Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Vai trò của đường mòn Hồ Chí Minh trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.34 KB, 31 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

BÀI THẢO LUẬN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
Vai trị của đường mịn Hồ Chí Minh trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của dân tộc Việt Nam.
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Ngọc Diệp.

MỤC LỤC
I.

LỜI MỞ ĐẦU

3

II.

NỘI DUNG

3

1.

Đặc điểm của đường mịn Hồ Chí Minh trên biển.

1.1 Sơ lược về đường mòn HCM trên biển

3


3


1.1.1 Thành lập. 3
1.1.2 Phát triển phương tiện và các tuyến vận tải quân sự trên biển

4

1.1.3. Các căn cứ và bến bãi 5
1.2 Số liệu liên quan
2.

7

Vai trò của đường mòn HCM trên biển trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ

cứu nước.........

8

2.1 Đường Hồ Chí Minh trên biển là sự sáng tạo chiến lược của Đảng trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

9

2.2 Đường Hồ Chí Minh là nơi hội tụ sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam
trong cuộc đấu trí, đấu lực với kẻ thù.

10


2.3 Đường Hồ Chí Minh trên biển là niềm tự hào, nguồn cổ vũ, động viên lớn lao đối
với các cán bộ, chiến sĩ.

11

2.4 Đường Hồ Chí Minh trên biển là nét độc đáo, sáng tạo, đặc sắc của đường lối
chiến tranh nhân dân. 14
2.5 Vai trò trong việc chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam
16
3

Giá trị đường Hồ Chí Minh trên biển.

17

3.1 Giá trị lịch sử 17
3.2 Giá trị thực tiễn

22

III. KẾT LUẬN 23

I.LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu Nước của dân tộc ta đã trải qua gần 21 năm, là
cuộc chiến tranh cứu nước rất dài và ác liệt nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm


của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bắt nguồn
từ đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
từ tinh thần đồn kết chiến đấu anh hùng bất khuất của toàn dân, toàn quân ta. Điều

đó được thể hiện qua sự phối hợp tuyệt vời của hậu phương và tiền tuyến qua cơng
trình thế kỷ đã thấm đẫm mồ hôi, xương máu của cả một thế hệ người Việt Nam anh
hùng – Đường Hồ Chí Minh trên biển. Đường Hồ Chí Minh trên biển cịn được gọi
với cái tên “Đồn tàu khơng số”, đây là tuyến đường chi viện chiến lược, nó đã đóng
góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại và trọn vẹn của dân tộc ta trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Đường Hồ Chí Minh trên biển là con đường của niềm tin
tất thắng, con đường tự hào của bộ đội Hải quân Nhân dân Việt Nam. Nó là sự kế thừa
và phát triển lên tầm cao mới truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, đồng thời
vừa là sự sáng tạo độc đáo, tạo nên những giá trị nghệ thuật quân sự đặc sắc trong
những thời điểm khó khăn, gian khổ, ác liệt nhất của cuộc kháng chiến, trở thành biểu
tượng của ý chí giải phóng dân tộc – huyền thoại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước vĩ đại của dân tộc ta. Hiện nay, con đường ấy lại có vị trí chiến lược đặc biệt
quan trọng, là con đường của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, của sự hội nhập
và phát triển. Để thế hệ hôm nay và mai sau, cũng như mọi người hiểu rõ hơn về đóng
góp của tuyến đường trong chiến tranh và trong thời kỳ đổi mới. Tưởng nhớ đến những
anh hùng, những con người đã chiến đấu, lao động và hy sinh để nối liền chi viện của
miền Bắc đối với miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Chính vì vậy,
nhóm 3 chúng em xin nghiên cứu đề tài “Vai trị của Đường mịn Hồ Chí Minh trên
biển trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Việt Nam” để làm rõ hơn vai
trò của con đường chiến lược ấy.
II.

NỘI DUNG

1. Đặc điểm của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển.
1. Sơ lược về đường mịn HCM trên biển


1.1.1 Thành lập.
Tiền thân đường Hồ Chí Minh trên biển là hải lộ ven bờ do những người trong hàng

ngũ Việt Minh ở Nam Bộ thực hiện lần đầu tiên. Năm 1946, lực lượng Việt Minh ở
Nam Bộ đã tổ chức chuyến đi của một thuyền đánh cá xuất phát từ Thạnh Phong,
huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre ra Bắc xin tiếp tế vũ khí. Tàu cập bến trong vùng Việt
Minh kiểm sốt tại Tuy Hịa, Phú n. Những người trên tàu ra Bắc bằng tàu hỏa. Số
vũ khí được Quân đội nhân dân Việt Nam cung cấp cũng được chuyển vào Phú Yên
bằng tàu hỏa và chất lên thuyền chở vào Bến Tre.
Từ tháng 06/1961 đến tháng 02/1962, những người lãnh đạo của Mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam ở các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh, Bà Rịa đã cử
năm con thuyền gỗ từ miền Nam ra miền Bắc để báo cáo tình hình, xin tiếp tế vũ khí
và sau đó trực tiếp vận chuyển vũ khí cũng như dẫn đường cho các tàu tiếp tế giả dạng
tàu đánh cá từ Bắc vào Nam. Những người chỉ huy chủ chốt gồm các ông Phan Văn
Nhờ (tức Tư Mau), bà Nguyễn Thị Định, ông Bông Văn Dĩa... Trong số 5 chiếc thuyền
gỗ, chiếc thuyền của Bà Rịa đã bị lực lượng tuần duyên của Hải qn Việt Nam Cộng
hịa chặn bắt tại ngồi khơi Cam Ranh. Không phát hiện thấy nghi ngờ, con thuyền
này được trả tự do. Sau đó nó bị bão đánh trơi dạt đến đảo Hải Nam. Đây là chiếc
thuyền do ông Dương Quang Đông, nguyên Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ của
Đảng Cộng sản Đông Dương trước năm 1945, nguyên là cán bộ hậu cần của Việt Minh
tại Khu VIII trong Kháng chiến chống Pháp được giao nhiệm vụ mua sắm. Tuy nhiên,
khi di chuyển đến Bà Rịa, ba người cũng đi với ông Đông đã bị quân Việt Nam Cộng
hòa bắn chết và tịch thu số tiền mà tổ công tác của ông được tổ chức giao cho để mua
thuyền. Nhờ có bà Nguyễn Thị Mười ở Phước Hải, Long Đất đã dồn tiền của trong
nhà tổng cộng 10 cây vàng để đóng góp, chiếc thuyền này được mua về và được sử
dụng trong chuyến liên lạc, vận chuyển đầu tiên. Tham gia chuyến vượt biển trên con
thuyền của Bà Rịa cịn có ơng Lê Hà, con trai bà Mười, sau này trở thành một trong
các thuyền trưởng đầu tiên trên các con tàu không số.


Ngày 23/10/1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương Việt Nam quyết định mở
tuyến đường biển Bắc-Nam. Trung tướng Trần Văn Trà, Phó Tổng tham mưu trưởng
được Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ thành lập tuyến đường này. Ngày

23/10/1961, Thứ trưởng Bộ Quốc phịng Hồng Văn Thái ký Quyết định số 97/QP
thành lập Đoàn 759, sau này trở thành Lữ đoàn 125 thuộc Hải quân nhân dân Việt
Nam. Đồn 759 có trách nhiệm chi viện vũ khí cho miền Nam bằng đường biển. Trung
tá Đoàn Hồng Phước được giao nhiệm vụ làm Đoàn trưởng. Đây là đơn vị đầu tiên
đảm nhận nhiệm vụ vận tải vũ khí, hàng hóa vào chiến trường miền Nam bằng các con
tàu khơng số, mở ra sự phát triển mới của Đường Hồ Chí Minh trên biển. Tại Nam Bộ,
Bộ Chỉ huy quân khu IX của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được giao nhiệm
vụ thành lập Trung đoàn 962 chuyên trách nhiệm vụ chuẩn bị bến bãi tại bờ biển các
tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau. Bộ chỉ huy các Khu V, VI, VIII cũng được lệnh thiết
lập các bến bãi bí mật để đón nhận vũ khí, đạn dược, phương tiện và các hàng hóa
khác từ miền Bắc Việt Nam chuyển vào bằng đường biển.
1.1.2 Phát triển phương tiện và các tuyến vận tải quân sự trên biển


Các đơn vị



Đồn 759: Ngày 23/10/1961, Qn ủy Trung ương Việt Nam quyết định thành
lập Đoàn hải quân 759, sau này trở thành Lữ đoàn 125 của Hải quân nhân dân
Việt Nam. Đây là đơn vị đầu tiên đảm nhận nhiệm vụ vận tải vũ khí, hàng hóa
vào chiến trường miền Nam bằng các con tàu không số, mở ra sự phát triển mới
của Đường Hồ Chí Minh trên biển.



