Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

BẢO HIỂM xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.95 KB, 19 trang )

KHÁI NIỆM VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI:
Tuy đã có lịch sưg phát triển lâu dài nhưng đến nay vẫn chưa có định
nghĩa thống nhất về BHXH và BHXH được nhìn nhận dưới nhiều giác độ
khác nhau
Từ giác độ phap luật: Bảo hiểm xã hội là một chế độ bảo vệ người lao
động sử dụng nguồn đóng góp của minh, đóng góp của ngươi sử dụng lao
động và được sự tài trợ,bảo hộ của nhà nước nhăằ trợ cấp vật chất cho ngừơi
lao động được bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất
thu nhập bình thường do ốm đau,tai nạn lao động hoặc hết tuổi lao động
theo quy định của pháp luật hoặc người lao động bị chết.
Dưới giác độ tài chính : Bảo hiểm xã hội còn là quá trình san sẻ rui ro và
san sẻ taì chính giữa những người tham gia bảo hiểm theo quy định cua pháp
luật
Một số quan điểm khác lại cho rằng:BHXH lừ sự đảm bảo thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhâp đối với người lao động khi họ gặp phải
những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc bị mất việc
làm,bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự
đónh góp của các bên tham gia BHXH,nhằm góp phần đảm bẩon toàn
đời sống của người lao động và gia đình họ,góp phà đảm bảo an toàn xã
hội
Ở NƯỚC TA BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐƯỢC CHIA LÀM 3 GIAI ĐOẠN
PHAT TRIỂN
Giai đoạn 1: Thời kỳ trước khi có Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội (trước
1961) :
Ngay từ khi thành lập chính quyền nhân dân và suốt trong thời kỳ kháng
chiến, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt, song Chính phủ đã luôn
chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân lao động nói chung và riêng đối với
công nhân, viên chức Nhà nước. Ngoài việc ban hành chế độ tiền lương,
Chính phủ đã ban hành các chế độ phụ cấp, trợ cấp xã hội mà thực chất là các
chế độ BHXH như: trợ cấp ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động, trợ cấp già yếu,
trợ cấp cho cá nhân và gia đình công nhân, viên chức khi chết và xây dựng


1
các khu an dưỡng, điều dưỡng, bệnh viện, nhà trẻ…Về mặt luật pháp được
thể hiện trong các
văn bản sau
- Sắc lệnh số 29/SL ngày 13/3/1947 của Chính phủ.
- Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chính phủ về quy chế công chức.
- Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 của Chính phủ về quy chế công nhân.
Các văn bản này đã quy định những nội dung có tính nguyên tắc về bảo hiểm
xã hội, song do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, trong kháng chiến và kinh
tế khó khăn nên Nhà nước chưa nghiên cứu chi tiết và thực hiện được đầy đủ
các quyền lợi về bảo hiểm xã hội cho công nhân viên chức, mà các chế độ chủ
yếu mang tính cung cấp, bình quân với tinh thần đồng cam cộng khổ. Về nội
dung chưa thống nhất giữa khu vực hành chính và sản xuất, giữa công nhân
kháng chiến và công nhân sản xuất dân dụng, các khoản chi về bảo hiểm xã
hội lẫn với tiền lương, chính sách đãi ngộ mà chưa xây dựng theo nguyên tắc
hưởng theo lao động là nguyên tắc cơ bản về phân phối XHCN, ngoài ra các
văn bản lại chưa hoàn thiện và đồng bộ, ảnh hưởng đến việc tổ chức thực
hiện. Một số vấn đề quan trọng, cấp thiết đến đời sống của đông đảo công
nhân viên chức như chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, thôi việc, chế độ
trợ cấp bệnh nghề nghiệp chưa được quy định.
Nhìn chung giai đoạn này các chế độ bảo hiểm xã hội chưa được quy định một cách toàn
diện, quỹ bảo hiểm xã hội chưa được hình thành. Tuy nhiên, các chế độ trợ cấp, phụ cấp
mang tính chất bảo hiểm xã hội trong giai đoạn đầu thành lập nước, trong kháng chiến và
những năm đầu hoà bình lập lại đã có tác dụng rất to lớn, giải quyết một phần những khó
khăn trong sinh hoạt của công nhân viên chức Nhà nước và gia đình họ, củng cố thêm lòng
tin của nhân dân vào Đảng, Chính phủ và làm cho mọi người an tâm, phấn khởi đẩy mạnh
công tác, sản xuất, thu hút lực lượng lao động vào khu vực kinh tế Nhà nước.
Giai đoạn 2: Thời kỳ thực hiện điều lệ bảo hiểm xã hội tạm thời (từ 1961 đến
12/1994):
Để phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu không

