có
khoảng 300 làng nghề,trong đó có hơn 100 làng nghề truyền thống.Đại đa số
các hộ và cơ sở ngành nghề phân tán rảI rác khắp nơI trong nước dưới các hộ
và cơ sở chuyên ngành nghề và các hộ kiêm.
Qua điều tra ở 9 tỉnh cho thấyhiện có tới 15,tổng số hộ hoặc cơ sở chuyên
và 24,3 % hộ kiêm ngành nghề,thu hút số lượng lao động lớn.Trong đó,60,6 %
số hộ và cơ sở này được hình thành từ năm 1989 trở lại đây,tốc độ tăng bình
quân 8,6 %/ năm,riêng 4 năm gần đây tăng 10 %/ năm.
Bình quân môĩ cơ sở chuyên ngành nghề tạo ra được việc làm ổn định cho
25 lao động,còn mỗi hộ chuyên ngành nghề cho 4-6 lao động.Thu nhập bình
quân của một lao động ở cơ sở chuyên ngành nghề là 430 nghìn đồng/ tháng, ở
hộ chuyên : 236 nghìn đồng/ tháng,bằng 1,6 – 3,9 lần so với lao động thuần
nông.
17
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
Các hộ ngành nghề chủ yếu sử dụng lao động gia đình.Trình độ văn hoá và

ngành nghề của người lao động thấp.Bên cạnh một số nghệ nhân có tay nghề
cao,thì 55 % lao động trong các cơ sở chuyên ngành chưa qua đào tạo,36 %
không có chuyên môn kỹ thuật.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở và các ngành nghề ở nông thôn rất
thấp,chỉ có 18,6 % các cơ sở có nhà xưởng kiên cố;85 % có sử dụng điện;37 %
công việc được cơ khí hoá,còn 63 % làm bằng tay.
Vốn của các cơ sở và hộ ngành nghề thấp,chủ yếu là vốn tự có.Bình quân
một cơ sở có 370 triệu đồng,1 hộ chuyên : 36 triệu đồng ,1 hộ kiêm:10 triệu
đồng,trong đó,vốn vay chiếm khoảng 20 %.
Sản phẩm của ngành nghề nông thôn chủ yếu phục vụ thị trường trong
nước,chỉ có một phần hàng thủ công mỹ nghệ tham gia xuất khẩu đạt giá trị
cao.
Nhìn chung, mặt hàng đơn điệu,chất lượng thấp,mẫu mã, bao bì kém.
2.6. Thu nhập và đời sống của một bộ phận lớn nông dân đã được cảI
thiện,nhưng nhìn chung còn thấp,bấp bênh,tình trạng thiếu việc làm,nghèo
đói,du canh, du cư,di dân tự do đang đặt ra rất gay gắt cần có giảI pháp khắc
phục.
Từ khi có “ Đổi mới” đời sống cuả đa số dân cư nông thôn đã được cải thiện
rõ rệt,đIều kiện ăn,ở, đi lại,học hành,chữa bệnh đã tốt hơn nhiều.Tuy vậy, thu
nhập của đa số nông dân còn rất thấp,phần thu nhập về nông nghiệp mới chỉ
khoảng 100 USD/ người/ năm.Tỷ lệ nghèo đói còn cao,một số nơi rất cao,như
Hoà Bình 56 %; Kon Tum 54 %;Quảng Bình 46 %; Gia Lai 45 %; Lai Châu 42
%. Thu nhập và đời sống của số lượng lớn dân cư nông dân,kể cả ở những
vùng nông nghiệp trù phú như Đồng bằng sông Cửu Long, vẫn bị chi phối
mạnh bởi thiên tai :bão,lũ,lụt và sự lên xuống thất thường của giá cả thị trường.
18
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
Hơn nữa,do kinh tế nông thôn vẫn chủ yếu là nông nghiệp (75 %GDP nông
thôn là nông nghiệp) nên thu nhập của nông dân tăng chậm,chênh lệch về thu
nhập giữa dân cư nông thôn với thành thị và giữa các vùng nông thôn đang

