Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Ý niệm về người phụ nữ trong một số truyện ngắn tiêu biểu của nguyễn minh châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.82 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

---------&----------

NGUYỄN THỊ THUÝ ANH

Ý NIỆM VỀ NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG MỘT SỐ
TRUYỆN NGẮN TIÊU BIỂU CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU

CHUYÊN NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ : 60.22.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Lê Đình Tường

Vinh - 2009

1


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành nhờ sự hướng dẫn tận tình của
PGS.TS. Lê Đình Tường, sự góp ý chân thành của các thầy giáo phản biện,
các thầy cô giáo trong bộ môn ngôn ngữ và bạn bè đồng nghiệp.
Nhân đây cho phép chúng tôi được gửi lời cảm ơn chân thành nhất
đến tất cả các quý thầy cô và các bạn bè đồng nghiệp, đặc biệt là thầy giáo
Lê Đình Tường – người đã trực tiếp hướng dẫn và động viên chúng tơi thực


hiện và hồn thành luận văn với một hướng đi khá mới mẻ này.
Do đề tài luận văn được tiếp cận với một hướng khá mới nên chắc
chắn không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót, vì vậy rất mong được sự
góp ý chân thành của quý thầy cô và các bạn!
Vinh, tháng 12 năm 2009
Tác giả luận văn

2


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
2. Lịch sử vấn đề
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Đóng góp của Luận văn
6. Bố cục của Luận văn

PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1: MỘT SỐ GIỚI THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.

Một vài đặc điểm về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu

1.1.1. Vài nét cơ bản về truyện ngắn
1.1.2. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
1.1.2. Thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu

1.2. Ngữ pháp chức năng - cơ sở để phân tích ngơn bản
1.2.1. Ngữ pháp chức năng
1.2.2. Cú là đơn vị nghiên cứu
1.2.3. Hai siêu chức năng cơ bản của cú
1.2.3.1. Chức năng phản ánh
1.2.3.2. Chức năng liên nhân
1.3. Các quy tắc hội thoại
1.3.1. Khái niệm hội thoại
1.3.2. Các quy tắc hội thoại
1.4. Tri nhận
1.4.1. Khái niệm tri nhận
1.4.2. Ý niệm
Tiểu kết

3


Chƣơng 2: Ý NIỆM VỀ NGƢỜI PHỤ NỮ QUA NGÔN NGỮ CỦA NGƢỜI
KỂ CHUYỆN

2.1. Ngoại hình rất đặc trƣng của các nhân vật nữ
2.1.1. Ngoại hình của người con gái trong chiến tranh
2.1.2. Ngoại hình người phụ nữ sau chiến tranh
2.1.3. Sự khác nhau trong ý niệm về ngoại hình của hai người phụ nữ
2.2. Ý niệm về phẩm hạnh và tính cách của ngƣời phụ nữ
2.2.1. Nguyệt – người con gái có vẻ đẹp nhân cách hồn hảo
2.2.1.1. Nguyệt – người con gái đẹp trong cái nhìn của các nhân vật
khác
2.2.1.2. Nguyệt - cái đích hướng tới trong câu chuyện của chị em Lãm
2.2.1.3. Nguyệt – người con gái bình tĩnh, tự tin, dũng cảm và có trách

nhiệm
2.2.1.4. Nguyệt – tình yêu và sự cảm phục trong Lãm
2.2.2. Người đàn bà trong “Chiếc thuyền ngoài xa” với sự cam chịu
2.2.2.1. Hành động, cử chỉ của người đàn bà
2.2.2.2. Thái độ, cảm xúc của người đàn bà
2.3. Các nhân vật nữ với những tình yêu đặc biệt
2.3.1. Nguyệt và hành trình đến với một tình yêu lãng mạn giữa bom
đạn chiến tranh
2.3.2. Tình yêu con và niềm khát khao hạnh phúc gia đình của người
đàn bà hàng chài
2.3.3. Ý niệm chung về tình yêu của hai người phụ nữ
Tiểu kết
Chƣơng 3: Ý NIỆM VỀ NGƢỜI PHỤ NỮ QUA NGÔN NGỮ CỦA CHÍNH HỌ
3.1. Sự tinh tế trong cách xƣng hơ của những ngƣời phụ nữ
3.1.1. Cách xưng hô của Nguyệt thể hiện quan hệ liên cá nhân phù hợp
với hoàn cảnh giao tiếp

4


3.1.2. Sự thay đổi cách xưng hô của người đàn bà hàng chài gắn với
sắc thái tình cảm và mục đích giao tiếp
3.2. Các quy tắc hội thoại và việc thể hiện sự sắc sảo, lịch sự trong ngôn
ngữ của các nhân vật nữ
3.2.1. Vẻ đẹp trong ngôn từ của Nguyệt
3.2.1.1. Các tham thoại của Nguyệt đảm bảo quy tắc luân phiên lượt lời
3.2.1.2. Các tham thoại của Nguyệt có tính liên kết cao với câu chuyện
của Lãm
3.2.1.3. Các tham thoại của Nguyệt ln có tính cộng tác
3.2.1.4. Các tham thoại của Nguyệt thể hiện sự tôn trọng thể diện

người nghe
3.2.2. Sự đúng mực trong ngôn ngữ người đàn bà hàng chài
3.2.2.1. Các tham thoại của người đàn bà thể hiện sự khiêm tốn, thậm
chí có phần tự ti
3.2.2.2. Các tham thoại của người đàn bà luôn đảm bảo quy tắc luân
phiên lượt lời
3.2.2.3. Các tham thoại của người đàn bà hàng chài có tính liên kết cao
3.2.2.4. Các tham thoại của người đàn bà luôn thể hiện sự cộng tác cao
3.3. Các hành động lời nói trong tham thoại của các nhân vật nữ
3.3.1. Các hành động lời nói và việc thể hiện nhân cách của Nguyệt
3.3.1.1. Các hành động lời nói chủ yếu của nhân vật Nguyệt
3.3.1.2. Tính lịch sự
3.3.1.3. Sự tự tin và lòng dũng cảm
3.3.1.4. Tinh thần trách nhiệm cao trong cơng việc
3.3.1.5. Lịng vị tha, bao dung, độ lượng
3.3.2. Các hành động lời nói thể hiện sự sắc sảo và thấu hiểu lẽ đời
của người đàn bà hàng chài khốn khổ
3.3.2.1. Các hành động lời nói chủ yếu trong ngơn ngữ người đàn bà
hàng chài
5


