Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề tư TƯỞNG NHÂN văn hồ CHÍ MINH và vận DỤNG tư TƯỞNG NHÂN văn hồ CHÍ MINH TRONG sự NGHIỆP đổi mới HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.04 KB, 19 trang )

TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG NHÂN
VĂN HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY
MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU

2

1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH

3

1.1. Từ truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại mà đỉnh
cao là chủ nghĩa Mác - Lênin

3

1.2. Từ những bài học kinh nghiệm phong phú trong nhân dân,
những thành tựu, kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế
giới và thực tiễn cách mạng Việt Nam

5

1.3. Từ những phẩm chất tốt đẹp trong tư duy và tình cảm của Hồ
Chí Minh

7

2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ
CHÍ MINH



8

2.1. Khái niệm con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh

8

2.2. Tình yêu thương vô hạn của Hồ Chí Minh đối với con người

9

2.3. Sự khoan dung rộng lớn của Hồ Chí Minh trước tính đa dạng
của con người

12

2.4. Con người vừa là mục tiêu giải phóng vừa là động lực của
cách mạng

14

3. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY

15

3.1. Sự nghiệp đổi mới phải vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc
của nhân dân

15


3.2. Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục - đào tạo xây dựng con người mới

17

3.3. Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ về lợi ích

17

KẾT LUẬN

19


2
LỜI NÓI ĐẦU

Tư tưởng nhân văn chiếm một vị trí quan trọng, xuyên suốt trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là tư tưởng nhân văn cách mạng, thể hiện
lòng yêu thương, kính trọng, tin tưởng, khoan dung, độ lượng, biết phát huy
yếu tố con người và vì con người, đáp ứng được nguyện vọng, yêu cầu cháy
bỏng, sâu xa của dân tộc, của nhân loại, bảo vệ giá trị con người, chủ trương
giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công tạo điều kiện cho con
người phát triển toàn diện; là tư tưởng tập hợp, đoàn kết các phong trào đấu
tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, đấu tranh cho hoà bình,
hữu nghị giữa các dân tộc, cho quyền được sống và mưu cầu tự do, hạnh phúc
cho mỗi người và mọi người.
1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH

1.1. Từ truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại mà đỉnh cao là

chủ nghĩa Mác - Lênin

- Từ truyền thống yêu nước và lòng nhân ái của con người Việt Nam.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, giàu truyền
thống văn hoá, được thừa hưởng những tư tưởng tích cực của đạo đức Nho
giáo, vừa chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ.
Truyền thống của quê hương Nghệ Tĩnh cũng có ảnh hưởng đến tư tưởng,
tình cảm của Người. Những tấm gương chiến đấu hy sinh của Mai Thúc Loan,
Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu… đã in đậm trong tâm trí của Người.
Là một người thông minh, hiếu học, lại có tình cảm sâu nặng với đất
nước và con người Việt Nam, Hồ Chí Minh rất chú trọng tìm hiểu, nghiên cứu
truyền thống yêu nước và lòng nhân ái Việt Nam.
Do điều kiện địa lý và hoàn cảnh lịch sử nhân dân ta phải liên tục đứng
lên đấu tranh chống giặc ngoại xâm và khắc phục thiên tai. Quá trình đấu
tranh là quá trình tôi luyện và hun đúc nên truyền thống của dân tộc. Đó là ý
chí kiên cường và lòng dũng cảm, tinh thần đoàn kết cộng đồng, là lòng nhân
ái, khoan dung, độ lượng, coi trọng tình người v.v… Những nét đặc sắc đó
của truyền thống Việt Nam đã có ảnh hưởng rất rõ đối với việc hình thành tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
- Từ những tư tưởng nhân văn phương Đông, phương Tây.


3

Hồ Chí Minh nghiên cứu những tư tưởng từ nhiều ngọn nguồn khác
nhau và tiếp thu những nhân tố có giá trị trong tư tưởng nhân văn phương
Đông và phương Tây.
Những tư tưởng coi trọng dân của Mạnh Tử “dân vi quý, xã tắc thứ chi,
quân vi khinh”1 (lợi ích của dân trước hết, sau mới đến lợi ích của nhà nước,
lợi ích của vua không đáng kể)… được Hồ Chí Minh tiếp thu và phát triển lên