ngừng cải thiện đời sống của công nhân viên chức Nhà nước, các chế độ trợ
cấp xã hội cần được bổ sung và sửa đổi cho phù hợp với thời kỳ xây dựng
Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam. Tại Điều 32
2
Hiến pháp năm 1959 quy định rõ: quyền của người lao động được giúp đỡ về
vật chất khi già yếu, mất sức lao động, bệnh tật. Năm 1960 Hội đồng Chính
phủ có Nghị quyết trong đó đã xác định “đi đôi với việc cải tiến chế độ tiền
lương, cần cải tiến và ban hành các chính sách cụ thể về bảo hiểm xã hội và
phúc lợi cho công nhân viên chức, cán bộ”. Thực hiện Nghị quyết trên, các
Bộ Lao động, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Y tế và Tổng Công đoàn Việt
Nam đã phối hợp nghiên cứu xây dựng Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội
trình Hội đồng Chính phủ ban hành. Ngày 14/12/1961 Uỷ ban thường vụ
Quốc hội phê chuẩn, Chính phủ đã ra Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961
ban hành kèm theo Điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội đối với
công nhân viên chức Nhà nước. Nội dung của Điều lệ được tóm tắt như sau:
- Về đối tượng áp dụng là: công nhân viên chức Nhà nước ở các cơ quan, xí
nghiệp, công trường, nông trường, cán bộ, công nhân trong các đoàn thể nhân
dân; công nhân viên chức trong các xí nghiệp công tư hợp doanh đã áp dụng
chế độ trả lương như xí nghiệp quốc doanh; công nhân viên chức trong các xí
nghiệp công nghiệp địa phương đã có kế hoạch lao động, tiền lương ghi trong
kế hoạch Nhà nước.
- Về điều kiện và mức đãi ngộ: căn cứvào sự cống hiến thời gian công tác,
điều kiện làm việc, tình trạng mất sức lao động và trợ cấp bảo hiểm xã hội
nhìn chung thấp hơn tiền lương và thấp nhất cũng bằng mức sinh hoạt phí tối
thiểu.
- Về các chế độ được quy định bao gồm 6 chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động – bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất; từng chế độ có
quy định cụ thể về điều kiện hưởng, tuổi đời, mức hưởng…
- Về nguồn kinh phí đảm bảo chi trợ cấp: do quỹ bảo hiểm xã hội của Nhà
nước đài thọ từ Ngân sách Nhà nước.

Đây là Điều lệ tạm thời nhưng đã quy định đầy đủ 6 chế độ bảo hiểm xã hội,
các chế độ này chủ yếu dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động nhằm
khuyến khích mọi người tăng cường kỷ luật lao động, đẩy mạnh sản xuất và
góp phần ổn định lực lượng lao động trong các ngành kinh tế quốc dânTrong
giai đoạn này tuy qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng xét về bản chất thì
bảo hiểm xã hội vẫn giữ nguyên những đặc trưng cơ bản sau:
3
+ Tồn tại trong cơ chế quản lý tập trung, bao cấp, mọi vấn đề kinh tế xã hội
nói chung, bảo hiểm xã hội nói riêng đều do Nhà nước đảm bảo.
+ Nhà nước quy định và trực tiếp thực hiện bảo hiểm xã hội bằng bộ máy
hành chính từ ngân sách Nhà nước.
+ Mọi người khi đã vào biên chế Nhà nước thì đương nhiên được đảm bảo
việc làm , thu nhập và bảo hiểm xã hội.
+ Do Ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp, thường xuyên mất cân đối, vì vậy đối
tượng tham gia bảo hiểm xã hội chưa được mở rộng, trợ cấp tính trên lương
nên chưa đảm bảo cho cuộc sống và không kịp thời.
+ Chính sách và các chế độ bảo hiểm xã hội còn đan xen thay nhiều chính
sách xã hội như ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội, an dưỡng, điều dưỡng, kế hoạch
hoá gia đình…
Tóm lại: Trong suốt thời kỳ lịch sử của đất nước từ khi Nhà nước Cộng hoà dân chủ Việt
Nam ra đời đến hết năm 1994, tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng giai đoạn, chế độ chính
sách bảo hiểm xã hội nói chung, công tác tổ chức thực hiện chế độ chính sách bảo hiểm xã
hội nói riêng cũng luôn thay đổi, bổ sung, sửa đổi cho phù hợp, song nhìn chung trong cơ
chế quản lý tập trung, bao cấp, việc tham gia bảo hiểm xã hội được xác định bằng thời gian
công tác hay gọi là thời gian cống hiến thì việc xây dựng các chính sách bảo hiểm xã hội
luôn được lồng ghép cùng với các chính sách xã hội, chính sách kinh tế. Về cơ bản, chính
sách bảo hiểm xã hội trong thời kỳ này đã hoàn thành cơ bản nhiệm vụ và sứ mệnh của
mình trong một thời kỳ dài, nó đã góp phần ổn định cuộc sống, đảm bảo thu nhập cho hàng
triệu cán bộ công nhân viên chức đang làm việc được yên tâm công tác, chiến đấu và bảo
vệ Tổ quốc; hàng 1 triệu người lao động khi già yếu được đảm bảo về vật chất và tinh thần,

