LỜI MỞ ĐẦU.
Thuế là một trong những công cụ quản lý và điều tiết của Nhà
nước về tình hình sản xuất, kinh doanh và lưu thông hàng hoá dịch vụ
trong nước. Ngoài ra chính sách thuế còn là một trong những công cụ để
thực hiện chiến lược kinh tế của đất nước. Trong hoạt động kinh doanh
thương mại quốc tế, các nước thường dùng công cụ quản lý như: hạn
ngạch, tỷ giá, giấy phép, thuế quan. Trong đó thuế xuất nhập khẩu
thường được sử dụng cơ bản nhất bởi nó là cơ sở trong trao đổi buôn bán
và là một nguồn thu đối với ngân sách quốc gia.
Ở Việt Nam, thuế xuất nhập khẩu được ban hành thành Luật vào
tháng 12 năm 1987, có hiệu lực vào 01-01-1988 với tên gọi Luật Thuế
xuất nhập khẩu hàng mậu dịch. Sau hai lần sửa đổi vào các năm 1991 và
1993 và gần đây nhất là tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá X (tháng 4,
tháng 5 năm 1998), Luật Thuế xuất nhập khẩu đã có những nội dung
thay đổi cơ bản về thời hạn tính thuế, thuế suất, về xử lý vi phạm.v.v.
Tuy vậy trong quá trình thực hiện, thuế xuất nhập khẩu vẫn còn
nhiều hạn chế và có những điểm chưa phù hợp với tình hình thực tế
trong nước, cần phải tiếp tục bổ xung sửa đổi.
Mặt khác, trong thực tiễn phát triển kinh tế của đất nước cũng như
bối cảnh quốc tế mới, làm cho Luật thuế xuất nhập khẩu vừa đáp ứng
được nhu cầu quản lý kinh tế trong nước , vừa phù hợp với luật lệ và
thông lệ quốc tế là một yêu cầu khách quan :
Một là, nền kinh tế trong nước chuyển từ kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường bước đầu mang lại những kết
quả khả quan. Nền kinh tế chuyển từ cung hàng hoá không đủ cho tiêu
dùng sang cung vượt cầu. Nhu cầu xuất khẩu những sản phẩm có thế
mạnh như hàng nông , thuỷ sản và nhập các mặt hàng có yếu tố kỹ thuật
cao phục vụ cho quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá là rất lớn. Đổi
mới nâng cao chính sách thuế xuất nhập khẩu chính là tạo môi trường
thuận lợi để thoả mãn các nhu cầu trên.
1
Hai là, sự gia nhập vào các tổ chức trong khu vực như ASEAN, sự
tham gia khu vực mậu dịch tự do AFTA và gần đây nhất là việc Việt
Nam ký hiệp định song phương với Mỹ đang đặt ra nhiều vận hội cho đất
nước, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức mà chúng ta phải nỗ lực mới
đạt được những mục tiêu phát triển mong muốn. Thách thức trước mắt là
chúng ta phải cắt giảm thuế quan với nhiều mặt hàng theo yêu cầu của
CEPT (Common Effective Preferential Tariffs) trong chuơng trình tiến
tới AFTA (ASEAN FREE TRADE AREA), xa hơn nữa là ra nhập WTO.
Các chương trình này đòi hỏi chúng ta phải có những thay đổi về chính
sách thuế xuất nhập khẩu cho phù hợp.
Hơn nữa, quá trình quốc tế hoá đang diễn ra mạnh mẽ, ở khắp các
châu lục, các khu vực của thế giới, kéo theo sự tham gia ngày càng mạnh
mẽ của các nước chậm phát triển nhất. Sự hoà nhập quốc tế này đòi hỏi
phải có sự thống nhất ngày càng rộng rãi của những quy định pháp
luật,và thông lệ quốc tế trong hợp tác phát triển. Sự hoà nhập tất yếu của
Việt Nam vào hợp tác khu vực và quốc tế cũng đặt ra nhiệm vụ thích hợp
hoá các chính sách quản lý phát triển kinh tế, trong đó đặc biệt nhấn
mạnh chính sách thuế xuất nhập khẩu, đối với các điều kiện và thông lệ
chung thế giới.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, chúng tôi thực hiện bài viết này
với tiêu đề: “Chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong điều
kiện hội nhập với khu vực và thế giới”.