3.3.2.2. Các hành động lời nói phù hợp với hồn cảnh và mục đích giao
tiếp
3.3.2.2. Các hành động lời nói thể hiện sự sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời
Tiểu kết
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục


6


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
1.1. Phụ nữ là một trong những chủ điểm được quan tâm và có được dấu
ấn đặc biệt trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, một trong những
nhà văn đã để lại nhiều tác phẩm đặc sắc viết về đề tài chiến tranh cũng
như cuộc sống đời thường của con người sau khi hịa bình lập lại.
Người phụ nữ trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu mỗi người
một cuộc sống, một số phận với ngoại hình, tuối tác khác nhau nhưng đó là
những con người ln khát khao được sống, được yêu, những con người
giàu nghị lực, giàu lòng vị tha và sẵn sàng hy sinh. Những phẩm chất ấy
luôn luôn được khẳng định và đề cao cả trong gian khổ của chiến tranh, khi
tất cả sống và lao động vì độc lập và thống nhất đất nước hay khi hịa bình
lập lại, những con người suốt ngày chỉ lo “cơm ăn, áo mặc” cho cuộc sống
bình thường; những phẩm chất đó ln ln được thừa nhận và đề cao từ
những vị thế nhìn khác nhau: Dù là từ vị thế của một chàng trai đang yêu
và khao khát được yêu, dù là từ vị thế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh luôn gọi
người đàn bà mới ngoài bốn mươi (hàm ý coi khinh) là mụ.
Sự thay đổi và không thay đổi trong ý niệm của Nguyễn Minh Châu về
người phụ nữ là vấn đề thú vị và hấp dẫn, là vấn đề cần nghiên cứu kỹ hơn
để góp phần xác định năng lực phản ánh hiện thực của “hiện tượng văn
học”, của người đi tiên phong trong sự nghiệp đổi mới văn học ở Việt Nam.
1.2. Trong thực tiễn nghiên cứu tác phẩm văn học, đặc biệt là trong dạy
học ngữ văn ở trường phổ thông, nhiều khi người ta vẫn nặng về bình
giảng, hiểu tác phẩm trên cơ sở cảm thức chủ quan mà ít chú ý đến những
nguyên tắc cơ bản về phân tích ngơn bản. Theo M.Haliday, “việc đánh giá
ngơn bản, phân tích ngơn bản giúp người ta có thể xác định ngơn bản có

hiệu quả hay khơng có hiệu quả so với mục đích cụ thể của nó” (Halliday,
tr.15). Và thực sự nhiều nghiên cứu đã lấy ngữ pháp chức năng làm cơ sở

7


để phân tích ngơn bản. “Phân tích ngơn bản mà khơng dựa vào ngữ pháp
thì hồn tồn khơng phải là phân tích mà chỉ thuần túy là một bài bình
giảng về ngôn bản hoặc là một yêu cầu phải được thực hiện đối với một tập
hợp các khế ước phi ngơn ngữ nào đó” (Halliday, tr. 28). Do vậy, ngữ pháp
chức năng cùng với lý thuyết về ngữ dụng học được chúng tôi chọn làm cơ
sở để xác định ý niệm của Nguyễn Minh Châu về người phụ nữ trong hai
truyện ngắn đã và đang được dạy-học ở chương trình phổ thông trung học:
Mảnh trăng cuối rừng và Chiếc thuyền ngoài xa.
1.3. Đề tài “Ý niệm về người phụ nữ trong một số truyện ngắn tiêu
biểu của Nguyễn Minh Châu” góp phần cụ thể hố lí thuyết ngữ pháp
chức năng và ngữ dụng học trong phân tích chủ điểm cụ thể của ngơn bản,
đồng thời góp phần xác định phương pháp dạy thích hợp đối các tác phẩm
văn chương trong nhà trường, trong đó có một số truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu. Mặt khác, đề tài còn cho thấy quá trình nhà văn đi tìm “cái hạt
ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người”, đặc biệt trong tâm hồn người
phụ nữ.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn có nhiều đóng góp
cho nền văn học Việt Nam trong chiến tranh và đặc biệt là trong thời kì đổi
mới. Đã có rất nhiều cuộc hội thảo và hàng trăm cơng trình nghiên cứu lớn
nhỏ bàn về tác phẩm, con người Nguyễn Minh Châu - người được đánh giá
là “tiên phong” trong sự nghiệp đổi mới của văn học nước nhà.
Đề tài người phụ nữ trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu là một vấn
đề khá thú vị, nó thể hiện rất rõ cái nhìn sâu sắc, đôn hậu của nhà văn về

cuộc đời và con người trong mọi giai đoạn sáng tác. Tuy nhiên các cơng
trình nghiên cứu về đề tài này cịn chưa nhiều và chưa xứng đáng với vị thế
của nó trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu.

8


Trên phương diện phê bình văn học, hầu như chỉ có một số cơng
trình, bài viết về đề tài này như “Ấn tượng về nhân vật nữ của Nguyễn
Minh Châu” của tác giả Nguyễn Thị Minh Thái; “Nhân vật nữ trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu” – khoá luận tốt nghiệp của Đào Thị Mai (Đại
học Vinh); hay đi cụ thể vào từng nhân vật như bài viết của Nguyễn Văn
Bính: “Vẻ đẹp nhân vật Nguyệt và nghệ thuật xây dựng nhân vật Nguyệt
của Nguyễn Minh Châu”… Cịn lại, hình ảnh người phụ nữ chỉ được các
tác giả đề cập một phần trong những bài viết về vấn đề con người nói
chung trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu. Chẳng hạn trong bài viết
“Đường tới cỏ lau”, tác giả Chu Sơn đã nói về vẻ đẹp “mẫu tính” của người
phụ nữ; hay tác giả Ngô Thảo bàn về số phận các nhân vật nữ trong bài
“Đọc những tác phẩm mới của Nguyễn Minh Châu”…
Với các cơng trình nghiên cứu về ngơn ngữ truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu, đã có một số tác giả đi sâu nghiên cứu, như Lê Thị Sao Chi với cơng
trình: “Ngơn ngữ độc thoại của nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu” (Luận văn thạc sĩ - Đại học Vinh), Nguyễn Thị Thu Hằng với “Đặc
điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu” (Khoá luận tốt nghiệp - Đại học
Vinh), Trần Thị Thuỳ Linh với “Khảo sát từ ngữ rào đón trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu”…Riêng về đề tài người phụ nữ, chỉ có một vài cơng
trình nghiên cứu trên phương diện ngôn ngữ học, cụ thể như: “Đặc điểm lời
thoại nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu” – luận văn thạc sĩ
của tác giả Trần Thị Hiền (Đại học Vinh). Tuy nhiên, theo nghiên cứu của
chúng tơi thì chưa thấy cơng trình nào đi theo hướng tiếp cận của ngữ pháp

