Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tình hình lạm phát trên thế giới và ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.89 KB, 27 trang )

TIỂU LUẬN VỀ LẠM PHÁT
Định nghĩa lạm phát
lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế.
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức
mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự
phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường
theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong
phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta
hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm
vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa
các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số
lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự ổn
định giá cả.
Các hiệu ứng tiêu cực
1.Lạm phát dự kiến: trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì
các thực thể tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy
vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội:
• Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người
giữ tiền và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm
phát nên lạm phát làm cho người ta giữ ít tiền hơn hay làm giảm cầu
về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền
hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để chỉ
những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà
người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.
• Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các
doanh nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản
phẩm.
• Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường
hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh
chi phí thực đơn) còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không
muốn phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ


nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do
nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên
lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.
• Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái
với ý muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh
hưởng của lạm phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá
nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì
cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập
danh nghĩa và thu nhập thực tế.
• Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm
thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái
thước này co giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra
các quyết định của mình.
2.Lạm phát không dự kiến: đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì
nó phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng,
cam kết tín dụng thường được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao
hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi
lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu
thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên
tác động của nó rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu
cực của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát
gây ra là không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn
định và ở mức vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của
nó thông qua việc phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán
rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ của tất cả các nước đều tìm cách
chống lại loại lạm phát này.
Nguyên nhân
Lạm phát do cầu kéo
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn

dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ
AD-AS. Đường AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ khiến
cho mức giá và sản lượng cùng tăng.
Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng
cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để
đáp ứng. Do đó có lạm phát.
Lạm phát do cầu thay đổi
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt
hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá
cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì
mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có
lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là
lạm phát.
Lạm phát do chi phí đẩy
Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp
tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá
thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.
Lạm phát do cơ cấu
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao
động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền
công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi
nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm
phát nảy sinh vì điều đó.
Lạm phát do xuất khẩu
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm
được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường
trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do
tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
Lạm phát do nhập khẩu
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá

nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường
OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì
giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá
chung bị giá nhập khẩu đội lên.
Lạm phát tiền tệ
Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ
cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do
ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho
lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm Lạm phát đẻ
ra lạm phát
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây
giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở
nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.
Tình hình lạm phát trên thế giới và ở nước ta
Lạm phát ở châu Á & Thái Bình Dương: 4,6%
Sau khi đạt tới mức cao nhất trong thập kỷ vào năm 2007, tốc độ tăng
trưởng của các nền kinh tế đang phát triển ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương sẽ giảm đi một chút nhưng vẫn còn khá cao (7,7%) vào năm 2008 -
mặc dù có những bất trắc về kinh tế ở Hoa Kỳ và các đồng tiền trong khu
vực tiếp tục tăng giá.
Cụ thể, các nền kinh tế phát triển trong khu vực sẽ tăng trưởng ở mức 1,6%
vào năm 2008, giảm đi so với mức 2% năm 2007. Trung Quốc và Ấn Độ -
với vai trò động lực kinh tế chính của khu vực - sẽ tiếp tục tăng trưởng
nhanh (theo thứ tự ở mức 10,7% và 9%) vào năm 2008, thúc đẩy các nền
kinh tế khác trong khu vực. dự báo tỷ lệ lạm phát của các nền kinh tế đang
phát triển ở châu Á - Thái Bình Dương trong năm 2008 sẽ ở mức 4,6%, và
sự tăng giá của các đồng tiền trong khu vực sẽ hạn chế tác động của giá dầu
và lương thực tăng cao.
Lạm phát tại việt nam
Lạm phát cả năm có thể lên tới 15%.Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 3 tháng

đầu năm tăng 9,19%, là quý có mức tăng cao nhất tính từ năm 1995 trở lại
đây, và đã vượt xa chỉ tiêu của cả năm. Việt Nam hiện là nước có tỷ lệ lạm
phát cao nhất ở Đông Á. Và sự gia tăng tốc độ lạm phát vẫn chưa có dấu
hiệu sớm chấm dứt.Không chỉ tầng lớp lao động phổ thông và công nhân
trong các nhà máy chịu ảnh hưởng tiêu cực nặng nề từ tình trạng giá cả leo
thang. Nhiều người có trình độ học vấn cao thừa nhận bằng cấp của họ cũng
chẳng giúp ích gì nhiều trong việc tìm kiếm một cuộc sống đảm bảo.
Kiềm chế lạm phát
Kiềm chế lạm phát còn gọi là giảm lạm phát. Có một loạt các phương thức
để kiềm chế lạm phát. Các ngân hàng trung ương như Cục dự trữ liên bang
Mỹ có thể tác động đến lạm phát ở một mức độ đáng kể thông qua việc thiết
lập các lãi suất và thông qua các hoạt động khác (ví dụ: sử dụng các chính
sách tiền tệ). Các lãi suất cao (và sự tăng chậm của cung ứng tiền tệ) là cách
thức truyền thống để các ngân hàng trung ương kiềm chế lạm phát, sử dụng
thất nghiệp và suy giảm sản xuất để hạn chế tăng giá.
Tuy nhiên, các ngân hàng trung ương xem xét các phương thức kiểm soát
lạm phát rất khác nhau. Ví dụ, một số ngân hàng theo dõi chỉ tiêu lạm phát
một cách cân xứng trong khi các ngân hàng khác chỉ kiểm soát lạm phát khi
nó ở mức cao.
Những người theo chủ nghĩa tiền tệ nhấn mạnh việc tăng lãi suất bằng cách
giảm cung tiền thông qua các chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát.
Những người theo học thuyết Keynes nhấn mạnh việc giảm cầu nói chung,
thông thường là thông qua các chính sách tài chính để giảm nhu cầu. Các
nhà kinh tế học trọng cung chủ trương kiềm chế lạm phát bằng cách ấn định
tỷ giá hối đoái giữa tiền tệ và một số đơn vị tiền tệ tham chiếu ổn định như
vàng, hay bằng cách giảm thuế suất giới hạn trong chế độ tỷ giá thả nổi để
khuyến khích tích lũy vốn. Tất cả các chính sách này đã được thực hiện
trong thực tế thông qua các tiến trình nghiệp vụ thị trường mở.
Một phương pháp khác đã thử là chỉ đơn giản thiết lập lương và kiểm soát
giá cả (xem thêm "Các chính sách thu nhập"). Ví dụ, nó đã được thử tại Mỹ