Mục đích của bài viết là nhằm làm sáng tỏ một phần về chính sách
thuế xuất nhập khẩu hiện hành và những biện pháp nhằm hoàn thiện
chính sách thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập với
khu vực và thế giới. Do thời gian có hạn và trình độ còn hạn chế chính vì
vậy bài viết không tránh khỏi có những thiêú sót, rất mong nhận được sự
góp ý của các thày cô giáo để bài viết hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
I.Thương mại quốc tế trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu
hoá:
1. Sự hình thành các khu vực mậu dịch tự do và các tổ chức thương
mại quốc tế :
Trên thế giới, xu hướng quốc tế hoá đang trở nên ngày càng mạnh
mẽ. Các nước có xu hướng hợp tác với nhau để cùng phát triển, đặc biệt
là trong thương mại. Chính vì lẽ đó các tổ chức thương mại mang tính
khu vực và quốc tế được thành lập ngày càng nhiều.
Tổ chức thương mại quốc tế quan trọng nhất trên thế giới hiện nay là
WTO. WTO là một tổ chức quốc tế ra nhằm mục đích phối hợp hành
động của các quốc gia trong nỗ lực chung là tiến tới tự do hoá thương
mại toàn cầu.
WTO được hình thành nhờ kết quả quả của vòng đàm phán mậu dịch
Uruguay với mục đích nâng cao cơ chế của GATT. WTO kế thừa và
củng cố các chức năng của GATT. Cụ thể :
Một là, chức năng tổ chức các cuộc đàm phán mậu dịch đa biên.
Hai là, đề ra những quy tắc mới về thương mại và đảm bảo các nước
thành viên phải thực hiện những quy tắc đó.
Ba là, giải quyết các mâu thuẫn và tranh chấp mậu dịch quốc tế.
Bốn là, phát triển nền kinh tế thị trường. Để nền kinh tế thị trường
hoạt động và nâng cao hiệu quả hoạt động của nó.
WTO hoạt động dựa trên hai nguyên tắc quan trọng. Đó là:
Sự đối xử không phân biệt. Nguyên tắc này được áp dụng bằng hai
loại đãi ngộ song song, là đãi ngộ tối huệ quốc và cách đối xử quốc gia.
Nguyên tắc thứ hai là bảo hộ sản nghiệp bằng thuế quan. Ngoài ra còn
một số nguyên tắc như: ổn định thương mại, tăng cường cạnh tranh lành
mạnh.v..v.
Theo xu hướng của thời đại ở Đông Nam Á có một tổ chức thương
mại được thành lập từ rất sớm. Đó là ASEAN (Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á). Được thành lập trên cơ sở tuyên bố Băng Cốc ngày
08/08/1967 của hội nghị ngoại trưởng năm nước thuộc khu vực Đông
3
Nam Á: Thái Lan, Malayxia, Singapo, Philippin và Indonexia. ASEAN
được thành lập với mục đích: Thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã
hội và phát triển văn hoá trong khu vực; thúc đẩy hoà bình ổn định trong
khu vực; duy trì sự hợp tác chặt chẽ, cùng có lợi với các tổ chức quốc tế;
Xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, tự do, thịnh vượng và
trung lập không có sự can thiệp từ bên ngoài với bất kỳ hình thức nào.
Nguyên tắc hoạt động của ASEAN.
Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc
dân tộc của tất cả các quốc gia.
Hai là, tôn trọng quyền của mọi quốc gia được tồn tại mà không có
sự can thiệp, lật đổ hoặc áp bức từ bên ngoài.
Ba là, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Bốn là, giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hoà bình.
Năm là, từ bỏ việc đe doạ hoặc sử dụng vũ lực.
Sáu là, hợp tác với nhau một cách có hiệu quả.
Ngoài hai tổ chức trên hiện nay trên thế giới tồn tại rất nhiều các tổ
chức thương mại mang tính quốc tế và khu vực như: APEC (Nhóm hợp
tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương).v..v.Hay những hiệp định chung
về thương mại, như: Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, hiệp định
về khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ(NAFTA).