cũng như gia đình họ bằng trợ cấp bảo hiểm xã hội hoặc lương hưu, đồng thời góp phần to
lớn trong việc đảm bảo ổn định xã hội và an toàn xã hội.
Tuy nhiên, qua nhiều năm các văn bản pháp quy và văn bản hướng dẫn quá nhiều nên
không tránh khỏi sự chồng chéo, trùng lắp hoặc có những vấn đề không được quy định,
khó khăn cho việc thực hiện chế độ; có nhiều cơ sở cho việc vận dụng gây nên mất công
bằng xã hội; các văn bản tính pháp lý chưa thật cao, chủ yếu mới ở dạng Nghị định, Điều
lệ tạm thời, Quyết định, Thông tư. Về tổ chức bộ máy thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội
chưa tách chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng hoạt động sự nghiệp của bảo
hiểm xã hội, còn phân tán, hoạt động kém hiệu quả, sự phối hợp để giải quyết các vướng
mắc cho đối tượng gặp nhiều khó khăn, mỗi cơ quan, đơn vị, ngành chỉ giải quyết một vài
công việc hoặc khâu công việc. Quỹ bảo hiểm xã hội thu không đảm bảo đủ chi, việc chi
trả lương hưu và các khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội thường xuyên bị chậm, ảnh hưởng lớn
đến đời sống của người hưởng chế độ bảo hiểm xã hội
4
Giai đoạn 3: Thời kỳ từ 1/1995 đến nay :
Từ năm 1995, thi hành những quy định trong Bộ Luật lao động về bảo hiểm
xã hội, Chính phủ đã ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội kèm theo Nghị định
số 12/CP ngày 26/1/1995 và Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 áp dụng đối
với công chức, công nhân viên chức Nhà nước, người lao động theo loại hình
bảo hiểm xã hội bắt buộc và sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan,
binh sỹ quân đội nhân dân và công an nhân dân. Nội dung của Điều lệ bảo
hiểm xã hội này đã đã được đổi mới cơ bản và khắc phục được những nhược
điểm, tồn tại mà Điều lệ bảo hiểm xã hội tạm thời ban hành những năm trước
đây, đó là:
- Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc không chỉ bao gồm lao động
trong khu vực Nhà nước mà người lao động trong các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên cũng có quyền tham gia
bảo hiểm xã hội.
- Đề cập đến vấn đề bảo hiểm xã hội tự nguyện và vấn đề tham gia đóng góp
vào Quỹ bảo hiểm xã hội của người sử dụng lao động, người lao động và hình

thành Quỹ bảo hiểm xã hội.
- Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, tập trung trong cả nước, độc
lập với ngân sách Nhà nước. Quỹ bảo hiểm xã hội được Nhà nước bảo trợ, cơ
chế quản lý tài chính được thực hiện theo quy định của Nhà nước.
- Về các chế độ bảo hiểm xã hội, quy định 5 chế độ là ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động- bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất, không còn chế độ trợ cấp
mất sức lao động mà những người mất khả năng lao động được quy định
chung trong chế độ hưu trí với mức hưởng lương hưu thấp. Trong từng chế độ
có quy định cụ thể hơn về điều kiện hưởng, thời gian và mức hưởng. Người
lao động tham gia bảo hiểm xã hội được cấp sổ bảo hiểm xã hội, sổ bảo hiểm
xã hội ghi chép, phản ánh quá trình tham gia bảo hiểm xã hội, mức tiền lương
làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội và các chế độ bảo hiểm xã hội đã được
hưởng.
Tuy nhiên, với các quy định của Điều lệ bảo hiểm xã hội thực hiện từ năm
1995 còn một số điểm tồn tại cần được nghiên cứu hoàn thiện như:
5
- Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội còn hạn hẹp, Nhà nước mới quy định
lao động làm việc trong các doanh nghiệp mà có từ 10 lao động trở lên mới
thuộc diện bắt buộc tham gia bảo hiểm xã hội, vì vậy đối tượng tham gia bảo
hiểm xã hội tuy đã được mở rộng hơn so với quy định trước đây, nhưng so
với tổng số lao động xã hội thì còn chiếm tỷ trọng thấp, mới chỉ có khoảng
14% số người trong độ tuổi lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Điều này có
ảnh hưởng trực tiếp đến số người lao động trong xã hội được hưởng quyền lợi
về bảo hiểm xã hội, đồng thời quy mô quỹ bảo hiểm xã hội bị hạn chế.
- Chế độ chính sách bảo hiểm xã hội vẫn còn đan xem một số chính sách xã
hội. - Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội: Bổ sung đối tượng là cán bộ xã,
phường, thị trấn theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP thực hiện từ 1/1998; đối
tượng là người lao động làm việc trong các tổ chức thực hiện xã hội hóa thuộc
ngành giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao theo Nghị định số
73/1999/NĐ-CP của Chính phủ.

