Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Hoạt động thương mại hàng hóa nội khối ASEAN từ khi hiệp định ATIGA được ký kết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.7 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ

BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN KINH TẾ ASEAN
Đề tài: Hoạt động thương mại hàng hóa nội khối ASEAN từ
khi Hiệp định ATIGA được ký kết

Hà Nội, 2021

1


MỤC LỤC
Lời mở đầu……………………………………………………………. 3
Chương 1: Hiệp định thương mại hàng hóa ATIGA………………..5

1.1

Những thỏa thuận và cam kết của ASEAN liên quan đến thương
mại khác trước khi có ATIGA…………………………………….5

1.1.1. Hiệp định về chương trình Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung năm
1992
1.1.2. Hiệp định khung về dịch vụ của ASEAN (AFAS) năm 1995

1.2. Giới thiệu về Hiệp định thương mại hàng hóa ATIGA…………...7
1.2.1. Lịch sử hình thành
1.2.2. Các đặc điểm chính
1.2.3. Các cam kết chính


Chương 2: Hoạt động thương mại hàng hóa dịch vụ nội khối
ASEAN ………………………………………………………………….12

2.1. Hoạt động thương mại nội khối của ASEAN giai đoạn 2005 - nay
……………………………………………………………………………12
2.2. Đánh giá hoạt động thương mại nội khối sau khi ATIGA được ký
kết………………………………………………………………………..15
2.2.1. Kết quả
2.2.2. Hạn chế
2


Chương 3: Giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động thương mại nội
khối ……………………………………………………………………...22

3.1. Đối với các nước ASEAN ……………………………………........22

3.2. Đối với Việt Nam …………………………………………………. 23
Lời kết………………………………………………………………….. 24

Lời mở đầu
ASEAN là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia
trong khu vực Đông Nam Á. Với tổng thể nền kinh tế có quy mơ lớn và dân số hơn
670 triệu người (2020), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam, từ những ngày đầu thành
lập (1967) cho đến nay đã hơn 50 năm hoạt động, ASEAN đang ngày càng lớn mạnh,
đưa đến những thay đổi căn bản về tính chất liên kết của Hiệp hội, trở thành một tổ
chức có vai trị quan trọng trong nền kinh tế châu lục và thế giới. Ngoài ra, ASEAN
là một trong những tổ chức khu vực năng động và có nhiều hiệp định thương mại
nhất phải kể đến như: Hiệp định thương mại hàng hóa ATIGA, ngồi Khu vực Mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa

các quốc gia trong khối ASEAN với nhau thì ASEAN và các quốc gia liên quan vẫn
đang tiếp tục đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), mở ra
không gian rộng lớn cho thương mại, đầu tư trong toàn khu vực.

Mặc dù được xem là thị trường năng động, dân số đông, thu nhập đang tăng,
tuy nhiên hoạt động thương mại nội khối ASEAN vẫn ở mức khiêm tốn chỉ đạt 24%
vào năm 2018. Hội nhập kinh tế khu vực mang lại những cơ hội cho tất cả các quốc
gia thành viên trong khối ASEAN, tuy nhiên lợi ích các quốc gia thành viên nhận
được thông qua hợp tác thương mại là không giống nhau. Điều này chứng tỏ các
chương trình hợp tác của ASEAN chưa thực sự phát huy hiệu quả bởi các quốc gia
thành viên vẫn hướng về các thị trường chủ lực như: Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu
3


(EU), Nhật Bản và Trung Quốc,... mà bỏ qua việc thúc đẩy hoạt động thương mại nội
khối.

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thực tế này, về khách quan cho thấy những
thị trường chủ lực ngoài khối ASEAN vẫn đang đóng một vai trị rất quan trọng trong
cán cân thương mại của mỗi quốc gia, sâu xa hơn là những công ty đa quốc gia của
Hàn Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ,... có nhà máy tại các quốc gia ASEAN đang đóng góp
giá trị rất lớn về hoạt động xuất khẩu của quốc gia này, dẫn đến việc khó tập trung
thương mại giữa các quốc gia ASEAN với nhau mà hướng về các thị trường phát
triển khác. Bên cạnh đó, do thương mại tồn cầu có xu hướng chững lại vì ảnh hưởng
của đại dịch covid 19, sự chênh lệch phát triển giữa các nền kinh tế Đơng Nam Á cịn
lớn, cũng dẫn đến việc các quốc gia khó trao đổi với nhau hơn. Về chủ quan là do
những hàng rào phi thuế quan được dựng lên giữa các quốc gia nội khối, cơ cấu sản
xuất, tiêu thụ giữa các quốc gia trong khu vực có sự tương đồng nhau về nhóm hàng
dồi dào về lao động và tài nguyên thiên nhiên, dẫn đến cạnh tranh trực tiếp giữa các
thành viên trong thương mại nội khối, các cơ chế chính sách liên kết vẫn chưa thật sự

thơng thống tạo cơ chế hữu hiệu nhằm thúc đẩy giao thương nội khối.

Chính vì vậy, chủ đề “Hoạt động thương mại nội khối của các nước ASEAN
sau khi hiệp định ATIGA được ký kết” nhằm mục đích chỉ rõ tình hình thực tiễn hợp
tác thương mại giữa các quốc gia thành viên trong giai đoạn 2005 - 2019, trước và
sau khi hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN được ký kết năm 2009. Qua đó, đưa
ra những bài học kinh nghiệm và hàm ý chính sách cho các quốc gia thành viên
ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng.

4


Chương 1: Hiệp định thương mại hàng hóa
ATIGA
1.1.

Những thỏa thuận và cam kết giữa các nước ASEAN liên quan đến
thương mại khác trước khi có ATIGA.

1.1.1. Hiệp định về chương trình Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung năm 1992.

Hiệp định CEPT (Common Effective Preferential Tariff) hay còn gọi là Hiệp định
về chương trình Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung cho khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA). Hiệp định CEPT được thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh
ASEAN lần thứ IV vào tháng 01/1992 diễn ra tại Singapore.
Hiệp định CEPT đề ra lịch trình 15 năm giảm thuế quan để tiến tới khu vực mậu
dịch Tự do ASEAN. Theo đó, mỗi nước phải đệ trình các Danh mục giảm thuế, danh
mục loại trừ hoàn toàn, danh mục loại trừ tạm thời nhằm tiến đến đích chung là giảm
thuế hầu hết các mặt hàng xuống từ 0 đến 5%.
Chương trình cắt giảm thuế quan theo hiệp định CEPT:

• Các quốc gia thành viên thỏa thuận Chương trình cắt giảm thuế quan ưu đãi có
hiệu lực như sau:
5


