Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

giải pháp phát triển ngoại thương sau khi VN gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.65 KB, 18 trang )



Lời mở đầu

I/ Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam trước khi gia nhập WTO
(*) Thực trạng và hạn chế
II/ Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau khi gia nhập WTO
1.Những thay đổi trong cơ cấu hàng xuất nhập khẩu sau khi gia nhập
a) Hàng xuất khẩu
b) Hàng nhập khẩu
2.Những thành tựu đạt được
3.Những hạn chế
a)Với hàng xuất khẩu
b)Với hàng nhập khẩu
III/Tác động của hội nhập tới khả năng mở rộng thị trường của những
ngành có lợi thế so sánh
1.WTO và những ngành có lợi thế so sánh
2.Tác động của hội nhập tới khả năng mở rộng thị trường của những ngành
này
IV/Những giải pháp phát triển ngoại thương sau khi VN gia nhập WTO
Kết Luận
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu,con đường để đưa lại sự
phồn thịnh cho các quốc gia.Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang diễn ra dù có
chủ định hay tự phát.Việt Nam cũng vậy. Việt Nam cũng như bất kỳ nước nào
khác muốn gia nhập WTO đều phải trải qua một trình tự có chăng chỉ là khác
nhau về thời gian thực hiện trình tự. Thời gian dài hay ngắn thuộc vào nước
xin gia nhập và các thành viên khác của WTO đàm phán với nhau ra sao, chấp
nhận những nhượng bộ nhau như thế nào.
Ngày 1/1/1995 Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO. WTO tiếp
nhận đơn xin gia nhập của Việt Nam và Việt Nam trở thành quan sát viên của


tổ chức này. Ngày 31/1/1995 Nhóm công tác (của WTO) về việc Việt Nam
gia nhập WTO được thành lập.Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ
150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào ngày 11-1-2007 là một
dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Ngay sau khi gia nhập WTO, chúng ta cũng đã bắt tay vào xây dựng
Chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế. Ðể thực hiện nghĩa vụ thành viên WTO,
Việt Nam đã tiến hành điều chỉnh chính sách thương mại theo hướng minh
bạch và thông thoáng hơn, ban hành nhiều luật và các văn bản dưới luật để
thực hiện các cam kết đa phương, mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, cũng
như các biện pháp cải cách đồng bộ trong nước nhằm tận dụng tốt các cơ hội
và vượt qua thách thức trong quá trình hội nhập.
Câu hỏi đặt ra là khi nước ta gia nhập vào WTO thì đã có những thay
đổi gì trong cơ cấu XNK?Tác động của việc gia nhập WTO tới cơ cấu này là
như thế nào?
I/Thực trạng trong cơ cấu hàng XNK của Việt Nam trước khi gia
nhập WTO
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam còn lạc hậu:
- Từ lâu vấn đề cần lưu ý của xuất khẩu Việt Nam là hiệu quả kinh tế và
cơ cấu của mặt hàng xuất khẩu. Trên 60% giá trị kim ngạch là mặt hàng xuất
khẩu ở dạng thô, giá trị gia tăng thấp. Hàng công nghiệp thì tỷ lệ gia công
cao, nhất là may mặc và giày dép.
- Trong cán cân thương mại từ năm 2006, tỷ lệ tăng trưởng nhập khẩu
luôn cao hơn so với xuất khẩu. Năm 2007 tỷ lệ này là 39,6/21,9, với mức
nhập siêu là 14,2 tỷ USD so với 5,07 tỷ USD của năm 2006. Quí I/2008, đạt
mức nhập siêu 7,4 tỷ USD, bằng 56,5% so với kim ngạch xuất khẩu. Nguyên
Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển nhận xét: “Đây là con số rất nguy
hiểm, phá vỡ ổn định kinh tế vĩ mô. Một trong những nguyên nhân khiến giá
trị xuất khẩu của Việt Nam thấp là vì chúng ta chỉ làm gia công và lắp ráp”.
- Hàng hoá của Việt Nam chưa có trên thị trường thế giới,tính cạnh
tranh thấp vì chất lượng và mẫu mã giá đầu vào cao.Chi phí cho xuất khẩu