- Về chính sách bảo hiểm xã hội: Có sửa đổi, bổ sung cả về mức đóng, tỷ lệ
hưởng, điều kiện hưởng và phương pháp tính lương hưu tại các Nghị định số
93/1998/NĐ-CP, số 94/1999/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số Điều của
Điều lệ bảo hiểm xã hội; Nghị định số 04/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành một số Điều của Luật Sĩ quan Quân đội năm 1999; Nghị định số
61/2001/NĐ-CP về chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động khai thác
trong hầm lò; Quyết định số 37/2001/QĐ-CP về chế độ nghỉ ngơi dưỡng sức;
Nghị quyết số 16/2000/NQ-CP về tinh giản biên chế trong cơ quan hành
chính sự nghiệp và Nghị quyết số 41/2002/NĐ-CP về sắp xếp lại các doanh
nghiệp Nhà nước.
Với những sửa đổi, bổ sung về chính sách bảo hiểm xã hội quy định tại các
văn bản trên, có ảnh hưởng nhiều đến việc quản lý quỹ và cân đối quỹ bảo
hiểm xã hội. Ngoài ra, từ năm 1995 đến nay với 3 lần thay đổi mức tiền lương
tối thiểu vào các năm 1997 (Từ mức 120.000 đồng lên mức 144.000 đồng);
năm 2000 144.000 đồng lên mức 180.000 đồng) và năm 2001 đến nay lên
mức 210.000 đồng. Với thay đổi này thì thu bảo hiểm xã hội đối với người
lao động tham gia bảo hiểm xã hội theo thang bảng lương Nhà nước vẫn thực
hiện theo mức tiền lương tối thiểu cũ, nhưng khi giải quyết chế độ bảo hiểm
xã hội thì được thực hiện theo mức tiền lương tối thiểu mới tại thời điểm giải
6
quyết chế độ cũng như điều chỉnh theo mức tăng của mức tiền lương tối thiểu
đối với người đang hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng
Các chế độ bảo hiểm xã hội việt nam trong dài hạn:
1,chế độ trợ cấp tuổi già
Tuổi già:là quá trình mang tính tất yếu và kèm theo những thay đổi về
phương diên sinh hoat
tuổi già là quá trình mang tính tất yếu nên nguy cơ rủi ro đạo đức thấp
Đối tượng áp dụng chế độ hưu trí: Người lao động khi nghỉ hưu bị suy giảm
khả năng lao động,không còn khả năng lao động kiếm thu nhập vì vậy được
quỹ bảo hiểm xã hổi trợ cấp nhằm ổn định cuộc sống

• Điều kiện hưởng lương hưu:
• Người lao động có đủ hai mươi năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên
được hưởng lương hưu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
• a) Nam đủ sáu mươi tuổi, nữ đủ năm mươi lăm tuổi;
• b) Nam từ đủ năm mươi lăm tuổi đến đủ sáu mươi tuổi, nữ từ đủ
năm mươi tuổi đến đủ năm mươi lăm tuổi và có đủ mười lăm
năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm
thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ
Y tế ban hành hoặc có đủ mười lăm năm làm việc ở nơi có phụ
cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên. Tuổi đời được hưởng lương hưu
trong một số trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ quy định.
• Người lao động có đủ hai mươi năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên
được hưởng lương hưu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
• a) Nam đủ năm mươi lăm tuổi, nữ đủ năm mươi tuổi, trừ trường
hợp Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam hoặc Luật công an
nhân dân có quy định khác;
• b) Nam từ đủ năm mươi tuổi đến đủ năm mươi lăm tuổi, nữ từ đủ
bốn mươi lăm tuổi đến đủ năm mươi tuổi và có đủ mười lăm
năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm
7
thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ
Y tế ban hành hoặc có đủ mười lăm năm làm việc ở nơi có phụ
cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên.
• Điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động
Người lao động đã đóng bảo hiểm xã hội đủ hai mươi năm trở lên, bị suy
giảm khả năng lao động từ 61% trở lên, hưởng lương hưu với mức thấp hơn
so với người đủ điều kiện hưởng lương hưu quy định tại Điều 50 của Luật này
khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
• 1. Nam đủ năm mươi tuổi, nữ đủ bốn mươi lăm tuổi trở lên;
• 2. Có đủ mười lăm năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng

nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.
• Mức lương hưu hằng tháng:
• 1. Mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy
định tại Điều 50 của Luật này được tính bằng 45% mức bình quân tiền
lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều 58,
Điều 59 hoặc Điều 60 của Luật này tương ứng với mười lăm năm đóng
bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì tính
thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%.
• 2. Mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy
định tại Điều 51 của Luật này được tính như quy định tại khoản 1 Điều
này, sau đó cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định thì giảm 1%.
3. Mức lương hưu hằng tháng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung.
Lương hưu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá sinh hoạt
và tăng trưởng kinh tế. Mức điều chỉnh cụ thể do Chính phủ quy định.
Nếu thời gian đóng bảo hiểm quá it thì ta có
Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu
• 1. Người lao động đã đóng bảo hiểm xã hội trên ba mươi năm đối với
nam, trên hai mươi lăm năm đối với nữ, khi nghỉ hưu, ngoài lương hưu
còn được hưởng trợ cấp một lần.
• 2. Mức trợ cấp một lần được tính theo số năm đóng bảo hiểm xã hội kể
từ năm thứ ba mươi mốt trở đi đối với nam và năm thứ hai mươi sáu trở
8
đi đối với nữ. Cứ mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì được tính bằng 0,5
tháng mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội.
• 1. Người lao động được hưởng bảo hiểm xã hội một lần khi thuộc một
trong các trường hợp sau đây:
• a) Đủ tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại khoản 1 Điều 50
của Luật này mà chưa đủ hai mươi năm đóng bảo hiểm xã hội;
• b) Suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên mà chưa đủ hai