Giảm các mức thuế quan hiện nay xuống còn 20% trong thời kỳ 5 năm tới 8
năm, kể từ ngày 01-01-1993, tùy thuộc vào Chương trình cắt giảm thuế quan
do từng quốc gia thành viên quyết định và sẽ được thông báo khi được công bố
vào lúc bắt đầu chương trình. Khuyến khích các quốc gia thành viên áp dụng
mức cắt giảm hàng năm theo công thức (X-20)%/5 hoặc 8 năm, trong đó X là
mức thuế quan hiện hành tại mỗi quốc gia thành viên.
- Sau đó giảm mức thuế 20% hoặc thấp hơn trong thời hạn 7 năm. Mức cắt giảm
tối thiểu là 5% lượng được cắt giảm. Chương trình cắt giảm thuế quan sẽ được
các quốc gia thành viên quyết định và tuyên bố khi bắt đầu chương trình.
- Đối với các sản phẩm có mức thuế hiện nay là 20% hoặc thấp hơn, kể từ ngày
01/01/1993, các quốc gia thành viên sẽ quyết định chương trình cắt giảm thuế
quan, và công bố ngày bắt đầu áp dụng chương trình cắt giảm. Hai hoặc nhiều
quốc gia thành viên có thể thỏa thuận cắt giảm thuế quan xuống cịn 0-5% cho
các sản phẩm cụ thể với tốc độ nhanh hơn khi bắt đầu Chương trình.
-




Các sản phẩm đã đạt tới hoặc đang có mức thuế suất là 20% hoặc thấp hơn, sẽ
nghiễm nhiên được hưởng các ưu đãi.
Các chương trình cắt giảm thuế quan khơng ngăn cản các quốc gia thành viên
cắt giảm ngay lập tức mức thuế quan của mình xuống cịn 0-5% hoặc áp dụng
một chương trình rút ngắn việc cắt giảm thuế quan.


1.1.2. Hiệp định khung về dịch vụ của ASEAN (AFAS) năm 1995.

Đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ nội khối ASEAN được các quốc gia thành
viên tiến hành trên cơ sở Hiệp định khung về dịch vụ của ASEAN (AFAS) ký ngày
15-2-1995 và nghị định thư sửa đổi AFAS ký ngày 02-09- 2003. Theo mục tiêu đặt ra
trong kế hoạch về xây dựng cộng đồng kinh tế ASEAN sã tiến hành đàm phán 11 gói
cam kết cho đến năm 2015. Đối với mỗi gói cam kết, các nước sẽ ký nghị định thư
thực hiện gói cam kết và xây dựng biểu cam kết dịch vụ của mình được đáp ứng các
yêu cầu đặt ra cho gói cam kết đó. Nguyên tắc đặt ra cho đàm phán là các cam kết
phải ở mức cao hơn các cam kết tại WTO.

Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) với các mục tiêu: thúc đẩy hợp tác
dịch vụ giữa các nước thành viên ASEAN (AMS) để nâng cao hiệu quả và cạnh tranh
của các ngành công nghiệp dịch vụ ASEAN, đa dạng hóa khả năng sản xuất,sự cung
6


cấp và đóng góp của lĩnh vực dịch vụ cắt giảm các hàng rào hiện có đối với thương
mại dịch vụ và tự do hóa thương mại dịch vụ theo cả chiều rộng và chiều sâu dựa trên
các cam kết về thương mại dịch vụ của WTO. Bảy lĩnh vực dịch vụ quan trọng được
chọn để thực hiện tự do hóa bước đầu bao gồm: tài chính, viễn thơng, vận tải hàng
hải, vận tải hàng không, du lịch, dịch vụ kinh doanh và dịch vụ xây dựng. Vòng đàm
phán thứ nhất về dịch vụ ASEAN tập trung vào bảy lĩnh vực dịch vụ này. Để tiến tới
các vòng đàm phán tiếp theo, các Bộ trưởng kinh tế ASEAN đã hoạch định lộ trình
áp dụng cho các ngành và phân ngành dịch vụ cũng như các phương thức cung cấp
dịch vụ. Lộ trình này kéo dài từ năm 1999 đến năm 2020, bao gồm hai giai đoạn
chính:


Giai đoạn 1999-2001 (ngắn hạn):


-

Tự do hóa các ngành hoặc phân ngành dịch vụ chung trong khuôn khổ Hiệp
định AFAS và GATS của WTO. Ngành và phân ngành dịch vụ chung được xác
định trên cơ sở có ít nhất bốn nước thành viên đã đưa ra cam kết.

-

Tự do hóa dần phương thức 1(Mode 1) về cung cấp dịch vụ (cung cấp qua biên
giới) và Mode 2(tiêu dùng ở nước ngồi).

-

Tự do hóa dần trên cơ sở đàm phán đối với phương thức 3 (Mode 3) cung cấp
dịch vụ (hiện diện thương mại) và Mode 4 (hiện diện thể nhân).



Giai đoạn 2001 - 2020: hồn thành tự do hóa đối với tất cả ngành, phương thức
cung cấp dịch vụ vào năm 2020. Tuy nhiên, để tiến tới mục tiêu này, các nước
sẽ lựa chọn lộ trình thích hợp cho từng ngành/phân ngành dịch vụ phù hợp với
điều khiển của mỗi nước.

Cho đến tháng 6-2015, ASEAN đã hồn tất gói 9 cam kết dịch vụ theo AFAS. Các
cam kết về tự do hóa dịch vụ trong ASEAN đã bao trùm nhiều lĩnh vực như dịch vụ
kinh doanh, dịch vụ chuyên nghiệp, xây dựng, phân phối, giáo dục, môi trường, vận
tải biển, viễn thông và du lịch. Có bốn gói cam kết về vận tải hàng khơng đã được ký
kết. Các thỏa thuận công nhận lẫn nhau (MRAS) giữa các nước thành viên ASEAN
về tiêu chuẩn, trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, v.v… là một công cụ quan trọng giúp tự

do hóa lưu chuyển các dịch vụ chuyên nghiệp trong ASEAN. Hiện nay, các nước
ASEAN đã ký các thỏa thuận công nhận lẫn nhau đối với các tiêu chuẩn, kỹ năng,
các ngành dịch vụ cơ khí, y tá, kiến trúc, kế toán và du lịch. Hiện nay, các nước
ASEAN đang tiếp tục đàm phán, thúc đẩy việc mở cửa thị trường dịch vụ với mức độ
cao hơn mức độ đã cam kết mở cửa của các nước ASEAN trong khuôn khổ WTO.
7


Liên quan đến lĩnh vực dịch vụ, từ năm 2013, ASEAN tiến hành đàm phán hiệp
định thương mại dịch vụ ASEAN (ATISA) nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của
AFAS.

1.2.

Giới thiệu về Hiệp định thương mại hàng hóa ATIGA

1.2.1.