lớn, nhất là thu gom hàng hoá,vận tải,tiêu cực phí ở khâu vận tải và thủ tục
hải quan
II/ Cỏ cấu hàng hoá XNK của Việt Nam sau khi gia nhập WTO
1. Những thay đổi về cơ cấu
a)Về xuất khẩu
- Gia nhập WTO làm cơ cấu sản xuất chuyển dịch theo hướng: gia tăng
quy mô sản xuất của các ngành sử dụng nhiều lao động,đòi hỏi ít vốn đầu
tư,phát huy được lợi thế so sánh của Việt Nam
- Các ngành mở rộng sản xuất mạnh nhất do gia nhập WTO: may
mặc(16%),điện tử(8.4%),giày(2.43%),sản xuất máy móc(1%)
- Một số ngành quy mô sản xuất bị thu hẹp do gia nhập WTO nhưng tác
động không lớn.Những ngành thu hẹp sản xuất nhất là: Lâm sản(-2%),gỗ và
sản phẩm từ gỗ(-1.82%),hoá chất(-1.33%)…
-Tăng trưởng xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào tăng trưởng kinh tế thế
giới. Cơ cấu xuất khẩu tiếp tục có sự chuyển biến về chất, chuyển dần từ
hàng nguyên liệu thô sang hàng chế biến. Thị trường xuất khẩu cũng được đa
dạng hóa và giúp Việt Nam ít phụ thuộc hơn vào sự biến động của từng nước
bạn hàng. Tỷ trọng của các mặt hàng nông sản và khai khóang trong tổng giá
trị xuất khẩu giảm và tăng tỷ trọng của các sản phẩm chế tạo
b)Về nhập khẩu
- Trong cơ cấu nhập khẩu, máy móc thiết bị và nguyên vật liệu vẫn
chiếm tỷ trọng lớn. Tuy nhiên, đã có những dấu hiệu cho thấy tỷ trọng của
hàng tiêu dùng đang tăng lên. Việt Nam vẫn nhập chủ yếu hàng hóa từ các
nước Đông Nam và Trung Quốc. Điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng
cạnh tranh của Việt Nam trong tương lai khi hàng nhập chủ yếu là máy móc
và nguyên vật liệu.
- Nhập siêu tăng mạnh là vấn đề làm đau đầu các nhà quản lý. Do tốc
độ tăng nhập khẩu cao gấp rưỡi tốc độ tăng xuất khẩu, nên nhập siêu đã gia
tăng so với cùng kỳ năm trước cả về kim ngạch tuyệt đối (12,45 tỷ USD so
với gần 5,1 tỷ USD) và cả về tỷ lệ so với xuất khẩu (25,6% so với 12,7%)…

Đây là mức nhập siêu cao nhất so với nhiều năm gần đây. Các mặt hàng nhập
khẩu lớn, có mức tăng mạnh bao gồm: 64%, thép tăng 56,4%, phôi thép ô tô
nguyên chiếc tăng 132%, linh kiện ôtô tăng tăng 37%, máy móc và thiết bị
phụ tùng tăng 54%
Nhập siêu tăng mạnh là do các nguyên nhân chủ yếu như: nhu cầu nhập
khẩu để phục vụ sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển kinh tế tăng mạnh; giá
các mặt hàng nguyên liệu nhập khẩu tăng cao cũng khiến cho kim ngạch nhập
khẩu tăng lên đáng kể; nhu cầu tiêu dùng và sức mua trong nước tăng cao do
ảnh hưởng của việc cắt giảm thuế. Mức nhập siêu như thế là quá cao, vượt xa
so với năm trước và cao gấp hơn hai lần so với kế hoạch. Do hiệu quả và sức
cạnh tranh của sản xuất trong nước còn hạn chế nên nhiều mặt hàng đã thua
ngay trên sân nhà. Trong khi chúng ta xuất siêu với Mỹ, EU nhưng lại nhập
siêu lớn đối với các nước trong khu vực, nhất là Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái
Lan Điều này cũng thể hiện một thực tế là năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế còn thấp.
2. Những thay đổi cụ thể và những thành tựu đạt được
* Cơ cấu hàng xuất khẩu thay đổi tích cực:
- Tốc độ tăng trưởng của nhóm hàng nông, lâm, thủy sản đạt mức cao
17,7%, với kim ngạch xuất khẩu khoảng gần 11,7 tỷ USD. Cơ hội đầu tiên lại
chính là tỷ lệ quan trọng của nông sản và thủy sản trong cơ cấu xuất khẩu của
Việt Nam. Cùng với các ngành hàng xuất khẩu quan trọng khác như may mặc
và giày da, nông lâm thủy sản là những ngành hàng sử dụng nhiều nguồn lực
lao động tại chỗ hơn là nguồn vốn đầu tư nước ngoài, do đó sẽ bị tác động ít
hơn so với hai lĩnh vực tài chính và bất động sản. Nông sản xuất khẩu còn có
vai trò quantrọng trong nền kinh tế Việt nam vì liên quan đến hơn 70% dân
số, là một thị trường lớn cho các ngành hàng sản xuất khác. Khi xuất khẩu
nông sản được giữ ổn định và tăng trưởng, cả nền kinh tế có nhiều cơ hội hơn
để phát triển. Vai trò của ngành nông nghiệp trong việc ổn định kinh tế của
Việt Nam đã được chứng minh trong quá khứ. Năm 1989, công nghiệp tăng
trưởng âm, nhưng sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh nên cứu được khủng