mươi năm đóng bảo hiểm xã hội;
• c) Sau một năm nghỉ việc nếu không tiếp tục đóng bảo hiểm xã
hội và có yêu cầu nhận bảo hiểm xã hội một lần mà chưa đủ hai
mươi năm đóng bảo hiểm xã hội;
• d) Ra nước ngoài để định cư.
• 2. Người lao động quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều 2 của
Luật này được hưởng bảo hiểm xã hội một lần khi phục viên, xuất ngũ,
thôi việc mà không đủ điều kiện để hưởng lương hưu.
• Mức hưởng bảo hiểm xã hội một lần
Mức hưởng bảo hiểm xã hội một lần được tính theo số năm đã đóng bảo hiểm
xã hội, cứ mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình quân tiền lương, tiền
công tháng đóng bảo hiểm xã hộiMức bình quân tiền lương, tiền công
tháng đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp một lần đối với
người lao động tham gia bảo hiểm xã hội trước ngày 01 tháng 01 năm
1995
• 1. Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà
nước quy định có toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ
tiền lương này thì tính bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã
hội của năm năm cuối trước khi nghỉ hưu.
• 2. Người lao động có toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo chế
độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tính bình quân
tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội của toàn bộ thời gian.
3. Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội thuộc đối tượng
thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, vừa có thời gian
đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động
9
quyết định thì tính bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm
xã hội chung của các thời gian
Mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội để tính
lương hưu, trợ cấp một lần đối với người lao động tham gia bảo hiểm xã

hội từ ngày 01 tháng 01 năm 1995 đến trước ngày Luật bảo hiểm xã hội
có hiệu lực
• 1. Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà
nước quy định có toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ
tiền lương này thì tính bình quân tiền lương tháng của số năm đóng bảo
hiểm xã hội trước khi nghỉ hưu như sau:
• a) Tham gia bảo hiểm xã hội trong khoảng thời gian từ ngày 01
tháng 01 năm 1995 đến ngày 31 tháng 12 năm 2000 thì tính bình
quân của tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của sáu năm
cuối trước khi nghỉ hưu;
• b) Tham gia bảo hiểm xã hội trong khoảng thời gian từ ngày 01
tháng 01 năm 2001 đến ngày 31 tháng 12 năm 2006 thì tính bình
quân của tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của tám năm
cuối trước khi nghỉ hưu.
• 2. Người lao động có toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo chế
độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tính bình quân
tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội của toàn bộ thời gian.
3. Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội thuộc đối tượng
thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, vừa có thời gian
đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động
quyết định thì tính bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm
xã hội chung của các thời gian; trong đó thời gian đóng theo chế độ tiền
lương do Nhà nước quy định.
Tạm dừng hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng
Người lao động đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng bị
tạm dừng hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng khi thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
• 1. Chấp hành hình phạt tù nhưng không được hưởng án treo;
10
• 2. Xuất cảnh trái phép;

• 3. Bị Toà án tuyên bố là mất tích

• 2,. CHẾ ĐỘ TAI NẠN LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP
• TAI NẠN LAO ĐỘNG,BỆNH NGHỀ NGHIỆP Là những rui ro liên
quan đến quá trình lao động và làm việc
• Đối tương thuôc diên bảo vệ là những người làm công ăn lương :
Điều kiện hưởng chế độ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp
1. Bị tai nạn tại nơi làm việc và trong giờ làm việc kể cả trong thời gian nghỉ
giải lao, ăn giữa ca, thời gian chuẩn bị và kết thúc công việc.
2. Bị tai nạn ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công
việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động.
3. Bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng
thời gian và tuyến đường hợp lý.
Trong khoảng thời gian hợp lý là khoảng thời gian cần thiết để đến nơi làm
việc trước giờ làm việc hoặc trở về sau giờ làm việc. Tuyến đường hợp lý là
tuyến đường thường xuyên đi và về từ nơi thường trú hoặc nơi đăng ký tạm
trú đến nơi làm việc và ngược lại.
4. Bị bệnh thuộc danh mục bệnh nghề nghiệp khi làm việc trong môi trường
hoặc nghề có yếu tố độc hại. Danh mục Bệnh nghề nghiệp do Bộ Y tế và Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành
1.2. Chế độ bệnh nghề nghiệp: Người lao động được hưởng trợ cấp bệnh
nghề nghiệp do quỹ bảo hiểm xã hội chi trả khi bị bệnh thuộc danh mục bệnh
nghề nghiệp do làm việc trong môi trường hoặc nghề có yếu tố độc hại dẫn
đến suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên.
Giám định mức suy giảm khả năng lao động
1. Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định hoặc
được giám định lại mức suy giảm khả năng lao động khi thuộc một trong các
trường hợp sau:
a) Sau khi thương tật, bệnh tật đã được điều trị ổn định;
b) Sau khi thương tật, bệnh tật tái phát đã được điều trị ổn định.