Lịch sử hình thành

Sau khi được triển khai thực hiện từ tháng 01-1992, Hiệp định về chương trình ưu
đãi thuế có hiệu lực chung (CEPT) là hành lang pháp lý để các nước ASEAN cắt
giảm thuế quan tiến tới mục tiêu thành lập khu vực thương mại tự do ASEAN. Thuế
suất của hầu hết hàng hóa trong thương mại giữa các nước ASEAN đã giảm xuống
0,5%. Tuy nhiên, Hiệp định CEPT dù đã trải qua hai lần sửa đổi bổ sung vào năm
2003 vẫn bộc lộ một số nhược điểm như chưa hồn chỉnh về mặt pháp lý, nhiều
chương trình sáng kiến hợp tác mới trong ASEAN và các nhân tố mới phát sinh trong
hợp tác ASEAN chưa được phân bố kịp thời.
Hơn nữa từ năm 2002, ASEAN chuyển sang một Hiệp định mới là đàm phán thành
lập các khu vực thương mại tự do (FTA) với các nước đối tác ngoại khối trong đó

ASEAN đều đàm phán và ký kết các hiệp định/chương trình thương mại hàng hóa
với nội dung tồn diện, phù hợp với các nguyên tắc đã được các Bộ trưởng ASEAN
thông qua là cam kết nội bộ ASEAN phải cao hơn các cam kết mà ASEAN dành cho
các nước đối tác. Từ đó, ASEAN nhận thấy nhu cầu phải xây dựng một hiệp định
thương mại hàng hóa và toàn diện điều chỉnh tất cả các lĩnh vực về thương mại hàng
hóa trong ASEAN. Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA - ASEAN Trade
in Goods Agreement) ra đời trên cơ sở đó. ATIGA được đại diện có thẩm quyền của
các quốc gia ASEAN ký ngày 26-02-2009 tại Hội nghị Cấp cao ASEAN 14 tại Thái
Lan và có hiệu lực từ ngày 17- 05-2010.
Đây là hiệp định toàn diện đầu tiên của ASEAN điều chỉnh toàn bộ thương mại
hàng hóa trong nội khối và được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các cam kết cắt
giảm/loại bỏ thuế quan đã được thống nhất trong CEPT/AFTA cùng các hiệp định,
nghị định thư có liên quan, đồng thời bổ sung thêm những quy định phù hợp với thực
tiễn hoạt động thương mại hàng hóa.
Hiệp định bao gồm các nội dung chính dưới đây:
8


Phụ lục 1 – Danh sách các biện pháp thông báo.
Phụ lục 2 – Biểu thuế quan.
Phụ lục 3 – Quy tắc xuất xứ cụ thể mặt hàng
Phụ lục 3 – Tệp đính kèm 1 – Quy tắc xuất xứ đối với các sản phẩm dệt may
Phụ lục 4 – Các sản phẩm ITA trong AHTN 2007
Phụ lục 5 – Các ngun tắc và chỉ dẫn tính tốn hàm lượng giá trị khu vực trong
ATIGA
Phụ lục 6 – Hướng dẫn thực hiện Cộng gộp từng phần theo quy định của Điều 30(2)
Quy tắc xuất xứ cộng gộp trong ASEAN
Phụ lục 7 – Quy tắc xuất xứ mẫu D và ghi chú
Phụ lục 8 – Các thủ tục chứng nhận hoạt động
Phụ lục 9 – Danh sách các biện pháp kiểm dịch động thực vật

Phụ lục 10 – Các địa chỉ liên hệ được chỉ định để thực hiện biện pháp kiểm dịch động
thực vật theo Chương 8 ATIGA
Phụ lục 11 – Danh sách các Hiệp định bị thay thế
Việt Nam tham gia ASEAN từ năm 1995 và bắt đầu thực hiện CEPT/AFTA từ năm
1996 và sau này tiếp tục thực hiện ATIGA.
1.2.2.

Các đặc điểm chính

Trong ATIGA các nước ASEAN dành cho nhau mức ưu đãi tương đương hoặc
thuận lợi hơn mức ưu đãi dành cho các nước đối tác trong các Thỏa thuận thương mại
tự do (FTA) mà ASEAN ký (các FTA ASEAN+).
Ngoài các cam kết về thuế quan, ATIGA cũng bao gồm nhiều cam kết khác như:
xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan, quy tắc xuất xứ, thuận lợi hóa thương mại, hải
quan, các tiêu chuẩn và sự phù hợp, các biện pháp vệ sinh dịch tễ.
Biểu cam kết cắt giảm thuế quan trong ATIGA của mỗi nước bao gồm toàn bộ các
sản phẩm trong danh mục hàng hóa thuế quan của ASEAN (AHTN) và lộ trình cắt
giảm cụ thể cho từng sản phẩm trong từng năm. Do đó, so với CEPT, cam kết trong
ATIGA rất rõ ràng và dễ tra cứu.
1.2.3.

Các cam kết chính

Nguyên tắc cam kết: tất cả các sản phẩm trong Danh mục hài hòa thuế quan của
ASEAN (AHTN) đều được đưa vào trong biểu cam kết thuế quan của từng nước
trong ATIGA, bao gồm cả những sản phẩm được cắt giảm thuế và cả những sản phẩm
khơng phải cắt giảm thuế.


Xóa bỏ hàng rào thuế quan:

9


Đối với hiệp định ATIGA, đến năm 2015, cơ bản các mặt hàng sẽ được xóa bỏ thuế
quan trong khn khổ này và 7% tổng số dòng thuế được linh hoạt đến năm 2018.
Từ năm 2007 đến nay, tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới biến đổi nhanh với
những diễn biến phức tạp. Trong thời gian qua, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã
đem lại những kết quả tích cực, tác động sâu sắc đến nền kinh tế, xã hội, tạo ra những
cơ hội to lớn cho việc thu hút đầu tư nước ngoài và hoạt động xuất khẩu, từ đó thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo thêm việc làm.
Lộ trình cắt giảm thuế quan của các nước ASEAN-6 (Brunei, Indonesia, Malaysia,
Thái Lan, Philippines, Singapore) thường ngắn hơn các nước cịn lại – nhóm CLMV
bao gồm các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam.
Xử lý tối đa các hàng rào phi thuế quan, hợp tác hải quan và vệ sinh, kiểm
dịch…:
Nhằm tiến tới tự do hóa hoàn toàn về thuế quan, ASEAN đã thống nhất sẽ xóa bỏ
tồn bộ thuế quan, đối với ASEAN 6 (gồm Brunei, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a,
Philipin, Singapore và Thái Lan) vào năm 2010 và với các nước CLMV (Campuchia,
Lào, My-an-ma, Việt Nam) vào năm 2015 với một số linh hoạt đến 2018 (khoảng 7%
tổng số dịng thuế). Ngồi ra, một số mặt hàng nơng nghiệp nhạy cảm của Việt Nam
như mía đường… được phép duy trì mức thuế suất 5% sau giai đoạn 2018.
Đa số các sản phẩm trong biểu thuế quan sẽ được các nước xóa bỏ hoặc giảm thuế
xuống cịn dưới 5%, trừ một số sản phẩm nhạy cảm như: các sản phẩm nông nghiệp
chưa chế biến, các sản phẩm nhạy cảm như súng đạn, thuốc nổ, rác thải….


Xác lập mục tiêu hài hịa chính sách giữa các thành viên ASEAN trong bối
cảnh xây dựng AEC.
ATIGA – Lộ trình cam kết đến 2018. ATIGA là hiệp định toàn diện đầu tiên của
ASEAN điều chỉnh tồn bộ thương mại hàng hóa trong nội khối và được xây dựng

trên cơ sở tổng hợp các cam kết đã được thống nhất trong CEPT/AFTA cùng các hiệp
định, nghị định thư có liên quan. Nguyên tắc xây dựng cam kết trong ATIGA là các
nước ASEAN phải dành cho nhau mức ưu đãi tương đương hoặc thuận lợi hơn mức
ưu đãi dành cho các nước đối tác trong các Thỏa thuận thương mại tự do (FTA) mà
ASEAN là một bên của thỏa thuận.