chức năng và đi sâu phân tích ngơn ngữ một vài tác phẩm cụ thể để khảo
sát sự giống và khác nhau trong ý niệm về người phụ nữ trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975. Việc vận dụng lý thuyết ngữ pháp
chức năng để phân tích ngơn bản hiện nay đã trở trành một xu hướng và đã
được chứng minh bởi tính khoa học và hiệu quả của nó. Điều đó đã gợi ý
cho chúng tôi thực hiện đề tài “Ý niệm về người phụ nữ trong một số truyện
9


ngắn tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu” trên cơ sở lý thuyết ngữ pháp chức
năng – một cách tiếp cận nội dung văn bản văn học trên cơ sở ngôn ngữ
học.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Ý niệm vê người phụ nữ của Nguyễn Minh Châu được phản ánh trong
rất nhiều trong tiểu thuyết cũng như truyện ngắn của ông; tuy nhiên chúng
tôi chỉ chọn Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng” và người đàn bà hàng
chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” để khảo sát. Và ý niệm này được
Nguyễn Minh Châu thể hiện qua:
- Ngôn ngữ cũng như góc đánh giá của những người kể chuyện: (i)
Nguyệt được phản ánh qua ngôn ngữ và quan điểm của Lãm, người chiến sĩ
lái xe đang tìm hiểu Nguyệt, (ii) Người đàn bà hàng chài qua ngôn ngữ và
lăng kính của người nghệ sỹ đi tìm ảnh.
- Ngơn ngữ của chính Nguyệt và người đàn bà trong giao tiếp với người
kể chuyện và với những người xung quanh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Hai người phụ nữ đều được Nguyễn Minh Châu phản ánh qua cách
nhìn của các nhân vật trong truyện ngắn. Luận văn chỉ tập trung khảo sát
các biểu đạt ngôn ngữ trong phạm vi câu và những câu có tham thể chỉ
Nguyệt (trong Mảnh trăng cuối rừng) và người đàn bà hàng chài (trong

Chiếc thuyền ngoài xa), những câu có cái biểu đạt liên quan đến họ và các
tham thoại được hai người phụ nữ sử dụng trong giao tiếp với những người
xung quanh.
Những số liệu do nhân vật kể chuyện cung cấp được nghiên cứu chủ
yếu trên bình diện phản ánh thơng qua các sự tình và vai nghĩa.
Số liệu về ngôn ngữ của phụ nữ được nghiên từ các bình diện khác nhau
của ngữ dụng như hành động lời nói, tình liên kết, lịch sự trong hội thoại…
10


4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành đồng thời các phương pháp
nghiên cứu sau:
4.1. Thống kê, phân loại
- Thống kê tất cả những câu có các biểu thức quy chiếu người phụ nữ
làm tham tố trong hai truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu (Ví dụ: Nguyệt,
cơ, cơ gái…; Người đàn bà hàng chài, người đàn bà, mụ…).
- Ở những câu là ngôn ngữ nhân vật người kể chuyện, chúng tôi phân
loại câu theo nghĩa biểu hiện của khung vị ngữ (gồm vị từ làm trung tâm và
các tham tố của nó), sau đó tiếp tục chia nhỏ thành các nhóm câu theo vai
nghĩa (Chẳng hạn: những câu có tham tố “Nguyệt” làm hành thể; những
câu có tham tố “Nguyệt” làm đích/mục tiêu…).
- Ngơn ngữ của Nguyệt và người đàn bà được khảo sát từ cách sử dụng
ngơn từ, trong đó có các loại hành động lời nói (trần thuật, cầu khiến, hỏi,
từ chối, van nài…); cách nhân vật tuân thủ các quy tắc hội thoại (Quy tắc
liên kết, quy tắc luân phiên lượt lời, quy tắc cộng tác…) để từ đó xác định
đặc điểm, bản chất của từng nhân vật.
4.2. Phân tích, tổng hợp
- Tiến hành phân tích tư liệu trên cơ sở các số liệu đã thống kê, phân
loại (tần số lặp lại của các vai nghĩa, các loại chức năng phản ánh của câu,

các hành động lời nói, các trường nghĩa…).
- Từ sự phân tích tư liệu, rút ra ý niệm về người phụ nữ trong từng
truyện ngắn nói riêng và về người phụ nữ nói chung trong từng giai đoạn
sáng tác của Nguyễn Minh Châu.
- Ý niệm chung của Nguyễn Minh Châu về phụ nữ qua hai truyện ngắn.
4.3. So Sánh
- So sánh sự giống và khác nhau trong ý niệm về người phụ nữ của
Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975 qua hai truyện ngắn.

11


5. Đóng góp của Luận văn
- Đã có rất nhiều cách tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ở góc độ
lí luận văn học cũng như ngơn ngữ học, với đề tài này chúng tôi muốn đưa
ra một hướng tiếp cận mới trên cơ sở phân tích ngơn bản của ngữ pháp
chức năng.
- Phân tích ngơn ngữ hai truyện ngắn cụ thể để thấy được sự giống và
khác nhau trong ý niệm về người phụ nữ của Nguyễn Minh Châu trước và
sau 1975 (hình thức, đạo đức, bổn phận, trách nhiệm…). Qua đó thấy được
sự khách quan, sự tinh tế và trải nghiệm của Nguyễn Minh Châu trong
phản ánh hiện thực cuộc sống.
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận văn có ba
chương.
- Chương 1: Một số giới thuyết liên quan đến đề tài
- Chương 2: Ý niệm về người phụ nữ qua ngôn ngữ của người kể chuyện
- Chương 3: Ý niệm về người phụ nữ qua ngơn ngữ của chính họ