hoảng. Đến năm 1999, một lần nữa, công nghiệp – dịch vụ đều chựng lại, chỉ
có nông nghiệp tăng trưởng tốt nên đã cứu được nền kinh tế đang bên bờ vực
khủng hoảng.
- Tuy giá các mặt hàng chủ đạo như gạo, cà phê, hạt điều, hạt tiêu, cao
su, thủy sản không đạt cao như 6 tháng đầu năm 2008 nhưng sẽ ổn định ở
mức cao trong thời gian tới và lượng xuất khẩu có khả năng vượt hơn dự kiến,
trong đó riêng gạo có thể đạt trên 5 triệu tấn.Nhóm hàng này ước tính sẽ
chiếm tỷ trọng hơn 19% tổng kim ngạch xuất khẩu.
-Cà phê xuất khẩu cũng gặp thuận lợi về thị trường, giá tăng từ 800 đến
1000 USD/tấn, nên đây là năm đầu tiên kim ngạch cà phê vượt gạo. Dù ảnh
hưởng của bão lụt khiến đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản bị thiệt hại, song trên
toàn cục, bức tranh xuất khẩu thuỷ sản vẫn sáng sủa, vì đã tạo được chỗ đứng
trên thị trường của EU, Mỹ, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông , có giá cao
và năng lực chế biến tăng. Xuất khẩu hạt điều tiếp tục khẳng định ngôi vị cao
nhất, có mặt trên 40 thị trường, trong đó lượng cung vào Hoa Kỳ, Trung
Quốc, EU, Nhật Bản và Trung Đông đều tăng, riêng thị trường Hoa Kỳ tăng
tới 33%, giá cũng tăng hơn khoảng 190 USD/tấn. Từ chỗ chúng ta chỉ chế
biến từ hạt điều thô thu gom nội địa, nay phải nhập khẩu thêm hạt điều thô để
chế xuất cho đủ công suất các dây chuyền chế biến và còn xuất khẩu cả công
nghệ chế biến hạt điều, nên càng làm cho hình ảnh mặt hàng này thêm ấn
tượng
-Do mất cân đối gay gắt cung - cầu về gạo trên thị trường thế giới, trong
khi chất lượng gạo của ta được cải thiện nhờ tiến bộ trong gieo trồng, bảo
quản và xay sát, nên chỉ 11 tháng đầu năm đã đạt mục tiêu xuất khẩu năm.
Lần đầu tiên gạo xuất khẩu của Việt Nam vươn lên ngang giá với gạo Thái
Lan, thậm chí có chủng loại còn trúng thầu với giá cao hơn. Gạo Việt Nam đã
xuất khẩu sang hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, kể cả EU, Hoa Kỳ, Nhật
Bản - là những thị trường có yêu cầu khắt khe
- Nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản đạt khoảng 13 tỷ USD trong
năm 2008, chiếm hơn 21% tổng kim ngạch xuất khẩu.Tốc độ tăng trưởng của