Về cơ sở dữ liệu thương mại ASEAN, nhằm minh bạch hóa các chính sách liên quan
đến thương mại hàng hoá, Điều 13 quy định các thông tin thuộc cơ sở dữ liệu thương
mại như các quy định, thủ tục hải quan, thủ tục hành chính, biểu thuế, quy tắc xuất
xứ, các biện pháp phi thuế quan, danh sách thương nhân hợp pháp trong ASEAN…
phải được công bố trên trang web của ASEAN. Điều này quy định Ban thư ký
ASEAN là cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng và cập nhật các cơ sở dữ liệu đó.

10


Về tự do hố thuế quan, ngồi những quy định kế thừa về lộ trình cắt giảm thuế
quan theo Hiệp định CEPT/AFTA và các Nghị định thư sửa đổi bổ sung (các nước
ASEAN 6 gồm Brunei, Malaysia, Indonesia, Philippines, Singapore, Thái Lan sẽ xóa
bỏ hồn tồn thuế quan vào năm 2010, các nước CLMV vào năm 2015 với một số
linh hoạt đến năm 2018), ATIGA quy định cụ thể hơn dịng thuế được linh hoạt lùi
thời hạn xóa bỏ đến năm 2018 đối với các nước CLMV là 7% số dòng thuế thuộc
danh mục cắt giảm và các nước này cũng được lùi thời hạn cơng bố lộ trình xóa bỏ
thuế quan tổng thể thêm 6 tháng kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.
ATIGA quy định trong trường hợp gặp khó khăn đột xuất hay đặc biệt các nước thành
viên có quyền điều chỉnh hoặc ngừng cam kết thực hiện nghĩa vụ cắt giảm, xoá bỏ
thuế quan tại Điều 19. Các nước thành viên khác có quyền yêu cầu tham vấn hay đàm
phán với nước có điều chỉnh hay tạm ngừng cam kết thực hiện nghĩa vụ, tuy nhiên
yêu cầu đền bù chỉ được đặt ra với các nước có quyền lợi cung cấp đáng kể (là nước

đạt mức xuất khẩu bình quân trong ba năm bằng 20% tổng nhập khẩu mặt hàng liên
quan từ ASEAN vào thị trường nước yêu cầu điều chỉnh hay tạm ngừng cam kết thực
hiện nghĩa vụ cắt giảm, xoá bỏ thuế quan) và nếu yêu cầu đền bù trong trường hợp
này không được đáp ứng thì nước có quyền lợi cung cấp đáng kể được quyền áp
dụng biện pháp trả đũa ở mức độ tương đương thông qua ngừng hoặc điều chỉnh ưu
đãi đối với nước đó. Quy định về nghĩa vụ hồi tố được tiếp tục kế thừa Hiệp định
CEPT/AFTA, theo đó mỗi thành viên có nghĩa vụ ban hành văn bản pháp lý thực
hiện lộ trình cắt giảm thuế quan từ ngày 01/01 hằng năm, trong trường hợp ban hành
văn bản muộn hơn ngày 01/01 thì nước đó mặc nhiên phải chấp nhận áp dụng hồi tố
từ ngày 01/01, quy định này nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ một cách cơng bằng
mà khơng vì lý do khách quan hay chủ quan nào khác.
Về quy tắc xuất xứ, ATIGA kế thừa toàn bộ Bộ quy tắc xuất xứ đã được sửa đổi và
quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận xuất xứ của Hiệp định CEPT/AFTA, ngồi
tiêu chí xuất xứ thuần túy, cộng gộp với 40% hàm lượng khu vực đã được quy định
như trước đây, các quy định về chuyển đổi mã số thuế, quy tắc xuất xứ cụ thể (PSR)
được quy định linh hoạt hơn nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc cam kết nội khối
phải tương đương hoặc thuận lợi hơn so với cam kết dành cho các nước đối tác trong
các khu vực mậu dịch tự do ASEAN cộng. ATIGA cũng quy định về việc thành lập
Tiểu ban về Quy tắc xuất xứ chịu trách nhiệm đàm phán và giám sát việc thực thi các
cam kết về Quy tắc xuất xứ trong ATIGA.
Về các biện pháp phi thuế quan, được quy định tại Chương 4, theo đó các nước cịn
áp dụng hạn ngạch thuế quan sẽ dỡ bỏ TRQ (hạn ngạch thuế quan) theo ba gói thống
nhất với Chương trình làm việc về xóa bỏ hàng rào phi thuế quan. Các nước thành
viên ASEAN sẽ xóa bỏ hàng rào phi thuế quan theo ba gói với thời gian quy định cụ
thể tại Điều 42 của Hiệp định: Brunei, Indonesia, Malaysia, Singapore, Thái lan sẽ
11


xóa bỏ lần lượt vào các năm 2008, 2009 và 2010; Philippines xóa bỏ lần lượt vào các
năm 2010, 2011, 2012; các nước CLMV xóa bỏ lần lượt vào các năm 2013, 2014,

2015, có linh hoạt tới năm 2018.
Về quy định thể chế, kế thừa quy định của Hiệp định CEPT/AFTA, ATIGA quy định
Hội đồng AFTA là cơ quan giám sát thực hiện Hiệp định. Thành viên của Hội đồng
AFTA gồm cấp Bộ trưởng của quốc gia thành viên và Tổng thư ký ASEAN. Điều 10
cũng quy định Hội nghị các quan chức kinh tế cấp cao ASEAN (SEOM) giúp việc
cho Hội đồng AFTA thông qua Uỷ ban điều phối thực hiện Hiệp định ATIGA và các
cơ quan chuyên trách khác. Ở mỗi nước thành viên thành lập một cơ quan AFTA
quốc gia làm đầu mối giám sát các vấn đề trong q trình thực hiện Hiệp định.
Ngồi những nội dung cơ bản nêu trên, ATIGA cịn có một số quy định khác về ngoại
lệ trung, ngoại lệ an ninh, tạo thuận lợi cho thương mại, biện pháp đền bù thương
mại, mối liên hệ giữa ATIGA với các hiệp định khác.

Chương 2: Hoạt động thương mại hàng hóa dịch
vụ nội khối ASEAN
2.1. Hoạt động thương mại nội khối của ASEAN giai đoạn 2005 - nay
Giai đoạn trước khi có hiệp đinh ATIGA, tỷ trọng chung của thương mại nội khối
ASEAN vẫn duy trì ở mức tương đối thấp, chỉ chiếm 1/5 tổng thương mại của khối.
Thực tế này đòi hỏi các nước ASEAN phải đẩy mạnh cải thiện hiệu quả hợp tác kinh
tế giữa các nước trong khối. Tháng 11/1975 Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN
được tổ chức lần thứ nhất. Đây là dấu mốc quan trọng cho sự hợp tác kinh tế giữa các
nước trong khu vực. Các nước thuộc khu vực ASEAN đã có nhiều hợp tác nhất định
trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh quốc phịng và ln hướng tới mục
tiêu nhằm thực hiện một cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột về an ninh, kinh tế và
văn hóa xã hội, mà cụ thể ở đây là hiệp định thương mại hàng hóa ATIGA. Trên cơ sở
12