trong những năm đầu thập niên 1970 . Một trong những vấn đề chính với
việc kiểm soát này là nó được sử dụng vào thời gian mà các biện pháp kích
"cầu" được áp dụng, vì thế các giới hạn phía cung (sự kiểm soát, sản xuất
tiềm năng) đã mâu thuẫn với sự tăng trưởng của "cầu". Nói chung, phần lớn
các nhà kinh tế coi việc kiểm soát giá là phản tác dụng khi nó có xu hướng
làm lệch lạc các hoạt động của nền kinh tế vì nó làm gia tăng thiếu thốn,
giảm chất lượng sản phẩm v.v. Tuy nhiên, cái giá phải trả này có thể là
"đáng giá" nếu nó ngăn chặn được sự đình đốn sản xuất nghiêm trọng, là
điều có thể có đắt giá hơn, hay trong trường hợp để kiểm soát lạm phát trong
thời gian chiến tranh.
Trên thực tế, việc kiểm soát có thể bổ sung cho đình đốn sản xuất như là một
cách để kiềm chế lạm phát: Việc kiểm soát làm cho đình đốn sản xuất có
hiệu quả hơn như là một cách chống lạm phát (làm giảm sự cần thiết phải
tăng thất nghiệp), trong khi sự đình đốn sản xuất ngăn cản các loại hình lệch
lạc mà việc kiểm soát gây ra khi "cầu" là cao.
Căn nguyên lạm phát & các giải pháp giảm lạm phát trong thực tế của nước
ta
Lạm phát 15%, tại sao?Lạm phát tháng hai vừa qua tăng đến 15% (tính trên
12 tháng). Đó là mức tăng cao nhất trong vòng 10 năm qua và cũng thuộc
hàng cao nhất tại khu vực Đông Á hiện nay. Mức lạm phát cao này phải
được đối chiếu với mức tăng trưởng trên 8% hằng năm trong 4 năm qua của
một nền kinh tế năng động, trong đó thị trường chứng khoán và địa ốc đang
bùng nổ.Đối với các nước khác, một tình trạng kinh tế như vậy có thể được
xem là quá nóng và nhà nước sẽ tìm cách hạ nhiệt bằng cách thắt chặt thị
trường tiền tệ và tín dụng. Tuy nhiên, những nỗ lực theo chiều hướng này
trong vài tháng qua đã dẫn đến thiếu hụt tiền đồng và dao động trên thị
trường tài chính VN. Chúng ta hãy cùng nhau phân tích căn nguyên lạm phát
tại VN và tại sao cần sự xử lý thận trọng đối với tình hình hiện tại để tránh
những khủng hoảng lớn, có thể gây tác hại nghiêm trọng đến ổn định xã
hội.Căn nguyên lạm phát là gia tăng tín dụng, chủ yếu vì dòng vốn ngoại

nhập rất lớn chưa được quản lý thích ứng, trong một môi trường dùng tỷ giá
hối đoái làm neo danh nghĩa (nominal anchor) nhằm ổn định thị trường.
Mặc dù giá dầu trên thế giới, giá thực phẩm và nhu cầu tiêu dùng vào dịp
Tết, tất cả đều gia tăng bổ sung vào mức lạm phát 15% trong tháng 2 vừa
qua; nhưng những yếu tố này, theo quan điểm của chúng tôi, không quan
trọng bằng quản lý dòng vốn ngoại nhập.Thật vậy, VN nhận được dòng vốn
ngoại nhập rất lớn trong các năm qua, chiếm đến 39% GDP trong giai đoạn
2004-2007, riêng năm 2007 chiếm 15%. Vì chương trình cổ phần hóa tiến
triển chậm nên các cơ hội đầu tư vào sản xuất hữu hiệu càng bị giới hạn. Các
dòng vốn do vậy được chuyển vào TTCK, bất động sản (BĐS) và các khu
vực phi thương mại khác (non-tradable sectors). Phần lớn các dòng vốn
ngoại nhập được hướng đến thị trường BĐS. Đây là một lý do khiến giá đất
tại các thành phố lớn VN được xếp vào hạng cao nhất thế giới. Tương tự, chỉ
số TTCK đã tăng gấp ba vào tháng 9.2007, so với cuối năm 2005.Một số
dòng vốn ngoại nhập đã được niêm - cất (sterilized) bằng cách phát hành
trái phiếu để hút ngoại tệ ra khỏi thị trường, qua hoạt động của thị trường
mở, đã không tác động trên nguồn cung tiền. Nhưng các dòng vốn khác
không được niêm - cất, nghĩa là bị tiền tệ hóa, đã góp phần tăng nguồn cung
tiền. Khối lượng tiền tệ tăng 30% mỗi năm trong giai đoạn 2004 - 2006, và
tăng trên 40% trong nửa đầu năm 2007.Có nên hút đô la hay không?Vì
muốn giữ tỷ giá để cạnh tranh, Nhà nước đang ở thế "tránh vỏ dưa gặp vỏ
dừa": Nếu Nhà nước niêm - câæt vốn ngoại nhập (cho dù chưa kể cái giá
ngân sách nhà nước phải trả vì lãi suất cao hơn), đồng nội tệ sẽ tăng giá,
khiến cho một nền kinh tế hướng xuất khẩu như VN phải chịu giảm tỷ lệ
tăng trưởng.Nhưng nếu dòng vốn ngoại nhập không được niêm - cất đúng và
đủ, để thích nghi với số lượng tiền cần có để dùng cho giao dịch, kết quả sẽ
là nguồn cung tiền gia tăng, dẫn đến gia tăng giá cả nội địa. Đây chính là
trường hợp của VN.Kể từ giữa năm 2007, chính sách ghìm cương gia tăng
tín dụng đã được thực hiện bằng cách nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và các mức
lãi suất căn bản, lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu. Quản lý các dòng vốn

có mức độ lớn như vậy (chiếm 15% GDP trong năm 2007) đặt ra thách thức
rất lớn, ngay cả đối với các nhóm quản trị kinh tế lão luyện. Khó khăn là ở
chỗ, việc niêm - cất toàn diện ngoại tệ sẽ khiến đồng nội tệ tăng giá, và điều
này sẽ thu hút thêm nhiều dòng vốn vào hơn nữa, do giới đầu cơ nước ngoài
muốn lợi dụng tình thế (đồng nội tệ lên giá tức là nhà đầu tư nước ngoài sẽ
có lợi khi đầu tư vào tiền đồng, trước hết là nhờ lãi suất cao, sau đó là khi họ
đổi tiền đồng lấy lại ngoại tệ).Chỉ có một sự kết hợp giữa các chính sách
kinh tế thực tế và cẩn mật mới có thể tránh được những hậu quả tai hại.Việc
thắt chặt thanh khoản trong hai tháng qua - bằng cách nâng ba mức lãi suất
cơ bản và buộc các ngân hàng mua 20.000 tỉ đồng - đã ảnh hưởng bất lợi đến
thị trường tín dụng. Và điều này lại xảy ra ngay lúc các thị trường tài sản bắt
đầu phát triển chậm lại hay chựng lại. Bên cạnh đó, việc thắt chặt kiểm soát
đối với một số loại giá có lẽ sẽ không đem lại hiệu quả cao vì kinh nghiệm
cho thấy rằng kiểm soát trực tiếp đang trở thành khó khăn hơn trong một nền
kinh tế ngày càng hướng vào thị trường.Quả thật, nguy cơ khủng hoảng rất
lớn trong thời điểm hiện nay. Nếu lòng tin không được củng cố thì các dòng
vốn ngoại nhập có thể nhanh chóng giảm xuống hay ngưng lại. Nhà đầu tư
trong nước sẽ lo sợ và cố gắng rút khỏi các thị trường tài sản. Đặc biệt là
trong một môi trường mà khung pháp lý còn chưa rõ ràng, rất khó để biết
được đầu tư nào là tốt hay dở, hoặc nên rút ra hay tiếp tục đầu tư. Điều này
sẽ làm giảm giá tài sản rất nhanh, và làm suy yếu rõ rệt bảng cân đối tài sản
của các ngân hàng tham gia vào các thị trường này. Khả năng thanh toán của
các tổ chức tài chính sẽ bị giảm sút và nhiều tổ chức thậm chí phải giải
thể.Các dấu hiệu đáng ngại Tỷ lệ giá-lãi (P/E) của đa số công ty có tên trên
sàn chứng khoán là vào khoảng 32 vào giữa năm 2007. Đây là tỷ lệ khá cao,
tương đương với tỷ lệ tại Thái Lan và Malaysia ngay trước cuộc khủng
hoảng tài chính năm 1997. Dù tỷ lệ này đã giảm, tính từ thời điểm đó, nhiều
nhà quan sát tin rằng chiều hướng "giảm đến giá trị thật" sẽ tiếp tục. Những
vấn đề về lạm phát và đầu tư đang được nhiều người dân quan tâm - Ảnh:
D.Đ.MKhủng hoảng tài chính này có thể diễn ra đồng thời với một đợt