tầm cao mới.
Nghiên cứu học thuyết của Khổng Tử, Hồ Chí Minh rút ra kết luận:
Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là đề cao tu dưỡng rèn luyện đạo đức
cá nhân. Những khái niệm: trung, hiếu, nhân, nghĩa… của Nho giáo được Hồ
Chí Minh tiếp thu và vận dụng với ý nghĩa, nội dung mới. Người cũng nghiên
cứu, tiếp thu tư tưởng từ bi, bác ái của Đức Phật, theo Người “Đức Phật là đại
từ đại bi, cứu khổ cứu nạn”2.
Không chỉ nghiên cứu, tiếp thu tinh hoa văn hoá phương Đông. Hồ Chí
Minh còn tiếp thu những tư tưởng về nhân đạo, nhân quyền, dân chủ trong
các trào lưu triết học và văn học nghệ thuật phương Tây. Về triết học, đó là
những tư tưởng của Vônte, Điđơrô…, nhằm chống lại chế độ quân chủ
chuyên chế, vạch trần những tệ hại của xã hội phong kiến giày xéo, chà đạp
các quyền tự do của con người. Về văn học nghệ thuật, Người rất thích thú
khi đọc các tác phẩm của E.min Dôla, của Víchto Huygô, của Xếcxpia, của
Rútxô, v.v… Đó là những tác phẩm đề cao lòng nhân ái, đề cao tư tưởng tự
do, bình đẳng.
Người từng nghiên cứu những tư tưởng xem con người là trung tâm bắt
đầu từ triết học cổ đại Hy Lạp, La Mã, lòng nhân ái của Đức Chúa Giêsu...
Nhưng Hồ Chí Minh nghiên cứu, tiếp thu có phê phán, kế thừa có chọn lọc.
Người cũng chỉ ra những hạn chế của những tư tưởng trên: chỉ khuyên con
người làm điều thiện nhưng chưa chỉ ra phương hướng đấu tranh với cái ác,
hướng con người lên “thiên đường” nhưng lại lờ đi những lo toan vất vả của
con người trong thực tại, xem con người là trung tâm nhưng lại đề cao thần
thánh, tuyệt đối hoá vai trò của cá nhân…
1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.539
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.197



4

- Từ chủ nghĩa nhân văn Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh tiếp thu những tư tưởng phương Đông, phương Tây
nhưng đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn
gốc lý luận cơ bản quyết định đến việc hình thành, phát triển và bản chất tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa Mác - Lênin quyết định đến việc hình thành thế giới quan,
phương pháp luận mác xít. Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh tiếp
thu phương pháp làm việc biện chứng. Phương pháp đó giúp cho Hồ Chí
Minh xem xét, đánh giá đúng những giá trị truyền thống của dân tộc và nhân
loại. Xem xét và giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai
cấp, nhân loại, giữa truyền thống và hiện đại, hôm nay và ngày mai… Phương
pháp làm việc biện chứng giúp cho tư tưởng của Người luôn có sự sáng tạo để
phát huy hiệu quả khi mà xã hội và con người luôn có sự vận động phát triển.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn bản trong tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh. Đó là sự hình thành lý tưởng giải phóng triệt để con
người; sự nghiệp giải phóng con người không thể trông chờ ở thần thánh, vĩ
nhân mà phải do chính con người đảm nhiệm, con người ở đây là quần chúng
nhân dân. Lòng nhân ái không chỉ là rủ lòng thương hay vỗ về, an ủi với
những người nghèo khổ mà phải trở thành hành động cách mạng. Sự nghiệp
giải phóng những người bị áp bức, bóc lột ở các dân tộc thuộc địa được gắn
với sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản. Người kể lại: “Từng bước một,
trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác
thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên
thế giới khỏi ách nô lệ”1.
1.2. Từ những bài học kinh nghiệm phong phú trong nhân dân, những
thành tựu, kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới và thực tiễn cách

mạng Việt Nam

- Từ những bài học kinh nghiệm phong phú trong nhân dân.
Hồ Chí Minh luôn đề cao những tinh hoa đã được kết đọng lại ở những
tư tưởng lớn, đồng thời Người rất coi trọng, nghiên cứu những bài học kinh
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 10, tr.128


5

nghiệm phong phú trong nhân dân. Đó là những bài học về cách ứng xử có
văn hoá giữa con người với con người; những bài học kinh nghiệm về đoàn
kết, đấu tranh chống thiên tai, cường quyền và áp bức… nhằm xây dựng và
bảo vệ những phẩm chất, giá trị tốt đẹp của con người.
Người luôn sâu sát, gắn bó với những người lao động, luôn thấu hiểu
tâm tư, nguyện vọng của họ. Người có thái độ tôn trọng, có phương pháp tiếp
thu khoa học những bài học kinh nghiệm phong phú của mọi tầng lớp, biết
thâu tóm, cải biến những kinh nghiệm đó cho phù hợp với hoàn cảnh vừa
mang tính khoa học vừa mang tính đại chúng. Người thường dùng những câu
tục ngữ, ca dao và những hình tượng mà nhân dân thường truyền tụng, cho
nên mỗi vấn đề Người nêu ra đều rất sâu sắc nhưng cũng rất dễ hiểu, dễ nhớ.
- Từ những thành tựu kinh nghiệm của cách mạng tư sản ở Pháp, Mỹ,
cách mạng Tân Hợi (Trung Quốc) và nhất là cách mạng Tháng Mười Nga.
Điều hấp dẫn đối với Hồ Chí Minh ngay khi còn ở trong nước là những
khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” của cách mạng tư sản Pháp, đến nước
Pháp, đến nước Mỹ, Hồ Chí Minh thấy rằng: hai cuộc cách mạng này biết đề
cao tinh thần “tự do, bình đẳng, bác ái” nên có sức thu hút và khích lệ con
người nhất định. Nhưng đó chỉ là những khẩu hiệu. Bởi vì, đằng sau nó là nạn