Hiện nay việc hợp tác giữa các quốc gia để giải quyết các vấn đề
chung thường thông qua hình thức đối thoại có thể là song phương hoặc
đa phương. Trong thương mại cũng vậy các nước thường đàm phán với
nhau để ký kết các hiệp định thương mại chung, từ đó thành lập nên các
tổ chức thương mại. Các nước khác có nhu cầu sẽ xin ra nhập các tổ
chức đó và xu hướng hội nhập trở nên phổ biến. Việc hội nhập đặt ra cho
các quốc gia những thời cơ nhưng cũng không ít thách thức. Khi là thành
viên của các tổ chức thương mại, các quốc gia được hưởng các ưu đãi về
nhiều mặt, tạo điều kiện để phát triển nền kinh tế trong nước. Tuy nhiên,
các quốc gia muốn trở thành các quốc gia thành viên phải có đầy đủ điều
kiện và phải thoả mãn được những yêu cầu rất cao của các tổ chức mà họ
muốn ra nhập. Chính vì vậy các quốc gia tham gia quá trình hội nhập
4
thường phải đối mặt với một vấn đề đó là cải tổ nền kinh tế trong nước
cho phù hợp với yêu cầu mà các tổ chức đó đặt ra.
2. Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập:
2.1. Mục tiêu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập thương mại khu
vực và quốc tế:
Một là, nhằm tạo ra những cơ hội mới, lộ trình mới cho sự phát
triển đất nước.
Hai là, nhằm liên kết các nguồn lực trong nước và ngoài nước một
cách có chọn lọc, có định hướng để phát triển kinh tế, xây dựng đất
nước, đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu theo hướng CNH-HĐH.
Ba là, kết nối giữa thị trường trong nước và quốc tế, kinh tế quốc
gia với nền kinh tế khu vực và thế giới.
2.2. Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, thời cơ và thách thức:
Hội nhập thường được hiểu như là mức độ của các hoạt động giao
thương. Nhưng thực ra hội nhập không phải là vấn đề kim nghạch hoặc
ngay cả việc giao thương với ai. Hội nhập chính là sự tự do giao thương.
Ví dụ Mỹ có mức độ hội nhập cao vì doanh nhân Mỹ được tự do giao
thương với nước ngoài, nhưng mức độ giao thương tương đối của họ (tỷ
lệ kim nghạch xuất nhập khẩu GDP) lại thấp; trong khi đó tỷ lệ tương
ứng của Việt Nam khá cao (khoảng 50% GDP) nhưng Việt Nam không
được xem là một nước có mức độ hội nhập cao. Hội nhập sẽ có tác động
hạ thấp hoặc huỷ bỏ các rào cản gây khó khăn và hạn chế sự tự do
chuyển dịch của hàng hoá cũng như con người, tạo nên một sự năng
động mới làm cho mọi người tham gia cuộc chơi đều có lợi.
Hiện nay, trên thế giới, xu hướng quốc tế hoá đang trở nên phổ biến.
Nó mang lại cơ hội và không ít thách thức đối với nền kinh tế các nước.
Trước hết nó khai thác lợi thế cạnh tranh giữa các nước( lao động, tài
nguyên thiên nhiên, văn hoá, truyền thống, mức độ phát triển...). Theo
đó thì không có nước nào có lợi thế tuyệt đối về mọi mặt, ngay cả các
cường quốc kinh tế lớn nhất nhì thế giới. Mỗi quốc gia đều có lợi thế so
sánh khác nhau vì mỗi nước đều có điều kiện tài nguyên thiên nhiên
khác nhau. Do đó, mỗi nước đều có vai trò tích cực trong hội nhập.
5
Có thể đơn cử như trường hợp của Việt Nam và Trung Quốc. Quan
hệ ngoại thương của Việt Nam và Trung Quốc là quan hệ hàng dọc( Việt
Nam xuất khẩu nguyên liệu, nông lâm thuỷ sản, và nhập khẩu hàng công
nghiệp). Những mặt hàng ở nhóm A là lĩnh vực Việt Nam có lợi thế so
sánh. Còn Trung Quốc thì có lợi thế so sánh ở những mặt hàng thuộc
nhóm B.