khủng hoảng tiền tệ. Việc dòng vốn nước ngoài đổ vào chậm lại, hay thậm
chí sẽ đảo chiều, sẽ khiến người trong nước kiếm cách gửi tiền ra nước
ngoài. Trong khi đó, cấu trúc của cán cân thu chi quốc tế rất dễ làm cho nền
kinh tế VN bị tác động bởi khủng hoảng. Kể từ năm 2004, nhập siêu lớn của
cán cân thương mãi - 2,5 tỉ đô la và gia tăng trong năm 2007 - đã được tài
trợ bằng chuyển khoản tư nhân rất đáng kể, chủ yếu từ đầu tư của kiều bào,
cao hơn số kiều hối thường nhận được (ước khoảng 5 tỉ đô la, tương đương
7% GDP). Gần đây hơn, các khoản vay ngày càng tăng đã đóng một vai trò
đáng kể hơn về nguồn tiền dùng để tài trợ nhập siêu. Như vậy, đây là có một
sự chuyển hướng so với trước đây, khi nhập siêu chủ yếu được tài trợ bằng
đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và hỗ trợ tài chính ưu đãi.Các chuyển khoản
tư nhân này, cùng với các dòng vốn ngoại nhập khác, có thể ngừng lại, nếu
sự tin tưởng trong nền kinh tế không được mau chóng củng cố thêm. Các
dòng vốn ngoại nhập bị cạn kiệt, kết hợp với xu hướng chuyển tiền ra nước
ngoài gia tăng, sẽ gây một áp lực kinh khủng khiến giá tiền đồng phải giảm
xuống.Các chuyển khoản tư nhân này, cùng với các dòng vốn ngoại nhập
khác, có thể ngừng lại, nếu sự tin tưởng trong nền kinh tế không được mau
chóng củng cố thêm. Các dòng vốn ngoại nhập bị cạn kiệt, kết hợp với xu
hướng chuyển tiền ra nước ngoài gia tăng, sẽ gây một áp lực kinh khủng
khiến giá tiền đồng phải giảm xuống. Để ngăn ngừa sự mất giá đột ngột,
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ cố gắng nâng đỡ đồng nội tệ bằng cách
bán dự trữ ngoại tệ, nhưng làm như vậy chắc chắn không thể xoay chuyển
được tình hình và rốt cuộc sẽ buông xuôi, càng khiến cho tiền đồng tuột giá
hơn nữa.Để ngăn ngừa sự mất giá đột ngột, Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
sẽ cố gắng nâng đỡ đồng nội tệ bằng cách bán dự trữ ngoại tệ, nhưng làm
như vậy chắc chắn không thể xoay chuyển được tình hình và rốt cuộc sẽ
buông xuôi, càng khiến cho tiền đồng tuột giá hơn nữa. Đó chính là tình
huống đã xảy ra ở Thái Lan năm 1997. Chính người nghèo phải gánh chịu
những hậu quả nặng nề nhất của đợt khủng hoảng đó. Đó chính là tình
huống đã xảy ra ở Thái Lan năm 1997. Chính người nghèo phải gánh chịu

những hậu quả nặng nề nhất của đợt khủng hoảng đó. Giảm lạm phát như
thế nào? Để giải quyết các vấn đề kinh tế khó khăn trình bày ở trên, một số
biện pháp cần được áp dụng trong ngắn hạn và trung hạn.Để giải quyết các
vấn đề kinh tế khó khăn trình bày ở trên, một số biện pháp cần được áp dụng
trong ngắn hạn và trung hạn. Về ngắn hạn Điều trước tiên và quan trọng nhất
là chính quyền cần chú ý đến nguy cơ khủng hoảng và bằng mọi giá tránh
được nguy cơ này. Những chính sách thích ứng cần được thực thi mau
chóng để củng cố lòng tin của thị trường và sự tín nhiệm đối với chính
quyền. Hơn nữa, cần phải nhận thức rằng không thể ngày một ngày hai mà
chặn đứng được lạm phát, và cần thời gian để giảm lạm phát xuống một mức
độ chấp nhận được (khoảng 10%) để ổn định kinh tế.Điều trước tiên và quan
trọng nhất là chính quyền cần chú ý đến nguy cơ khủng hoảng và bằng mọi
giá tránh được nguy cơ này. Những chính sách thích ứng cần được thực thi
mau chóng để củng cố lòng tin của thị trường và sự tín nhiệm đối với chính
quyền. Hơn nữa, cần phải nhận thức rằng không thể ngày một ngày hai mà
chặn đứng được lạm phát, và cần thời gian để giảm lạm phát xuống một mức
độ chấp nhận được (khoảng 10%) để ổn định kinh tế. Khi nền kinh tế VN
ngày càng gắn kết với kinh tế toàn cầu và thu nhập ngày càng tăng, tỷ lệ
hàng hóa mậu dịch quốc tế trong rổ tiêu dùng do đó sẽ tăng. Vì vậy giá nội
địa sẽ có xu hướng tăng, nếu giá nhập khẩu cũng như chất lượng hàng nhập
tăng. Để củng cố lòng tin, chính quyền có thể cho thấy rõ ràng hơn năng lực
phối hợp hữu hiệu các biện pháp thích ứng để chống lạm phát cũng như khả
năng phối hợp những hoạt động tương đồng giữa những thành viên chính
trong giới kinh tế và tài chính, trong đó có NHNN, Bộ Tài chính, các bộ
khác và các ngân hàng thương mại.Khi nền kinh tế VN ngày càng gắn kết
với kinh tế toàn cầu và thu nhập ngày càng tăng, tỷ lệ hàng hóa mậu dịch
quốc tế trong rổ tiêu dùng do đó sẽ tăng. Vì vậy giá nội địa sẽ có xu hướng
tăng, nếu giá nhập khẩu cũng như chất lượng hàng nhập tăng. Để củng cố
lòng tin, chính quyền có thể cho thấy rõ ràng hơn năng lực phối hợp hữu
hiệu các biện pháp thích ứng để chống lạm phát cũng như khả năng phối hợp