nhóm này ước tính đạt khoảng 37% so với năm 2007
- Nhóm hàng chế biến, hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ tiếp tục
tăng trưởng trong các tháng cuối năm, dù mức tăng có thể thấp hơn 6 tháng
đầu năm 2008. Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này
trong năm nay sẽ đạt 36,5 tỷ USD, tăng hơn 25% so với năm trước, và chiếm
tỷ trọng 59,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước
+ Đặc biệt là mặt hàng cá tra đông lạnh, một trong những mặt hàng thủy
sản xuất khẩu chính của Việt Nam, là khả năng cạnh tranh bằng giá rẻ của
nông sản Việt Nam. Một nghiên cứu trước đây của chúng tôi với các mô hình
kinh tế lượng đã chứng minh rằng cá tra, cá basa là một sản phẩm có khả năng
thay thế cao đối với sản phẩm cá nheo tại thị trường Mỹ. Khi giá của sản
phẩm cá nheo tăng lên, người tiêu dùng Mỹ sẽ chuyển sang sử dụng cá tra,
basa trong khi chiều ngược lại rất khó xảy ra. Một số nghiên cứu khác cũng
cho rằng cá tra, basa đông lạnh nhập vào Mỹ là sản phẩm ‘thứ cấp’, nhu cầu
của mặt hàng này tăng khi thu nhập người tiêu dùng giảm. Trong thời kỳ suy
thoái kinh tế toàn cầu hiện nay, thu nhập người tiêu dùng của Mỹ đang giảm
đáng kể, nhu cầu sản phẩm giá rẻ sẽ tăng cao. Cá tra, basa Việt Nam có cơ hội
giành lại thị phần tại thị trường Mỹ. Với lợi thế giá rẻ, các sản phẩm xuất
khẩu khác càng có cơ hội nhiều hơn tại thị trường Mỹ, một trong những thị
trường chính của xuất khẩu Việt Nam.
- Riêng đối với hàng dệt may, do chi phí đầu vào tăng cao nên Bộ
Công Thương cho rằng cần thực hiện quyết liệt các biện pháp khuyến khích
sản xuất và xuất khẩu mới có thể đảm bảo kim ngạch xuất khẩu 9,5 tỷ USD
trong năm 2008,tăng 23% so với cùng kỳ năm trước.hạn ngạch dệt may vào
thi trường Mỹ luôn là vấn đề lớn với ngành dệt may Việt Nam. Ông Nguyễn
Xuân Hồng (TGĐ Công ty cổ phần may Sài Gòn 3) cho biết: "Ngành may VN
đang gặp nhiều khó khăn vì chế độ hạn ngạch (quota) khi xuất khẩu vào Mỹ.
Khi VN gia nhập WTO, tôi tin là những khó khăn này sẽ được tháo gỡ. Mới
đây thôi, nhiều khách hàng Mỹ đã chuyển đơn hàng từ VN qua Indonesia vì
ngại chuyện quota ở nước ta. Vì thế, khi VN là thành viên WTO rồi, dù quota