phân biệt chủng tộc, dưới chân tượng đài tự do là những người nghèo khổ,
lang thang. Làm gì có tự do ở người dân mất nước, làm gì có bình đẳng giữa
những người bóc lột và bị bóc lột, với những kẻ cướp nước và bán nước thì
làm gì có lòng bác ái. Con đường đó không phải là con đường mang lại tự do,
hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam và những người cùng khổ.
Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra một kỷ nguyên mới cho toàn
nhân loại “nước Nga có chuyện lạ đời, biến người nô lệ thành người tự do”.
Khi Hồ Chí Minh đến Liên Xô là lúc V.I.Lênin vừa qua đời. Sống những
ngày tháng đau buồn và sục sôi không khí cách mạng, Hồ Chí Minh đã tiếp
thu được nhiều bài học kinh nghiệm ở cuộc cách mạng Nga. Đó là bài học về
phát huy tinh thần chiến đấu dũng cảm và tinh thần lao động sáng tạo của
nhân dân. Đó là bài học về xây dựng con người mới được phát triển mọi mặt.
Đó là những bài học về xây dựng, củng cố các tổ chức cách mạng, xây dựng


6

đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhất là những bài học về chống quan liêu, chống
tham ô, hối lộ khi Đảng Cộng sản đã có chính quyền.
Từ năm 1925, Nguyễn Ái Quốc dừng chân ở Trung Quốc cũng là năm
Tôn Trung Sơn, lãnh tụ cách mạng Tân Hợi qua đời. Sống ở Trung Quốc
nhiều năm, đi lại nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người, Hồ Chí Minh thấy rằng:
“Chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với
điều kiện nước ta”1. Chính sách ở đây là chính sách của chủ nghĩa Tam dân:
dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc2.
Nhưng cách mạng Tân Hợi là cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Nội
dung của chính sách theo chủ nghĩa Tam dân có mục tiêu không triệt để. Nó
khác với quan niệm của Hồ Chí Minh về: dân tộc độc lập, dân quyền tự do,
dân sinh hạnh phúc.
- Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Mục đích của việc tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và những bài học
kinh nghiệm của thế giới không phải là để chiêm ngưỡng bình phẩm mà để áp
dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chính từ yêu cầu đòi hỏi của cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh có sự phát triển, sáng tạo để phù hợp với đặc
điểm xã hội, bối cảnh lịch sử, điều kiện về đất nước và con người. Thực tiễn
cách mạng Việt Nam là cơ sở khách quan trực tiếp để Hồ Chí Minh khái quát
lên thành lý luận, tư tưởng.
Nội dung tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chủ yếu là những tư tưởng
định hướng, tập hợp, tổ chức nhân dân Việt Nam, phát huy sức mạnh của con
người Việt Nam đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam và góp phần vào cuộc đấu
tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Hồ
Chí Minh không chỉ phát triển những vấn đề lý luận cơ bản phù hợp với đặc
điểm các dân tộc thuộc địa, đáp ứng nhu cầu bức thiết của nhân dân các dân
tộc thuộc địa, phụ thuộc mà còn rất sáng tạo trong quá trình thực hiện để cách
mạng Việt Nam giành được thắng lợi từ đó lan tỏa ra trên thế giới.
1
2

Theo sách Hồ Chí Minh truyện, tiếng Trung Quốc, Nxb Tam Liên, Thượng Hải, 1949, tr.91
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.575


7

1.3. Từ những phẩm chất tốt đẹp trong tư duy và tình cảm của Hồ Chí Minh

Những cơ sở khách quan được nghiên cứu, tiếp thu, kế thừa và phát
triển như thế nào còn phụ thuộc vào sự nỗ lực chủ quan của Hồ Chí Minh.

Có nhiều phương pháp nghiên cứu, phân tích khác nhau, nhưng về
nhân tố chủ quan có mấy điểm nổi bật sau đây:
- Đó là một con người có tri thức uyên bác.
Khi đi vào nghiên cứu bất cứ vấn đề gì chúng ta cũng thấy nổi lên
những tinh hoa trong di sản quá khứ của dân tộc và nhân loại đã được Hồ Chí
Minh tiếp thu và nâng cao phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu cách
mạng. Chúng ta luôn thấy ở Người có tri thức uyên bác từ đông, tây, kim, cổ
đến những hiểu biết phong phú trong cuộc sống. Người am hiểu các đối
tượng, các tầng lớp và sử dụng thành thạo nhiều ngôn ngữ trên thế giới…
- Đó là một con người có tình cảm sâu sắc và trong sáng.
Người không chỉ có tình cảm sâu nặng với nhân dân Việt Nam mà còn
có tình cảm thuỷ chung son sắc với bạn bè năm châu và những người cùng
khổ trên thế giới. Đi đến nơi nào Người cũng day dứt trước cảnh đói nghèo
của nhân dân lao động. Chính vì thế mà ở Người chủ nghĩa yêu nước gắn liền
với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
- Đó là một con người có ý chí và nghị lực phi thường.
Để đem lại độc lập cho dân tộc, tự do cho con người, hạnh phúc cho
nhân dân, Người đã sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì. Đối với
Người “giàu sang không thể quyến rũ, khó khăn không thể chuyển lay, uy vũ
không thể khuất phục”, Người nói: “lòng yêu thương con người, yêu thương
nhân dân của tôi không bao giờ thay đổi”.
2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ
CHÍ MINH

2.1. Khái niệm con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh không có con người chung chung, trừu
tượng, mà bao giờ Hồ Chí Minh cũng nói đến con người cụ thể: “chữ người,
nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả
nước, rộng hơn là cả loài người”1. Qua khái niệm đó chúng ta thấy rằng Hồ

1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.644.