12



CHƢƠNG I

MỘT SỐ GIỚI THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Một vài đặc điểm về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
1.1.1. Vài nét cơ bản về truyện ngắn
Truyện ngắn là “thể tài tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, thường được viết
bằng xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã
hội” (1, tr.359). Với tư cách một thể tài tự sự, truyện ngắn hiện đại, cũng
như truyện dài, truyện vừa hiện đại, đều ít nhiều mang những đặc tính của
tư duy tiểu thuyết. Tuy nhiên, khác với truyện dài, truyện vừa - vốn là
những thể tài mà quy mô cho phép chiếm lĩnh đời sống trong tồn bộ sự
tồn vẹn của nó, truyện ngắn thường nhằm khắc họa một hiện tượng, phát
hiện một đặc tính trong quan hệ con người hay trong đời sống tâm hồn con
người
Truyện ngắn thường ít nhân vật và nhân vật trong truyện ngắn ít khi
trở thành một thế giới hồn chỉnh, một tính cách đầy đặn, mà thường là một
nhát cắt trong cuộc đời, nó hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý
thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người.
Cốt truyện của truyện ngắn thường có giới hạn về thời gian, khơng
gian; nó có chức năng nhận ra một điều gì sâu sắc về cuộc đời, về con
người. Chi tiết và lời văn là những yếu tố quan trọng cho nghệ thuật viết
truyện ngắn. Lời kể và cách kể chuyện là những điều được người viết
truyện ngắn đặc biệt chú ý khai thác và xử lí, nhằm đạt hiệu quả mong
muốn.
1.1.2. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn có vị trí nổi bật
trong giai đoạn văn học Việt Nam từ những năm 60 đến cuối những năm
80, và cho đến nay, những tác phẩm của ơng vẫn có ý nghĩa thời sự trong

đời sống xã hội và được nhiều người u thích. Ơng sáng tác và thành cơng

13


trên nhiều thể loại như: tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, phê bình,
trong đó truyện ngắn được
xem là thể loại thành cơng hơn cả.
Nhà văn Lê Lựu đã có lần nói rằng Nguyễn Minh Châu nhìn vào đâu
cũng ra được truyện ngắn. Bởi vì truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu chú
ý đến các đề tài của cuộc sống thường nhật. Ở sáng tác của Nguyễn Minh
Châu, truyện ngắn bộc lộ ra những đặc tính của một thể loại ưu việt, mở ra
cho văn học những đề tài mới và vấn đề mới của đời sống, những hiện
tượng nhân vật mới. Các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đào sâu thêm
ý niệm của chúng ta về đất nước và con người Việt Nam trong từng thời kì
lịch sử. Sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu có thể chia làm hai
giai đoạn: trong và sau chiến tranh.
Là thế hệ nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ vĩ
đại của đất nước, những sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975 không
thể không mang những đặc điểm của một nền văn học thời chiến – thời kì
mà cảm hứng chủ đạo trong sáng tác là ca ngợi cuộc chiến đấu, đề cao cộng
đồng, dân tộc và lịch sử. Có thể nói, chưa bao giờ những hình tượng tập
thể, hình tượng nhân dân, hình tượng người lính hiện lên trong văn học đẹp
đẽ đến thế. Trong những thành tựu chung ấy có phần đóng góp quan trọng
của Nguyễn Minh Châu với những tác phẩm: Cửa sơng, Dấu chân người
lính, Lửa từ những ngơi nhà…Trong thời kì này, thành cơng của Nguyễn
Minh Châu chủ yếu tập trung ở thể loại tiểu thuyết, tuy nhiên vẫn có những
truyện ngắn đã để lại nhiều dấu ấn như: Những vùng trời khác nhau, Người
mẹ xóm nhà thờ, Mảnh trăng cuối rừng, Bên đường chiến tranh…Sáng tác
của Nguyễn Minh Châu trong những năm chiến tranh thường nghiêng về

thể hiện cái cao cả, cái anh hùng và thiên về ca ngợi những vẻ đẹp trong
chiến đấu. Nhân vật chủ yếu trong tác phẩm của ông là những người lính
cách mạng, ở họ kết tinh những phẩm chất cao đẹp, anh hùng, lý tưởng
“như những con chim đại bàng phải tìm đến những cánh rừng đại thụ”,
14


“tìm chỗ đặt chân trên các các mỏm núi đá cao”. Lý tưởng đó ta có thể bắt
gặp trong hình ảnh nhân vật Lãm (Mảnh trăng cuối rừng) – một chàng trai
đã dám trốn nhà đi bộ đội; nhân vật Nguyệt, người con gái vừa rời ghế
trường phổ thông xung phong đi kiến thiết miền Tây; hay nhân vật Lữ
trong Dấu chân người lính - người đã “từ bỏ trái hạnh phúc đã ửng hồng
trong vườn nhà mình để cầm súng đi chiến đấu” (24, tr. 131)….
Sau chiến tranh, đất nước bước vào một thời kì mới, rất nhiều vấn đề
nảy sinh trong xã hội thời hậu chiến, đặc biệt là vấn đề đạo đức con người.
Điều đó đặt ra cho các nhà văn một yêu cầu bức thiết phải đổi mới văn học
cả về mặt nội dung lẫn nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu là người đi tiên
phong trong sự nghiệp đổi mới ấy. Trong một cuộc hội thảo tại tuần báo
Văn nghệ, Nguyễn Minh Châu đã nói: “Cái đời sống hôm nay bắt tôi phải
quan tâm (…). Những biểu hiện của lối sống, đạo đức và thậm chí là cả
quan niệm sống của những người xung quanh ta – nhất là thanh niên –
khiến chúng ta không thể không quan tâm và lo lắng (…). Thế là tôi quyết
định xông vào cái mặt trận đạo đức này” (24, tr.176-177). Bằng tài năng
nghệ thuật và bằng cái tâm đau đáu với đời, Nguyễn Minh Châu đã cho ra
đời những tác phẩm có giá trị, nhất là ở thể loại truyện ngắn như: Bức
tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Đứa ăn cắp, Chiếc thuyền
ngoài xa, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát…. Có thể nói, sau 1975, truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu đã đạt đến đỉnh cao của thành tựu. Truyện ngắn
của ông thường đề cập đến những vấn đề thường nhật của cuộc sống,
những con người bình thường trong xã hội, nhưng qua đó bộc lộ được

nhiều triết lý nhân sinh. Với những tác phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu
đã đem đến cho người đọc một cách nhìn mới đối với hiện thực. Nhà văn
nhìn vào cuộc sống bình thường hằng ngày với một mối quan tâm đặc biệt
để phát hiện những vấn đề bên trong của nó. Có những vấn đề hằng ngày ta
vẫn tiếp xúc, chứng kiến khơng biết bao lần mà khơng thấy gì đáng quan
tâm thì ơng nhìn thấy và thấy rất sâu xa. Chẳng hạn, với truyện ngắn Mẹ
15