Đồn 962: Tại Nam Bộ, Bộ Chỉ huy quân khu IX của Quân giải phóng miền
Nam Việt Nam được giao nhiệm vụ thành lập Trung đoàn 962 chuyên trách
nhiệm vụ chuẩn bị bến bãi tại bờ biển các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau. Bộ
chỉ huy các Khu V, VI, VIII cũng được lệnh thiết lập các bến bãi bí mật để đón

nhận vũ khí, đạn dược, phương tiện và các hàng hóa khác từ miền Bắc Việt Nam
chuyển vào bằng đường biển.




Đoàn 950: Qua nghiên cứu việc vận chuyển bằng xuồng, ghe hai đáy trong nội
địa quân khu, năm 1972, được sự đồng ý của Bộ Tổng tham mưu, Bộ tư lệnh
quân khu 9 đã quyết định thành lập Đoàn 950 (sau gọi là Đoàn 371). Đoàn 950
hoạt động theo phương thức hợp pháp (các tàu vận chuyển), bất hợp pháp (các
bến bãi và kho). Hoạt động từ ngày thành lập cho đến ngày chiến thắng 30 tháng
4 năm 1975.



Phương tiện: Tàu, thuyền gỗ; Tàu sắt và Tàu hai đáy



Các tuyến chính: Tuyến ven bờ, Tuyến tiếp giáp lãnh hải và Tuyến hàng hải
quốc tế

1.1.3. Các căn cứ và bến bãi
Trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển gồm nhiều bến bãi. Trong đó có những
bến bãi quan trọng sau:


K15: là bí danh được đặt tên cho bến tàu xuất phát có quy mơ lớn đầu tiên của
các con tàu khơng số vận chuyển người và vũ khí từ Bắc vào Nam bằng đường
biển trong Chiến tranh Việt Nam. Cầu cảng K15 đánh dấu một bước chuyển

biến lớn của Đường Hồ Chí Minh trên biển.



Sa Huỳnh là một làng chài cổ đồng thời là một bãi biển nổi tiếng ở miền Trung
Trung Bộ với nghề đánh cá từ lâu đời. Trong q trình hoạt động của "Đường
Hồ Chí Minh trên biển"; Sa Huỳnh là một trong những bến bãi tiếp nhận vũ khí,
đạn dược, hàng hóa do các chuyến tàu khơng số chuyên chở từ miền Bắc gửi
vào cho Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại chiến trường Khu V.



Quy Thiện: Địa điểm Quy Thiện thuộc xã Phổ Hiệp, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng
Ngãi. Là một trong các bến đỗ dự bị của các chuyến tàu không số trong trường
hợp tàu bị hỏng, là nơi tránh trú khi gặp bão lớn hoặc bị hải quân Việt Nam Cộng
hòa vây ráp. Tháng 03/1968, tại đây đã diễn ra cuộc hội ngộ không hẹn mà gặp
giữa các cán bộ, nhân viên của Bệnh xá Đức Phổ nổi tiếng do bác sĩ Đặng Thùy
Trâm lãnh đạo với các thủy thủ Tàu 43 khi tàu bị khơng qn và hải qn Việt
Nam Cộng hịa bắn hỏng. Các thủy thủ phải đổ bộ lên bờ và được người dân


trong vùng bí mật đưa đến trạm xá này để cứu chữa. Sau đó, họ được Bộ Chỉ
huy Khu V của Quân giải phóng miền Nam tổ chức vượt Trường Sơn trở lại
miền Bắc.


Lộ Diêu: Bến này nằm trên địa bàn Hồi Hải, thị xã Hồi Nhơn, tỉnh Bình Định.
Ở vào vị trí giữa đèo Lộ Diêu trong và đèo Lộ Diêu ngồi, phía Tây là núi, phía
Đơng là bãi biển, Lộ Diêu được chọn làm bến trung chuyển vũ khí, đạn dược và
hàng hóa do các con tàu khơng số chở từ miền Bắc vào chiến trường khu V. Bến

Lộ Diêu bắt đầu hoạt động từ ngày 01/01/1964 khi đón con tàu đầu tiên chở
hàng chục tấn vũ khí xuất phát từ Hịn Dấu, Hải Phịng đi vào.



Lộc An: Địa điểm này nay thuộc huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đây
là bến xuất phát của một trong năm con thuyền gỗ đầu tiên mở tuyến đường Hồ
Chí Minh trên biển từ Nam ra Bắc và ngược lại. Trong q trình hoạt động, bến
này đã đón 3 tàu không số cập bến, vận chuyển 109 tấn vũ khí cho Qn giải
phóng miền Nam Việt Nam tại Khu IX.



Cồn Tàu: Đây là bến chính trong hệ thống bến bãi Trà Vinh, nằm ở gần cửa
Cung Hầu, một trong ba cửa chảy ra biển của sông Hậu, thuộc huyện Duyên
Hải. Bến này bắt đầu hoạt động từ tháng 06/1963 khi đón chuyến tàu sắt đầu
tiên chở 44 tấn vũ khí từ Bắc vào Nam.



Bến "Ơng Hai Ghiền": Đây là biệt danh được những người lính của Trung đồn
vận tải 962 đặt cho Bến Thạnh Phong. Địa điểm này nay thuộc xã Thạnh Phong,
huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Đây là nơi xuất phát của con tàu đầu tiên của
Việt Minh ở vùng Tây Nam Bộ ra Bắc xin vũ khí để tổ chức kháng chiến chống
Pháp từ năm 1946. Từ năm 1961 đến năm 1962, 2 chuyến tàu của lực lượng
Quân giải phóng miền Nam Việt Nam ở Tây Nam Bộ cũng xuất phát từ đây ra
Bắc xin chi viện vũ khí và trở về an tồn. Bến này cũng với các bến Cồn Tra và
Cồn Lợi hợp thành một hệ thống bến bãi đón nhận vũ khí, đạn dược, hàng hóa
của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại tỉnh Bến Tre. Mặc dù theo sự bố
trí của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, Thạnh Phong thuộc khu VIII



nhưng lại đóng vai trị là bến trung chuyển lớn cho cả miền Đông và miền Tây
Nam Bộ trong thời kỳ 1961-1963. Kho cất giữ vũ khí bí mật phục vụ cho bến
Thạnh Phong được xây dựng dưới lòng đất tại xã Thạnh Thới A, gần bến phà
Cầu Ván, thuộc huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Xã Thạnh Thới A cũng là nơi
đóng sở chỉ huy Trung đồn vận tải 962 của Quân giải phóng miền Nam Việt
Nam tại Khu IX.


Vàm Lũng: Bến này do ơng Bơng Văn Dĩa (sau này là thượng tá hải quân) lựa
chọn và xác định thay cho hai con lạch Bồ Đề và Rạch Gốc tuy sâu và rộng hơn
nhưng dễ bị lộ hơn. Địa điểm này thuộc huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Tại đây
có một con rạch lớn sâu từ 2 đến 3m. Hai bên có rừng đước rộng lớn che phủ.
Các tàu pha sơng biển cỡ nhỏ có trọng tải dưới 100 tấn có thể ra vào được và dễ
dàng ẩn nấp dưới các rặng đước cao và rậm rạp. Tháng 10/1962, bến này bắt đầu
hoạt động khi đón con tàu gỗ mang mật danh "Phương Đơng 1" chở 30 tấn vũ
khí từ miền Bắc vào cho Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại Khu IX.
Trong toàn bộ thời gian hoạt động, bến này đã đón 68 chuyến tàu tiếp tế từ miền
Bắc vào.