8

Chí Minh xem xét con người trong tổng hoà các quan hệ xã hội. Cách tiếp cận
đó phù hợp với lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ở Hồ Chí Minh bao giờ cũng nói đến con người cụ thể, trong những
điều kiện lịch sử cụ thể. Tuỳ theo từng thời điểm lịch sử cụ thể, gắn liền với từng
thời kỳ cách mạng, mà Hồ Chí Minh dùng khái niệm này hay khái niệm khác
để chỉ “con người” và xem xét nó trong những bình diện khác nhau.
Ví dụ: Trong những năm 20 của thế kỉ XX, Người thường dùng các
khái niệm: “người bản xứ”; “người bị bóc lột”; “người mất nước”; “người da
đen”, “người vô sản”; “người cùng khổ”… và đối lập với họ là những tên
“thực dân”, “bọn ăn bám đủ các cỡ”, “kẻ diễm phúc có đặc quyền, đặc lợi”…
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh dùng khái niệm “dân”,
“nhân dân”, “đồng bào”, “quốc dân”. Sau năm 1954 khi miền Bắc được giải
phóng, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội thì Hồ Chí Minh dùng những khái
niệm mới như: “lao động chân tay”, “lao động trí óc”, “công nhân”, “nông
dân”, “người chủ tập thể”… cho phù hợp với các quan hệ xã hội.
Cách tiếp cận cơ bản nhất của Hồ Chí Minh là thống nhất lập trường
giai cấp với lập trường dân tộc khi đề cập đến con người với ba nội dung cơ
bản: một là, sự cảm thông sâu sắc đối với mọi nỗi đau của con người, nhất là
người nô lệ, người bị bóc lột; hai là, quyết tâm hy sinh phấn đấu để giải
phóng con người và đem lại tự do, hạnh phúc cho con người; ba là, tin tưởng
ở khả năng vươn lên của con người.
2.2. Tình yêu thương vô hạn của Hồ Chí Minh đối với con người


Trước khi tiếp xúc chủ nghĩa Mác - Lênin, nhận thức của Hồ Chí Minh
về con người chủ yếu là trong phạm vi dân tộc, sau khi tiếp cận chủ nghĩa
Mác - Lênin con người ở đây là nhân loại, trong đó có một tình hữu ái chân
thật: tình hữu ái vô sản. Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh được
dành nhiều cho những người nô lệ mất nước và những người cùng khổ trên
khắp thế gian, cho những người da đen, những người da trắng bần cùng, cho
những phụ nữ Pháp và Mỹ có chồng con sang Việt Nam làm bia đỡ đạn và
cho chính những người lính bị chết uổng trong các cuộc chiến tranh xâm lược.
Hồ Chí Minh yêu thương và quan tâm đến mọi người không trừ một ai,
không phân biệt một ai và khuyên mọi người sống với nhau phải có tình, có


9

nghĩa: như cha mẹ với con cái, anh em, bè bạn, đồng chí đồng bào, các cháu
thiếu nhi, thầy thuốc, cô giáo, học sinh, bộ đội…: Nam Bắc một nhà, Bắc
Nam là ruột thịt, đồng bào các dân tộc là anh em.
Hồ Chí Minh không phân biệt họ ở miền ngược hay miền xuôi, già hay
trẻ, trai hay gái, không trừ một ai hễ là người Việt Nam yêu nước Hồ Chí
Minh đều có tấm lòng nhân ái. Người cũng phê phán những người sống thiếu
tình nghĩa: "Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao
gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin”1.
Lòng yêu thương con người bắt nguồn từ sự thấu hiểu hoàn cảnh đang
sống của con người.
Tiếp thu truyền thống nhân ái Việt Nam, chủ nghĩa nhân văn Mác Lênin, ở Hồ Chí Minh, tình nghĩa đã được gắn liền với sự giác ngộ và do sự
giác ngộ mà tình cảm càng thêm sâu sắc. Trên cơ sở thế giới quan Mác - Lênin
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, nguồn gốc của niềm đau, nỗi khổ của con người nô lệ,
của người mất nước và của người cùng khổ là ở ngay trên trần gian, ngay trên
cuộc đời này. Đó chính là do thực dân, đế quốc tạo ra, do sự áp bức, bóc lột
giai cấp mà công nhân, nông dân và nhân dân lao động là nạn nhân.