11
2. Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định tổng
hợp mức suy giảm khả năng lao động khi thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Vừa bị tai nạn lao động vừa bị bệnh nghề nghiệp;
b) Bị tai nạn lao động nhiều lần;
c) Bị nhiều bệnh nghề nghiệp.
1. Điều kiện hưởng :
Trợ cấp một lần1.
Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% do tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp thì được hưởng trợ cấp một lần.
2. Mức hưởng trợ cấp một lần được tính theo công thức sau:

Mức trợ cấp
một lần
=
Mức trợ cấp tính theo
mức suy giảm khả năng
lao động
+
Mức trợ cấp tính
theo số năm đóng
BHXH
a) Mức trợ cấp tính theo mức suy giảm khả năng lao động như sau: suy giảm
5% khả năng lao động thì được hưởng 5 tháng lương tối thiểu chung, sau đó
cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 0,5 tháng lương tối thiểu chung.
b) Mức trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội như sau: từ 1 năm
trở xuống thì được tính bằng 0,5 tháng, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo
hiểm xã hội được tính thêm 0,3 tháng tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã
hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.
Trợ cấp hằng tháng:

1.Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên do tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp thì được hưởng trợ cấp hằng tháng.
2. Mức hưởng trợ cấp hằng tháng được tính theo công thức như khoản 2 Điều
21 Nghị định này, trong đó:
a) Mức trợ cấp tính theo mức suy giảm khả năng lao động như sau: suy giảm
31% khả năng lao động thì được hưởng bằng 30% mức lương tối thiểu chung,
sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức lương tối thiểu
chung;
12
b) Mức trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội như sau: từ 1 năm
trở xuống được tính bằng 0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã
hội được tính thêm 0,3% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của
tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.
I, Trợ cấp hàng tháng
: Áp dụng cho người bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên với mức
hưởng được tính như sau:
- Suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng bằng 30% mức lương tối
thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức
lương tối thiểu chung; ngoài khoản trợ cấp trên, hàng tháng còn được hưởng
thêm một khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, thời gian
đóng bảo hiểm xã hội từ một năm trở xuống được tính bằng 0,5%, sau đó cứ
thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 0,3% mức tiền lương,
tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều
trị.
Đối với trường hợp người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81%
trở lên mà bị liệt cột sống hoặc mù hai mắt hoặc cụt, liệt hai chi hoặc bị bệnh
tâm thần thì ngoài mức hưởng nêu trên, hàng tháng người lao động còn được
hưởng trợ cấp phục vụ bằng mức lương tối thiểu chung.
- Thời điểm hưởng trợ cấp hàng tháng được tính từ tháng người lao động
điều trị xong, ra viện. Trường hợp giám định lại mức suy giảm khả năng lao

động do thương tật hoặc bệnh tật tái phát thì thời điểm hưởng trợ cấp hàng
tháng được tính từ tháng có kết luận của Hội đồng Giám định y khoa
Ii, Các quyền lợi khác:
- Người lao động hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng
tháng được hưởng các quyền lợi sau:
+ Nếu không còn làm việc thì được cấp thẻ bảo hiểm y tế do quỹ bảo hiểm xã
hội đảm bảo;
+ Nếu tiếp tục làm việc và tham gia đóng bảo hiểm xã hội, ngoài hưởng trợ
cấp tai nạn lao động hàng tháng theo quy định, khi đủ điều kiện hưởng chế độ
hưu trí thì được hưởng đồng thời cả lương hưu.
13
- Người lao động sau khi điều trị ổn định thương tật, bệnh tật do tai nạn lao
động hoặc bệnh nghề nghiệp mà sức khỏe còn yếu thì được nghỉ dưỡng sức,
phục hồi sức khỏe từ 5 đến 10 ngày tùy theo mức suy giảm khả năng lao
động; mức hưởng cho mỗi ngày bằng 25% mức lương tối thiểu chung nếu
nghỉ tại gia đình và bằng 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ tại cơ sở
tập trung.
Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà bị tổn thương các
chức năng hoạt động của cơ thể thì được cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt
theo niên đại và phù hợp với tình trạng thương tật, bệnh tật như: chân, tay giả;
mắt giả; răng giả; xe lăn, xe lắc; máy trợ thính….
3)chế độ trợ cấp người tàn tật…
.A) NỘI DUNG:
Bảo vệ, chăm sóc và tạo điều kiện cho người tàn tật hoà nhập cộng đồng là
những hoạt động có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc, là
truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta;
Căn cứ vào Điều 59, Điều 67 và Điều 91 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 2 về chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh năm 1998;