đó, kể từ ngày 1/1/2010 các nước ASEAN-6 (Brunei, Indonesia, Malaysia,
Singapore, Philippines, Thái Lan) đã thực hiện mục tiêu xóa bỏ thuế quan đối với
99,65% số dòng thuế, ASEAN-4 (Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam) đã đưa

98.86% dòng thuế tham gia chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung để xây
dựng khu vực thương mại tự do ASEAN (CEPT – AFTA) về mức 0-5%. Các nước dự
kiến hướng tới xóa bỏ hết những hàng rào phi thuế quan vào năm 2015. Như vậy,
không giống như những khu vực khác với trọng tâm hội nhập là gia tăng kim ngạch
thương mại và đầu tư trong khu vực, trong khi tập trung của ASEAN là dựa trên việc
giảm các rào cản thương mại và đầu tư trong khu vực để cạnh tranh hiệu quả hơn.
Năm 2016, Hội nghị Hội đồng khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) lần thứ 30
nhóm họp, đã có tới 99,2% các dịng thuế nhập khẩu trong Hiệp định Thương mại
hàng hóa ASEAN (ATIGA) của các nước ASEAN 6 gồm Brunei Darussalam,
Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái-lan đã được xóa bỏ, trong khi
thuế nhập khẩu đối với 90,9% các dòng thuế của Campuchia, Lào, Myanmar và Việt
Nam (CLMV) cũng đã được xóa bỏ. Tổng cộng, 96,01% tất cả các dịng thuế tại
ASEAN đã được xóa bỏ. Tới năm 2018, tỉ lệ thuế được xóa bỏ đối với ASEAN – 6 sẽ
là 99,20%, CLMV sẽ là 97,81% và ASEAN sẽ là 98,67%.
Thực hiện cam kết ATIGA, riêng Việt Nam đã cắt giảm 6.859 dòng thuế (chiếm
72% tổng Biểu thuế xuất nhập khẩu) xuống thuế suất 0% tính đến thời điểm 2014. Từ
ngày 1/1/2015, đã có thêm 1.720 dòng thuế được cắt giảm xuống thuế suất 0%. Số
còn lại gồm 687 dòng thuế (chiếm 7% Biểu thuế), chủ yếu là những mặt hàng nhạy
cảm trong thương mại giữa Việt Nam và ASEAN, sẽ xuống 0% vào năm 2018, tập
trung vào các nhóm hàng như ơ tơ, xe máy, phụ tùng linh kiện ô tô xe máy, dầu thực
vật, hoa quả nhiệt đới, đồ điện dân dụng như tủ lạnh, máy điều hòa, sữa và các sản
phẩm sữa…
Về hoạt động thương mại của ASEAN đã tăng đáng kể với tổng kim ngạch năm
1998 đạt 576 tỷ USD lên đến 2.476 tỷ USD vào năm 2012. Các mặt hàng, dịch vụ
giao thương nội khối chủ yếu là thực phẩm, nông sản, phụ tùng, linh kiện và thiết bị
điện tử, vật liệu xây dựng, máy móc, hàng thời trang và du lịch. Các mặt hàng trao
đổi nội khối vẫn là các sản phẩm thơ có giá trị thấp làm cho khả năng cạnh tranh của
các nước thấp so với các khu vực khác.
Thương mại nội khối tăng đồng nghĩa với việc xuất khẩu và nhập khẩu tăng, các
dịch vụ tăng sẽ ngày càng tạo ra nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên, mức độ tăng giữa các

nước không đồng đều và không ổn định giữa các năm. Mặc dù thương mại nội khối
ASEAN đã duy trì ở mức 24,3% tổng khối lượng thương mại toàn khu vực nhưng
nếu so với trao đổi thương mại của khu vực EU là 70% thì mức độ hội nhập và liên
13


kết nội khối ASEAN vẫn cịn thấp. Ngồi ra mức chênh lệch phát triển, chênh lệch về
thu nhập giữa các quốc gia là khá cao, đây được coi là yếu tố chính cản trở sự liên kết
kinh tế khu vực. Các quốc gia trong khu vực cịn có sự chênh lệch về trình độ cơng
nghệ, cơ sở hạ tầng, dịch vụ y tế, giáo dục, v.v..
Nhìn chung các nước thuộc khu vực ASEAN mặc dù đã tiến hành công nghiệp hóa
– hiện đại hóa đất nước nhưng nơng nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao, chưa có chính
sách kinh tế phù hợp, lao động có trình độ thấp, phụ thuộc q nhiều vào nguồn tài
chính nước ngồi dẫn đến nền kinh tế các nước chưa phát triển đồng đều và vững
chắc.
Trong khi Trung Quốc có mức tăng trưởng 8% đến 9.3% trong suốt ba thập niên từ
1991 trở lại đây thì Nhật cũng có mức tăng trưởng rất cao, từ 7.3% cho đến 9.8%
trong suốt thời kỳ từ 1955 cho đến 1970, trước khi giảm mức độ tăng trưởng từ 1971
cho đến nay. Hàn Quốc duy trì mức tăng trưởng từ 5.7% cho đến 7.5% từ những năm
1961 cho đến 2000. Trong khi đó, mức tăng trưởng của các nước Đơng Nam Á thấp
hơn nhiều và có xu hướng chậm lại. Ví dụ, Philippines có mức tăng trưởng cao nhất
chỉ ở mức 3.4% từ năm 1945 cho đến nay, Indonesia là 5.4% trong thời kỳ từ 1971
đến 1980. VN sau hai thập niên từ 1991 đến 2010 có mức tăng trưởng là 5.9% thì đã
có xu hướng chậm lại và giảm xuống chỉ còn 4.4% từ năm 2011 trở lại. Sự tăng
trưởng của các kinh tế khu vực này không bền vững là do nhiều nguyên nhân có thể
kể đến như do nguyên nhân lịch sử các nước Đông Nam Á đều là các nước thuộc địa,
có ít kinh nghiệm về việc tự trị, các nước khó cạnh tranh với các nền kinh tế lớn trên
thế giới, khơng có kinh nghiệm vượt qua các cuộc khủng hoảng, chính phủ chưa có
đường lối kinh tế phù hợp, thiếu kinh nghiệm trong việc kinh doanh thương mại với
các nền kinh tế lớn.


14


Mặc dù được xem là thị trường năng động, dân số đông, thu nhập đang tăng, tuy
nhiên cho đến hết 2015, thương mại nội khối ASEAN chỉ đạt 24,1%. Điều này chứng
tỏ các chương trình hợp tác của ASEAN chưa thực sự phát huy hiệu quả bởi các quốc
gia thành viên vẫn hướng về các thị trường chủ lực như: Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu
(EU), Nhật Bản và Trung Quốc,...

Bất chấp đại dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19 đang tàn phá nền kinh tế thế
giới, Trung Quốc và những thành viên của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) đã chứng kiến sự gia tăng hoạt động trao đổi kinh tế, bao gồm cả dòng
chảy thương mại và đầu tư tăng mạnh, duy trì đà tăng trưởng mạnh mẽ hơn nhờ các
mối quan hệ kinh tế song phương ngày càng sâu sắc.