những hoạt động tương đồng giữa những thành viên chính trong giới kinh tế
và tài chính, trong đó có NHNN, Bộ Tài chính, các bộ khác và các ngân
hàng thương mại. Các biện pháp cần thực hiện bao gồm: NHNN cần tham
khảo ý kiến của các ngân hàng thương mại để đánh giá lại tác động của các
biện pháp gần đây trên thị trường; giảm lãi suất tiết kiệm cao quá mức là hệ
quả của cuộc cạnh tranh giữa các ngân hàng để huy động tiền ký thác bằng
cách cho phép giảm lượng trái phiếu chính phủ mà các ngân hàng phải mua,
và/hoặc cho phép sử dụng ngoại tệ để mua trái phiếu chính phủ, qua đó, hút
bớt thanh khoản nhờ việc giảm lượng đô la dư thừa; xem xét lại và trì hoãn
việc tăng giá xăng dầu, điện và các mặt hàng khác thông qua kiểm toán và
các biện pháp nhằm giảm lãng phí và tăng hiệu quả của các doanh nghiệp
sản xuất các loại hàng hóa này.Các biện pháp cần thực hiện bao gồm:
NHNN cần tham khảo ý kiến của các ngân hàng thương mại để đánh giá lại
tác động của các biện pháp gần đây trên thị trường; giảm lãi suất tiết kiệm
cao quá mức là hệ quả của cuộc cạnh tranh giữa các ngân hàng để huy động
tiền ký thác bằng cách cho phép giảm lượng trái phiếu chính phủ mà các
ngân hàng phải mua, và/hoặc cho phép sử dụng ngoại tệ để mua trái phiếu
chính phủ, qua đó, hút bớt thanh khoản nhờ việc giảm lượng đô la dư thừa;
xem xét lại và trì hoãn việc tăng giá xăng dầu, điện và các mặt hàng khác
thông qua kiểm toán và các biện pháp nhằm giảm lãng phí và tăng hiệu quả
của các doanh nghiệp sản xuất các loại hàng hóa này. NHNN nên mở rộng
đáng kể biên độ tỷ giá hối đoái để cho tiền đồng có thể lên giá uyển chuyển
hơn, hầu phản ánh mau chóng hơn thay đổi của thị trường. Từ năm 2004 đến
giữa năm 2007, tỷ giá hối đoái danh nghĩa hữu hiệu (nominal effective
exchange rate) đã giảm 7,6%; như vậy vẫn còn chỗ để cơ quan chức năng
điều chỉnh tỷ giá hối đoái.NHNN nên mở rộng đáng kể biên độ tỷ giá hối
đoái để cho tiền đồng có thể lên giá uyển chuyển hơn, hầu phản ánh mau
chóng hơn thay đổi của thị trường. Từ năm 2004 đến giữa năm 2007, tỷ giá
hối đoái danh nghĩa hữu hiệu (nominal effective exchange rate) đã giảm
7,6%; như vậy vẫn còn chỗ để cơ quan chức năng điều chỉnh tỷ giá hối đoái.

Để phòng ngừa những khó khăn mà các dòng vốn ngoại nhập đổ vào VN có
thể gây ra vì kỳ vọng tiền đô la sẽ tăng giá, chính quyền có thể giám sát kỹ
càng dòng vốn ngoại nhập và nếu cần thiết, áp dụng các biện pháp nhằm
kiểm soát các dòng vốn đó, thông qua các biện pháp thuần kinh tế (như tại
Chile) hay biện pháp hành chính (như tại Malaysia trong cuộc khủng hoảng
tài chính Đông Á, nhưng những biện pháp hành chính này lại đòi hỏi năng
lực hành chính vững vàng để phối hợp và giám sát được hiệu quả).Để phòng
ngừa những khó khăn mà các dòng vốn ngoại nhập đổ vào VN có thể gây ra
vì kỳ vọng tiền đô la sẽ tăng giá, chính quyền có thể giám sát kỹ càng dòng
vốn ngoại nhập và nếu cần thiết, áp dụng các biện pháp nhằm kiểm soát các
dòng vốn đó, thông qua các biện pháp thuần kinh tế (như tại Chile) hay biện
pháp hành chính (như tại Malaysia trong cuộc khủng hoảng tài chính Đông
Á, nhưng những biện pháp hành chính này lại đòi hỏi năng lực hành chính
vững vàng để phối hợp và giám sát được hiệu quả). Mức lãi suất cũng nên
được chú ý, vì chúng có thể gây phương hại đến sự ổn định của khu vực tài
chính. Về việc này, thay vì vừa ấn định lãi suất, vừa ấn định số lượng cho
vay, nên dành ưu tiên cho giảm lạm phát và nên để thị trường quyết định
mức lãi suất, nhờ vậy có thể đạt được một mức lãi suất thực dương. Để thực
hiện mục tiêu này, số lượng các kỳ phiếu bắt buộc các ngân hàng thương
mại phải mua cần được cắt giảm đáng kể. Biện pháp này cần được kết hợp
với việc chặt chẽ đối với đầu tư trong khu vực nhà nước, đặc biệt đầu tư của
các doanh nghiệp quốc doanh. Về khía cạnh này, Chính phủ có thể kiểm soát
các dự án đang tiến hành và công bố mau chóng kết quả cùng danh sách các
dự án ưu tiên phải tiếp tục thực hiện.Mức lãi suất cũng nên được chú ý, vì
chúng có thể gây phương hại đến sự ổn định của khu vực tài chính. Về việc
này, thay vì vừa ấn định lãi suất, vừa ấn định số lượng cho vay, nên dành ưu
tiên cho giảm lạm phát và nên để thị trường quyết định mức lãi suất, nhờ vậy
có thể đạt được một mức lãi suất thực dương. Để thực hiện mục tiêu này, số
lượng các kỳ phiếu bắt buộc các ngân hàng thương mại phải mua cần được
cắt giảm đáng kể. Biện pháp này cần được kết hợp với việc chặt chẽ đối với