Tuy nhiên hội nhập đặt ra một cuộc chiến không khoan nhượng
trên mọi mặt của đời sống kinh tế. Nó đặt các chủ thể của các nền kinh tế
trước tình thế phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Vậy tại sao Việt Nam quyết định hội nhập?
Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị chính là câu trả lời. Hội nhập sẽ
đem lại nhiều cơ hội phát triển có tầm vóc chiến lược lâu dài, nếu chúng
ta biết tổ chức và chuẩn bị tốt để đương đầu với những thách thức mới.
2.3. Tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam với khu vực và thế giới:
Vào năm 1993, hiệp định khung về hợp tác Việt Nam-EU đánh
dấu bước phát triển quan trọng trong quan hệ thương mại giữa hai bên.
Hiệp định về buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký tắt
cuối tháng 12 năm 1992 và bắt đầu có hiệu lực từ 01/01/1993.
Tiếp đó, vào ngày 01/10/1996 Việt Nam ra nhập hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN). Nội dung chính là việc thực hiện chương
trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT, để thành lập một thị
trường khu vực rộng lớn và mở cửa với mức thuế quan thấp (từ 0-5%),
xoá bỏ các hàng rào thương mại cho các nước thành viên.
Gần đây, Việt Nam và Hoa Kỳ vừa ký kết hiệp định thương mại
Việt Nam-Hoa Kỳ. Mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ kinh tế giữa
Việt Nam và Mỹ. Tạo điều kiện cho hàng hoá Việt Nam xâm nhập vào
thị trường Mỹ ,một thị trường lớn và quan trọng bậc nhất thế giới.
Ngoài ra Việt Nam còn ký nhiều hiệp định thương mại song
phương với nhiều nước, đặt quan hệ buôn bán với nhiều nước và tham
dự nhiều diễn đàn kinh tế quan trọng.
II.Chính sách thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam :
6
1.Thuế xuất nhập khẩu và quá trình hình thành và phát triển của
thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam :
Thuế xuất nhập khẩu phát sinh khi có sự chuyển dịch hàng hoá qua
cửa khẩu và khu chế xuất. Đối tượng nộp thuế là tất cả hàng hoá được phép
xuất nhập khẩu qua biên giới và hàng hoá ngoài thị trường mua bán với
khu chế xuất. Hàng vận chuyển quá cảnh, hàng chuyển khẩu và hàng nhân
đạo không thuộc diện chịu thuế.
Trong thời kỳ nền kinh tế Việt Nam vận hành theo cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, sự giao lưu buôn bán với các nước trên thế giới rất kém
phát triển nên thuế xuất nhập khẩu không quan trọng. Luật thuế xuất nhập
khẩu được ban hành vào 01-01-1988 đánh dấu bước đầu tiên trong việc lập
ra hệ thống thuế xuất nhập khẩu bao trùm toàn bộ. Biểu thuế ban đầu có
nhiều điểm đã được hợp lý hoá vào năm 1992, bằng cách áp dụng hệ thống
đồng bộ hoá (HS) của phân loại thuế và một biểu thuế tổng hợp đã sửa đổi
toàn bộ dựa vào hệ thống này cũng được ban hành cùng năm đó.
Ngay từ đầu, cơ cấu thuế quan đã hàm chứa một thiên vị chính sách
có lợi cho những ngành và những sản phẩm định hướng thị trường nội địa,
đặc biệt là trong những ngành do doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chiếm
lĩnh. Trong định hướng chính sách lớn này, việc điều chỉnh cơ cấu thuế
quan trong những năm sau đó phản ánh xu hướng gia tăng bảo hộ có chọn
lọc hàng tiêu dùng (mỹ phẩm, một số loại dược phẩm), những mặt hàng
thuộc công đoạn đầu nguồn có liên quan đến dệt may (lụa, bông, và một số
loại sợi) và một số hàng trung gian được bảo hộ đặc biệt (sản phẩm kim
loại, xi măng, kính). Nhóm hàng duy nhất cho thấy có tỷ lệ bảo hộ bằng
thuế quan trung bình giảm là thiết bị và một số nhóm thực phẩm chế biến.