Rạch Giá: Cảng cá Rạch Giá là căn cứ nửa cơng khai, nửa bí mật của đồn tàu
hai đáy do Trung đoàn vận tải 950 thuộc Khu IX, Quân Giải phóng miền Nam
Việt Nam phụ trách. Bến này đi vào hoạt động từ nửa sau năm 1968. Gọi là nửa
cơng khai vì bề ngồi, đây là một cảng cá, gọi là nửa bí mật vì đây là một bến
tiếp nhận vũ khí vận chuyển bằng đường biển. Bến cảng này đánh dấu một
phương pháp vận chuyển mới: "trên cá, dưới súng đạn". Do tàu gỗ có cấu tạo
hai đáy nên bề ngồi, nó giống như một tàu đánh cá bình thường. Nhưng giữa

hai lớp đáy có một khoảng trống để cất giấu vũ khí, đạn dược và các hàng hóa
khác. Do sự kiểm sốt gắt gao của Hải quân Việt Nam Cộng hòa khi phát hiện
một tàu hai đáy bị hỏng máy và được kéo về bờ, bến này phải tạm ngừng hoạt
động từ giữa năm 1973 đến đầu năm 1975, khi Chiến dịch Mùa Xuân 1975 bắt
đầu được khởi động.


2.

Số liệu liên quan
Ngày 11-10-1962, một tàu vỏ gỗ mang mật danh “Phương Đơng một” do đồng chí

Lê Văn Một và đồng chí Bơng Văn Dĩa chỉ huy, chở 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn
(Hải Phịng) rẽ song ra khơi nhằm hướng Cà Mau tiến tới. Đến ngày 29-10-1962 tàu
cập bến Vàm Lũng an tồn. Nhân dân đón nhận vũ khí chi viện đầu tiên cho cách mạng
miền Nam với lịng hồ hởi, phấn khởi vơ hạn. Họ nhanh chóng khn vác vũ khí cất
giấu vào kho bí mật an tồn. Tiếp đó những chuyến tàu Phương Đơng 2, 3, 4 cũng lần
lượt lên đường vận chuyển vũ khí vào Nam Bộ.
Trong vịng 2 tháng, các tàu này đã chuyển vào Nam 111 tấn vũ khí cập bến tỉnh
Cà Mau. Vượt qua những thử thách, gian nan, đấu trí căng thẳng với địch và song gió
biển khơi các chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc thời kì đầu tiếp tế vũ khí cho
cách mạng miền Nam, góp phần quan trọng tăng cường nhanh chóng sức mạnh chiến
đấu cho lực lượng vũ trang giải phóng. Cơng việc vận chuyển vũ khí vào chiến trường
Nam Bộ tạm ổn, tuy số lượng chưa nhiều nhưng đã góp phần giúp quân và dân các
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long phát triển lực lượng vũ trang, tạo được thế mới, lực
lượng mới, đánh thắng địch nhiều trận, mở rộng vùng giải phóng.
Tính từ 10-1962 đến 2-1965, ta đã sử dụng 3 tàu gỗ, 17 tàu vỏ sắt, tổ chức đưa 88
chuyến tàu tới đích (khơng tính các chuyến chinh sát, mở đường) vận chuyển được
4.919.636 tấn vũ khí và một số mặt hàng thiết yếu vào chiến trường (Cà Mau, Bạc
Liêu 45 chuyến, Bến Tre 23 chuyến, Trà Vinh 12 chuyến, Bà Rịa 3 chuyến, Vũng Rơ

4 chuyến, Bình Định 1 chuyến) đạt 93% kế hoạch, vượt chỉ tiêu Trung ương giao (Bộ
chính trị, Qn ủy trung ương, Bộ Quốc phịng giao chỉ tiêu đưa được 50% số hàng
tới đích thành công). Riêng hai năm 1962 và 1964, đạt tỷ lệ cao nhất 100% (57/57
chuyến thành công).
Thành công của những chuyến vũ khí đã trực tiếp góp phần đẩy mạnh chiến tranh
nhân dân, xây dựng và phát triển khối chủ lực ở chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung
Bộ; góp phần làm nên những chiến thắng oanh liệt của nhân dân ta ở Ấp Bắc, Đầm
Dơi, Cái Nước, Chà Là, Vạn Tường, Ba Gia, Bình Gĩa, Đồng Xồi… Đặc biệt, điều


đó có ý nghĩa hơn khi cũng trong những thời gian này, tuyến chi viện chiến lược trên
bộ (Đoàn 559) tuy đã được tổ chức ngang cấp sư đoàn, được biên chế 2 trung đồn
gửi thồ, 1 đại đội ơ tô vận tải, một số đơn vị công binh, giao liên... đã có những nỗ lực
lớn trong nhiệm vụ mở đường và đã vươn tới chiến trường Bắc Tây Nguyên. Nhưng
do đường mới mở, mưa lớn nên chỉ vận chuyển được 1.410 tấn vật chất các loại (chủ
yếu là cho Trị Thiên và Nam Lào) đạt 25% kế hoạch được giao.
Từ 2-1965 đến 1-1973 là giai đoạn khó khăn nhất nhưng hết sức hào hung của
tuyến chi viện chiến lược trên biển. Sau sự kiện xảy ra với tàu C143 ở Vũng Rơ (Phú
n) bí mật của tuyến chi viện chiến lược trên biển của ta khơng cịn nữa. Cơng việc
tiếp tế cho miền Nam bằng đường biển vẫn phải tiếp tục, nhưng ta chuyển hướng vận
chuyển từ phương thức trực tiếp sang gián tiếp. Bằng phương thức này, trong từ năm
1968 đến năm 1969 lực lượng vận tải biển đã đưa vào cảng sơng Gianh 21.737 tấn vũ
khí. Từ đây, số vũ khí được chuyển vào bằng đường bộ. Ngoài ra, trong giai đoạn này,
cán bộ chiến sĩ Đoàn 125 còn tham gia chiến dịch vận tải VT5 – Vận tải tranh thủ tụt
thang (từ tháng 11-1968 đến năm 1969) cùng các lực lượng trong và ngoài quân đội
vận chuyển hàng chục vạn tấn vũ khí, lương thực, xăng dầu … từ Hải Phòng vào các
tỉnh Nam khu 4 tạo chân hàng cho tuyến chi viện chiến lược trên bộ.
Từ 1973 đến 1975 tuyến chi viện chiến lược bằng đường biển đã dốc toàn bộ lực
lượng và phương tiện, sử dụng hàng nghìn lượt và chuyến tàu chuyển vũ khí và vật
chất các loại vào chiến trường. Đặc biệt trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa

Xuân năm 1975, đã sử dụng 140 lượt chuyến tàu, vận chuyển 6.282 tấn vũ khí và vật
chất khác, cùng hàng ngàn lượt cán bộ chiến sĩ vào tăng cường cho chiến trường Nam
Bộ và khu 5, cơ động bộ đội thuộc đảo Trường Sa, Cù Lao Thu, các đảo phía Nam và
Tây Nam của Tổ Quốc.
2.

Vai trò của đường mòn HCM trên biển trong sự nghiệp kháng chiến chống

Mỹ cứu nước


2.