Pháp lệnh này quy định trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và xã hội đối với
người tàn tật; quyền và nghĩa vụ của người tàn tật
B) MỤC ĐÍCH: khi người lao động bị đau ốm họ sẽ được h ưởng chế độ
chăm sóc y tế và trợ cấp ốm đau.trơ cấp này có thể kéo dài đến khi họ bình
phục.nhưng cũng có trường hơp người lao động không khắc phục được sự suy
giảm sức khoẻ này và bị tàn tật dẫn đến không thê lao động như trước đây.chế
độ trợ cấp tàn tât sẽ trợ cấp về tài chính cho họ với mục đích góp phần giúp
họ ổn định cuộc sống
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG:
Người tàn tật theo quy định của Pháp lệnh này không phân biệt nguồn gốc
gây ra tàn tật là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc
14
chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng
hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn
Người tàn tật là thương binh, bệnh binh,liệt sĩ và gia đình liệt sĩ,người hoạt
động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng" được Nhà nước và xã
hội tôn vinh, ngoài việc được hưởng chế độ ưu đãi riêng của Nhà nước theo
pháp luật, còn được hưởng những quyền lợi trong Pháp lệnh này mà chế độ
ưu đãi riêng chưa quy định. .
1. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người tàn tật thực hiện
bình đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và phát huy khả
năng của mình để ổn định đời sống, hoà nhập cộng đồng, tham gia các hoạt
động xã hội.
2. Người tàn tật được Nhà nước và xã hội trợ giúp, chăm sóc sức khoẻ, phục
hồi chức năng, tạo việc làm phù hợp và được hưởng các quyền khác theo quy
định của pháp luật .
Trẻ em tàn tật, người tàn tật do hậu quả của chất độc da cam (dioxin) trong
chiến tranh được Nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm bảo vệ, chăm sóc.
3. Người tàn tật có trách nhiệm khắc phục khó khăn để hoà nhập cộng đồng,
tuân thủ pháp luật, trật tự công cộng và tôn trọng đạo đức xã hội

4. Cha mẹ, các thành viên khác trong gia đình, người giám hộ của người tàn
tật có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giúp đỡ người tàn tật phục hồi chức
năng, học tập, lao động và tham gia sinh hoạt xã hội.
5,, Người tàn tật nặng không có nguồn thu nhập và không nơi nương tựa được
Nhà nước và xã hội trợ giúp, chăm sóc, nuôi dưỡng tại nơi cư trú hoặc tại các
cơ sở xã hội của Nhà nước, của các tổ chức xã hội.
6,. Người tàn tật nặng tuy có người thân thích nhưng già yếu, gia đình nghèo
không đủ khả năng kinh tế để chăm sóc thì được hưởng trợ cấp xã hội
7. Hàng năm, Nhà nước dành một khoản ngân sách và vận động xã hội để trợ
giúp người tàn tật trong việc khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng, học
văn hoá, học nghề, tạo việc làm, tự ổn định đời sống.
8 . Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân
trong nước và nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia
15
các hoạt động xã hội - từ thiện trợ giúp người tàn tật với các hình thức phù
hợp
trợ cấp đối với người tàn tật:
1. Người tàn tật được phòng bệnh, chăm sóc sức khoẻ và phục hồi chức năng;
được khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế.
2. Người tàn tật nặng không có nguồn thu nhập và không nơi nương tựa,
người tàn tật nghèo được Nhà nước bảo đảm khám chữa bệnh miễn phí.
3. Người mắc bệnh tâm thần thể nặng gây nguy hiểm cho xã hội phải được
điều trị bắt buộc tại các cơ sở chữa bệnh tâm thần.
4. Người tàn tật được phục hồi chức năng và cung cấp các dịch vụ chỉnh hình
cần thiết do cơ quan chuyên môn thực hiện kết hợp với sự tham gia của cộng
đồng. Người tàn tật nghèo được cấp phát không phải trả tiền hoặc được hỗ trợ
một phần kinh phí hoặc được hướng dẫn làm các dụng cụ trợ giúp về phục hồi
chức năng thông thường.
5. Người tàn tật, gia đình người tàn tật được cơ quan y tế hướng dẫn về chăm
sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, sử dụng các dụng cụ chỉnh hình

6. Uỷ ban nhân dân các cấp phối hợp với các tổ chức xã hội tổ chức các hình
thức nuôi dưỡng thích hợp để thu nhận những người tàn tật nặng không có
nguồn thu nhập và không nơi nương tựa.
7. Mức trợ cấp hàng tháng đối với người tàn tật nặng không có nguồn thu
nhập và không nơi nương tựa do Chính phủ quy định.
Trong trường hợp người tàn tật nặng không có nguồn thu nhập và không nơi
nương tựa bị chết được Nhà nước hỗ trợ tiền mai táng.
8. Kinh phí nuôi dưỡng người tàn tật nặng không có nguồn thu nhập và không
nơi nương tựa được trích từ ngân sách các cấp, từ khoản tài trợ của các tổ
chức, cá nhân trong nước, nước ngoài và từ các nguồn khác.
9. Người chăm sóc người tàn tật nặng trong các cơ sở xã hội của Nhà nước
được hưởng phụ cấp phục vụ người tàn tật nặng bằng 30% mức lương theo
ngạch, bậc.
10.trợ cấp tàn tật được chi trả định kì bằng tiên mặt.mức trợ cấp tối thiểu bằng
50% thu nhập trước đó
16
4 chế độ trợ cấp tiền tuất
MỤC ĐÍCH:
Mục đích của chế độ này là hỗ trợ về tài chính cho gia đình người lao động
khi ngươi lao động bị chết và vợ con họ bị mất phương tiện sinh sống.Do dó
khắc phục khó khăn tức thời để ổn định cuộc sống tức thời cho các thành viên
trong gia đình họ. Đồng thời lo lăng được giải toả,người lao động yên tâm
hơn trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình
ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC TRỢ CẤP:
Đối tượng tham gia là người lao động,còn đối tượng thụ hưởng là người vợ
(chồng) và con cái cua người trụ cột gia đình