con chị Hằng, nhà văn chỉ tâm tình kể về một bà mẹ bình thường với cả
những khuyết tật bình thường của một người đàn bà nông dân cùng với
cách cư xử của bà với con cái và cách cư xử của con cái đối với bà, nhưng
qua những vấn đề tưởng như bình thường ấy nhà văn đã cho ta hiểu ra một
thực tế. Hóa ra sự hi sinh quá âm thầm, nhẫn nhục gần như bản năng của
người mẹ đôi lúc đã gây cho con cái trở nên ích kỉ…
Sau 1975, khi đất nước đã thoát ra khỏi cuộc chiến tranh, thì vấn đề
đạo đức con người lại là vấn đề nổi cộm. Những thói xấu, thói ích kỉ của
chủ nghĩa cá nhân trong thời chiến đã bị lấn át bởi chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, thì nay có dịp bột phát. Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà
văn nhìn ra sớm nhất và sâu sắc nhất vấn đề này. Vì vậy trong phần lớn
truyện ngắn của nhà văn trong thời kì này là loại truyện luận đề - những
luận đề về đạo đức, nhân văn, về tâm lí xã hội. Những chủ đề đạo đức,
nhân văn ấy được nhà văn thể hiện qua chính những vấn đề chân thực của
đời sống. Nhà phê bình Ngọc Trai đã nhận xét: “Anh có cái nhìn sâu sắc và
tồn diện đối với con người và hiện thực. Dưới ngòi bút tài hoa của anh, cái
hiện thực nhiều chiều, nhiều vẻ gợi sức liên tưởng thật xa rộng. Vì vậy các
truyện ngắn của anh thường có thể gây cho bạn đọc nhiều cách tiếp cận,
nhiều cách hiểu, cách giải thích khác nhau…” (24, tr. 216). Những truyện
ngắn Bức tranh, Đứa ăn cắp, Sắm vai, Chiếc thuyền ngoài xa, Một lần đối
chứng…thể hiện rất rõ những trăn trở, chiêm nghiệm của nhà văn về những

vấn đề cuộc sống, đạo đức con người.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu ra đi khi sức viết của ơng vẫn cịn sung
sức, khi trong ơng vẫn cịn biết bao trăn trở với cuộc đời. Mặc dù vậy,
những gì ơng để lại cho chúng ta ngày hơm nay cũng đủ cho thấy tầm vóc
của một nhà văn có tâm và có tài. Ơng xứng đáng được xem là người đi
tiên phong trong việc đổi mới văn học những năm 80, là nhà văn tiêu biểu
của nền văn học hiện đại Việt Nam.

16


1.1.3. Thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Văn học khơng thể thiếu nhân vật, vì đó chính là phương tiện cơ bản
để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Nhân vật được sáng
tạo ra, hư cấu ra để thể hiện sự đánh giá của nhà văn về giá trị con người, là
cái nhìn của nhà văn đối với số phận con người. Thế giới nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu rất phong phú và đa dạng, trong đó các
nhân vật nữ chiếm một vị trí khá quan trọng. Theo Nguyễn Thị Minh Thái
thì: “những nhân vật đáng yêu nhất của Nguyễn Minh Châu là những nhân
vật nữ. (…).Nguyễn Minh Châu có một cái nhìn ấm áp, đơn hậu, ln chăm
chút phát hiện những vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam từ nhiều chiều,
nhiều hướng, nhiều phía khác nhau. Trong bối cảnh chiến tranh lẫn bối
cảnh đời thường, những nhân vật ấy đều đẹp. Và mỗi nhân vật là một phát
hiện mới về hình tượng phụ nữ trong văn xi hiện đại” (24, tr. 164).
Người phụ nữ hiện lên trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu có
nhiều số phận khác nhau, tính cách khác nhau, nhưng đa phần đều mang
những phẩm chất vô cùng đẹp đẽ. Đó là những con người dũng cảm trong
chiến đấu, sống có lý tưởng như Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng), Quỳ
(Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) – người con gái đã từ chối đi học
nước ngoài, khốc ba lơ vào Trường Sơn theo tiếng gọi của tổ quốc… Đó

là những người phụ nữ có tấm lịng son sắt, thủy chung như Nguyệt – cô
thanh niên xung phong ln một lịng chờ đợi, thủy chung với người con
trai cô chưa một lần gặp mặt; hay nhân vật Hạnh trong truyện ngắn Bên
đường chiến tranh, một người phụ nữ ba mươi năm kiên nhẫn chờ đợi một
người lính chưa hị hẹn, khơng một tin tức, chị chỉ biết làm nhà bên một
con đường ra trận với hi vọng mỏng manh, rồi một ngày nào đó có thể
người lính ấy sẽ qua đây dừng lại ngôi nhà này, và chỉ khi đã gặp lại anh
trên đường lên phía bắc chị mới n lịng cùng gia đình đi về một địa điểm
khác... Đó là những người mẹ âm thầm hi sinh vì con cái, vì hạnh phúc gia
đình như bà mẹ trong Mẹ con chị Hằng, hay người đàn bà hàng chài trong
17


Chiếc thuyền ngoài xa…, như nhận xét của Nguyễn Văn Hạnh: “Nguyễn
Minh Châu viết về người đàn bà trong nhiều tư cách khác nhau nhưng anh
đầy hào hứng và ưu ái khi viết về người đàn bà làm mẹ, người đàn bà luôn
cảm nhận không chỉ bằng ý thức mà bằng bản năng, thiên chức làm mẹ,
nền tảng của cuộc sống” (24, tr. 266).
Nguyễn Minh Châu không phải không thấy những mặt trái, mặt tiêu
cực ở người phụ nữ, nhưng ơng ít đề cập đến mặt này, hoặc nếu có thì cũng
là để làm nền để tơn lên cái vẻ đẹp ngầm ẩn bên trong tâm hồn họ - vẻ đẹp
“mẫu tính” của người phụ nữ Việt Nam. Nguyễn Minh Châu ln nhìn
người phụ nữ bằng tâm hồn giàu tình u thương và cặp mắt đơn hậu. Ơng
ln cố gắng đi tìm “hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người”, đặc
biệt là người phụ nữ.
Thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu vô cùng
phong phú, mỗi nhân vật là một tấm gương phản chiếu bức tranh cuộc
sống, bức tranh tâm hồn con người vô cùng đa dạng. Qua mỗi nhân vật, ta
lại hiểu thêm một khía cạnh trong ý niệm về người phụ nữ của Nguyễn
Minh Châu. Trong luận văn này, chúng tôi không có ý định tìm hiểu tất cả

các nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu mà chỉ tìm hiểu ý
niệm về người phụ nữ của nhà văn qua hai truyện ngắn tiêu biểu trước và
sau 1975 (Mảnh trăng cuối rừng và Chiếc thuyền ngoài xa), và quan trọng
hơn là cách nhà văn thể hiện ý niệm đó qua hệ thống ngôn ngữ.
1.2. Ngữ pháp chức năng – cơ sở để phân tích ngơn bản
1.2.1. Ngữ pháp chức năng
Theo Cao Xuân Hạo, “ngữ pháp chức năng là một lý thuyết và một
hệ phương pháp được xây dựng trên quan điểm coi ngôn ngữ như một
phương tiện thực hiện sự giao tiếp giữa người và người” (19, tr.11). Nếu
như ngữ pháp cổ điển và ngữ pháp cấu trúc luận chỉ chú ý nghiên cứu phần
hình thức của ngơn ngữ, cố gắng khảo sát xem chúng được cấu tạo như thế

18


nào mà khơng chú ý tìm hiểu cách hoạt động của chúng trong khi thực hiện
chức năng giao tiếp của mình; thì ngữ pháp chức năng “tự đặt cho mình
nhiệm vụ nghiên cứu, miêu tả và giải thích các quy tắc chi phối hoạt động
của ngơn ngữ trên các bình diện của mặt hình thức và mặt nội dung trong
mối liên hệ có tính chức năng thơng qua việc quan sát cách sử dụng ngơn
ngữ trong những tình huống giao tế hiện thực không phải chỉ để lập những
danh sách đơn vị và xác định những hệ thống và tiểu hệ thống đơn vị ngơn
ngữ, mà cịn để theo dõi cách hành chức của ngôn ngữ qua những biểu hiện
sinh động của nó trong khi được sử dụng” (19, tr.15-16). Lý thuyết ngữ
pháp chức năng ra đời với mục đích phục vụ phân tích ngơn bản, tức nhằm
“góp phần để hiểu ngơn bản: phân tích ngơn ngữ giúp người ta có khả năng
có thể chỉ ra tại sao và làm thế nào mà một ngơn bản có nghĩa như nó có”,
đồng thời “việc đánh giá ngơn bản, phân tích ngơn bản giúp người ta có thể
xác định ngơn bản có hiệu quả hay khơng có hiệu quả so với mục đích cụ
thể của nó và lý do – mặt nào ngơn bản thành cơng và mặt nào thất bại

hoặc ít thành công” (Halliday, tr.15).
Ngữ pháp chức năng xác định câu là đơn vị cơ bản của ngôn từ, là
những đơn vị tối thiểu có thể sử dụng trong giao tiếp, là những đơn vị nhỏ
nhất trong đó các đơn vị có nghĩa của ngơn ngữ (nhất là từ) có thể có được
chức năng ngữ pháp. Những quy tắc xây dựng cấu trúc câu được ngữ pháp
chức năng trình bày và giải thích trên cơ sở những mối quan hệ chặt chẽ
giữa ngôn ngữ và tư duy trong việc cấu trúc hố và tuyến tính hố những sự
tình được phản ánh trong một ngữ cảnh nhất định với sự tham gia của các
nhân vật giao tiếp. Hầu hết các tác giả ngữ pháp chức năng đều quan niệm
câu có ba chức năng cơ bản tương ứng với ba bình diện nghĩa: (i) Nghĩa
biểu hiện, (ii) Nghĩa hoạt động và (iii) Nghĩa liên kết ngơn bản. Ba bình
diện này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và nhiệm vụ của ngữ pháp chức
năng chính là xác minh các mối quan hệ giữa ba bình diện.
1.2.2. Cú là đơn vị nghiên cứu
19


Vấn đề của ngơn ngữ học nói chung, ngữ pháp nói riêng là vấn đề
nghĩa, và câu chính là đơn vị cơ sở để nghiên cứu nghĩa, còn cú là đơn vị
cơ sở để nghiên cứu câu, nghiên cứu ngôn bản. Cho đến nay, cú chưa được
các tác giả hiểu đồng nhất với nhau, có tác giả từng gọi nó là “mệnh đề”, là
“kết cấu chủ - vị”. Trong ngữ pháp tiếng Việt, cú đã được nghiên cứu và sử
dụng trong các cơng trình của nhiều tác giả như Nguyễn Hiến Lê, Lưu Vân
Lăng, Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban….
Có một số quan niệm đã đồng nhất cú với câu, tuy nhiên trên thực tế,
cú không tương đương với câu, và nó cũng khơng phải tương đương với
nội dung mệnh đề. Nó là đơn vị vừa mang đặc trưng của mệnh đề vừa
mang đặc trưng của câu. Hiện nay có ba loại định nghĩa cơ bản về cú:
- Cú được đặt trong quan hệ với cú pháp: cú được coi là đơn vị cấu tạo
câu. Nó là một cấu trúc bao gồm các thành phần câu như chủ ngữ, vị ngữ,

và các thành tố khác như: trạng ngữ, bổ ngữ, định ngữ…Như vậy, câu đơn
chỉ gồm một cú, câu kép bao gồm hai cú trở lên. Theo quan điểm này thì
các thành phần của cú trùng với các thành phần của câu (Nguyễn Kim Thản
1962, Diệp Quang Ban 1989…)
- Cú được đặt trong quan hệ với các kiểu tạo nghĩa: cú được nghiên cứu
trong các quan hệ cú pháp, quan hệ ngữ nghĩa và cả trong hoạt động. Đơn
vị này được các tác giả ngữ pháp chức năng xác định trên ba cấp độ: 1)
chức năng cú pháp, 2) chức năng nghĩa học và 3) chức năng dụng học.
- Cú được đặt trong quan hệ với nghĩa: cú được coi là đơn vị miêu tả các
sự tình. Nó là một kết cấu có động từ làm trung tâm và các vai nghĩa xoay
quanh nó. Cấu trúc của cú được hình thành xoay quanh mối quan hệ ngữ
nghĩa giữa vị từ và thành tố của nó; mối quan hệ này có thể được gán cho
ba mức độ của chức năng: ngữ nghĩa, cú pháp và ngữ dụng
+ Chức năng ngữ nghĩa được phân định trên khung cú pháp của cú dựa
vào các vai nghĩa, các quan hệ của các thành tố như: tác thể, hành thể,
nghiệm thể, đối thể…..
20