Đường Hồ Chí Minh trên biển là sự sáng tạo chiến lược của Đảng trong cuộc

kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Đường Hồ Chí Minh trên biển – Một sáng tạo chiến lược của Đảng trong cuộc chiến
tranh chống Mỹ cứu nước. Từ đầu cho đến kết thúc chiến tranh, trong từng thời điểm,
giai đoạn cụ thể, Đảng ta luôn chỉ đạo sát sao, cụ thể và có những quyết sách chính
xác với Đường Hồ Chí Minh trên biển. Cùng với Đường Hồ Chí Minh trên bộ, Đường
Hồ Chí Minh trên biển là một chiến lược kỳ công của dân tộc ta trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
Trong quá trình hoạch định đường lối kháng chiến là quá trình Đảng ta, đứng đầu
là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể, tỉ mỉ cơng tác
chi viện chiến trường thơng qua Bộ Chính trị, Quân ủy trung ương. Thực tế cho thấy,
ngay sau Hội nghị Trung ương 15 quyết định đường lối cách mạng miền Nam từ thế
giữ gìn lực lượng sang thế tiến cơng. Bộ chính trị đã trực tiếp chỉ đạo tổ chức mở tuyến
đường Trường Sơn chi viện miền Nam. Nhằm đáp ứng yêu cầu trên, đầu tháng 5-1959
Tổng Quân ủy (nay là Quân ủy Trung ương) và Bộ tổng tư lệnh thành lập Đồn 759,
có nhiệm vụ mở đường giao liên và vận tải trên bộ, đưa người và vũ khí cùng những

mặt hàngthiết yếu từ hậu phương lớn Miền Bắc vào chiến trường.
Sau một thời gian nghiên cứu chuẩn bị, ngày 23-10-1961, Bộ quốc phòng ra quyết
định số 97/QP thành lập Đoàn 759 vận tải quân sự đường biển. Được sự quan tâm chỉ
đạo của cấp trên, sự ủng hộ, giúp đỡ hết lịng của cấp ủy, chính quyền và nhân dân
một số địa phương, Đồn759 nhanh chóng xây dựng lực lượng, chuẩn bị phương tiện,
tổ chức trinh sát nhằm nắm chắc quy luật tuần tra, ngăn chặn trên biển của địch; hiệp
đồng với các tỉnh ven biển Nam Bộ và Nam Trung Bộ xây dựng các bến bãi tiếp nhận
và tổ chức lực lượng vận chuyển vũ khí. Theo u cầu của đồn, Bộ Quốc phịng làm
việc với Bộ Giao thông vận tải giao nhiệm vụ cho Xưởng đóng tàu Hải Phịng bí Mật
nghiên cứu đóng loại tàu vỏ gỗ gắn máy đúng kiểu dạng ngư dân Nam Bộ vẫn sử dụng
để phục vụcông tác vận chuyển. Sáng ngày 19-10-1962, chiếc tàu chở gỗ đầu tiên chở


hơn 30 tấn vũ khí mang mật danh phương đơng đã cập bến Vàm Lũng an toàn. Tuyến
chi viện chiến lược đường Hồ Chí Minh trên biển chính thức được khai thơng.
Sự nhìn nhận từ sớm của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh về yêu cầu, nhiệm vụ, vị
trí và vai trị của cơng tác chi viện chiến trường đã tạo bước phát triển vững chắc mạnh
mẽ cho cách mạng miền Nam. Con đường chi viện trên biển đã ghi dấu ấn quan trọng
thúc đẩy sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang cách mạng trên chiến trường, góp phần
vào thắng lợi của những trận đánh gây tiếng vang lớn. Đặc biệt trong cuộc tiến công
và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, thực hiện chỉ lệnh ‘thần tốc, đại thần tốc’ của Đại
tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đường Hồ Chí Minh trên biển đã vận chuyển
nhanh nhiều vũ khí hạng nặng và hàng chục nghìn cán bộ, chiến sĩ vào miền Tây, kịp
thời chi viện chiến trường.
Kết quả của sự phát triển thực lực kháng chiến ở miền Nam sau thắng lợi của phong
trào “Đồng Khởi” năm 1960 đã chứng tỏ rằng, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh trên
cơ sở nắm bắt, lường định đúng xu thế phát triển cuộc kháng chiến, chủ động, tích cực
chuẩn bị thời cơ, lực lượng, tạo ra bước phát triển mạnh mẽ, vững chắc của cách mạng;
con đường chi viện trên biển đã có những đóng góp thiết thực trong quá trình ấy. Quyết
định đúng đắn, sáng tạo, táo bạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, mở con đường

vận tải quân sự chiến lược chi viện miền Nam trên hướng biển, đã thể hiện rõ nhãn
quan nhạy bén, tài tình của Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh; đáp ứng khát vọng cháy
bỏng và quyết tâm sắt đá giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta. Tuyến vận tải quân sự chiến lược này đã góp phần phát huy
sức mạnh của miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa - nhân tố quyết định nhất, kết hợp với sức
mạnh tại chỗ của cách mạng miền Nam, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn của toàn
dân tộc, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
2.

Đường Hồ Chí Minh là nơi hội tụ sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt

Nam trong cuộc đấu trí, đấu lực với kẻ thù.


Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành nơi hội tụ sức mạnh của chiến tranh
nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu trí, đấu lực với các âm mưu thủ đoạn của kẻ thù;
là nơi tỏa sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng; lịng quả cảm, trí thơng minh và quyết
tâm đánh Mỹ của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Đi vào cuộc trường chinh chống Mỹ, cứu nước, hành trang - vũ khí sắc bén của con
người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh chính là niềm tin sắt son vào sự nghiệp cách
mạng do Đảng và Bác Hồ lựa chọn. Niềm tin ấy của các thế hệ người Việt Nam được
hun đúc, bồi đắp bằng sự quan tâm, chăm lo của Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh;
được hấp thu, truyền thụ qua môi trường giáo dục xã hội chủ nghĩa, qua những biểu
tượng, hình tượng của con người Việt Nam giàu lịng u nước, có ý thức sâu sắc về
giá trị của độc lập, tự do luôn sẵn sàng hi sinh phấn đấu cho sự nghiệp đánh giặc ngoại
xâm, thống nhất non sơng gấm vóc.
Được dẫn dắt bởi đường lối kháng chiến đúng đắn, ý chí, nghị lực, quyết tâm trong
mỗi con người, mỗi tập thể, mỗi lực lượng thực sự là vũ khí tinh thần có ý nghĩa quyết
định thành bại trên mỗi trận tuyến chống quân thù. Trên ý nghĩa đó, lực lượng vận tải
quân sự đường biển đã thể hiện một bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần chịu đựng

gian khổ, hy sinh, sự mưu trí, dũng cảm hiếm có để hồn thành xuất sắc nhiệm vụ
được giao. Khơng có bản lĩnh chính trị vững vàng thì khơng thể thực hiện được nhiệm
vụ gian khó đặt ra, nhất là trong buổi đầu hình thành lực lượng vận tải quân sự đường
biển, vấn đề soi đường, thông đường, tổ chức chuẩn bị phương tiện, bến bãi. Đó quả
là q trình tìm tịi, khảo nghiệm công phu, đồng thời là sự thử thách ý chí, quyết tâm
của cả một tập thể, từ người chỉ huy đến thủy thủ, sự phối hợp ăn khớp giữa hậu
phương và tiền tuyến. Đường Hồ Chí Minh trên biển thì phải nói đến cả tuyến, bởi từ
trăm sơng, trăm ngả, có ngõ, có đường, có đầu, có cuối mới hình thành nên một con
đường hồn chỉnh. Khơng có tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sự mưu trí, dũng
cảm hiếm có thì khó có thể thực hiện được cuộc vượt biển vào Nam với bao hiểm nguy
rình rập. Trên những con tàu nhỏ, trang thiết bị hạn chế, cán bộ, thủy thủ phải đối mặt
với sóng to, gió lớn, với sự ngăn chặn gắt gao của quân thù địi hỏi phải có tinh thần