đầu tư trong khu vực nhà nước, đặc biệt đầu tư của các doanh nghiệp quốc
doanh. Về khía cạnh này, Chính phủ có thể kiểm soát các dự án đang tiến
hành và công bố mau chóng kết quả cùng danh sách các dự án ưu tiên phải
tiếp tục thực hiện. Các biện pháp nhằm hạn chế tính không ổn định của dòng
vốn ngoại nhập có thể tiến hành bằng cách củng cố chặt chẽ khung luật lệ và
quy tắc thận trọng (Regulatory and prudential framework) về hoạt động ngân
hàng. Đặc biệt, chính quyền có thể siết chặt luật lệ liên quan đến phòng nguy
cơ thanh khoản và tỷ suất hối đoái, và đồng thời, thẩm định và giám sát nguy
cơ của mỗi ngân hàng gắn liền với số tiền cho vay để dùng vào TTCK và
BĐS.Các biện pháp nhằm hạn chế tính không ổn định của dòng vốn ngoại
nhập có thể tiến hành bằng cách củng cố chặt chẽ khung luật lệ và quy tắc
thận trọng (Regulatory and prudential framework) về hoạt động ngân hàng.
Đặc biệt, chính quyền có thể siết chặt luật lệ liên quan đến phòng nguy cơ
thanh khoản và tỷ suất hối đoái, và đồng thời, thẩm định và giám sát nguy cơ
của mỗi ngân hàng gắn liền với số tiền cho vay để dùng vào TTCK và BĐS.
Việc đánh thuế lợi nhuận kinh doanh BĐS để chống đầu cơ cần được thực
hiện nhanh chóng. Như vậy sẽ làm giảm lượng vốn đầu cơ đổ vào từ nước
ngoài, giảm áp lực lạm phát và dần dần "xì hơi" bong bóng BĐS. Việc đánh
thuế lợi nhuận kinh doanh BĐS để chống đầu cơ cần được thực hiện nhanh
chóng. Như vậy sẽ làm giảm lượng vốn đầu cơ đổ vào từ nước ngoài, giảm
áp lực lạm phát và dần dần "xì hơi" bong bóng BĐS. Nếu cần, các khoản
vay liên quan đến các TTCK và BĐS có thể bị hạn chế hơn nữa, hay thậm
chí có thể bị chặn đứng tạm thời.Nếu cần, các khoản vay liên quan đến các
TTCK và BĐS có thể bị hạn chế hơn nữa, hay thậm chí có thể bị chặn đứng
tạm thời. Về trung hạn Cải cách cơ cấu để hướng dòng vốn ngoại nhập vào
những sản xuất hữu hiệu, có thể được thực hiện thông qua đẩy mạnh cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước, cải cách hệ thống sử dụng đất và cải cách khu
vực tài chính.Cải cách cơ cấu để hướng dòng vốn ngoại nhập vào những sản
xuất hữu hiệu, có thể được thực hiện thông qua đẩy mạnh cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước, cải cách hệ thống sử dụng đất và cải cách khu vực tài

chính. Giảm lãng phí và rò rỉ trong các khoản đầu tư công có thể hiện thực
hóa, thông qua nâng cao chất lượng thẩm định dự án, tư nhân hóa, và công
bố thông tin minh bạch.Giảm lãng phí và rò rỉ trong các khoản đầu tư công
có thể hiện thực hóa, thông qua nâng cao chất lượng thẩm định dự án, tư
nhân hóa, và công bố thông tin minh bạch. Tình trạng đầu tư công "chèn ép"
đầu tư tư nhân có thể được giảm giải bằng hai khu vực đều được đối đãi như
nhau, nhất là trong việc vay tiền ngân hàng.Tình trạng đầu tư công "chèn ép"
đầu tư tư nhân có thể được giảm giải bằng hai khu vực đều được đối đãi như
nhau, nhất là trong việc vay tiền ngân hàng. Khủng hoảng ở Thái Lan năm
1997 đã chứng minh sự thiếu minh bạch của các doanh nghiệp nhà nước và
tư nhân, có thể dẫn đến sự phân bố sai sót một lượng tiền vốn khổng lồ và
một tình trạng xử lý thông tin quá cảm tính. Dựa trên kinh nghiệm này, cải
cách quản trị nhà nước, tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước, cải cách khu
vực tài chính và các cải cách cần thiết khác, cần được đẩy mau và mạnh hơn
nữa để đóng góp hữu hiệu và bền vững vào ổn định kinh tế trong lâu
dài.Khủng hoảng ở Thái Lan năm 1997 đã chứng minh sự thiếu minh bạch
của các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, có thể dẫn đến sự phân bố sai sót
một lượng tiền vốn khổng lồ và một tình trạng xử lý thông tin quá cảm tính.
Dựa trên kinh nghiệm này, cải cách quản trị nhà nước, tư nhân hóa doanh
nghiệp nhà nước, cải cách khu vực tài chính và các cải cách cần thiết khác,
cần được đẩy mau và mạnh hơn nữa để đóng góp hữu hiệu và bền vững vào
ổn định kinh tế trong lâu dài. TS Thái Văn CẩnLạm phát 15%, tại sao?Lạm
phát tháng hai vừa qua tăng đến 15% (tính trên 12 tháng). Đó là mức tăng
cao nhất trong vòng 10 năm qua và cũng thuộc hàng cao nhất tại khu vực
Đông Á hiện nay. Mức lạm phát cao này phải được đối chiếu với mức tăng
trưởng trên 8% hằng năm trong 4 năm qua của một nền kinh tế năng động,
trong đó thị trường chứng khoán và địa ốc đang bùng nổ.Đối với các nước
khác, một tình trạng kinh tế như vậy có thể được xem là quá nóng và nhà
nước sẽ tìm cách hạ nhiệt bằng cách thắt chặt thị trường tiền tệ và tín dụng.
Tuy nhiên, những nỗ lực theo chiều hướng này trong vài tháng qua đã dẫn

đến thiếu hụt tiền đồng và dao động trên thị trường tài chính VN. Chúng ta
hãy cùng nhau phân tích căn nguyên lạm phát tại VN và tại sao cần sự xử lý
thận trọng đối với tình hình hiện tại để tránh những khủng hoảng lớn, có thể
gây tác hại nghiêm trọng đến ổn định xã hội.Căn nguyên lạm phát là gia tăng
tín dụng, chủ yếu vì dòng vốn ngoại nhập rất lớn chưa được quản lý thích
ứng, trong một môi trường dùng tỷ giá hối đoái làm neo danh nghĩa
(nominal anchor) nhằm ổn định thị trường. Mặc dù giá dầu trên thế giới, giá
thực phẩm và nhu cầu tiêu dùng vào dịp Tết, tất cả đều gia tăng bổ sung vào
mức lạm phát 15% trong tháng 2 vừa qua; nhưng những yếu tố này, theo
quan điểm của chúng tôi, không quan trọng bằng quản lý dòng vốn ngoại
nhập.Thật vậy, VN nhận được dòng vốn ngoại nhập rất lớn trong các năm
qua, chiếm đến 39% GDP trong giai đoạn 2004-2007, riêng năm 2007 chiếm
15%. Vì chương trình cổ phần hóa tiến triển chậm nên các cơ hội đầu tư vào
sản xuất hữu hiệu càng bị giới hạn. Các dòng vốn do vậy được chuyển vào
TTCK, bất động sản (BĐS) và các khu vực phi thương mại khác (non-
tradable sectors). Phần lớn các dòng vốn ngoại nhập được hướng đến thị
trường BĐS. Đây là một lý do khiến giá đất tại các thành phố lớn VN được
xếp vào hạng cao nhất thế giới. Tương tự, chỉ số TTCK đã tăng gấp ba vào
tháng 9.2007, so với cuối năm 2005.Một số dòng vốn ngoại nhập đã được
niêm - cất (sterilized) bằng cách phát hành trái phiếu để hút ngoại tệ ra khỏi
thị trường, qua hoạt động của thị trường mở, đã không tác động trên nguồn
cung tiền. Nhưng các dòng vốn khác không được niêm - cất, nghĩa là bị tiền
tệ hóa, đã góp phần tăng nguồn cung tiền. Khối lượng tiền tệ tăng 30% mỗi
năm trong giai đoạn 2004 - 2006, và tăng trên 40% trong nửa đầu năm
2007.Có nên hút đô la hay không?Vì muốn giữ tỷ giá để cạnh tranh, Nhà
nước đang ở thế "tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa": Nếu Nhà nước niêm - câæt vốn
ngoại nhập (cho dù chưa kể cái giá ngân sách nhà nước phải trả vì lãi suất
cao hơn), đồng nội tệ sẽ tăng giá, khiến cho một nền kinh tế hướng xuất
khẩu như VN phải chịu giảm tỷ lệ tăng trưởng.Nhưng nếu dòng vốn ngoại
nhập không được niêm - cất đúng và đủ, để thích nghi với số lượng tiền cần