còn hay không, tâm lý khách hàng sẽ vững tâm hơn khi làm ăn với các nhà
sản xuất VN. Tư thế của các DN VN cũng sẽ khác khi đàm phán với các nhà
nhập khẩu nước ngoài, chúng ta sẽ đỡ lép vế hơn, đỡ bị ép giá hơn Mặt
khác, thuế nhập khẩu có thể sẽ giảm, hàng hóa của VN sẽ dễ vào Mỹ hơn, các
hình thức rào cản thương mại khác được tháo dỡ".Việt Nam vào WTO, DN
được lợi nhiều nhưng cạnh tranh sẽ gay gắt hơn. Kinh doanh nội địa cả ngành
dệt may lẫn ngành giày da sẽ được lợi vì thuế nhập khẩu nguyên, phụ liệu sẽ
giảm trong khi nguồn cung cấp sẽ phong phú hơn. Chi phí các dịch vụ viễn
thông, điện, nước sẽ giảm nên sức cạnh tranh cho các sản phẩm dệt may và
giày da sẽ tăng lên. Nhưng ngược lại, kinh doanh nội địa sẽ gặp khó khăn vì
các "đại gia" quốc tế vào, sức ép cạnh tranh rất lớn".
-Xuất khẩu gỗ là một trong những ngành có được nhiều thuận lợi từ
việc Việt Nam gia nhập WTO. Vì thế, đứng trước ngưỡng cửa tổ chức thương
mại lớn nhất thế giới này, ông Trần Quốc Mạnh (Phó chủ tịch Hiệp hội gỗ
TP.HCM) hồ hởi: "VN gia nhập WTO sẽ đem lại nhiều thuận lợi cho ngành
xuất khẩu gỗ VN. Đầu tiên là vấn đề thuế quan. Hiện hơn 80% linh kiện,
nguyên phụ liệu trong ngành chế biến gỗ được nhập khẩu. Khi VN chính thức
là thành viên của WTO đương nhiên thuế nhập khẩu linh kiện, nguyên phụ
liệu từ các nước thành viên của WTO sẽ giảm, thuế nhập khẩu sản phẩm gỗ
VN vào các thị trường chính là Mỹ và EU cũng sẽ giảm, giá thành đồ gỗ xuất
khẩu sẽ cạnh tranh hơn. Việc tiếp cận các thị trường trên thế giới cũng dễ
dàng, thuận lợi hơn. Lợi thế thứ 2 là việc tạo ra nhiều cơ hội liên kết, phối hợp
giữa các doanh nghiệp (DN) đồ gỗ trong nước, DN có vốn đầu tư nước
ngoài tại VN và các DN nước ngoài trong việc chế biến, sản xuất gỗ. Tuy
nhiên, ngành gỗ VN cũng đứng trước những thách thức mới trong khi đa số
DN VN vẫn là DN vừa và nhỏ, sẽ rất khó khăn để "chớp" lấy những cơ hội từ
quá trình hội nhập".
3.Những hạn chế
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thấp hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu.
Nhập siêu là hiệu số của kim ngạch nhập khẩu trừ (-) kim ngạch xuất khẩu và

tỷ lệ nhập siêu là thương số của trị giá nhập siêu với kim ngạch xuất khẩu.
Mấy năm trước đây, xuất khẩu thường tăng nhanh hơn nhập khẩu, nhưng
trong năm 2008 chẳng những không cùng tăng ở thế đồng hành, mà lại đổi
ngôi nên kết cục trên là không tránh khỏi.
a)Vấn đề xuất khẩu
* Nhiều ngành hàng xuất khẩu có nguy cơ vỡ kế hoạch:
Theo số liệu của Bộ Công Thương,kim ngạch xuất khẩu 10 tháng năm
2008 ước đạt 53.774 tỷ USD,tăng 36.7% so với cùng kỳ năm trước. Đây là
mức tăng trưởng ấn tượng trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang gặp khó
khăn và là mức tăng trưởng xuất khẩu lớn nhất từ trước tới nay.Tuy nhiên nếu
nhìn từng tháng thì xuất khẩu đang chững lại và có dấu hiệu thụt lùi.
- Ví dụ trong ngành dệt may,tập đoàn Vinatex phân tích về nguyên nhân
sụt giảm kim ngạch xuất khẩu,khó khăn của ngành dệt may là nhiều khách
hàng tại thị trường Mỹ,Nhật rút lại đơn hàng,duy chỉ có thị trường EU là tạm
ổn định
- Hàng da giày, do còn nhiều bất cập từ tổ chức sản xuất đến phương
thức xuất khẩu, nhất là khi bị áp mức thuế 10% trong vụ kiện Chống bán phá
giá giầy mũ da vào thị trường EU; nhiều doanh nghiệp chưa thực sự linh hoạt
trong việc chuyển dịch cơ cấu sản phẩm và thị trường, nên mặt hàng này đạt
mục tiêu khá chật vật. Vẫn còn một tỷ lệ khá lớn các mặt hàng xuất khẩu dưới
dạng thô, qua trung gian, tỷ lệ gia công cao, đơn hàng trị giá thấp, khiến phần
lớn giá trị gia tăng đều rơi vào tay công ty nước ngoài.
-Hàng thủ công mỹ nghệ sau chuỗi tăng trưởng cao, đến năm nay tình
trạng thiếu gay gắt về nguyên liệu đã bắt đầu bộc lộ, từ chỗ 90% dùng nguyên
liệu trong nước, nay tỷ lệ nhập khẩu tới 60%. Mẫu mã tự sáng tác còn nghèo
nàn, nên phải dùng gần 90% số mẫu do nước ngoài đặt hàng, vì thế chưa tạo
được nét bản sắc của Việt Nam trong mỗi sản phẩm. Xe đạp và phụ tùng xe
đạp là mặt hàng duy nhất có kim ngạch xuất khẩu bị tụt dốc- Giá và nhu cầu
một số nguyên, vật liệu nhập khẩu “nóng lên”: giá thép thành phẩm tăng thêm
93 USD/tấn; phôi thép tăng 105 USD/tấn; phân bón tăng 21 USD/tấn; chất