chịu đựng gian khổ, trong tình huống hiểm nghèo, phải chấp nhận hy sinh tính mạng
để giữ bí mật của tuyến đường.
Do vị trí chiến lược hết sức quan trọng của đường Hồ Chí Minh trên biển, đế quốc
Mỹ dùng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt với các loại vũ khí, thiết bị tối tân hiện đại
nhất của nền khoa học - công nghệ quân sự Mỹ để đánh phá, hòng hủy diệt, ngăn chặn,
cắt đứt tuyến đường viện trợ của ta trên biển. Những con đường, các bến bãi đều nằm
trongcác vùng kìm kẹp, lùng sục, truy quét, đánh phá ác liệt suốt đêm ngày của địch.
Trên con đường vận chuyển ấy, cán bộ, chiến sỹ đoàn tàu khơng số với tinh thần “Vì
miền Nam ruột thịt” đã xác định quyết tâm, âm thầm hy sinh tình cảm gia đình và bản
thân, biết rằng ra đi là cảm tử, vẫn chấp nhận gian nguy, đương đầu với khó khăn thử
thách.Mỗi chuyến đi là một cuộc đấu trí căng thẳng, quyết liệt với kẻ thù, với thiên
nhiên, sóng gió. Và vượt lên tất cả là chiến thắng chính bản thân mình, địi hỏi cao ý
chí kiển định, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo và ý thức chấp hành kỷ luật nghiêm minh.
Thời đại Hồ Chí Minh đã tạo ra con người Việt Nam và chính con người Việt Nam
đã viết nên những trang sử hào hùng của thời đại Hồ Chí Minh. Thắng lợi của sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung và thành cơng của cơng cuộc chi

viện chiến trường bằng đường Hồ Chí Minh trên biển nói riêng thực sự là biểu trưng
sinh động cho giá trị, phẩm chất và hào khí bất khuất của con người Việt Nam. Đây
chính là nhân tố trung tâm, quyết định tạo nên sức mạnh phi thường để nhân dân Việt
Nam đương đầu và đánh thắng quân xâm lược Mỹ.
3.

Đường Hồ Chí Minh trên biển là niềm tự hào, nguồn cổ vũ, động viên lớn lao

đối với các cán bộ, chiến sĩ.
Đi vào cuộc trường chinh chống Mỹ, cứu nước, hành trang - vũ khí sắc bén của con
người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh chính là niềm tin sắt son vào sự nghiệp cách
mạng do Đảng và Bác Hồ lựa chọn. Niềm tin ấy của các thế hệ người Việt Nam được
hun đúc, bồi đắp bằng sự quan tâm, chăm lo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh;
được hấp thu, truyền thụ qua mơi trường giáo dục xã hội chủ nghĩa, qua những biểu
tượng, hình tượng của con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức sâu sắc về


giá trị của độc lập, tự do, luôn sẵn sàng hy sinh, phấn đấu cho sự nghiệp đánh đuổi
ngoại xâm, thống nhất non sơng gấm vóc. Được dẫn dắt bởi đường lối kháng chiến
đúng đắn, ý chí, nghị lực, quyết tâm trong mỗi con người, mỗi tập thể, mỗi lực lượng
thực sự là thứ vũ khí tinh thần có ý nghĩa quyết định thành bại trên mỗi trận tuyến
chống quân thù. Trên ý nghĩa đó, lực lượng vận tải quân sự đường biển đã thể hiện
một bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sự mưu trí,
dũng cảm hiếm có để hồn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Trên những chuyến "tàu không số", nhiều cán bộ chỉ huy, thuyền trưởng, chính trị
viên, thuyền phó đã thể hiện sự xử trí tài tình, mưu trí, điều khiển con tàu tiếp tục giữ
vững hành trình vào Nam và đối phó linh hoạt với các tình huống xảy ra. Có thể kể ra
đây những cán bộ như thế: đồng chí Hồ Đắc Thạnh, Nguyễn Văn Cứng, Lê Văn Thêm,
Đinh Đạt, Phạm Vạn, Lê Quốc Thành, Nguyễn Hữu Phước, Trần Ngọc Ẩn…
Các đồng chí ấy đã nêu những tấm gương mẫu mực về chủ nghĩa anh hùng cách

mạng và trình độ hàng hải vững vàng, điều khiển những con tàu vượt qua các bãi đá
ngầm, sóng gió hiểm nguy và nhất là sự phong tỏa ngăn chặn, đánh phá ác liệt của
quân thù, đưa nhiều chuyến tàu chở vũ khí cập bến an tồn. Và cũng trong số đó, nhiều
cán bộ, chiến sĩ cùng với những con tàu ra đi không trở lại. Khi gặp địch bao vây bốn
phía, cán bộ và chiến sĩ trên tàu đã dũng cảm chiến đấu và để giữ bí mật cho con
đường, họ hy sinh cả thân mình nơi biển cả mênh mông. Nêu tấm gương nghĩa liệt ấy
là các đồng chí Đặng Văn Thanh, Nguyễn Phan Vinh, Nguyễn Văn Hiệu, Hồ Đức
Thắng…
Có thể nói, suốt 14 năm rịng rã (1961-1975) thực hiện vận chuyển chiến lược bằng
đường biển chi viện miền Nam, cán bộ, chiến sĩ hải quân nhân dân đã lập nhiều chiến
công xuất sắc, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tạo dựng nên một con đường
huyền thoại trên biển mang tên Hồ Chí Minh - vị Cha già kính yêu của Bộ đội Hải
quân nhân dân Việt Nam nói riêng, của Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung.
Suy cho cùng, thời đại Hồ Chí Minh đã tạo ra con người Việt Nam và chính con
người Việt Nam đã viết nên những trang sử hào hùng của thời đại Hồ Chí Minh. Thắng


lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung và thành cơng của cơng
cuộc chi viện chiến trường bằng Đường Hồ Chí Minh trên biển nói riêng thực sự là
biểu trưng sinh động cho giá trị, phẩm chất và hào khí bất khuất của con người Việt
Nam. Đây chính là nhân tố trung tâm, quyết định tạo nên sức mạnh phi thường để nhân
dân Việt Nam đương đầu và đánh thắng quân xâm lược Mỹ.
Hơn một phần ba thế kỷ đã qua, nhưng âm hưởng của một thời đánh Mỹ, gian lao
mà anh dũng, vẫn còn đọng mãi trong ký ức của nhiều thế hệ người Việt Nam. Ký ức
và những trang sử oanh liệt về những con tàu nhỏ vượt sóng to, gió lớn, vượt qua mưa
bom, bão đạn của quân thù, mang theo niềm tin, khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự
do, thống nhất đất nước của cả dân tộc sẽ mãi là điểm tựa để mỗi thế hệ người Việt
Nam hôm nay ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm với Tổ quốc, góp sức xây dựng đất
nước giàu mạnh và bảo vệ vững chắc thành quả mà các thế hệ cha anh đã đổ xương
máu để giành được.

Hiến cơng và thành tích vẻ vang của đường Hồ Chí Minh trên biển đã góp phần
quan trọng vào thắng lợi chung của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, “đánh
cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Nói tới
đường Hồ Chí Minh trên biển cịn phải nhắc tới các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Đồn
tàu khơng số ln ln trung thành vơ hạn với Đảng, với Nhân dân, nêu cao ý chí quật
cường, tinh thần mưu trí, sáng tạo, sẵn sàng xả thân chiến đấu hi sinh để hoàn thành
xuất sắc mọi nhiệm vụ được Trung ương, Bác Hồ và Quân đội giao phó. Những con
người can trường trong đội ngũ cán bộ, thủy thủ của Đồn tàu khơng số trên tuyến vận
tải qn sự Hồ Chí Minh trên biển, lúc đầu phần lớn quê ở các địa phương miền Nam
tập kết ra Bắc, một số vốn quen với nghề đi biển, chịu đựng được sóng gió, điều khiển
tàu chủ yếu bằng kinh nghiệm. Tuy nhiên, do yêu cầu nhiệm vụ, do quy mô vận chuyển
phát triển, nên trong thành phần đội ngũ sĩ quan, thủy thủ, nhân viên kỹ thuật của đoàn
vận tải sau này hầu hết được đào tạo cơ bản, là những đảng viên, đồn viên, vừa có tri
thức, sức khỏe, có khả năng chịu đựng gian khổ, bản lĩnh cách mạng kiên cường, vừa
có quyết tâm cao, kinh nghiệm dày dặn. Đây chính là những cán bộ, chiến sĩ được đào