Theo phái đoàn Trung Quốc tại ASEAN, đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào
ASEAN trong 3 quý đầu năm đạt 10,72 tỷ USD, tăng 76,6% so với cùng kỳ năm
ngoái. Đầu tư từ ASEAN vào Trung Quốc tăng 6,6% so với cùng kỳ năm ngoái, đứng
đầu là Singapore, Thái Lan và Malaysia. ASEAN và Trung Quốc từ lâu đã tăng
cường quan hệ kinh tế, và đầu tư cao hơn từ Trung Quốc vào ASEAN phù hợp với
15


việc thúc đẩy thương mại song phương. Thương mại phát triển đã kéo theo nhu cầu
đối với các hoạt động sản xuất hoặc kinh doanh nội địa hóa, do đó đã thúc đẩy các
dịng vốn. Hai bên có những bổ sung lớn về kinh tế và đã tham gia Khu vực Thương
mại Tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) trong 10 năm. Là một trong những khu
thương mại tự do năng động nhất trên thế giới, ACFTA có nhiều triển vọng hứa hẹn
hơn nữa. Theo Tân Hoa xã, kim ngạch thương mại song phương đã tăng từ 292,8 tỷ

USD năm 2010 lên 641,5 tỷ USD vào năm 2019.

Với việc các chuỗi công nghiệp đang bị đổ vỡ do đại dịch COVID-19, dự kiến sẽ
có sự hội nhập nhiều hơn giữa các ngành công nghiệp Trung Quốc và các thị trường
đang phát triển ở ASEAN.

Mặc dù đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN có thể khơng duy trì được sự tăng
trưởng nhanh hàng năm ở mức 76%, nhưng có thể thấy trước sự tăng trưởng bền
vững, do Trung Quốc đã thể hiện cam kết thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực và hai
bên đã nỗ lực để tăng cường quan hệ hơn nữa, bao gồm cả việc thúc đẩy Hiệp định
Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). Khi thị trường ASEAN và Trung Quốc
đạt mức độ hội nhập cao hơn, điều này sẽ thúc đẩy hơn nữa sự hội nhập kinh tế khu
vực giữa Đông Á và Đông Nam Á.

2.2. Đánh giá hoạt động thương mại nội khối sau khi ATIGA được ký kết
2.2.1. Kết quả
Nhìn chung, hoạt động kinh tế gần đây của ASEAN đã đạt được những thành tựu
đáng kể. Trong năm 2013, tổng sản phẩm trong nước của ASEAN (GDP) đạt mức 2,4
nghìn tỷ USD, chiếm 2,3 phần trăm kinh tế thế giới. Trong giai đoạn 2007 - 2013, các
nền kinh tế ASEAN, trừ Brunei, tăng trưởng nhanh hơn so với mức tăng trưởng trung
bình tồn cầu, thể hiện khả năng chống chọi trước các cuộc khủng hoảng quốc tế liên
tiếp trong cuối những năm 2000. Trong năm 2013, tăng trưởng GDP tồn thế giới là
3,0%, cịn của ASEAN là 4,9%.
Sự phát triển chậm chạp gần đây của các nền kinh tế lớn nhất thế giới - EU, Nhật
bản và Mỹ - đã khiến các nước thành viên ASEAN tìm kiếm các thị trường khác, đặc
biệt là thị trường các nước đang phát triển châu Á. Từ năm 2000 đến năm 2012, tỷ
16


trọng thương mại của khối ASEAN với EU và Mỹ đã giảm từ 29,8% xuống còn

17,9%, trong khi với Trung Quốc tăng từ 4,4% lên tới 13,1%. Hơn nữa, dù tỷ trọng
thương mại với Ấn Độ trong năm 2012 chỉ là 2,8%, Ấn Độ vẫn là đối tác thương mại
lớn thứ chín của ASEAN. Bảng 1- 2 cho thấy trong năm 2012 tỷ trọng thương mại
nội khối ASEAN trong tổng kim ngạch thương mại của ASEAN là 24,7% - tăng từ
22,7% trong năm 2000. Điều này cũng tương tự như tỷ trọng thương mại với các đối
tác lớn khác: Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc (29%); EU và Hoa Kỳ (17,9%); và
phần còn lại của thế giới (25,6%). Trong số các nước thành viên ASEAN, thương mại
với các đối tác ASEAN khác là quan trọng nhất đối với Lào nhưng lại ít quan trọng
nhất đối với Việt Nam. Trong những năm gần đây, ASEAN đã chứng kiến sự gia tăng
ổn định của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), điều này trái ngược với các
khu vực khác trên thế giới (Biểu đồ 1 1). Sau những năm khủng hoảng kinh tế 2008
và 2009, dòng vốn FDI trên tồn thế giới gần như khơng tăng lên trong khi FDI vào
ASEAN tăng thêm 2%, đạt 111,3 tỷ USD – cao nhất từ trước tới nay và tăng thêm
30% so với mức trước khủng hoảng năm 2007. Tỷ trọng của dòng vốn FDI vào
ASEAN trong tổng dòng vốn FDI trên tồn thế giới hiện nay là tương đương với
dịng vốn FDI vào Trung Quốc và cao hơn đáng kể so với dòng vốn vào Ấn Độ. Năm
2011, lần đầu tiên, nguồn vốn chính đổ vào khu vực chuyển từ khối EU sang từ chính
các nước ASEAN. Từ năm 2000 đến năm 2012, tỷ trọng FDI nội khối ASEAN trên
tổng số FDI tăng đều đặn từ 4% đến 18% - tăng 23 lần về giá trị. Trong năm năm
qua, ASEAN đã nhận được hơn 400 tỷ đô la FDI - trong đó 271 tỷ đến từ các nước
Châu Á (trong đó 68 tỷ từ nội khối ASEAN). Trong năm 2012, một tỷ lệ lớn FDI vào
Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Thái Lan, và Việt Nam có nguồn
gốc ở châu Á – tỷ trọng của FDI từ châu Á trong tổng số FDI dao động từ 62,5%
(Myanmar) đến 89,8% (Malaysia). Ngược lại, nguồn vốn FDI vào Brunei,
Philippines và Singapore chủ yếu đến từ bên ngoài châu Á.

17


Bảng 1-2 –Thương mại nội khối ASEAN, năm 2012 (triệu USD và %)


Biểu đồ 1-1 – FDI vào ASEAN và toàn thế giới, 2006 - 2012 (Chỉ số, 2006 = 100)

Trong hơn 50 năm qua, tổng thương mại hàng hóa của các nước ASEAN với thế
giới đã tăng từ 10 tỷ đô-la Mỹ/năm lên mức 2.575 tỷ đô-la Mỹ vào năm 2017.
18