tăng lên.
Mặc dù Nhà nước đã có nhiều cố gắng và đã đạt được kết quả to lớn,tới nay
vẫn còn khoảng 2,5 triệu người thuộc các dân tộc khác nhau trong diện vận
động định canh định cư, trong đó có 10 vạn hộ đặc biệt khó khăn.
Tính đến nay đã có khoảng 222 nghìn hộ với khoảng 1 triệu người di cư tự
do,phần lớn là các tỉnh Tây Nguyên và Đông Nam Bộ,chủ yếu do nghèo túng,
đã gây ra nhiều khó khăn cho các địa phương có dân đến và nạn phá rừng tăng
nhanh.
Nhìn về tổng thể,những năm vừa qua nông nghiệp và nông thôn đã có
những chuyển biến tích cực nhưng những vấn đề đặt ra cũng rất lớn và gay
gắt.Để khai thác các tiềm năng,vượt qua được những thách thức và yếu kém
hiện nay,con đường duy nhất là phải đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hoá và
hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
3.Những nội dung của công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông nghiệp nông
thôn.
3.1.Phát triển nền nông nghiệp hàng hoá đa dạng, xây dựng các vùng
chuyên canh sản xuất trên qui mô lớn và từng bước hiện đại hoá.
Trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh của từng vùng về tiềm năng đất
đai,khí hậu và kinh nghiệm truyền thống,cùng với việc đẩy nhanh tiến độ các
thành tựu khoa học kỹ thuật để tạo ra nhiều loại nông sản hàng hoá đa dạng
đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.Để đạt được mục tiêu nêu trên không
thể không tiến hành quy hoạch và thực hiện các biện pháp đồng bộ để tạo ra
các vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá lớn gắn kết liên hoàn giữa trước sản
19
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
xuất,trong sản xuất và sau sản xuất, giữa sản xuất – chế biến và tiêu thụ,tạo
hành lang thông suốt từ sản xuất của nông dân đến thị trường tiêu thụ.
Phát triển và nâng cao sức cạnh tranh của ngành sản xuất truyền thống,từng
bước phát triển các ngành sản xuất mới có khả năng, coi trọng các ngành sản
xuất nông sản quý hiếm có lợi thế để phát huy tiềm lực đa dạng của nền nông

nghiệp,đảm bảo sức cạnh tranh bền vững của nông sản hàng hoá Việt Nam
trong quá trình hội nhập với thị trường khu vực và thế giơí.Trước hết,tập trung
xây dựng một số ngành chủ lực sau đây:
+ Các vùng chuyên canh trồng lúa xuất khẩu ở Đồng Bằng sông Cửu Long
và một vài tỉnh ở Đồng bằng sông Hồng,tổng diện tích khoảng 0,8-1 triệu ha để
hàng năm làm ra 70 % lượng gạo xuất khẩu đạt chất lượng cao;
+ Các vùng chuyên canh ngô ở Đồng bằng sông Cửu Long,Đông Nam
Bộ,Tây Nguyên,Đồng bằng sông Hồng và miền núi phía Bắc,với tổng diện tích
khoảng 1 triệu ha để hàng năm sản xuất khoảng 4-5 triệu tấn ngô hàng hoá.
+ Các vùng trồng cao su ở Tây Nguyên và các tỉnh Duyên hải Trung Bộ để
tới năm 2010 đưa tổng diện tích cao su của cả nước lên trên 700 ha;
+ Các vùng cà phê thâm canh cao ở Tây Nguyên, với diện tích khoảng
300.000 ha ;
+ Các vùng chè xuất khẩu tập trung ở miền núi phía Bắc với diện tích
khoảng 100.000 ha ;
+Vùng chuyên canh đIều ở Duyên hải miền trung,Đông nam bộ và một
phần ở Tây Nguyên, với diện tích khoảng 300.000 ha;
+ Các vùng ăn quả tập trung,gồm cây ăn quả nhiệt đới ở Nam Bộ và cây ăn
quả á nhiệt đới ở miền núi phía Bắc,khoảng 500.000 ha;
+ Các vùng rau xuất khẩu ở miền núi phía Bắc,Đồng bằng sông Hồng và
một phần Tây Nguyên;
+ Các vùng mía phục các nhà máy đường với diện tích khoảng 500.000 ha;
20
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
+ Các vùng chăn nuôi bò thịt chất lượng tốt ở miền Trung và Tây Nguyên;
+ Các vùng chăn nuôi lợn xuất khẩu ở các tỉnh Đồng bằng sông Hồng và
Đông bằng sông Cửu Long;
+ Các vùng rừng nguyên liệu công nghiệp với tổng diện tích 3,5 triệu ha tới
năm 2010 và 5 triệu ha vào năm 2020, tập trung ở miền núi Bắc Bộ,Duyên hải
miền Trung và Tây Nguyên.