tạo, rèn luyện, trưởng thành trong các cơ quan, đơn vị, nhà trường ở miền Bắc, trở
thành nguồn nhân lực quan trọng đảm đương nhiệm vụ nặng nề mà Đảng và Nhân dân
giao phó. Trên những chuyến “tàu khơng số”, nhiều cán bộ chỉ huy, thuyền trưởng,
chính trị viên, thuyền phó đã thể hiện sự xử trí tài tình, mưu trí, điều khiển con tàu tiếp
tục giữ vững hành trình vào Nam và đối phó linh hoạt với các tình huống xảy ra. Trong
những năm tháng chống Mỹ, cứu nước, hàng ngàn tấn vũ khí và phương tiện chiến
tranh khác của Trung ương chi viện cho chiến trường miền Nam qua đường Hồ Chí
Minh trên biển đã đến nhiều địa phương dọc theo duyên hải miền Trung đến tận mũi
Cà Mau để tiếp sức cho cuộc kháng chiến.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã ghi vào lịch sử dân tộc ta
như một trang vàng chói lọi, một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, của ý chí “Khơng có gì q hơn độc lập tự do”, của lịng dũng cảm, bản lĩnh và
trí tuệ con người Việt Nam. Chiến thắng đó cịn đi vào lịch sử thế giới như một trong

những chiến công vĩ đại nhất của thế kỷ XX - một sự kiện có tầm vóc quốc tế to lớn
và có tính thời đại sâu sắc. Có được thành quả cách mạng vĩ đại ấy, dân tộc ta phải trải
qua những chặng đường đấu tranh đầy gian nan, thử thách; đã kế thừa, phát triển lên
một tầm cao mới truyền thống yêu nước, ý chí quật cường, bất khuất của dân tộc Việt
Nam, giá trị văn hóa và nền nghệ thuật quân sự đặc sắc Việt Nam trong thời đại Hồ
Chí Minh. Thắng lợi mà dân tộc ta giành được là sự hội tụ, kết tinh của nhiều nhân tố,
trong đó đường Hồ Chí Minh trên bộ xuyên dãy Trường Sơn và đường Hồ Chí Minh
trên biển có vai trị quan trọng. Đây thực sự là một sáng tạo độc đáo về tài thao lược
và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, của
Quân ủy Trung ương trong cuộc đấu trí, đấu lực với các âm mưu và thủ đoạn nham
hiểm của kẻ thù, nhằm ngăn chặn sự chi viện sức mạnh của hậu phương miền Bắc cho
tiền tuyến miền Nam.
Cùng với đường Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh trên biển đã nối liền miền Bắc
với miền Nam, “là biểu tượng của quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, của ý chí và tình
cảm thống nhất đất nước, của sức mạnh tinh thần và trí tuệ của dân tộc Việt Nam đã


chiến thắng sức mạnh vật chất kỹ thuật hiện đại của đế quốc Mỹ”. Đường Hồ Chí
Minh trên biển, một “con đường khơng dấu, tàu khơng số, trí, hiếu, trung, dũng, anh
hùng”, một chiến cơng và kỳ tích lịch sử, cho chúng ta nhiều bài học quý báu, mãi mãi
là niềm tự hào của quân và dân ta nói chung, của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm
vụ trên con đường vận tải chiến lược biển năm xưa cũng như của Lữ đoàn 125 Hải
quân và Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam nói riêng, mà các thế hệ hơm nay
và mai sau phải có trách nhiệm gìn giữ, phát huy và khơng ngừng tơ thắm trong sự
nghiệp quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thềm lục địa thiêng liêng của
Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.
4.

Đường Hồ Chí Minh trên biển là nét độc đáo, sáng tạo, đặc sắc của đường


lối chiến tranh nhân dân.
Quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân của Ðảng và hiểu sâu sắc nghệ thuật quân
sự toàn dân đánh giặc của ông cha ta, cán bộ, chiến sĩ các đơn vị được giao nhiệm vụ
vận tải trên biển thường xuyên được giáo dục tinh thần vì dân mà chiến đấu, trong bất
kỳ hoàn cảnh nào cũng phải giữ mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Vì thế, trong suốt
hành trình vận tải trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển, từ những chuyến vượt biển
đầu tiên của các đội thuyền Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre, Bà Rịa - Vũng Tàu... cho đến
sau này thành lập Ðoàn 759, Ðoàn 125, tuyến vận tải quân sự chiến lược - đường Hồ
Chí Minh trên biển ln nhận được sự hỗ trợ tích cực của các cấp ủy đảng, chính
quyền, nhân dân và các lực lượng nơi có bến bãi tập kết hàng của các địa phương ven
biển nơi con đường đi qua. Nhờ có sự giúp đỡ, che chở, đùm bọc của nhân dân các địa
phương luôn sẵn sàng đóng góp của cải và cơng sức cho tuyến vận tải chiến lược trên
biển được thông suốt, các nước anh em, bạn bè trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô, Trung
Quốc đã dành cho Việt Nam sự giúp đỡ vật chất và ủng hộ tinh thần hết sức lớn lao và
hiệu quả, đường Hồ Chí Minh trên biển-con đường huyền thoại ln được giữ bí mật
trong suốt thời gian dài và đưa các chuyến hàng tiếp viện từ bắc vào nam cập bến an
tồn, góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược,
giải phóng miền nam, thống nhất Tổ quốc. Ðó chính là sự kế thừa và phát triển nghệ


thuật quân sự toàn dân đánh giặc của dân tộc, là thành công to lớn của đường lối chiến
tranh nhân dân, thế trận lịng dân của Ðảng ta.
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp, vừa thuận lợi,
vừa có những thách thức mới. Ðiều đó đặt ra những yêu cầu rất cao đối với nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Chắc chắn rằng, những bài
học về nét độc đáo, sáng tạo, sự kế thừa và phát triển của nghệ thuật quân sự Việt
Nam, của Ðường Hồ Chí minh trên biển sẽ được tồn Ðảng, tồn dân, toàn quân ta
tiếp tục phát huy lên tầm cao mới, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
tồn vẹn lãnh thổ, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định và phát triển toàn diện đất
nước; thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

minh.
Ngay từ đầu cuộc chiến tranh, kẻ thù đã sử dụng hàng trăm tàu chiến lớn nhỏ thiết
lập các hệ thống tuần tiễu suốt ngày đêm trên biển và cả hệ thống tuần tiễu bằng máy
bay trên không để phát hiện tàu lạ, hòng ngăn chặn sự chi viện, tiếp tế của miền bắc
xã hội chủ nghĩa cho chiến trường miền nam. Sau thất bại nặng nề trong giai đoạn
1954-1960, đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" (1961-1965), ráo
riết thực hiện các cuộc hành quân tìm, diệt; đồng thời mở rộng chiến tranh phá hoại ra
miền bắc bằng biệt kích thám báo và phong tỏa biên giới, vùng biển để ngăn chặn chi
viện của miền bắc cho miền nam. Nhất là sau sự kiện "Vũng Rơ", địch phát hiện tàu
và vũ khí trang bị, đạn dược ta tiếp viện cho miền nam, chúng đã huy động lực lượng
của Hạm đội 7, các biên đội tàu sân bay và hàng trăm tàu chiến đấu các loại, thành lập
lực lượng đặc nhiệm phối hợp lực lượng hải quân ngụy Sài Gòn; tăng cường hàng trăm
lượt máy bay trinh sát ven bờ để sục sạo liên tục ngày đêm từng ki-lô-mét vuông mặt
biển; đồng thời xây dựng nhiều trạm ra-đa và mạng lưới thông tin hiện đại quan sát
ven bờ, trên các đảo để phát hiện, ngăn chặn sự tiếp viện của ta.
Mặc dù kẻ thù tìm mọi cách để phong tỏa, lùng sục, kiểm soát gắt gao, nhưng khơng
có sức mạnh nào cắt đứt được tuyến giao thông huyết mạch của ta trên biển. Lợi dụng
sự đi lại của tàu thuyền với mật độ cao trên tuyến hàng hải quốc tế và hàng vạn tàu