Tổng thương mại dịch vụ tăng từ mức 140 tỷ đô-la Mỹ năm 1999 lên mức kỷ lục
681 tỷ đô-la Mỹ năm 2016. Theo số liệu thống kê sơ bộ, thương mại hàng hóa của
ASEAN năm 2017 tăng ở mức 14.2% so với năm trước, cao hơn mức tăng trưởng
11,6% của đầu tư trực tiếp nước ngồi. Trong đó, Trung Quốc là đối tác thương
mại hàng đầu của ASEAN với tổng giá trị kim ngạch thương mại hàng hóa đạt
436,8 tỷ đô-la Mỹ, chiếm 17,1%.
ASEAN đã trở thành một điểm đến hấp dẫn của đầu tư nước ngồi, với dịng
vốn FDI năm 2017 đạt 137 tỷ đô-la Mỹ, tăng mạnh so với mức 22 tỷ đô-la Mỹ
năm 2000 và 1/3 tỷ đô-la Mỹ năm 1967. Đầu tư nội khối ASEAN cũng tăng từ
mức 5,6% lên 24,7% năm 2016. Lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ lệ thu hút FDI lớn nhất
vào ASEAN, tăng từ 50,8% năm 1999 lên 80,8% năm 2016, tiếp đến là lĩnh vực
công nghiệp, năng lượng và nông nghiệp.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN chủ yếu có nguồn gốc từ các nước đối
thoại như Liên minh châu Âu (EU) tăng 46% lên 30,5 tỷ đô-la Mỹ, Nhật Bản tăng
từ 7,9 tỷ đô-la Mỹ năm 2015 lên 23,8 tỷ đô-la Mỹ năm 2016, Trung Quốc tăng
44% lên 9,2 tỷ đô-la Mỹ, Hàn Quốc tăng 3% lên 6 tỷ đô-la Mỹ và Ốt-xtrây-lia tăng
77% lên 3,4 tỷ đô-la Mỹ. Trong khi các nhà đầu tư Nhật Bản quan tâm đến lĩnh
vực chế tạo công nghiệp với mức 23,8 tỷ đô-la Mỹ, các nhà đầu tư FDI của Trung
Quốc tập trung vào tài chính, bán bn và bán lẻ, vận tải và bất động sản, các nhà
đầu tư Ốt-xtrây-lia, EU và Hoa Kỳ quan tâm đến dịch vụ, chủ yếu là dịch vụ tài
chính. Đầu tư nội khối cũng tăng lên mức kỷ lục là 24 tỷ đô-la Mỹ năm 2016,
chiếm ¼ dịng vốn FDI vào khu vực.

Tuy nhiên, thương mại hàng hóa nội khối trong khu vực vẫn chiếm tỷ lệ thấp
trong thương mại nói riêng và trong phát triển kinh tế của khu vực nói chung. Có
sự chệnh lệch trong hoạt động thương mại hàng hóa giữa các nước trong khu vực
ASEAN.

19


Nguồn: ASEAN Secretariat
20


So với thời điểm bắt đầu tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN năm 1996
cho đến nay, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN đã tăng
xấp xỉ 7,7 lần, từ 5,91 tỉ đô la Mỹ năm 1996 lên 45,23 tỉ đô la Mỹ tại thời điểm
tháng 11 năm 2017, trong đó xuất khẩu hàng hóa của ta vào ASEAN tăng gần 12,4
lần, từ 1,6 tỉ đô la Mỹ năm 1996 lên 19,9 tỉ đô la Mỹ. Tính tới hết tháng 6 năm
2018, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN là 28,1 tỷ đơ la
Mỹ, trong đó kim ngạch xuất khẩu là 12,2 tỷ đô la Mỹ và kim ngạch nhập khẩu là
15,9 tỷ đơ la Mỹ. Tính đến năm 2018, tỷ lệ xóa bỏ thuế quan của Việt Nam trong
khn khổ Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) là 98%. Như vậy,
trong số 10 FTA mà Việt Nam đang thực hiện, FTA với nội khối ASEAN (AFTA)
có tỷ lệ xoá bỏ thuế quan cao nhất là 98% với lộ trình thực hiện là 19 năm (cá biệt,
một số ít mặt hàng có lộ trình là 25 năm).
2.2.2. Hạn chế
Việc gỡ bỏ hàng rào thuế quan càng đến gần, tính chất tự do hóa kinh doanh thị
trường sẽ đậm nét hơn, hàng rào kỹ thuật càng trở nên đa dạng, phức tạp hơn, cao
hơn đối với các doanh nghiệp và hàng xuất khẩu từ các nước trong khối Asean dẫn
đến tính cạnh tranh cao giữa giá thành và chất lượng các sản phẩm. Hiệp định ATIGA
còn làm giảm động lực đầu tư FDI cũng như khởi nghiệp của các doanh nghiệp mới.

Do điều kiện phát triển cũng như sự hạn chế trong việc tiếp cận ATIGA sẽ khiến có
nhiều ngành sản xuất của các nước phát triển kém hơn gặp khó khăn. Tới thời điểm
năm 2018, khi 7% số dịng thuế trong ATIGA cắt giảm xuống 0% (trừ mặt hàng xăng
dầu có lộ trình riêng), những ngành chịu tác động lớn nhất từ việc xóa bỏ thuế quan
cao và sâu rộng bao gồm: ô tô, động cơ phụ tùng ô tô, xe máy, sữa và các sản phẩm
chế biến từ sữa, bánh kẹo, thức ăn gia súc, sản phẩm nhựa, phơi thép, lốp ơ tơ, máy
điều hịa, máy làm lạnh, vô tuyến, tàu thuyền. Đáng lưu ý là sức ép từ hội nhập khu
vực đã gõ cửa ngành ô tô của một số nước đặc biệt là Việt Nam.
Thực hiện cam kết ATIGA thuế nhập khẩu ôtô đã bắt đầu cắt giảm từ năm 2012,
cắt giảm xuống 70% vào năm 2012, 50% vào năm 2014 và sẽ cắt giảm hoàn tồn
xuống 0% vào năm 2018. Điều đó cho thấy ngành cơng nghiệp ơ tơ các nước trong
khu vực Asean cịn rất ít thời gian để nâng cao năng lực cạnh tranh trước sức ép hiện
hữu của các dòng xe nhập khẩu từ các nước nội khối, gây khó dễ về sự đa dạng của
mẫu mã, giá thành, gây ảnh hưởng không nhỏ đối với doanh nghiệp lắp ráp khi phải
nhập khẩu linh kiện so với dòng sản phẩm nhập khẩu nguyên chiếc trong khi thuế
21


suất nhập khẩu ơ tơ ngun chiếc xuống 0%. Ngồi ra, ngành giấy cũng sẽ chịu sự
cạnh tranh gay gắt khi thuế suất nhập khẩu giảm mạnh xuống 0% vào năm 2018.
Riêng đối với Việt Nam,các chuyên gia cảnh báo việc triển khai hồn tồn Hiệp
định ATIGA có thể khiến giá đường tại VN giảm tới 20%, các nhà sản xuất phần lớn
đã khơng giảm chi phí, trong khi nơng dân Việt Nam vẫn phải vật lộn với năng suất
thấp. Nếu khơng có sự can thiệp của Chính phủ, ngành mía đường, với khoảng 1,5
triệu nơng dân đang trồng mía và các DN sản xuất đường ở Việt Nam khó tồn tại
trong cuộc cạnh tranh trên thị trường mở.Các chuyên gia cảnh báo việc triển khai
hoàn toàn Hiệp định ATIGA có thể khiến giá đường trong nước giảm tới 20%, các
nhà sản xuất phần lớn đã khơng giảm chi phí, trong khi nông dân Việt Nam vẫn phải
vật lộn với năng suất thấp. Nếu khơng có sự can thiệp của Chính phủ, ngành mía
đường, với khoảng 1,5 triệu nơng dân đang trồng mía và các DN sản xuất đường ở