dẻo tăng 144 USD/tấn; sợi tăng 151 USD/tấn, kim loại thường khác tăng 469
USD /tấn, kết hợp với nhu cầu xăng dầu, thép thành phẩm, phân bón, sợi các
loại đều tăng mạnh đã đẩy trị giá nhập khẩu tăng thêm khoảng trên 7 tỉ USD.
Trong khi đó, chúng ta không có mặt hàng nào tận dụng cơ hội này xuất khẩu
đối ứng để “hạ nhiệt” nhập khẩu và nhập siêu.
- Hiệp hội thuỷ sản Việt Nam cho biết,tuy 10 tháng ngành thuỷ sản xuất
khẩu đạt 3.6 tỷ USD nhưng còn nhiều đối tác còn nợ đến 30-40%
* Gia nhập WTO chưa tác động nhiều đến mặt hàng nông sản
- Có mặt hàng không chịu ảnh hưởng nhiều của việc gia nhập WTO như
Gạo do chủ yếu được thực hiện theo hợp đồng chính phủ đến hầu hết thị
trường chính của nặt hàng này
- Có mặt hàng bị giảm kim ngạch xuất khẩu nhưng chỉ với một số thị
trường chính nhất định trong khi xu hướng chung vẫn giữ được mức tăng
trưởng như hạt điều ở thị trường Úc,chè ở thị trường Bồ Đào Nha
- Có mặt hàng bị giảm tăng trưởng với hầu hết các thị trường chính sau
khi Việt Nam gia nhập WTO như mật ong,rau,hạt tiêu.
b) Vấn đề nhập khẩu
- Giá trị nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng vật tư và nguyên liệu đầu
vào của sản xuất nông nghiệp và một số nông sản thực phẩm đã tăng mạnh
hơn sau khi Việt Nam gia nhập WTO
Một tác động dễ thấy nhất của khủng hoảng toàn cầu là sự suy giảm
nhanh chóng về nhu cầu nhập khẩu trên thế giới trong khi nền kinh tế Việt
Nam đang hướng đến xuất khẩu. Khi kinh tế suy thoái, người tiêu dùng trên
thế giới sẽ thắt chặt chi tiêu và xuất khẩu của chúng ta đến các thị trường
quốc tế sẽ bị suy giảm, qua đó, làm giảm tăng trưởng của Việt Nam.
-Vấn đề điều hành nhập nguyên liệu phế thải còn nhiều bất cập. Ví dụ
như vụ nhập lô hàng 6.685 tấn thép phế thải trị giá khoảng 2,5 triệu USD do
các Công ty cổ phần Kim khí (Thành phố Hồ Chí Minh); Công ty TNHH
Thương mại Anh Trang, Công ty Cổ phần thép Đình Vũ (Hải Phòng); Công
ty TNHH Techmart, Tập đoàn Hoà Phát (Hà Nội) nhập về cảng Hải Phòng và