thuyền đánh cá của ngư dân ven biển miền nam, ta đã sử dụng các loại tàu nhỏ, ngụy
trang giống các tàu đánh cá, các tàu buôn quốc tế, biên chế lực lượng ít, mang theo số
lượng vũ khí đạn dược vừa phải; đồng thời có phương án phịng tránh, đánh trả và có
phương án hủy tàu khi bị địch phát hiện, truy đuổi nên hầu hết các tàu vận tải tiếp viện
của ta vẫn vượt qua mọi gian nguy, thử thách chi viện được cho miền nam. Cùng với
việc sử dụng lực lượng hợp lý, ta đã biết kết hợp giữa hoạt động bí mật và cơng khai;
xuất phát ở nhiều bến và cập bến ở nhiều điểm, có khi phải cập bến ở cả cảng của nước
bạn trước khi cập bến vào miền nam để giao hàng; đi trên nhiều tuyến, nhiều cung
đường khác nhau, có khi phải ra tận hải phận quốc tế để tránh sự phát hiện, ngăn chặn
của địch. Khi địch ngăn chặn, phong tỏa gần bờ, ta đi trên vùng biển xa; địch phong

tỏa đường dài thì ta đi phân đoạn; khéo léo kết hợp ngụy trang nghi binh, khơn khéo,
táo bạo, bí mật bất ngờ luồn sâu vào các bến trong các kênh rạch làng xã của dân; khi
địch phát hiện bám đuổi thì ta đi ra vùng biển quốc tế; khi địch phát hiện tấn cơng tàu
thì ta đánh trả quyết liệt, khi cần thiết thì tiến hành phá hủy tàu để giữ bí mật. Thành
cơng đó đã làm nên nét độc đáo, sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam, tiếp tục
kế thừa và phát huy cao độ truyền thống đánh giặc của cha ơng.
5.

Vai trị trong việc chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam
Để chi viện cho miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, ngày 19/5/1959, Quân

ủy Trung ương quyết định thành lập “Đoàn quân sự đặc biệt” có nhiệm vụ mở đường,
vận chuyển vũ khí, lương thực, tổ chức đưa đón bộ đội từ Nam ra Bắc và ngược lại.
Hai con đường huyết mạch được hình thành: con đường 559 theo dãy Trường Sơn và
đường Hồ Chí Minh trên biển. Với tên gọi “Đồn tàu Khơng số”, đường Hồ Chí Minh
trên biển là con đường của niềm tin tất thắng, con đường tự hào của bộ đội Hải quân
Nhân dân Việt Nam, nó có vai trị vơ cùng quan trọng trong việc chi viện sức người,
sức của góp phần vào chiến thắng của chiến trường miền Nam.
Đường Hồ Chí Minh trên biển là con đường nối liền giữa hậu phương lớn miền Bắc
với chiến trường miền Nam, những địa bàn mà tuyến đường Trường Sơn trên bộ lúc
đó chưa vươn tới đươc để kịp thời vận chuyển chi viện vũ khí trang bị cho lực lượng


vũ trang, góp phần nâng cao khả năng chiến đấu, phát triển lực lượng, đặc biệt là làm
thay đổi tương quan về lực lượng giữa ta và địch, cổ vũ phong trào đấu tranh ngay
trong lòng địch, tạo ra bước phát hiện mới cho Cách mạng miền Nam, làm nên những
chiến thắng Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Trà Là, Vạn Tường,…
Đường Hồ Chí Minh trên biển là con đường vận chuyển chiến lược, độc đáo, đạt
hiệu quả cao, rút ngắn được thời gian vận chuyển và thương vong ít. Ngồi cung cấp
vũ khí và hàng hóa cho chiến trường xa, nơi mà đường bộ chưa vươn tới, đường Hồ

Chí Minh trên biển cịn có ưu thế hơn đường bộ là thời gian nhanh hơn, kịp thời hơn,
rẻ hơn, vũ khí trang bị đồng bộ hơn do khơng nhầm lẫn, thất lạc. Việc vận chuyển
bằng đường bộ phải qua nhiều cung, chặng, qua nhiều lực lượng, phương tiện, phải
mất hàng tháng mới đến đích. Vận chuyển đường biển tuy gian nan nguy hiểm hơn vì
khơng chỉ đối mặt với qn địch và cịn phải đối mặt với cả sóng gió, bão bùng, nhưng
nếu thuận lượi thì chỉ mất một tuần là vào đến chiến trường Tây Nam Bộ, mà tỷ lệ tổn
thất về hàng hóa cũng thấp hơn so với vận chuyển bằng đường bộ. Chính vì vậy mà
đã đáp ứng được Chỉ thị “Thần tốc”, “Đại thần tốc” của Bộ Tư lệnh Chiến dịch lúc
bấy giờ và kịp thời chi viện cho đồng bào miền Nam để họ có thêm sức mạnh chống
giặc cứu nước. Chi phí vận chuyển cho mỗi tấn hàng trên biển đỡ tốn kém hơn rất
nhiều so với vận tải đường bộ; cứ 100 tấn vũ khí vận chuyển bằng đường biển chỉ cần
10 – 15 cán bộ, chiến sĩ, nếu vận tải bằng đường bộ thì cần đến một sư đồn mang vác,
nếu vận tải bằng cơ giới thì lượng xăng dầu tốn gấp hàng trăm lần so với vận tải đường
biển.
Ngoài ra, Đường Hồ Chí Minh trên biển cịn đảm đương sứ mệnh quan trọng, đó là
vận chuyển những món hàng “đặc biệt” có tầm quan trọng sống cịn đối với cuộc kháng
chiến của ta mà không thể vận chuyển bằng đường bộ như: dụng cụ đặc biệt về y tế,
các loại vũ khí trang bị lớn, máy chế tạo giấy tờ cho cán bộ ta đi lại cơng khai trên
tồn miền Nam hay hóa chất đặc biệt để chế tạo vũ khí,…
Cùng với nhiệm vụ vận tải hàng quân sự, đường Hồ Chí Minh trên biển cịn đảm
đương một sứ mệnh cực kỳ quan trọng, đó là đưa đón hàng trăm cán bộ cao cấp của


Đảng, quân đội và chuyên gia quân sự vào miền Nam và từ miền Nam ra miền Bắc
báo cáo Trung ương và nhận chỉ thị kịp thời bổ sung cho công tác lãnh đạo chỉ đạo,
chỉ huy chiến đấu trên chiến trường miền Nam.
Đường mịn Hồ Chí Minh trên biển ấy khơng chỉ chi viện vũ khí, hàng hóa cho
chiến trường miền Nam mà nó cịn gửi gắm niềm tin, hy vọng và tình yêu thương của
nhân dân miền Bắc đối với chiến trường miền Nam. Sự chi viện của hậu phương lớn
miền Bắc đến được chiến trường đồng bào mền Nam đã tạo nên nguồn động viên, cổ

vũ to lớn đối với toàn thể cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nơi đây càng vững tin vào sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Từ đây, vũ khí trang bị, khí tài quân sự và một số nhu
cầu khác của chiến trường được giải quyết một bước cơ bản. Yêu cầu về xây dựng và
phát triển lực lượng vũ trang được đáp ứng; hiệu suất chiến đấu của ba thứ quân được
nâng cao và phong trào chiến tranh du kích được phát triển mạnh mẽ. Đây là một nhân
tố đảm bảo quan trọng, giúp quân và dân miền Nam đẩy mạnh tiến công quân sự, liên
tục giành được nhiều chiến thắng.
3.