có để dùng cho giao dịch, kết quả sẽ là nguồn cung tiền gia tăng, dẫn đến gia
tăng giá cả nội địa. Đây chính là trường hợp của VN.Kể từ giữa năm 2007,
chính sách ghìm cương gia tăng tín dụng đã được thực hiện bằng cách nâng
tỷ lệ dự trữ bắt buộc và các mức lãi suất căn bản, lãi suất chiết khấu và tái
chiết khấu. Quản lý các dòng vốn có mức độ lớn như vậy (chiếm 15% GDP
trong năm 2007) đặt ra thách thức rất lớn, ngay cả đối với các nhóm quản trị
kinh tế lão luyện. Khó khăn là ở chỗ, việc niêm - cất toàn diện ngoại tệ sẽ
khiến đồng nội tệ tăng giá, và điều này sẽ thu hút thêm nhiều dòng vốn vào
hơn nữa, do giới đầu cơ nước ngoài muốn lợi dụng tình thế (đồng nội tệ lên
giá tức là nhà đầu tư nước ngoài sẽ có lợi khi đầu tư vào tiền đồng, trước hết
là nhờ lãi suất cao, sau đó là khi họ đổi tiền đồng lấy lại ngoại tệ).Chỉ có một
sự kết hợp giữa các chính sách kinh tế thực tế và cẩn mật mới có thể tránh
được những hậu quả tai hại.Việc thắt chặt thanh khoản trong hai tháng qua -
bằng cách nâng ba mức lãi suất cơ bản và buộc các ngân hàng mua 20.000 tỉ
đồng - đã ảnh hưởng bất lợi đến thị trường tín dụng. Và điều này lại xảy ra
ngay lúc các thị trường tài sản bắt đầu phát triển chậm lại hay chựng lại. Bên
cạnh đó, việc thắt chặt kiểm soát đối với một số loại giá có lẽ sẽ không đem
lại hiệu quả cao vì kinh nghiệm cho thấy rằng kiểm soát trực tiếp đang trở
thành khó khăn hơn trong một nền kinh tế ngày càng hướng vào thị
trường.Quả thật, nguy cơ khủng hoảng rất lớn trong thời điểm hiện nay. Nếu
lòng tin không được củng cố thì các dòng vốn ngoại nhập có thể nhanh
chóng giảm xuống hay ngưng lại. Nhà đầu tư trong nước sẽ lo sợ và cố gắng
rút khỏi các thị trường tài sản. Đặc biệt là trong một môi trường mà khung
pháp lý còn chưa rõ ràng, rất khó để biết được đầu tư nào là tốt hay dở, hoặc
nên rút ra hay tiếp tục đầu tư. Điều này sẽ làm giảm giá tài sản rất nhanh, và
làm suy yếu rõ rệt bảng cân đối tài sản của các ngân hàng tham gia vào các
thị trường này. Khả năng thanh toán của các tổ chức tài chính sẽ bị giảm sút
và nhiều tổ chức thậm chí phải giải thể.Các dấu hiệu đáng ngại Tỷ lệ giá-lãi
(P/E) của đa số công ty có tên trên sàn chứng khoán là vào khoảng 32 vào
giữa năm 2007. Đây là tỷ lệ khá cao, tương đương với tỷ lệ tại Thái Lan và

Malaysia ngay trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Dù tỷ lệ này đã
giảm, tính từ thời điểm đó, nhiều nhà quan sát tin rằng chiều hướng "giảm
đến giá trị thật" sẽ tiếp tục. Những vấn đề về lạm phát và đầu tư đang được
nhiều người dân quan tâm - Ảnh: D.Đ.MKhủng hoảng tài chính này có thể
diễn ra đồng thời với một đợt khủng hoảng tiền tệ. Việc dòng vốn nước
ngoài đổ vào chậm lại, hay thậm chí sẽ đảo chiều, sẽ khiến người trong nước
kiếm cách gửi tiền ra nước ngoài. Trong khi đó, cấu trúc của cán cân thu chi
quốc tế rất dễ làm cho nền kinh tế VN bị tác động bởi khủng hoảng. Kể từ
năm 2004, nhập siêu lớn của cán cân thương mãi - 2,5 tỉ đô la và gia tăng
trong năm 2007 - đã được tài trợ bằng chuyển khoản tư nhân rất đáng kể,
chủ yếu từ đầu tư của kiều bào, cao hơn số kiều hối thường nhận được (ước
khoảng 5 tỉ đô la, tương đương 7% GDP). Gần đây hơn, các khoản vay ngày
càng tăng đã đóng một vai trò đáng kể hơn về nguồn tiền dùng để tài trợ
nhập siêu. Như vậy, đây là có một sự chuyển hướng so với trước đây, khi
nhập siêu chủ yếu được tài trợ bằng đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và hỗ trợ
tài chính ưu đãi.Các chuyển khoản tư nhân này, cùng với các dòng vốn
ngoại nhập khác, có thể ngừng lại, nếu sự tin tưởng trong nền kinh tế không
được mau chóng củng cố thêm. Các dòng vốn ngoại nhập bị cạn kiệt, kết
hợp với xu hướng chuyển tiền ra nước ngoài gia tăng, sẽ gây một áp lực kinh
khủng khiến giá tiền đồng phải giảm xuống.Các chuyển khoản tư nhân này,
cùng với các dòng vốn ngoại nhập khác, có thể ngừng lại, nếu sự tin tưởng
trong nền kinh tế không được mau chóng củng cố thêm. Các dòng vốn
ngoại nhập bị cạn kiệt, kết hợp với xu hướng chuyển tiền ra nước ngoài gia
tăng, sẽ gây một áp lực kinh khủng khiến giá tiền đồng phải giảm xuống. Để
ngăn ngừa sự mất giá đột ngột, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ cố gắng
nâng đỡ đồng nội tệ bằng cách bán dự trữ ngoại tệ, nhưng làm như vậy chắc
chắn không thể xoay chuyển được tình hình và rốt cuộc sẽ buông xuôi, càng
khiến cho tiền đồng tuột giá hơn nữa.Để ngăn ngừa sự mất giá đột ngột,
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ cố gắng nâng đỡ đồng nội tệ bằng cách
bán dự trữ ngoại tệ, nhưng làm như vậy chắc chắn không thể xoay chuyển