Đi nhiều nơi trên thế giới, tiếp xúc với những người dân lao động bị
áp bức, bóc lột, Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải biết đau xót trước nỗi bất hạnh của
con người, của các dân tộc và phải có mối quan tâm sâu sắc đối với người
khác, phải che chở, giúp đỡ, đùm bọc mọi người. Người viết: "Vậy là, dù
màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc
lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà
thôi: tình hữu ái vô sản"2.
Do thấu hiểu hoàn cảnh đang sống của con người, mà lòng yêu thương
con người ở Hồ Chí Minh không có sự phân biệt màu da, dân tộc, biên giới.
Tình yêu thương đó Hồ Chí Minh dành cho tất cả những người lao động,
những người sống trong áp bức của chủ nghĩa thực dân. Tình yêu thương
đồng bào Việt Nam được quyện chặt với tình yêu thương nhân loại bị áp bức
Người viết: “Than ôi! trước lòng bác ái thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều
1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.554
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1, tr.266


10

là máu, người Pháp hay người Việt cũng đều là người” 3; hoặc: “Tôi vô cùng
công phẫn trước những tổn thất và tàn phá do quân Mỹ đã gây ra cho nhân
dân và đất nước chúng tôi; tôi cũng rất xúc động thấy càng ngày có nhiều
thanh niên Mỹ chết vô ích ở Việt Nam”2.
Ở Hồ Chí Minh, lòng yêu nước, thương dân, thương nhân loại bị đau
khổ, áp bức mang một nội dung mới chứa đựng ý nghĩa cách mạng thực sự
sâu sắc. Đó hoàn toàn không phải là lòng thương kiểu tôn giáo, hay lòng tin
của “bề trên” nhìn xuống, “chăn dắt”, “cứu tinh” dân. Ngược lại, vì sống giữa

lòng dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý, nên Người có lòng tin mãnh liệt
vào sức mạnh và tính chủ động sáng tạo của quần chúng nhân dân đến năm
1921, Hồ Chí Minh đã có những quan điểm khác hẳn với nhiều suy nghĩ trước
đó. Người viết: “Bị đầu độc cả về tinh thần lẫn thể xác, bị bịt mồm và bị giam
hãm, người ta bị dùng làm đồ để tế cái ông thần tư bản… Không: Người
Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi…
Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương dấu một cái gì đang sôi
sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến” 3.
Theo Hồ Chí Minh, “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân,
trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân" 4 và
nếu "dân khí mạnh thì không quân lính nào, súng ống nào chống lại nổi” 5. Vì
vậy, “vô luận việc gì đều do người làm ra và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều
thế cả”6. Nhân dân là người sáng tạo mọi giá trị vật chất và tinh thần, Hồ Chí
Minh có niềm tin vững chắc rằng với tinh thần quật cường và lực lượng vô
tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân, chẳng
những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi.
Tình yêu thương vĩ đại của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở chỗ suốt đời
đấu tranh cho tự do và hạnh phúc của mọi người, còn đối với bản thân mình
thì sống vô cùng giản dị, thanh đạm, Hồ Chí Minh chăm lo tất cả, chỉ quên có
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.457
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.488
3
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1, tr.28
4
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 8, tr.276
5
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.274
6

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.295
2


11

riêng mình. Rời nước ra đi với thân phận người nô lệ - mất nước, từng sống
và hoạt động hàng chục năm trong cuộc đời của người lao động làm thuê, lúc
bần hàn cũng như khi làm Chủ tịch nước đều không chút của riêng nào khác
ngoài một chiếc máy chữ cũ, một đôi dép lốp, vài bộ quần áo bạc màu và mấy
thứ đồ dùng cá nhân giản dị khác. Hồ Chí Minh trong tư tưởng cũng như
trong hành động, không đứng ở trên cao nhìn xuống ban ơn, không đứng ở
bên ngoài cảm thông mà đứng ngay trong niềm vui, nỗi buồn của nhân dân,
đập cùng một nhịp tim, chia cùng một sức sống, mang cùng một khát vọng… với
nhân dân; trong chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân và trong sự
thanh cao tâm huyết của tâm hồn, trong tầm cao của trí tuệ để nhận thức và
giải quyết các vấn đề về con người. Hồ Chí Minh gắn bó với dân tộc, với nhân
dân và với con người từ trong con tim và khối óc, trọn vẹn suốt cả cuộc đời.
2.3. Sự khoan dung rộng lớn của Hồ Chí Minh trước tính đa dạng của
con người

Hồ Chí Minh nhìn con người trong tính đa dạng các quan hệ xã hội,
trong tính cách khát vọng, trong phẩm chất và khả năng… Theo Người, mỗi
cá nhân cũng như mỗi cộng đồng người đều có ưu - khuyết; tốt - xấu; mặt
được - mặt chưa được… rất phong phú như năm ngón tay dài ngắn khác nhau,
như mấy triệu con người Việt Nam “có người thế này, có người thế khác”,
nhưng tấm lòng của Người đều bao dung tất cả. Hồ Chí Minh từng nói: Tuy
ngắn dài khác nhau, nhưng cả năm ngón tay đều hợp nhau ở nơi bàn tay, tuy
có người thế này người thế khác nhưng đều cùng là nòi giống Lạc Hồng, ai
cũng có ít hay nhiều lòng yêu nước.