+ Vùng nuôi tôm và thuỷ sản xuất khẩu Đồng bằng sông Cửu Long và một
số tỉnh ven biển miền Trung.
3.2.Thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn
3.2.1.Thuỷ lợi hoá
Tiếp tục mở mang diện tích được tưới tiêu bằng công trình,nâng cao năng
lực quản lí và vận hành các hệ thống thuỷ nông và hiện đại hoá ngành thuỷ lợi
bằng việc áp dụng các phương pháp tưới tiêu tiên tiến,thiết bị hiện đại.Đến
năm 2020,hoàn thành cơ bản việc xây dựng các công trình tưới tiêu nước cho
các vùng trồng lúa,tưới nước và tiêu úng cho 2 triệu ha rau màu,nâng cao mức
độ an toàn kĩ thuật cho các hệ thỗng đê sông và đê biển.
Tới năm 2000 cần hoàn thành các công trình thuỷ lợi để đảm bảo tưới cho
6 triệu ha lúa,1 triệu ha rau màu và cây công nghiệp; giải quyết cơ bản yêu cầu
nước tưới và thoát lũ cho vùng ngập lũ,ngọt hoá vùng mặn ở Đồng bằng sông
Cửu Long; tiêu úng ở Đồng bằng sông Hồng và Bắc Khu Bốn cũ trong điều
kiện mưa với tần suất 10 % đảm bảo cơ bản yêu cầu về thuỷ lợi đối với lúa và
hạn chế tác hại của bão,lũ đối với vùng Duyên hải miền Trung,Tây Nguyên và
các vùng khác; giải quyết nước sinh hoạt cho 1 triệu người; nâng cấp một bước
hệ thống đê sông, đê biển,đê ngăn mặn.
3.2.2.Phát triển hệ thống giao thông nông thôn
Phát triển hệ thống đường giao thông chất lượng tốt tới các tụ điểm nông
nghiệp nông thôn và trong các vùng chuyên canh tập trung,từng bước làm
21
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
đường tới những xã chưa có đường ô tô tới trung tâm xã và nâng cao hệ thống
đường giao thông ở các vùng khác trong nước.Tới năm 2000 cần duy tu và
nâng cấp 5.000 km đường cấp huyện,hỗ trợ nâng cấp 5.000 km đường xã hiện
có,xây dựng mới khoảng 6.500 km đường ô tô, xây dựng và cảI tạo khoảng
3.000 cầu cống.
3.2.3.Cơ giới hóa
Thực hiện cơ giới các khâu việc nặng