Việt Nam khó tồn tại trong cuộc cạnh tranh trên thị trường mở. Năm 2018, nhận thấy
mối nguy khi Hiệp định thương mại tự do ASEAN (ATIGA) có thể gây sức ép cạnh
tranh lớn cho ngành đường Việt Nam, Hiệp hội Mía đường (VSSA) đã kiến nghị giãn
thực hiện cam kết ATIGA đến 1/1/2020 để có thêm thời gian cho chuẩn bị hội nhập
và Việt Nam đã vận động thành công việc gia hạn này. Tuy nhiên, 2 năm sau, các
động thái chuẩn bị ứng phó với ATIGA chưa có gì rõ ràng, câu chuyện khó khăn của
ngành mía đường vẫn khơng có gì thay đổi, thậm chí trầm trọng hơn do giá đường sụt
giảm.
Bên cạnh đó, ngành lắp ráp điện tử ở Việt Nam nói riêng cũng đối mặt với nhiều
khó khăn, thách thức khi thuế suất ATIGA đối với nhóm hàng này được cắt giảm
xuống 0% từ 2012. Mặt hàng máy tính nguyên chiếc với mẫu mã đẹp, giá thành thấp
từ các nước ASEAN được nhập khẩu ồ ạt vào Việt Nam đã tạo ra ảnh hưởng không
nhỏ đối với các doanh nghiệp trong nước. Phải nhập khẩu linh kiện, giá thành sản
phẩm, các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp khó có thể ngang bằng so với sản phẩm
nhập khẩu nguyên chiếc. Từ đó, các doanh nghiệp phải chuyển hướng sản xuất kinh
doanh, thu hẹp quy mô sản xuất. Thậm chí một số doanh nghiệp cịn đứng trước nguy
cơ phải ngưng sản xuất.

22


23


Chương 3: Giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động
thương mại nội khối
3.1. Đối với các nước ASEAN

Thương mại nội khối ASEAN hiện tương đối thấp so với các khu vực khác. Nếu 10
nước thành viên đặt quyết tâm cao và nỗ lực vượt qua những khó khăn hiện hữu thì

chắc chắn sẽ đạt mục tiêu thúc đẩy thương mại nội khối.Với tỷ trọng thương mại nội
khối hiện mới chỉ chiếm khoảng 25% tổng giá trị thương mại của mình, ASEAN cần
thúc đẩy thương mại trong khu vực hơn nữa nhằm phát triển bền vững.

Nền kinh tế của ASEAN hiện đứng thứ 5 trên thế giới với tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) năm 2018 đạt khoảng 3.000 tỷ USD. ASEAN cũng được quốc tế khẳng định
là khu vực năng động nhất toàn cầu với mức tăng trưởng kinh tế toàn khối đạt 5,4%,
trong khi trung bình tồn cầu là 4%.
Về thương mại hàng hóa, ASEAN đang đứng thứ 4 trên thế giới với tổng giá trị
hơn 700 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài (FDI) tại ASEAN cũng giữ mức tăng trưởng
khoảng 4,4% và là nền kinh tế tiếp nhận FDI lớn thứ 3 trên thế giới.
Các sáng kiến được xây dựng theo 3 định hướng: thúc đẩy liên kết khu vực và nội
khối ASEAN, đẩy mạnh quan hệ đối tác vì hịa bình và phát triển bền vững, nâng cao
năng lực thích ứng và hiệu quả hoạt động ASEAN.
Các bộ trưởng kinh tế ASEAN cũng nhất trí thơng qua 6 khuyến nghị của Hội nghị
Nhóm đặc trách cao cấp về hội nhập kinh tế ASEAN lần thứ 37. Trong đó, các bộ
trưởng nhất trí chỉ đạo các nhóm cơng tác chun ngành đóng góp tích cực vào q
trình rà sốt kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN 2025. Thông qua
mục tiêu ký kết Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) trong năm 2020.

24


Trước thực trạng phải đối diện với nhiều thách thức về thúc đẩy thương mại nội
khối ASEAN, thương mại nội khối cần phải đạt tốc độ tăng trưởng trung bình hằng
năm là 9,1% để thực hiện được mục tiêu tăng gấp đơi vào năm 2025. Cùng với đó là
một số giải pháp như nghiên cứu thêm các nhóm sản phẩm giá trị cao; tăng cường hội
nhập tài chính... dù thúc đẩy thương mại nội khối là nhiệm vụ khó khăn, nhưng khi
ASEAN nỗ lực và quyết tâm cao thì sẽ thực hiện tốt.
Đánh giá về sự hợp tác giữa các nước trong ASEAN, điểm mạnh của ASEAN là

các thành viên có các nền kinh tế khá tương đồng, tạo ra nền tảng hợp tác rất tốt.
Trong khi đó, những năm gần đây, các nước ASEAN có xu hướng hợp tác ngoại khối
thay vì nội khối. Trước những thách thức về thúc đẩy thương mại nội khối, ASEAN
cần có sự đa dạng thương mại giữa các nước thành viên; chú trọng tính bổ trợ giữa
nền kinh tế nội khối và phải khai thác hiệu quả các lĩnh vực tiềm năng.

Đối với các đối tác của ASEAN, Trung Quốc, Mỹ và các nước châu Âu hiện đang
đẩy mạnh hợp tác và phát triển tại thị trường Đơng Nam Á. ASEAN cần có thúc đẩy
chính sách kinh tế cởi mở, bởi đây sẽ là động lực cho ASEAN đẩy mạnh phát triển
một cách toàn diện. Bên cạnh việc chú trọng tới thúc đẩy thương mại nội khối,
ASEAN cũng cần tăng cường thu hút đầu tư từ bên ngoài nhằm xây dựng cơ sở hạ
tầng hiện đại, hiệu quả hơn. Trên thực tế, cơ hội thu hút đầu tư là rất lớn từ các ngân
hàng khu vực như Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ
tầng châu Á (AIIB) và thậm chí mang tầm tồn cầu như Ngân hàng Thế giới (WB)...

3.2. Đối với Việt Nam
Việc gỡ bỏ hàng rào thuế quan càng đến gần, tính chất tự do hóa kinh doanh thị
trường sẽ đậm nét hơn, hàng rào kỹ thuật càng trở nên đa dạng, phức tạp hơn, cao
hơn đối với các doanh nghiệp và hàng xuất khẩu Việt Nam. Chính vì vậy, các doanh
nghiệp trong nước cần có sự chuẩn bị chu đáo nhằm cạnh tranh với hàng hóa nhập
khẩu có mức giá ngày càng giảm.
Từ năm 2015, các Hiệp định thương mà Việt Nam cam kết nói chung và Hiệp định
ATIGA nói riêng sẽ bước sang giai đoạn cắt giảm và xóa bỏ thuế quan sâu. Tới thời
điểm năm 2018, khi 7% số dòng thuế trong ATIGA cắt giảm xuống 0% (trừ mặt hàng
xăng dầu có lộ trình riêng), những ngành chịu tác động lớn nhất từ việc xóa bỏ thuế
quan cao và sâu rộng bao gồm: ô tô, động cơ phụ tùng ô tô, xe máy, sữa và các sản
25



×