Trong buổi nói chuyện tại Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
lần thứ II, Hồ Chí Minh đã nêu nên khẩu hiệu: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết. Thành công, thành công, đại thành công” 1, trong chiều sâu của khẩu
hiệu đó thấm đượm lòng nhân ái bao la của Hồ Chí Minh. Nếu không có
lòng nhân ái, khoan dung cao cả, trân trọng phần thiện trong mỗi con người
thì không thể quy tụ toàn thể dân tộc được. Người còn viết: “Sông to, biển
rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 10, tr.350


12

chén nhỏ, cái đĩa cạn thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp,
nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn, cũng như cái chén, cái đĩa cạn” 1.
Với lòng khoan dung độ lượng như sông sâu, biển rộng, vì lợi ích tối
cao của Tổ quốc, Hồ Chí Minh đã tập hợp quanh mình và phát huy tác dụng
của mọi người, kể cả những người đã từng làm tay sai cho địch dưới triều đại
cũ như: cụ Thượng Thư Bùi Bằng Đoàn, cụ Khâm sai đại thần Phan Kế
Toại… Hồ Chí Minh còn dung nạp được cựu Hoàng Bảo Đại trong khi chính
ông ta đã ký bản án tử hình vắng mặt dành cho Hồ Chí Minh…
Một cộng đồng dân tộc, một xã hội bao giờ cũng có muôn vàn mối
quan hệ phức tạp thuộc về cả quá khứ lẫn hiện tại. Việc giải quyết các mối
quan hệ ấy, theo Hồ Chí Minh phải xuất phát từ mục tiêu giải phóng giai cấp,
giải phóng con người, giải phóng xã hội và vì tình yêu thương giúp đỡ lẫn
nhau giữa con người với con người. Hồ Chí Minh đã thể hiện tinh thần này
qua các chính sách: đối với kiều dân nước ngoài, tháng 10-1945 trong Thư
gửi những người Pháp ở Đông Dương, rất có lý, có tình, Hồ Chí Minh đã chỉ
ra tính chính nghĩa trong cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, kêu gọi

lương tri của những người Pháp đang sinh sống ở Đông Dương, trịnh trọng
tuyên bố chính sách bảo vệ tính mạng, tài sản của họ và tình thân ái đối với
những người lương thiện. Ngày 26/01/1946, trong Quốc lệnh bao gồm 10
công được thưởng và 10 tội phạt tử hình, do Hồ Chí Minh ban bố với tư cách
là Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ở Khoản 7 có ghi: “Vô
cớ sát hại Kiều dân ngoại quốc sẽ bị xử tử”2.
Đối với tù hàng binh thì một mặt khoan hồng, độ lượng, thuyết phục,
cảm hoá họ để có lợi cho nhân dân, với những kẻ tàn bạo thì đề cao chính
nghĩa, khêu gợi cái nhân tính, cái thiện còn sót lại để giảm sự hung hăng tàn
bạo; mặt khác, Hồ Chí Minh chỉ rõ: trong các “kỷ luật chiến trường” có kỷ
luật cấm giết hại và ngược đãi tù binh.
Đối với cán bộ, đảng viên mắc phải khuyết điểm, bao giờ Hồ Chí Minh
cũng trân trọng, khuyến khích mặt tốt, mặt thiện của con người; đồng thời lấy
1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.644
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.164


13

đó làm biện pháp để giúp đỡ cán bộ, đảng viên sửa chữa, khắc phục. Người
viết: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho
phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất
dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư,
tật xấu (trừ hạng người phản lại Tổ Quốc và nhân dân) ta cũng phải giúp đỡ
họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy
lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời” 1. Điều đó thể hiện tình thương
yêu, quý trọng và sự khoan dung rộng lớn của Hồ Chí Minh.

2.4. Con người vừa là mục tiêu giải phóng vừa là động lực của cách mạng

Mục tiêu phương hướng của cách mạng theo Hồ Chí Minh là giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, thực hiện độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu cho sự bình đẳng của tất cả các dân tộc
cũng như hạnh phúc đầy đủ cho toàn nhân loại.
Khi đất nước còn nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết, trên hết là giải
phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân
thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn.
Ngay từ năm 1945, Người đã nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được
hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì” 2, vì vậy, chúng
ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân
có chỗ ở, làm cho dân được học hành… Mục tiêu giải phóng con người ở đây
không chỉ giải phóng về mặt xã hội mà còn phải giải phóng mọi tiềm năng thể
chất, trí tuệ, tài năng sáng tạo để con người phát triển toàn diện, hài hoà, vươn
tới hoàn thiện. Mục tiêu này chi phối toàn bộ quá trình hoạt động lãnh đạo
của Đảng, hướng mọi hoạt động vào sự nghiệp giải phóng con người toàn
diện.
Theo Người: quyền tự do, bình đẳng của con người là vấn đề thiêng
liêng gắn liền với mưu cầu hạnh phúc, bảo đảm điều kiện sống và phải đáp
ứng nhu cầu của cuộc sống. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thấm nhuần bản
chất giai cấp vô sản, “không hẹp hòi với bất cứ một bộ phận nào hay một dân
tộc nào”, nhưng đó cũng chính là ánh sáng soi đường cho “những người yếu
1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.558
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.56