+ Chức năng cú pháp là chủ ngữ, bổ ngữ trực tiếp và bổ ngữ gián tiếp.
+ Chức năng ngữ dụng được thể hiện qua phương thức tổ chức thông
tin. Đó là chủ đề, tiêu điểm, đề.
Các tác giả ngữ pháp chức năng coi cú ở bất cứ chỗ nào cũng đều là
một đơn vị giống nhau, dù nó thực hiện một chức năng (như một câu đơn)
hay thực hiện chức năng như một bộ phận của cú phức. Cú được Halliday
nghiên cứu trên ba bình diện siêu chức năng là: phản ánh, liên nhân và
ngơn bản. Giữa ba bình diện nghĩa của ngơn từ có mối quan hệ vơ cùng
chặt chẽ với nhau. “Các bình diện ấy tồn tại vì nhau, và nhờ có nhau, cho
nên khơng thể hiểu thấu đáo bất cứ bình diện nào nếu khơng liên hệ với hai
bình diện kia. Và nhiệm vụ của ngữ pháp chức năng chính là xác minh

được mối quan hệ giữa cả ba bình diện ” (19, tr.19). Ba bình diện nghĩa này
được thể hiện trong ngôn ngữ thành một tổng thể, làm thành cái cơ sở cho
cách tổ chức nghĩa của tất cả các ngôn ngữ trên thế giới.
Tuy nhiên, cũng theo Cao Xuân Hạo thì để xác minh được mối quan
hệ giữa ba bình diện thì trước hết phải “phân giới dứt khốt từng bình diện
một, khơng để lọt một sự lẫn lộn nào trong khi xếp các sự kiện vào bình
diện này hay bình diện kia” (19, tr.19). Trong luận văn này, chúng tơi chủ
yếu phân tích ngôn bản dựa trên hai siêu chức năng cơ bản của ngôn ngữ là
chức năng phản ánh và chức năng liên nhân. Khảo sát nhân vật Nguyệt
trong “Mảnh trăng cuối rừng” và người đàn bà trong “Chiếc thuyền ngoài
xa” từ bình diện nghĩa phản ánh trong ngơn ngữ người kể chuyện sẽ hiểu
được “Công – Dung - Hạnh” của họ từ những quan điểm khác nhau, những
trải nghiệm khác nhau. Cịn khi khảo sát các kiểu hành động lời nói, cách
tổ chức lời nói của chính hai người phụ nữ đó khơng những hiểu được cái
“Ngơn” của người phụ nữ hiện đại mà cịn hiểu được trải nghiệm của chính
họ trong cuộc sống. Từ đó có thể xác định được ý niệm về bổn phận, trách
nhiệm và nghĩa vụ của hai người phụ nữ trong các hoàn cảnh chung, riêng
khác nhau nhưng vẫn có những phẩm chất giống nhau.
21


1.2.3. Hai siêu chức năng cơ bản của cú
Theo M.Halliday thì “tất cả các ngơn ngữ đều được tổ chức xung
quanh hai loại nghĩa chính: nghĩa tư tưởng hay nghĩa phản ánh và nghĩa
liên nhân hay nghĩa hoạt động. Theo thuật ngữ của lý thuyết hiện hành, hai
thành phần được gọi là „siêu chức năng‟ là hệ hình trong hệ thống ngơn
ngữ của hai mục đích có tính khái qt rất cao, đó là hai mục đích tạo cơ sở
cho tồn bộ việc sử dụng ngơn ngữ để: i) hiểu hoàn cảnh (tư tưởng) và
hành động dựa vào những người khác trong môi trường (liên nhân)”
(Halliday, 1994, tr.13). Trong cú, hai bình diện nghĩa/siêu chức năng này

có những vị thế và cấu trúc chức năng cụ thể.
1.2.3.1. Chức năng phản ánh
a. Khái niệm
Chức năng phản ánh (hay tư tưởng, biểu hiện, ý niệm) là sự phản ánh
kinh nghiệm của người nói /người viết về thế giới xung quanh. Thế giới
khách quan được mọi người nhận thức giống nhau, tuy nhiên cách biểu đạt
sự nhận thức ấy có thể rất khác nhau ở mỗi cá nhân, mỗi dân tộc. Nghĩa
phản ánh chính là phần nội dung nhận thức giống nhau, nó hầu như khơng
lệ thuộc vào phần khác và có được tính đồng nhất, bất biến. Theo Haliday,
chức năng phản ánh là biểu hiện những sự tình: những hành động, những
biến cố, những q trình tâm lí và những mối quan hệ. Các sự tình ấy
“được sắp xếp lại theo cách tri giác của người nói, được tổ chức lại thành
một cấu trúc lơ-gich ngơn từ, được tuyến tính hóa lại theo những quy tắc
ngữ pháp của câu, được tình thái hóa ở nhiều cấp tùy theo thái độ của
người nói, cái hình ảnh mà người nói dùng để truyền đạt sự tình cho người
nghe một mặt được giản lược đi và mặt khác lại được trang trí thêm nhiều
yếu tố chủ quan của người nói” (19, tr.425).
Chức năng phản ánh tồn tại trong tất cả các đơn vị miêu tả thế
giới khách quan trong nhận thức của con người. Nội dung này được gọi
chung là kinh nghiệm.

22


Kinh nghiệm (nội dung phản ánh) được biểu đạt bằng các nội dung
mệnh đề hay các quá trình (theo quan điểm của Halliday). Kinh nghiệm của
con người được chia thành hai loại: kinh nghiệm bên ngoài và kinh nghiệm
bên trong. Kinh nghiệm bên ngoài là các kinh nghiệm về các hành động và
sự kiện do con người hay các hành thể khác tạo ra. Còn kinh nghiệm bên
trong một mặt là sự thể hiện lại kinh nghiệm bên ngoài, mặt khác là ý thức