được tình hình và rốt cuộc sẽ buông xuôi, càng khiến cho tiền đồng tuột giá
hơn nữa. Đó chính là tình huống đã xảy ra ở Thái Lan năm 1997. Chính
người nghèo phải gánh chịu những hậu quả nặng nề nhất của đợt khủng
hoảng đó. Đó chính là tình huống đã xảy ra ở Thái Lan năm 1997. Chính
người nghèo phải gánh chịu những hậu quả nặng nề nhất của đợt khủng
hoảng đó. Giảm lạm phát như thế nào? Để giải quyết các vấn đề kinh tế khó
khăn trình bày ở trên, một số biện pháp cần được áp dụng trong ngắn hạn và
trung hạn.Để giải quyết các vấn đề kinh tế khó khăn trình bày ở trên, một số
biện pháp cần được áp dụng trong ngắn hạn và trung hạn. Về ngắn hạn Điều
trước tiên và quan trọng nhất là chính quyền cần chú ý đến nguy cơ khủng
hoảng và bằng mọi giá tránh được nguy cơ này. Những chính sách thích ứng
cần được thực thi mau chóng để củng cố lòng tin của thị trường và sự tín
nhiệm đối với chính quyền. Hơn nữa, cần phải nhận thức rằng không thể
ngày một ngày hai mà chặn đứng được lạm phát, và cần thời gian để giảm
lạm phát xuống một mức độ chấp nhận được (khoảng 10%) để ổn định kinh
tế.Điều trước tiên và quan trọng nhất là chính quyền cần chú ý đến nguy cơ
khủng hoảng và bằng mọi giá tránh được nguy cơ này. Những chính sách
thích ứng cần được thực thi mau chóng để củng cố lòng tin của thị trường và
sự tín nhiệm đối với chính quyền. Hơn nữa, cần phải nhận thức rằng không
thể ngày một ngày hai mà chặn đứng được lạm phát, và cần thời gian để
giảm lạm phát xuống một mức độ chấp nhận được (khoảng 10%) để ổn định
kinh tế. Khi nền kinh tế VN ngày càng gắn kết với kinh tế toàn cầu và thu
nhập ngày càng tăng, tỷ lệ hàng hóa mậu dịch quốc tế trong rổ tiêu dùng do
đó sẽ tăng. Vì vậy giá nội địa sẽ có xu hướng tăng, nếu giá nhập khẩu cũng
như chất lượng hàng nhập tăng. Để củng cố lòng tin, chính quyền có thể cho
thấy rõ ràng hơn năng lực phối hợp hữu hiệu các biện pháp thích ứng để
chống lạm phát cũng như khả năng phối hợp những hoạt động tương đồng
giữa những thành viên chính trong giới kinh tế và tài chính, trong đó có
NHNN, Bộ Tài chính, các bộ khác và các ngân hàng thương mại.Khi nền
kinh tế VN ngày càng gắn kết với kinh tế toàn cầu và thu nhập ngày càng

tăng, tỷ lệ hàng hóa mậu dịch quốc tế trong rổ tiêu dùng do đó sẽ tăng. Vì
vậy giá nội địa sẽ có xu hướng tăng, nếu giá nhập khẩu cũng như chất lượng
hàng nhập tăng. Để củng cố lòng tin, chính quyền có thể cho thấy rõ ràng
hơn năng lực phối hợp hữu hiệu các biện pháp thích ứng để chống lạm phát
cũng như khả năng phối hợp những hoạt động tương đồng giữa những thành
viên chính trong giới kinh tế và tài chính, trong đó có NHNN, Bộ Tài chính,
các bộ khác và các ngân hàng thương mại. Các biện pháp cần thực hiện bao
gồm: NHNN cần tham khảo ý kiến của các ngân hàng thương mại để đánh
giá lại tác động của các biện pháp gần đây trên thị trường; giảm lãi suất tiết
kiệm cao quá mức là hệ quả của cuộc cạnh tranh giữa các ngân hàng để huy
động tiền ký thác bằng cách cho phép giảm lượng trái phiếu chính phủ mà
các ngân hàng phải mua, và/hoặc cho phép sử dụng ngoại tệ để mua trái
phiếu chính phủ, qua đó, hút bớt thanh khoản nhờ việc giảm lượng đô la dư
thừa; xem xét lại và trì hoãn việc tăng giá xăng dầu, điện và các mặt hàng
khác thông qua kiểm toán và các biện pháp nhằm giảm lãng phí và tăng hiệu
quả của các doanh nghiệp sản xuất các loại hàng hóa này.Các biện pháp cần
thực hiện bao gồm: NHNN cần tham khảo ý kiến của các ngân hàng thương
mại để đánh giá lại tác động của các biện pháp gần đây trên thị trường; giảm
lãi suất tiết kiệm cao quá mức là hệ quả của cuộc cạnh tranh giữa các ngân
hàng để huy động tiền ký thác bằng cách cho phép giảm lượng trái phiếu
chính phủ mà các ngân hàng phải mua, và/hoặc cho phép sử dụng ngoại tệ
để mua trái phiếu chính phủ, qua đó, hút bớt thanh khoản nhờ việc giảm
lượng đô la dư thừa; xem xét lại và trì hoãn việc tăng giá xăng dầu, điện và
các mặt hàng khác thông qua kiểm toán và các biện pháp nhằm giảm lãng
phí và tăng hiệu quả của các doanh nghiệp sản xuất các loại hàng hóa này.
NHNN nên mở rộng đáng kể biên độ tỷ giá hối đoái để cho tiền đồng có thể
lên giá uyển chuyển hơn, hầu phản ánh mau chóng hơn thay đổi của thị
trường. Từ năm 2004 đến giữa năm 2007, tỷ giá hối đoái danh nghĩa hữu
hiệu (nominal effective exchange rate) đã giảm 7,6%; như vậy vẫn còn chỗ
để cơ quan chức năng điều chỉnh tỷ giá hối đoái.NHNN nên mở rộng đáng