Trong những năm đầu cải cách định hướng thị trường, Việt Nam đã
áp dụng thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng xuất khẩu. Điều đó là cơ
sở để bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, và giữ đầu vào cho
sản xuất trong nước. Những loại thuế này đã dần được bãi bỏ. Đến năm
1998, chỉ còn hai sản phẩm là dầu thô và kim loại phế thải là chịu thuế xuất
khẩu.
7
2.Tác dụng của thuế xuất nhập khẩu:
Một là, thuế xuất nhập khẩu là một trong những biện pháp tài
chính mà các nước dùng để can thiệp vào hoạt động ngoại thương. Thuế
xuất nhập khẩu thực chất là một khoản thu bắt buộc điều tiết vào giá của
hàng hoá, dịch vụ được trao đổi buôn bán giữa các quốc gia mà chủ sở
hữu chúng phải nộp thuế cho nhà nước.
Hai là, thuế chính là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước.
Thông thường nguồn thu từ thuế chiếm từ 60-90% ngân sách. Cho nên
thuế thường trở nên là một công cụ quan trọng của chính phủ góp phần
tích cực vào việc điều chỉnh các mất cân đối lớn trong nền kinh tế; góp
phần khuyến khích tăng trưởng kinh tế; khuyến khích cạnh tranh và mở
rộng các thành phần kinh tế, động viên khai thác tài nguyên lao động,
nguyên nhiên vật liệu trong nước; kích thích nguồn vốn khai thác từ
nước ngoài; mở rộng giao lưu hàng hoá...Ngoài ra, thuế còn có tác dụng
góp phần đảm bảo công bằng xã hội, bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế...
Ba là,Việt Nam là một trong những nước mà hệ thống thuế chưa
phát triển thì thuế xuất nhập khẩu được xem là nguồn thu quan trọng
trong ngân sách Chính phủ. Khối lượng thuế nhập khẩu là chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong toàn bộ nguồn thu của nước ta, do đặc điểm là sản xuất
công nghiệp còn non yếu và tiêu thụ lại theo xu hướng chuộng đồ ngoại.
Nên tốc độ nhập khẩu luôn tăng nhanh hơn tốc độ phát triển kinh tế và vì
vậy thuế nhập khẩu càng trở nên quan trọng. Thuế nhập khẩu bảo hộ sản
xuất trong nước, đảm bảo các cam kết với chính phủ nước ngoài, là công
cụ để nhà nước thực hiện các chiến lược lớn liên quan tới thương mại
quốc tế. Thuế xuất nhập khẩu còn có tác dụng khuyến khích các doanh
nghiệp tham gia tích cực vào hoạt động xuất nhập khẩu.
3. Chính sách thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam :
Với mốc son lịch sử là Đại hội Đảng VI của Đảng năm 1986. Nền
kinh tế Việt Nam bước sang một thời kỳ phát triển mới. Với phương
châm “Việt Nam làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” Việt Nam
ngày càng có nhiều bạn hàng buôn bán làm ăn, nền kinh tế ngày càng lớn
mạnh.
8
Tuy nhiên, nền kinh tế còn tồn tại nhiều vấn đề cần tập trung giải
quyết. Một trong những vấn đề đó là những tồn tại trong chính sách thuế
xuất nhập khẩu. Trong thời kỳ sau khi xoá bỏ cơ chế bao cấp, Chính sách
thuế xuất nhập khẩu mang nặng tính bảo hộ hàng hoá trong nước, điều
này là dễ hiểu vì nền kinh tế nước ta lúc bấy giờ còn nhỏ yếu, lạc hậu,
thiếu sức cạnh tranh. Việc đưa ra các chính sách thiên về bảo hộ hàng
hoá trong nước vào giai đoạn đó là tất yếu.
Chính vì vậy trong giai đoạn này kim nghạch xuất nhập khẩu còn thấp,
chủ yếu tập trung xuất khẩu và nhập khẩu với các nước bạn hàng cũ như
Liên Xô sau này là Nga hay các nước Đông Âu...
Kim nghạch nhập khẩu trong giai đoạn này là thấp, do các nước bạn
hàng phải đương đầu với cả chính sách bảo hộ hàng hoá trong nước.
