Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.23 KB, 2 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
1/ GIỐNG NGÔ RAU LAI LVN23
Giống ngô rau lai LVN23 là giống ngô rau lai đầu tiên của Việt Nam do lai đơn từ 2 dòng thuần 244/2649 và
LV2D có nhiều ƣu điểm: thời gian sinh trƣởng ngắn, chịu đƣợc mật độ trồng dày, có tỉ lệ 2 – 3 bắp/cây cao, cho
năng suất khơng thua kém giống nƣớc ngồi nhƣng có hàm lƣợng chất khô, ptotein, các vitamin C, B1, β-
caroten cao hơn hẳn, nhƣ vậy LVN23 có phẩm chất ra tƣơi tốt hơn. Ngoài ra một lƣợng đáng kể thân lá xanh
sau khi thu hoạch lõi non là nguồn thức ăn xanh nhiều dinh dƣỡng phục vụ tốt cho chăn nuôi đại gia súc, đặc
biệt là giai đoạn vụ đông thiếu cỏ tƣơi hay cho những vùng chăn nuôi bị sữa. Giá giống ngơ LVN23 chỉ bằng
1/2 giá giống ngô rau nhập nội do vậy đã tiết kiệm ngoại tệ cho Nhà nƣớc không phải nhập khẩu hàng nghìn
USD mỗi năm. LVN23 là giống ngơ lai đầu tiên của Việt Nam đƣợc mở rộng ở các địa phƣơng nhƣ Hà Nội,
Hƣng Yên, Vĩnh Phúc, Ninh Bình…trên hang ngàn ha/năm. Sản phẩm ngô bao tử LVN23 đã đƣợc các công ty
xuất nhập khẩu rau quả Hà Nội, Hƣng Yên, Vĩnh Phúc…đóng hộp xuất khẩu, hoặc đƣợc bán nhƣ rau tƣơi tại
chợ và siêu thị ở các thành phố.
2/ GIỐNG LÚA LAI NGHI HƢƠNG 308
Giống lúa lai Nghi Hƣơng 308 (Nghi Hƣơng 1A x Nghi Khơi) là giống lúa lai 3 dịng. Thời gian sinh trƣởng
ngắn hơn Nhị Ƣu 838 khoảng 2 – 5 ngày (vụ xuân) và 6 – 8 ngày (vụ mùa). Sinh trƣởng khỏe, đẻ nhánh khá, trổ
bông tập trung, độ thốt cổ bơng tốt, chịu rét tốt, chống chiu sâu bệnh khá. Năng suất cao, ổn định tƣơng đƣơng
Nhị Ƣu 838. Thích hợp gieo cấy trên chân đất từ vàn thấp đến cao.
Đây là giống lúa có chất lƣợng cao nhất trong tập đồn giống lúa lai chất lƣợng đã đƣợc công nhận ở Việt Nam:
hạt thon dài, trắng trong, hàm lƣợng dinh dƣỡng cao, cơm mềm, ngon và có hƣơng thơm nhẹ.
3/ GIỐNG LẠC L12
Đƣợc chọn lọc từ tổ hợp lai giữa giống V79 với giống ICGV 87157 có nguồn gốc từ ICRISAT(*)
. Kết hợp các
Hiện nay giống lai này đã đƣợc trồng trên hàng ngàn ha với ƣu điểm là gieo trồng cho vùng nƣớc trời không cần
chủ động tƣới tiêu. Cây chịu hạn khá, năng suất khá và chất lƣợng hạt tốt.
*ICRISAT (International Crops Research Institute for the Semi-Arid Tropics): Viện quốc tế nghiên cứu cây
trồng cho những vùng nhiệt đới bán khô hạn.
4/ GIỐNG ĐẬU TƢƠNG CAO SẢN DT96
Giống đậu tƣơng DT96 do nhóm tác giả Viện Di truyền Nông nghiệp chọn tạo bằng phƣơng pháp lai hữu tính
giữa 2 giống đang phổ biến trong sản xuất là DT90 và DT84. DT96 kết hợp nhiều đặc tính tốt của hai giống
này: Chịu nóng tốt nhƣ DT84 và chịu lạnh nhƣ DT90, năng suất cao trong cả 3 vụ xuân, hè, đông. Giống này có
ƣu việt hơn hẳn DT84 và DT 90 về chất lƣợng hạt thƣơng phẩm và tính kháng chịu sâu bệnh, đặc biệt là bệnh rỉ
sắt và sƣơng mai. Giống DT96 đã đƣợc Hội đồng Khoa học Bộ Nông nghiệp & PTNT cơng nhận khu vực hố
năm 2002.
bệnh rỉ sắt, sƣơng mai, đốm nâu vi khuẩn, lở cổ rễ tốt; chịu nhiệt tốt và lạnh khá. Hạt màu vàng sáng, rốn hạt
trắng, hạt to, khối lƣợng 1000 hạt ≈ 190 - 220g. Tỷ lệ protein cao: 42,86%, chất béo: 18,34%.
5/ GIỐNG CÀ CHUA VT10
Giống cà chua VT10 là giống cà chua lai F1 đƣợc chọn tạo từ tổ hợp lai D8 x D12. Giống đề nghị công nhận
Giống dƣa chuột lai PC4 là giống lai F1 từ tổ hợp lai DL7 x TL15, đƣợc công nhận là giống quốc gia năm 2008.
Giống Dƣa chuột PC4 có thời gian sinh trƣởng vụ xuân hè 90-95 ngày, vụ thu đông 80 -85 ngày. Giống cho thu
quả rất sớm, sau trồng 35-40 ngày và thời gian thu quả kéo dài 40 - 45 ngày.
Cây sinh trƣởng, phát triển khoẻ, thân lá xanh đậm, sai quả, trung bình 13 – 14 quả/cây trong vụ xuân hè và có
từ 11-12 quả/cây trong vụ thu đơng. Khối lƣợng trung bình quả 120 -130 g và cho năng suất đạt trên 50 tấn/ha
vụ xuân hè và 40-45 tấn/ha vụ thu đông. Quả của giống PC4 có dạng hình đẹp, màu vỏ quả xanh đậm, gai quả
đen, dài quả 20 - 24 cm khi đo ở đƣờng kính 2,8 - 3,0 cm, cùi dày 1,2 - 1,3 cm giịn, thơm thích hợp cho ăn tƣơi,
chế biến muối mặn xuất khẩu.
7/ BỊ LAI SIND
Giống bị lai Sind đƣợc lai tạo ở Việt Nam từ những năm 30 của thế kỷ XX, trên cơ sở lai giữa bò cái là bò vàng
Việt Nam và bò đực là bò Sind đỏ Pakistan. Tỷ lệ máu của bò lai Sind thay đổi rất lớn giữa các cá thể và do đó
mà ngoại hình và sức sản xuất cũng thay đổi tƣơng ứng. U yếm càng phát triển, màu vàng càng đậm thì tỉ lệ
máu bị lai Sind càng cao, bị càng tốt.
Phân bố rải rác ở nhiều nơi, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long. Bò lai Sind chịu
đƣợc kham khổ tốt, có khả năng chống bệnh tật cao, thích nghi tốt với điều kiện khí hậu nóng ẩm.