kể biên độ tỷ giá hối đoái để cho tiền đồng có thể lên giá uyển chuyển hơn,
hầu phản ánh mau chóng hơn thay đổi của thị trường. Từ năm 2004 đến giữa
năm 2007, tỷ giá hối đoái danh nghĩa hữu hiệu (nominal effective exchange
rate) đã giảm 7,6%; như vậy vẫn còn chỗ để cơ quan chức năng điều chỉnh
tỷ giá hối đoái. Để phòng ngừa những khó khăn mà các dòng vốn ngoại nhập
đổ vào VN có thể gây ra vì kỳ vọng tiền đô la sẽ tăng giá, chính quyền có
thể giám sát kỹ càng dòng vốn ngoại nhập và nếu cần thiết, áp dụng các biện
pháp nhằm kiểm soát các dòng vốn đó, thông qua các biện pháp thuần kinh
tế (như tại Chile) hay biện pháp hành chính (như tại Malaysia trong cuộc
khủng hoảng tài chính Đông Á, nhưng những biện pháp hành chính này lại
đòi hỏi năng lực hành chính vững vàng để phối hợp và giám sát được hiệu
quả).Để phòng ngừa những khó khăn mà các dòng vốn ngoại nhập đổ vào
VN có thể gây ra vì kỳ vọng tiền đô la sẽ tăng giá, chính quyền có thể giám
sát kỹ càng dòng vốn ngoại nhập và nếu cần thiết, áp dụng các biện pháp
nhằm kiểm soát các dòng vốn đó, thông qua các biện pháp thuần kinh tế
(như tại Chile) hay biện pháp hành chính (như tại Malaysia trong cuộc
khủng hoảng tài chính Đông Á, nhưng những biện pháp hành chính này lại
đòi hỏi năng lực hành chính vững vàng để phối hợp và giám sát được hiệu
quả). Mức lãi suất cũng nên được chú ý, vì chúng có thể gây phương hại đến
sự ổn định của khu vực tài chính. Về việc này, thay vì vừa ấn định lãi suất,
vừa ấn định số lượng cho vay, nên dành ưu tiên cho giảm lạm phát và nên để
thị trường quyết định mức lãi suất, nhờ vậy có thể đạt được một mức lãi suất
thực dương. Để thực hiện mục tiêu này, số lượng các kỳ phiếu bắt buộc các
ngân hàng thương mại phải mua cần được cắt giảm đáng kể. Biện pháp này
cần được kết hợp với việc chặt chẽ đối với đầu tư trong khu vực nhà nước,
đặc biệt đầu tư của các doanh nghiệp quốc doanh. Về khía cạnh này, Chính
phủ có thể kiểm soát các dự án đang tiến hành và công bố mau chóng kết
quả cùng danh sách các dự án ưu tiên phải tiếp tục thực hiện.Mức lãi suất
cũng nên được chú ý, vì chúng có thể gây phương hại đến sự ổn định của
khu vực tài chính. Về việc này, thay vì vừa ấn định lãi suất, vừa ấn định số

lượng cho vay, nên dành ưu tiên cho giảm lạm phát và nên để thị trường
quyết định mức lãi suất, nhờ vậy có thể đạt được một mức lãi suất thực
dương. Để thực hiện mục tiêu này, số lượng các kỳ phiếu bắt buộc các ngân
hàng thương mại phải mua cần được cắt giảm đáng kể. Biện pháp này cần
được kết hợp với việc chặt chẽ đối với đầu tư trong khu vực nhà nước, đặc
biệt đầu tư của các doanh nghiệp quốc doanh. Về khía cạnh này, Chính phủ
có thể kiểm soát các dự án đang tiến hành và công bố mau chóng kết quả
cùng danh sách các dự án ưu tiên phải tiếp tục thực hiện. Các biện pháp
nhằm hạn chế tính không ổn định của dòng vốn ngoại nhập có thể tiến hành
bằng cách củng cố chặt chẽ khung luật lệ và quy tắc thận trọng (Regulatory
and prudential framework) về hoạt động ngân hàng. Đặc biệt, chính quyền
có thể siết chặt luật lệ liên quan đến phòng nguy cơ thanh khoản và tỷ suất
hối đoái, và đồng thời, thẩm định và giám sát nguy cơ của mỗi ngân hàng
gắn liền với số tiền cho vay để dùng vào TTCK và BĐS.Các biện pháp
nhằm hạn chế tính không ổn định của dòng vốn ngoại nhập có thể tiến hành
bằng cách củng cố chặt chẽ khung luật lệ và quy tắc thận trọng (Regulatory
and prudential framework) về hoạt động ngân hàng. Đặc biệt, chính quyền
có thể siết chặt luật lệ liên quan đến phòng nguy cơ thanh khoản và tỷ suất
hối đoái, và đồng thời, thẩm định và giám sát nguy cơ của mỗi ngân hàng
gắn liền với số tiền cho vay để dùng vào TTCK và BĐS. Việc đánh thuế lợi
nhuận kinh doanh BĐS để chống đầu cơ cần được thực hiện nhanh chóng.
Như vậy sẽ làm giảm lượng vốn đầu cơ đổ vào từ nước ngoài, giảm áp lực
lạm phát và dần dần "xì hơi" bong bóng BĐS. Việc đánh thuế lợi nhuận kinh
doanh BĐS để chống đầu cơ cần được thực hiện nhanh chóng. Như vậy sẽ
làm giảm lượng vốn đầu cơ đổ vào từ nước ngoài, giảm áp lực lạm phát và
dần dần "xì hơi" bong bóng BĐS. Nếu cần, các khoản vay liên quan đến các
TTCK và BĐS có thể bị hạn chế hơn nữa, hay thậm chí có thể bị chặn đứng
tạm thời.Nếu cần, các khoản vay liên quan đến các TTCK và BĐS có thể bị
hạn chế hơn nữa, hay thậm chí có thể bị chặn đứng tạm thời. Về trung hạn
Cải cách cơ cấu để hướng dòng vốn ngoại nhập vào những sản xuất hữu

hiệu, có thể được thực hiện thông qua đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước, cải cách hệ thống sử dụng đất và cải cách khu vực tài chính.Cải
cách cơ cấu để hướng dòng vốn ngoại nhập vào những sản xuất hữu hiệu, có
thể được thực hiện thông qua đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước,
cải cách hệ thống sử dụng đất và cải cách khu vực tài chính. Giảm lãng phí
và rò rỉ trong các khoản đầu tư công có thể hiện thực hóa, thông qua nâng
cao chất lượng thẩm định dự án, tư nhân hóa, và công bố thông tin minh
bạch.Giảm lãng phí và rò rỉ trong các khoản đầu tư công có thể hiện thực
hóa, thông qua nâng cao chất lượng thẩm định dự án, tư nhân hóa, và công
bố thông tin minh bạch. Tình trạng đầu tư công "chèn ép" đầu tư tư nhân có
thể được giảm giải bằng hai khu vực đều được đối đãi như nhau, nhất là
trong việc vay tiền ngân hàng.Tình trạng đầu tư công "chèn ép" đầu tư tư
nhân có thể được giảm giải bằng hai khu vực đều được đối đãi như nhau,
nhất là trong việc vay tiền ngân hàng. Khủng hoảng ở Thái Lan năm 1997 đã
chứng minh sự thiếu minh bạch của các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân,
có thể dẫn đến sự phân bố sai sót một lượng tiền vốn khổng lồ và một tình
trạng xử lý thông tin quá cảm tính. Dựa trên kinh nghiệm này, cải cách quản
trị nhà nước, tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước, cải cách khu vực tài chính

×