Giá trị đường Hồ Chí Minh trên biển.
1. Giá trị lịch sử
Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện nhãn quan nhạy bén, tài tình của Đảng ta và

Bác Hồ
Trong quá trình hoạch định đường lối kháng chiến, cùng với việc xác định chiến
lược cách mạng cho hai miền Nam - Bắc, cho tiền tuyến và hậu phương, Đảng đã xác
định rõ nhiệm vụ chi viện chiến lược cho cuộc đấu tranh của quân và dân ta ở miền
Nam là nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa quyết định thành bại của chiến tranh.
Có thể nói, q trình hoạch định đường lối kháng chiến là quá trình Đảng ta, đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể, tỉ mỉ công
tác chi viện chiến trường thơng qua Bộ Chính trị, Qn ủy Trung ương. Thực tế cho
thấy, ngay sau Hội nghị Trung ương 15 quyết định đường lối cách mạng miền Nam từ
thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến cơng, Bộ Chính trị đã trực tiếp chỉ đạo tổ chức mở


tuyến đường Trường Sơn chi viện miền Nam (Đoàn 559, 5-1959). Khơng lâu sau đó,
tuyến đường chi viện trên biển cũng được chỉ đạo tổ chức, xây dựng (7-1959).
Sự nhìn nhận từ sớm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về u cầu, nhiệm vụ, vị
trí và vai trị của công tác chi viện chiến trường đã tạo bước phát triển vững chắc, mạnh
mẽ cho cách mạng miền Nam. Con đường chi viện trên biển đã ghi dấu ấn quan trọng,

thúc đẩy sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang cách mạng trên chiến trường, góp phần
vào thắng lợi của những trận đánh gây tiếng vang lớn như: Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái
Nước, Chà Là, Bình Giã, Ba Gia, Vạn Tường...
Sự nối kết, chuyển tải sức mạnh của hậu phương đối với tiền tuyến đã được thực
hiện hiệu quả thông qua con đường chi viện trên biển, nhất là trong điều kiện tuyến
đường Trường Sơn chưa thể vươn tới những chiến trường, địa bàn xa hậu phương, sâu
trong vùng địch tạm chiếm. Kết quả của sự phát triển thực lực kháng chiến ở miền
Nam sau thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” (năm 1960) đã chứng tỏ rằng, Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở nắm bắt, lường định đúng xu thế phát triển của
cuộc kháng chiến, chủ động, tích cực chuẩn bị thời cơ, lực lượng, tạo ra bước phát
triển mạnh mẽ, vững chắc của cách mạng; con đường chi viện trên biển đã có những
đóng góp thiết thực trong q trình ấy.
Như vậy, quyết định đúng đắn, sáng tạo, táo bạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, mở con đường vận tải quân sự chiến lược chi viện miền Nam trên hướng biển,
đã thể hiện rõ nhãn quan nhạy bén, tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh; đáp
ứng khát vọng cháy bỏng và quyết tâm sắt đá giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc của toàn Đảng, toàn dân, tồn qn ta.
Đường Hồ Chí Minh trên biển góp phần kết nối chặt chẽ giữa hậu phương lớn miền
Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam.
Vấn đề xây dựng hậu phương chiến lược miền Bắc vững mạnh làm hậu thuẫn cho
cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của
Đảng ta. Trong đó, Đảng xác định, phải xây dựng miền Bắc thực sự trở thành "nền
gốc" cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; đồng thời,


chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa hậu phương với tiền tuyến, tính chất, nhiệm vụ
của từng miền trong việc thực hiện mục tiêu chung. Về vấn đề này, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) chỉ rõ: miền Bắc có vai trị quyết định nhất
đối với tồn bộ sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà; miền Nam có
vai trị quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ

tay sai…; xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng chính là xây dựng hậu phương
cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Từ nhận thức đúng đắn và xác định rõ vị trí, vai trị của từng miền trong cuộc đụng
đầu lịch sử với đế quốc Mỹ, Đảng ta đã hình thành chủ trương, biện pháp lãnh đạo,
chỉ đạo phù hợp để xây dựng, củng cố hậu phương chiến lược; gắn mọi hoạt động của
hậu phương lớn miền Bắc với hoạt động của tiền tuyến lớn miền Nam; làm tròn nghĩa
vụ của hậu phương - căn cứ địa cách mạng của cả nước.
Sự kiện chuyến tàu chở vũ khí đầu tiên bằng đường biển của Hải quân nhân dân
Việt Nam, từ Hải Phòng vào đến Cà Mau đã chứng tỏ, quyết định của Bộ Chính trị và
Quân ủy Trung ương mở con đường vận chuyển chiến lược trên biển, tổ chức hoạt
động chi viện từ miền Bắc cho miền Nam bằng đường biển là đúng đắn, kịp thời. Từ
đây, con đường vận chuyển chiến lược trên biển, mặc dù trải qua nhiều khó khăn, gian
khổ, tổn thất, hy sinh, nhưng vẫn được duy trì, kết nối chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng
giữa hai miền Nam - Bắc, tiền tuyến với hậu phương. Sự kết nối Bắc - Nam thực sự là
biểu hiện sinh động của khối đại đoàn kết dân tộc, cùng phấn đấu vì mục tiêu giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Có thể khẳng định rằng, suốt chiều dài của cuộc kháng chiến, ý thức sâu sắc vị trí,
vai trị của mình, qn và dân ở hậu phương cũng như tiền tuyến, Bắc cũng như Nam,
dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa xây dựng và chiến đấu, thực
hiện nhiệm vụ thiêng liêng "chống Mỹ, cứu nước", bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền
Nam thống nhất Tổ quốc. Con đường Hồ Chí Minh trên biển trong những năm tháng
ấy đã góp phần xứng đáng vào quá trình kết nối chặt chẽ giữa hậu phương lớn với tiền
tuyến lớn. Khơng chỉ có vậy, sự lớn mạnh của hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa


và thắng lợi của công tác chi viện chiến trường chính là nguồn cổ vũ, động viên, khích
lệ tinh thần đồng bào, chiến sĩ miền Nam vượt qua bao khó khăn, thử thách khốc liệt
của chiến tranh, chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược.
Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện sự sáng tạo trong tổ chức, sử dụng các
phương thức vận chuyển chi viện miền Nam

Phương thức vận chuyển giữ vai trò quan trọng, nhất là trong điều kiện phương
tiện, trang thiết bị kỹ thuật hạn chế, trong hồn cảnh vừa phải chống chọi với sóng to,
gió lớn của biển cả vừa vượt qua sự ngăn chặn quyết liệt của đối phương có trang bị
phương tiện chiến đấu hiện đại. Ý thức sâu sắc vấn đề đó và thông qua nghiên cứu về
khả năng phương tiện, con người và kinh nghiệm sau chuyến dùng thuyền từ Nam Bộ
ra miền Bắc thành công, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quyết định tổ chức, sử
dụng các loại tàu vận chuyển theo phương thức phù hợp, từ miền Bắc vận chuyển nhân
lực, vật lực vào chiến trường Nam Bộ - nơi xa hậu phương nhất, sau đó phát triển ra
chiến trường Khu 6 và Khu 5.
Về tổ chức, Bộ Quốc phịng thành lập Đồn 759 (23-10-1961) trên cơ sở Tiểu đồn
603 (cịn gọi là Tập đồn đánh cá Sơng Gianh), sau đó nâng quy mơ và đổi tên thành
Đồn 125 (tương đương trung đoàn, 24-1-1964). Để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ,
Đoàn 125 được tăng cường nhiều thuyền trưởng, thủy thủ, nhân viên kỹ thuật đào tạo
cơ bản, hầu hết là đảng viên, đồn viên, có sức khỏe, khả năng chịu đựng sóng gió
biển tốt và bản lĩnh cách mạng kiên cường, xử lý khôn khéo, táo bạo các tình huống
để giành thắng lợi trong từng chuyến đi.
Về phương tiện, từ buổi ban đầu Đoàn 603 sử dụng thuyền gỗ, chạy bằng buồm, ta
tiến lên tổ chức, xây dựng đội tàu gỗ gắn máy, sau đó là tàu sắt, nâng cao sức chở và
tăng thêm về số lượng. Những con tàu của ta được cải dạng thành tàu đánh cá với
những đặc điểm giống với ngư dân miền Nam, hoặc tàu khai thác hải sản, thậm chí cả
tàu bn của nước ngồi. Nhờ đó, những chuyến "tàu khơng số" của Hải quân tham
gia vận chuyển vũ khí trên biển đã vượt qua các bãi đá ngầm, sóng gió hiểm nguy và


×