Thực hiện cơ giới các khâu việc nặng
nhọc,thời vụ khẩn trương,sử dụng các loại máy móc thiết bị có công suất thích
hợp để nâng cao năng suất lao động,tới năm 2010,tỷ lệ cơ giới hoá khâu làm
đất ít nhất là 70 %,tuốt lúa 80 %,cơ giới hóa khâu tưới tiêu nước 70 %;áp dụng
trên diện rộng máy thu hoạch lúa,ngô,mía…máy móc trong làm vườn…
Để phục vụ quá trình cơ giới hoá,cần hỗ trợ các cơ sở chế tạo cỡ vừa và
nhỏ như các loại máy kéo 6-12 mã lực,động cơ 4,6,9,12 mã lực,máy nông
nghiệp,các thiết bị chế biến nông lâm sản.
3.2.4.Điện khí hoá và thông tin liên lạc.
Phát triển mạng lưới cung cấp điện ở nông thôn để tới năm 2010 toàn bộ
dân cư nông thôn có điện,đảm bảo đáp ứng yêu cầu về điện của các ngành sản
xuất nông thôn;phát triển sản xuất các loại máy phát điện cỡ nhỏ,động cơ điện
dùng trong nông nghiệp và nông thôn.Trước mắt, tới năm 2000,đảm bảo 100 %
xã ở Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ,60-80 % số xã ở các vùng khác
có điện.
Nhà nước tập trung đầu tư để nhanh chóng hoàn thành các chương trình phủ
sóng phát thanh và truyền hình,phát triển mạng điện thoại,đa dạng hoá và hỗ
trợ các hình thức đưa thông tin tới nông dân,nhất là thông tin và thị trường
công nghiệp.
3.2.5 .ứng dụng thành tựu của cách mạng sinh học.
22
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
áp dụng nhanh các thành tựu của các cách sinh học để tạo và nhân nhanh
giống cây trồng,vật nuôi,đặc biệt là áp dụng thành tựu về giống có ưu thế lai;kỹ
thuật cấy truyền hợp tử;kỹ thuật gen hócmon sinh trưởng;áp dụng công nghệ
sản xuất các loại phân vi sinh cố định Nitơ để thay thế dần phân đạm hoá
học;các chế phẩm vi sinh để bảo vệ cây trồng thay dần các loại thuốc hoá học
độc hại với người và gia súc;các loại thuốc thú y và các loại vacxin thế hệ mới.
3.3. Phát triển công nghiệp,dịch vụ nông thôn.
Nước ta đất chật,người đông,mật độ dân số vẫn còn cao,lao động trong

nông thôn hiện đã dư thừa nhiều.Quá trình hiện đại hóa nông nghiệp từ nay về
sau lại tiếp tục tăng thêm số lao động làm cho sức ép về việc làm trong nông
thôn đã gay gắt lại càng gay gắt thêm.Phát triển công nghiệp dịch vụ của đất
nước,trước hết là công nghiệp dịch vụ nông thôn nhằm tạo ra thị trường thu hút
số lao động được gíải phóng ra khỏi nông nghiệp,giải quyết được việc làm
trong quá trình hiện đại hoá nông nghiệp.Không những vậy,với năng suất lao
động cao hơn nhiều lần so với nông nghiệp,công nghiệp và dịch vụ nông thôn
sẽ tăng thu nhập cho nhân dân nông thôn.
Bởi vậy,phát triển công nghiệp dịch vụ nông thôn là lối thoát cơ bản của
nền nông nghiệp hiện đại hoá,là hướng chủ yếu và lâu dài để tạo việc làm,tăng
thu nhập cho nông dân,từng bước công nghiệp hóa,đô thị hoá nông thôn,rút
ngắn khoảng cách về mức sống giữa nông thôn và thành thị trong quá trình
công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước.
3.3.1. Công nghiệp hoá chế bíên nông lâm sản.
+Về chế biến nông sản.
Công nghiệp chế biến nông sản tập trung vào những mặt hàng xuất khẩu
chủ lực,có thế mạnh cạnh tranh quốc tế,đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn cho
đất nước như: gạo, cao su, chè, hạt điều,rau quả,thịt,đảm bảo nhịp độ tăng
23
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
trưởng không thấp hơn 12 %/năm.Tới năm 2010 phảI đạt kim ngạch xuất khẩu
trên 3,5 tỷ USD,năm 2020 trên 6 tỷ USD.
Từ nay tới năm 2020 phải khẩn trương phát triển hệ thống kho tàng,cơ sở
phơI sấy lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long,đồng thời mở rộng công suất chế
biến gạo xuất khẩu chất lượng cao,đảm bảo hàng năm xuất khẩu khoảng 3,5-4
triệu tấn gạo; đối với cao su,cà phê,hạt điều cần nhanh chóng phát triển các cơ
sở chế biến sâu,tới năm 2010 phải đạt công suất chế biến cao su mủ khô 300
nghìn tấn,cà phê nhân 400 nghìn tấn,hạt điều 100 nghìn tận/năm.Phải đổi mới
công nghệ và xây dựng các nhà máy chế biến chè đạt công suất 50 nghìn/năm;
xây dựng các cơ sở chế biến nước quả,rau quả hộp,mứt…quy mô vừa và nhỏ