14

hèn lao khổ của các dân tộc bị chà đạp đứng lên đấu tranh”, mang lại tự do,
hạnh phúc cho mỗi con người và cho tất cả mọi người.
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả
nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân.
Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp giải phóng là do chính bản thân con
người thực hiện, nhưng không phải mọi người đều trở thành động lực, mà
phải là những con người được thức tỉnh, được giác ngộ, giáo dục, định hướng
và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hoá, đạo đức, được nuôi dưỡng
trên nền tảng truyền thống lịch sử và văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh tin tưởng vào con người Việt Nam: “Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn
sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự hiểm nguy, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” 1. Hiểu sâu sắc sức mạnh của
nhân dân, nhưng để phát huy sức mạnh đó cần phải thức tỉnh và tổ chức chặt
chẽ có như vậy mới tạo ra động lực để chống lại và lật đổ bộ máy đàn áp, lừa
bịp khổng lồ của chủ nghĩa thực dân cùng các thế lực phản động đồng minh
của nó. Câu hỏi đặt ra là: Bắt đầu từ tay trắng, từ con số không, trong vô số
nhu cầu, từ cái kim, sợi chỉ trở đi, thì “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?”,
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mệnh trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong
thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức
và vô sản giai cấp mọi nơi”2.
Như vậy, Hồ Chí Minh xác định rõ con người là mục tiêu, vừa là động
lực của cách mạng, nhưng chỉ có thể khai thác, phát huy được động lực to lớn
đó khi họ được giáo dục, tập hợp, tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ. Và chỉ có
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam

mới có khả năng đoàn kết, tập hợp, lôi kéo các tầng lớp nhân dân đứng lên
làm cách mạng.
1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr.171
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.267-268


15
3. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY

3.1. Sự nghiệp đổi mới phải vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của
nhân dân

Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh chỉ có nguyện vọng lớn lao nhất như
Người từng nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn đến tột bậc là làm
sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” 1. Ngày nay “Yêu Tổ
quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ
nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày
một giàu mạnh thêm”2. Quán triệt quan điểm đó, Đảng ta chỉ rõ: “Trong quá
trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”3.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện mục tiêu chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Độc lập dân tộc theo quan điểm của Đảng ta là độc lập thực sự, đó là nền độc
lập về chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao… là nền độc lập đem lại cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Một nền độc lập như vậy chỉ có

thể gắn liền với xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Chỉ có đi lên chủ nghĩa xã
hội mới đem lại độc lập dân tộc thực sự và bền vững, nhân dân mới có đời
sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Do vậy, “Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào dân, phát huy
vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân”4. Quần chúng nhân dân là người sáng
tạo ra mọi giá trị vật chất, tinh thần trong xã hội, cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân, vì dân và do nhân dân. Đảng ta khẳng định: “Đổi mới
là sự nghiệp của nhân dân, do dân, vì dân”, “con người là vị trí trung tâm của
đổi mới”, “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững”. Để đổi mới thành công Đảng ta luôn động
viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế và toàn xã hội tích cực
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.164
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 9, tr.173
3
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội X, Nxb CTQG, Hà Nội. 2006, tr.70.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội X, Nxb CTQG, Hà Nội. 2006, tr.71
2


16

tham gia. Mọi đường lối của Đảng phải phù hợp với nguyện vọng, khả năng
của quần chúng nhân dân, thực sự đem lại lợi ích thiết thực cho các tầng lớp
nhân dân.
“Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả
nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội...” 1.
Bản chất nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế thể hiện

ở mục đích cao cả đó là vì con người, hướng tới tạo lập cho con người, cho
nhân dân có cuộc sống ngày càng no đủ. Phấn đấu theo tư tưởng của Người,
Đảng, Nhà Nước và nhân dân ta đã nỗ lực hết mình và sau hơn 20 năm đổi
mới về cơ bản nhân dân ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, học hành. Mục tiêu
xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta là xây dựng
một xã hội: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hiện
nay chúng ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước cũng chính là hướng tới mục tiêu giàu tính nhân văn đó.
3.2. Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục - đào tạo xây dựng con người mới
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm
năm phải trồng người”, quán triệt tư tưởng đó Đảng ta xác định: tất cả vì con
người và do con người. Sự nghiệp trồng người của Hồ Chí Minh và Đảng ta
đã dày công thực hiện có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với cách mạng Việt
Nam, để trồng người cần phải áp dụng nhiều biện pháp, trong đó giáo dục là
biện pháp quan trọng nhất.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta xác định:
“Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu,
là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” 2.
Để thực hiện quan điểm đó Đảng ta chỉ rõ: “Nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy
và học; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”, chấn hưng nền giáo
dục Việt Nam”3… Đây là giải pháp chiến lược giáo dục quan trọng, phản ánh
xu thế phát triển giáo dục của thời đại, nhu cầu phát triển giáo dục của đất
nước, quyết tâm và những con đường, phương châm chấn hưng sự nghiệp
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội X, Nxb CTQG, Hà Nội. 2006, tr.101
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội X, Nxb CTQG, Hà Nội. 2006, tr.94-95.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội X, Nxb CTQG, Hà Nội. 2006, tr.95