cảng Sài Gòn đều bị các cơ quan chức năng không cho thông quan vì cho
rằng vi phạm Luật Môi trường, trong khi đó một số cơ quan chức năng khác
lại chứng thực là được phép. Rõ ràng ở đây có vấn đề trong sự vận dụng các
văn bản pháp quy về việc nhập khẩu loại hàng này.
Thủ tục hành chính trong vận hành xuất khẩu và nhập khẩu tuyđã được
cải tiến nhiều, nhưng đâu đó vẫn còn phiền hà, phải "làm luật" mỗi khi vận tải
trên đường, ở bến bãi và qua cửa khẩu.
III/ Tác động của hội nhập tới khả năng mở rộng thị trường của
những ngành có lợi thế so sánh
1.WTO và những mặt hàng có lợi thế so sánh
Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), những ngành
công nghiệp sử dụng nhiều lao động sẽ có cơ hội phát triển mạnh trong khi
những ngành sử dụng nhiều vốn, nhiều công nghệ cao, hoặc sử dụng nhiều cả
2 yếu tố này sẽ đi vào suy thoái.
Gia nhập WTO sẽ mang đến cho Việt Nam và các nhà sản xuất công
nghiệp nhiều cơ hội cũng như nhiều thách thức to lớn. Với cam kết tuân thủ
các luật lệ thương mại quốc tế, các rào cản hàng hóa và dịch vụ nước ngoài
sẽ bị hạ thấp, và cánh cửa sẽ được mở rộng hơn nữa cho đầu tư nước ngoài.
Để phân tích ảnh hưởng của gia nhập WTO lên sự phát triển ngành
công nghiệp ở Việt Nam, trước tiên cần xác định những nhóm ngành cũng
như nhóm doanh nghiệp có lợi thế so sánh và không có lợi thế so sánh.
- Nhóm ngành có lợi thế so sánh bao gồm dệt may, da giày, chế biến
lương thực thực phẩm, sản xuất đồ gia dụng, sản phẩm kim loại, sản phẩm
cao su, sản phẩm khoáng sản phi kim loại, và sản phẩm nhựa – tất cả đều là
những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động với mức độ công nghệ và
chế biến thấp.
- Nhóm ngành không có lợi thế so sánh bao gồm những ngành như sản
xuất máy móc thông thường, luyện và đúc kim loại màu, sản phẩm và nguyên
liệu hóa chất, sản xuất thiết bị giao thông vận tải, sản phẩm điện tử và viễn
thông, giấy và sản phẩm giấy, sản phẩm hóa dầu và chưng cất, khai thác và

cung cấp khí đốt, khai thác và chế biến kim loại màu, thiết bị và dụng cụ đo
lường chính xác máy móc văn phòng, sợi hóa học v.v Đây là những ngành
có mức độ chế biến cao và/hoặc là những ngành sử dụng nhiều công nghệ cao
và/hoặc vốn. Những ngành đang được bảo hộ và khuyến khích phát triển nhất
– ôtô, hóa dầu, công nghiệp điện tử - là những ngành không có lợi thế so sánh
2.Tác động của hội nhập WTO tới khả năng mở rộng thị trường
của những ngành có lợi thế so sánh
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, những ngành công nghiệp và doanh
nghiệp có lợi thế so sánh (tức là có thể cạnh tranh với các ngành và doanh
nghiệp cùng loại của nước ngoài thông qua xuất khẩu sản phẩm hoặc đầu tư
ra thị trường nước ngoài) sẽ có thêm nhiều cơ hội tiếp cận các thị trường nước
ngoài và do đó sẽ có thể phát triển mạnh. Ngược lại, gia nhập WTO sẽ mang
đến nhiều ảnh hưởng có hại cho những ngành và doanh nghiệp hoàn toàn
không có lợi thế so sánh, như các ngành công nghiệp sử dụng nhiều vốn,
nhiều công nghệ, hoặc sử dụng nhiều cả hai yếu tố này. Những ngành này lại
đang chiếm một tỷ trọng lớn trong giá trị gia tăng ngành công nghiệp và là
những ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu, sử dụng công nghệ cao, và một
số trong đó được xác định là ngànhcông nghiệp then chốt. Tuy nhiên, những
ngành này không có tính cạnh tranh quốc tế nếu không có sự bảo hộ và hậu
thuẫn chặt chẽ của chính phủ .Một số tác động cụ thể tới những ngành có
lợi thế so sánh:
+ Hàng dệt may sụt giảm kim ngạch xuất khẩu,khó khăn của ngành dệt
may là nhiều khách hàng tại thị trường Mỹ,Nhật rút lại đơn hàng,duy chỉ có
thị trường EU là tạm ổn định. Hạn ngạch dệt may vào thi trường Mỹ luôn là
vấn đề lớn với ngành dệt may Việt Nam
+ Hàng da giày, Còn nhiều bất cập từ tổ chức sản xuất đến phương
thức xuất khẩu, nhất là khi bị áp mức thuế 10% trong vụ kiện Chống bán phá
giá giầy mũ da vào thị trường EU; nhiều doanh nghiệp chưa thực sự linh hoạt
trong việc chuyển dịch cơ cấu sản phẩm và thị trường, nên mặt hàng này đạt
mục tiêu khá chật vật. Vẫn còn một tỷ lệ khá lớn các mặt hàng xuất khẩu dưới