Trong những năm sau đó, chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt
Nam đã từng bước được đổi mới để phù hợp với tình hình phát triển kinh
tế-xã hội và chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của nhà nước
ta. Nhờ đó, chính sách thuế xuất nhập khẩu đã góp phần thúc đẩy hoạt
động xuất nhập khẩu, thực hiện chủ trương tăng nguồn thu cho ngân
sách, dần trở thành công cụ quản lý vĩ mô, khuyến khích đẩy mạnh hoạt
động xuất nhập khẩu phù hợp với chính sách mở cửa, chính sách phát
triển kinh tế đối ngoại của nước ta trong tình hình mới.
Sau khi gia nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và chuẩn bị
để ra nhập WTO, việc cơ cấu lại một cách căn bản hệ thống thuế quan đã
được tiến hành từ đầu năm 1999 (theo Quyết định 1983 của Bộ Tài
chính, ban hành ngày 11-12-1998). Theo cơ cấu thuế quan mới thì biểu
thuế xuất nhập khẩu nước ta bao gồm hai loại thuế xuất là thuế xuất ưu
đãi và thuế xuất phổ thông, được chia thành ba loại thuế suất (ba thuế
suất khác nhau cho cùng một hạng mục thuế):
Một là, thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng cho hàng nhập khẩu từ các
nước thành viên Hiệp hội Thương mại tự do ASEAN (thuế suất ưu đãi có
hiệu lực chung, CEPT).
9
Hai là, thuế suất ưu đãi áp dụng cho những nước mà Việt Nam được
hưởng quy chế tối huệ quốc (Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, hầu hết các
nước Châu Á ngoài ASEAN, New Zealand, Australia và Mỹ)
Với điều kiện phải ghi rõ ràng từng mặt hàng, số lượng, mức thuế
suất ưu đãi cụ thể.
Ba là, thuế suất thông thường được áp dụng cho các loại hàng hoá
nói chung không phụ thuộc vào xuất xứ của hàng hoá từ nước nào, hàng
hoá từ mọi nước dùng chung một mức thuế.(Thuế suất danh nghĩa cao
hơn cao hơn so với thuế suất ưu đãi loại hai 50% )
Để khuyến khích xuất nhập khẩu, đặc biệt đối với việc nhập khẩu
hàng hoá phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu, chính sách thuế xuất nhập
khẩu còn quy định các trường hợp được miễn giảm và hoàn lại thuế.
Đã có sự điều chỉnh đáng kể trong cơ cấu thuế quan mới trong
những năm qua. Thuế suất trung bình (không gia quyền) đã tăng từ
12,8% năm 1995 lên 13,4% năm 1997, lên 15,7% vào năm 2002. Sự gia
tăng đôi chút này lại kèm theo việc giảm đáng kể về độ phân tán của
từng loại thuế suất riêng biệt xung quanh thuế suất trung bình; hệ số biến
thiên đã giảm từ 131% năm 1997 xuống 116,3% năm 2002. Cơ cấu thuế
quan hiện tại chỉ có 15 dòng thuế, so với 35 vào năm 1997. Thuế suất tối
đa cũng đã giảm từ 200% xuống còn 120% trong giai đoạn này, kèm theo
là giảm số dòng thuế nằm ở mức cao nhất của biểu thuế. Cho đến đầu
năm 2002, chỉ có 1,1% tổng số dòng thuế (74 trong tổng số 6296) là có
thuế suất trên 50%.( Số liệu được lấy từ ba bảng HS chính: HS22( đồ
uống, rượu mạnh và dấm), HS24( thuốc lá sợi và thuốc lá chế biến),
HS87 (phương tiện giao thông trừ đường sắt).
Việc giảm độ phân tán của thuế quan vào năm 2002 so với năm
1997 chủ yếu là do điều chỉnh lại một số thuế suất ở mức giữa, theo
hướng tăng thuế suất. Ví dụ, những dòng thuế có thuế suất trong khoảng
12%-28% (có bao gộp) đã biến mất trong năm 2002. Kèm theo là gia
tăng những thuế suất 30%-50% (có bao gộp), trước đây là 20%-30%.
không có thay đổi gì đáng kể trong phân bổ thuế suất ở mức thấp
(0%-10%) Một phần ba số dòng thuế vẫn còn có mức thuế suất bằng 0.
10