2


17

giáo dục của chúng ta trong giai đoạn hiện nay, nhằm phát triển con người
một cách toàn diện, phát triển con người cả trí dục, đức dục và thể dục, coi
trọng cả đức lẫn tài, hai mặt đó phải thống nhất với nhau không tách rời.
3.3. Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ về lợi ích

Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là tư tưởng của một nhà cách mạng
chân chính, giàu lòng nhân ái bao dung, nhưng đó là sự khoan dung có
nguyên tắc theo hướng tích cực nhằm xây dựng một lối sống, một cách ứng
xử có văn hoá, văn minh với mọi người, phấn đấu cho tự do bình đẳng thật sự
và hạnh phúc trọn vẹn cho nhân dân Việt Nam và cho toàn nhân loại. Tư
tưởng đó thể hiện khát vọng của nhân dân các dân tộc thuộc địa, là tư tưởng
tập hợp và đoàn kết các phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc, phấn đấu
cho hoà bình và hữu nghị các dân tộc.
Ngày nay đất nước ta đã hoà bình, chúng ta có điều kiện mở rộng quan
hệ hợp tác về kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật… với tất cả các nước để xây
dựng chủ nghĩa xã hội và cũng là để tăng thêm sự hiểu biết và tình hữu nghị
giữa nhân dân các dân tộc. Trong điều kiện đó, tuy hoà bình và hợp tác có
chiều hướng phát triển nhưng “Toàn cầu hoá tạo ra những cơ hội nhưng cũng
chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn thách thức cho các quốc
gia, nhất là các nước đang phát triển. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục
bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt
động can thiệp, lật đổ, tranh chấp về lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên tiếp
tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp…”1. Do đó, trong quá
trình đổi mới đất nước chúng ta càng cần quán triệt quan điểm “Dĩ bất biến,
ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh trong quan hệ quốc tế; một mặt, giải quyết

hài hoà các lợi ích cá nhân - tập thể, lợi ích của dân tộc - giai cấp - nhân loại;
mặt khác phải nêu cao cảnh giác cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội phải
đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong xây dựng quân đội ta
hiện nay phải thực sự quan tâm chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của
bộ đội, thực hiện tốt công tác chính sách. Đó cũng là điều kiện bảo đảm xây
dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Tăng cường giáo dục nâng cao ý thức
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội X, Nxb CTQG, Hà Nội. 2006, tr.21


18

trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi lực lượng, trước hết là các cấp lãnh đạo, chỉ
huy, cơ quan chuyên môn về thực hiện chính sách trong quân đội. Tổ chức
thực hiện tốt chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp, chính sách ưu đãi, chính
sách bảo hiểm xã hội, bảo đảm đời sống, chính sách thương binh, gia đình liệt
sĩ, đãi ngộ người có công với cách mạng, chính sách hậu phương quân đội…
Phát huy vai trò của các cấp, các ngành trong và ngoài quân đội; kết hợp Nhà
nước và nhân dân cùng làm đồng thời nâng cao tinh thần tích cực, chủ động
của từng đơn vị trong thực hiện công tác chính sách.
Trong tình hình hiện nay, phải tập trung nâng cao chất lượng giáo dục,
đào tạo cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý,
chất lượng cao. Trong đó coi trọng chất lượng chính trị, kết hợp hài hoà giữa
phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực, phương pháp, tác phong công tác
theo yêu cầu về chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình cán bộ. Kết hợp chặt
chẽ giữa đào tạo, bồi dưỡng với bố trí sử dụng hợp lý và chính sách đãi ngộ
thích đáng nhằm khuyến khích cán bộ tham gia đào tạo, tự đào tạo, bồi dưỡng
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

KẾT LUẬN

Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ tiếp thu truyền thống
văn hoá dân tộc, chủ nghĩa nhân văn Mác - Lênin và kinh nghiệm thực tiễn
đấu tranh cách mạng. Đó là hệ thống tư tưởng về tình thương yêu con người,
sự khoan dung, độ lượng, niềm tin ở con người và sự nghiệp giải phóng con
người. Tư tưởng đó còn thể hiện ở "chủ nghĩa hành động" và đòi hỏi hành
động nhằm đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng, hành
động của Người đặc biệt trong sáng và cao cả, thấm đượm tình đồng bào,
đồng chí nặng nghĩa quên mình suốt đời vì dân, vì nước, không mang danh lợi
bản thân. Có thể nói, Người là bậc "đại trí, đại nhân, đại dũng".
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh không chỉ ảnh hưởng trong phạm vi
dân tộc mà còn có giá trị to lớn, sâu xa đối với nhân loại, Người là nhà nhân
đạo chân chính của thời đại chúng ta, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp đấu
tranh giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội.


19

Thực hiện tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới
hiện nay đòi hỏi chúng ta phải thực sự quan tâm đến vấn đề con người, vì con
người và do con người, giải quyết hài hoà lợi ích các giai cấp, dân tộc, tôn
giáo và mọi tầng lớp, mọi bộ phận dân cư, đồng thời đẩy mạnh sự nghiệp giáo
dục, đào tạo, phát huy nhân tố con người trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.



×