ĐIỀU KIỆN HƯỞNG:
Người lo mai táng cho một trong những đối tượng nêu dưới đây chết:
- Người lao động đang đóng bảo hiểm xã hội;

- Người lao động đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội;
- Người đang hưởng lương hưu;
- Người đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng
đã nghỉ việc
MỨC TRỢ CẤP MAI TÁNG:
Người lo mai táng được hưởng trợ cấp mai táng do quỹ bảo hiểm xã hội chi
trả bằng 10 tháng lương tối thiểu chung
Trợ cấp tuất hàng tháng:
2.1. Điều kiện hưởng:
- Điều kịện về đối tượng: Các đối tượng dưới đây khi chết thân nhân được
hưởng trợ cấp tuất hàng tháng do quỹ bảo hiểm xã hội chi trả:
+ Đã đóng bảo hiểm xã hội 15 năm trở lên nhưng chưa hưởng bảo hiểm xã
hội một lần;
+ Đang hưởng lương hưu;
+ Chết do tai nạn, bệnh nghề nghiệp;
17
+ Đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng với mức
suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên;
- Điều kiện về thân nhân:
+ Con chưa đủ 15 tuổi; con chưa đủ 18 tuổi nếu còn đi học; con từ đủ 15 tuổi
trở lên nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81 % trở lên;
+ Vợ từ đủ 55 tuổi trở lên hoặc chồng từ đủ 60 tuổi trở lên; vợ dưới 55 tuổi
hoặc chồng dưới 60 tuổi nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
+ Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người khác
mà đối tượng này trước khi chết có trách nhiệm nuôi dưỡng nếu đủ 60 tuổi trở
lên đối với nam, đủ 55 tuổi trở lên đối với nữ hoặc dưới 60 tuổi đối với nam,
dưới 55 tuổi đối với nữ mà bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
- Điều kiện về thu nhập: Những thân nêu trên (trừ thân nhân là con) phải
không có thu nhập hoặc có thu nhập hàng tháng nhưng thấp hơn mức lương
tối thiểu chung.

2.2. Quyền lợi được hưởng:
- Mỗi thân nhân đủ điều kiện được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng bằng 50%
mức lương tối thiểu chung; trường hợp thân nhân không có người trực tiếp
nuôi dưỡng thì mức trợ cấp tuất hàng tháng bằng 70% mức lương tối thiểu
chung.
- Trường hợp một người chết thì số thân nhân được hưởng trợ cấp tuất hàng
tháng không quá 4 người; trường hợp có từ 2 người chết trở lên thì thân nhân
của những người này được hưởng 2 lần mức trợ cấp theo quy định trên.
- Thời điểm hưởng trợ cấp tuất hàng tháng của thân nhân được tính từ tháng
liền kề sau tháng đối tượng chết.
3. Trợ cấp tuất một lần
3.1 Người chết không đủ điều kiện để thân nhân được hưởng trợ cấp tuất hàng
tháng hoặc đủ điều kiện nhưng không có thân nhân hưởng trợ cấp hàng tháng.
3.2. Quyền lợi được hưởng
: Thân nhân nêu trên được hưởng trợ cấp tuất một lần do quỹ bảo hiểm xã hội
chi trả theo mức dưới đây:
18
- Mức trợ cấp tuất một lần với thân nhân người lao động đang làm việc hoặc
đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội chết được tính theo số năm đã
đóng bảo hiểm xã hội, cứ mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình quân tiền
lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội; mức thấp nhất bằng 3 tháng mức bình
quân tiền lương, tiền công tháng (mức bình quân tiền lương, tiền công tháng
đóng bảo hiểm xã hội được tính theo quy định như đối với chế độ hưu trí).
- Mức trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân của người đang hưởng lương
hưu chết được tính theo thời gian hưởng lương hưu, nếu chết trong 2 tháng
đầu hưởng lương hưu thì tính bằng 48 tháng lương hưu đang hưởng; nếu chết
vào những tháng sau đó, cứ hưởng thêm 1 tháng lương hưu thì mức trợ cấp
giảm đi 0,5 tháng lương hưu, mức thấp nhất bằng 3 tháng lương hưu đang
hưởng.
19

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×