riêng biệt về trạng thái tồn tại của con người. Các phạm trù ngữ pháp có
nhiệm vụ phản ánh: các quá trình vật chất (kinh nghiệm bên ngồi) và các
q trình tinh thần (kinh nghiệm bên trong).
Giữa hai loại q trình trên có một loại q trình thứ ba: quá trình
quan hệ. Quá trình này phản ánh mối liên hệ giữa mảng này với mảng kia
của thế giới kinh nghiệm.
Kinh nghiệm được phản ánh nhờ khả năng tri nhận của con người về
thế giới. Kinh nghiệm ấy có thể được biểu đạt bằng các đơn vị ngơn ngữ
khác nhau như ngôn bản, cú, ngữ…
Khảo sát nhân vật trong ngơn bản theo ba bình diện nghĩa sẽ giúp
người nghiên cứu nhân ra hoạt động cũng như kết quả hoạt động trong cuộc
sống (từ các quá trình vật chất); những tâm tư, tình cảm, nhận thức xã hội,
cũng như khát vọng sống, khát vọng yêu thương (từ các quá trình tinh
thần), để từ đó nhận ra bản chất, phẩm hạnh của họ.
b. Cấu trúc
Một q trình bao gồm có ba phần: lõi của quá trình (vị từ), tham
thể/diễn tố và chu cảnh. Mỗi vị từ và các diễn tố của chúng tạo nên khung
vị từ - là cấu trúc cơ bản của cấu trúc nghĩa phản ánh. Theo L.Tesniere, mỗi
vị từ biểu hiện một màn kịch nhỏ, nó có một diễn trị riêng, được thể hiện
trong số lượng các diễn tố của nó. Có những vị từ có diễn trị zero, hay vơ
(diễn) trị: đó là những vị từ như “mưa”, khơng có diễn tố nào. Có những vị
từ chỉ có một diễn tố, gọi là đơn trị, như “ngã” trong đó, dù có hai người
ngã thì cũng chỉ có một vai do hai người đóng. Có những vị từ có hai diễn
23


tố gọi là song trị, như “đánh”, trong đó có một người đánh và một người bị
đánh. Có những vị từ ba diễn tố, gọi là tam trị, như “cho”, trong đó có một
người cho, một vật đem cho và một người nhận.
Mỗi diễn tố/tham thể thực hiện một chức năng nhất định, cách gọi

tên các chức năng này rất khác nhau tuỳ vào quan niệm của từng tác giả.
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng cách gọi tên các diễn tố của Cao
Xuân Hạo: hành thể, tác thể, đối thể, tạo thể, tiếp thể, động thể, nghiệm
thể, đích, nguồn, mục tiêu…
Xung quanh hạt nhân do vị từ và các diễn tố tạo nên, có các chu tố
chỉ hồn cảnh, khơng có số lượng nhất định như các diễn tố, tương đương
với các phó từ: thời gian, nơi chốn, phương thức, điều kiện, kết quả, mục
đích…
c. Phân loại câu theo nghĩa phản ánh
Theo giáo sư Cao Xuân Hạo thì “bất cứ một sự tình nào được con
người tri giác như một sự tình đều có thể diễn đạt đúng như nhau trong tất
cả các ngôn ngữ bằng những câu có nghĩa biểu hiện hồn tồn giống nhau,
tuy những câu đó đơi khi có thể khác nhau ở những phần khác của nghĩa”
(19, tr.427). Chính vì vậy, phân loại hình các nghĩa phản ánh của câu là
một trong những công việc tất yếu của ngữ pháp chức năng. Tiếp thu
những thành tựu trong cách phân loại câu của Dik, Haliday, đồng thời xét
trên thực tế sử dụng Tiếng Việt, tác giả Cao Xuân Hạo đã đưa ra biểu đồ hệ
thống các sự tình khá chi tiết (Xem trang 429, Tiếng Việt – sơ thảo ngữ
pháp chức năng). Theo Cao Xuân Hạo, các sự tình, được biểu hiện trong
ngơn ngữ bằng những câu mà hạt nhân là khung vị ngữ, gồm lõi vị ngữ (mà
trung tâm là vị từ) và các tham tố của nó trong đó có một tham tố làm đề
(hay tiểu đề nếu câu có nhiều bậc cấu trúc đề-thuyết), trước hết có thể chia
ra làm ba loại (hay gọi là loại câu cho tiện):
- Câu tồn tại
- Câu chỉ sự tình động hay sự việc, biến cố
24


- Câu chỉ sự tình tĩnh hay tình hình
Câu tồn tại thể hiện sự tồn tại của một sự vật ở một nơi nào đó trong

thế giới. Sự tồn tại của sự vật có thể được định vị hay khơng định vị.
Trong các câu chỉ biến cố, dựa vào tiêu chí (+ chủ ý) hay (- chủ ý) có
thể chia thành hai loại câu: hành động và quá trình. Hành động là một sự
việc có chủ ý, cho nên có thể do con người hay động vật thực hiện. Quá
trình là một biến cố không chủ ý, chủ thể của nó có thể là người, động vật
hay bất động vật. Từ các câu chỉ hành động và quá trình, tác giả Cao Xuân
Hạo lại tiếp tục chia nhỏ các loại câu như tác động, tạo diệt, di chuyển,
chuyển biến….
Trong các câu chỉ tình hình có thể phân biệt câu chỉ trạng thái với
câu chỉ quan hệ. Trạng thái là một tình hình có mặt trong bản thân chủ thể,
dựa vào tính thường tồn hay khơng thường tồn, Cao Xn Hạo lại chia
thành câu tính chất hay câu tình trạng. Quan hệ là một tình hình mà nội
dung là một cái gì ở giữa hai sự vật, dù đó là một sự tiếp xúc, một khoảng
cách, một mối dây nhân quả, hay một sự so sánh.
Trong luận văn này, khi phân tích hai truyện ngắn Mảnh trăng cuối
rừng và Chiếc thuyền ngồi xa, chúng tơi đặc biệt chú ý đến các loại câu:
hành động, trạng thái, tồn tại và quan hệ. Và ở trong mỗi loại câu, chúng tôi
tiếp tục phân loại câu theo các nhóm với tham tố chỉ người phụ nữ làm
hành thể, nghiệm thể hay đích/mục tiêu của hành động (theo vai nghĩa). Từ
đó rút ra những kết luận về tính cách, phẩm chất cũng như ngoại hình của
người phụ nữ, qua đó thấy được ý niệm về người phụ nữ của Nguyễn Minh
Châu được thể hiện trong hai tác phẩm. Chẳng hạn, khi thống kê, phân loại
câu theo nghĩa biểu hiện, chúng tôi nhận thấy tham tố “Nguyệt” (Trong
Mảnh trăng cuối rừng) chủ yếu đóng vai hành thể trong rất nhiều câu hành
động (29/43 câu). Kết hợp với phân tích các động từ, tính từ trong câu, có
thể thấy Nguyệt là một cơ gái rất hoạt bát, mạnh mẽ, chủ động, tự tin trong
mọi tình huống. Đó thực sự là con người của cơng việc. Cịn trong truyện
25



×