để đáp ứng nhu cầu chế biến khối lượng hoa quả đang tăng nhanh (ít nhất
khoảng 200 nghìn tấn); nâng cấp các cơ sở chế biến thịt đảm bảo chất lượng
xuất khẩu đạt công suất 50-70/tấn/nghìn tấn/năm.
Đồng thời cần phát triển chế biến hoa màu,đường,thức ăn chăn nuôi,dầu
thực vật (lạc,dừa,sở,…) đáp ứng nhu cầu trong nước và tiến tới xuất
khẩu.Riêng về đường,tới năm 2010 hoàn thành việc xây dựng các nhà máy để
đạt công suất 1 triệu tấn/năm gắn với công nghiệp sau đường.
+Về chế biến lâm sản:
Cần phát triển ngành công nghiệp chế biến lâm sản của nước ta để tới năm
2020 đạt ngang tầm với các nước ASEAN và sau đó là các nước châu á
khác.Trước hết phát triển công nghiệp giấy để tới năm 2010 đạt sản lượng 1,2
triệu tấn/năm,đảm bảo đáp ứng nhu cầu trong nước 13 kg/người,tới năm 2020
đạt 2,5 triệu tấn hay 24 kg/người;sản xuất ván nhân tạo,từ năm 2005 đạt sản
lượng1,3 triệu m3 thành phẩm/năm;sản xuất đồ gỗ gia dụng, tới năm 2010 đạt
sản lượng1 triệu m3 sản phẩm/năm,trong đó xuất khẩu 500 nghìn m3,ổn định
việc làm cho gần 1000 doanh nghiệp.Đưa công suất chế biến hàng mây tre đan
lên 100 nghìn tấn sản phẩm/năm,chủ yếu để xuất khẩu.
24
Đề án kinh tế chính trị Cnh-hđh nôngnghiệp và nông thôn
Đồng thời cần tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích làm các hàng
thủ công mỹ nghệ sử dụng ít nguyên liệu,nhiều lao động,đạt giá trị cao.Mục
tiêu tới năm 2010 đạt 1000 m3 sản phẩm/năm; duy trì và phát triển các cơ sở
chế biến lâm đặc sản như nhựa thông,cánh kiến,quế,hồi,…
Trước mắt,tập trung đầu tư chiều sâu,đổi mới công nghệ ở các cơ sở chế
biến lâm sản hiện có,xúc tiến xây dựng một số nhà máy chế tạo ván nhân tạo
công suất 35-54 nghìn m3/năm,nhà máy giấy có công suất trên 50 nghìn
tấn/năm.
+Về chế biến thuỷ sản:
Năm 1995,nước ta đã xuất khẩu được 630 triệu USD hàng thuỷ sản.Cần
tiếp tục tăng cường trang thiết bị,nâng cao chất lượng sản phẩm của các cơ sở

hiện có,đồng thời mở rộng công suất chế biến để tới năm 2010 đạt giá trị xuất
khẩu 1,8 tỷ USD,năm 2020 đạt 2,5 tỷ USD.
3.3.2 .Các ngành công nghiệp không dùng nguyên liệu là sản phẩm
nông,lâm,ngư nghiệp.
Đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp ở nông thôn không dùng
nguyên liệu là sản phẩm nông,lâm,ngư nghiệp,nhưng sử dụng nhiều lao động
và vật liệu tại chỗ,bao gồm ngành dệt,may mặc,dày dép,thuỷ tinh,sành sứ và cơ
khí sửa chữa.Kim ngạch xuất khẩu của ngành này có thể đạt tới trên10 tỷUSD
vào năm 2010,20 tỷ USD vào năm 2020,cao hơn các ngành chế biến
nông,lâm,thuỷ sản,từ đó có thể tăng nhanh thu nhập của dân cư nông thôn.
3.3.3.Các ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp quy mô hộ gia đình.
Nhà nước có chính sách hỗ trợ tích cực để khôI phục các làng nghề,khuyến
khích hộ gia đình bổ xung vốn đầu tư vào các loại ngành nghề đa dạng
khác,bao gồm chế biến nông,lâm,thuỷ sản,sản xuất vật liệu xây
dựng,gốm,sứ,thuỷ tinh,rèn,đúc,…để đáp ứng nhu cầu tại chỗ và tham gia xuất
25

×