dạng thô, qua trung gian, tỷ lệ gia công cao, đơn hàng trị giá thấp, khiến phần
lớn giá trị gia tăng đều rơi vào tay công ty nước ngoài.
Việt Nam vào WTO, DN được lợi nhiều nhưng cạnh tranh sẽ gay gắt
hơn. Kinh doanh nội địa cả ngành dệt may lẫn ngành giày da sẽ được lợi vì
thuế nhập khẩu nguyên, phụ liệu sẽ giảm trong khi nguồn cung cấp sẽ phong
phú hơn. Chi phí các dịch vụ viễn thông, điện, nước sẽ giảm nên sức cạnh
tranh cho các sản phẩm dệt may và giày da sẽ tăng lên
+ Hàng nông sản do sử dụng nhiều nguồn lực lao động tại chỗ hơn là
nguồn vốn đầu tư nước ngoài, do đó sẽ bị tác động ít hơn so với hai lĩnh vực
tài chính và bất động sản
+ Nhóm hàng chế biến tiếp tục tăng trưởng , là khả năng cạnh tranh
bằng giá rẻ của nông sản Việt Nam
+ Xuất khẩu gỗ là một trong những ngành có được nhiều thuận lợi từ
việc Việt Nam gia nhập WTO. 80% linh kiện, nguyên phụ liệu trong ngành
chế biến gỗ được nhập khẩu,thuế nhập khẩu linh kiện, nguyên phụ liệu từ các
nước thành viên của WTO sẽ giảm, thuế nhập khẩu sản phẩm gỗ VN vào các
thị trường chính là Mỹ và EU cũng sẽ giảm, giá thành đồ gỗ xuất khẩu sẽ
cạnh tranh hơn. Việc tiếp cận các thị trường trên thế giới cũng dễ dàng, thuận
lợi hơn.Tạo ra nhiều cơ hội liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp (DN) đồ
gỗ trong nước, DN có vốn đầu tư nước ngoài tại VN và các DN nước ngoài
trong việc chế biến, sản xuất gỗ
- Sau gia nhập, nếu không có những điều chỉnh thích hợp trong hoạch
định chính sách phát triển công nghiệp thì những ngành công nghiệp không
có lợi thế so sánh sẽ bị đào thải dần bằng sản phẩm nhập khẩu. Cho đến nay
những ngành này vẫn được nhà nước bảo hộ chặt chẽ và khuyến khích phát
triển bằng nhiều biện pháp. Sự bảo hộ này sẽ phải được điều chỉnh lại cho phù
hợp với các luật lệ của WTO nếu nhà nước tiếp tục muốn duy trì và phát triển
những ngành công nghiệp này. Chẳng hạn biện pháp bảo hộ thông qua quy
định tỷ trọng nội địa hóa và các ưu đãi đi kèm sẽ bị bãi bỏ. Giải pháp thay thế
tạm thời có thể sẽ là chính sách thuế và trợ cấp trong phạm vi mà WTO cho

phép.
- Sau gia nhập WTO, có thể dự đoán một xu hướng phát triển công
nghiệp ở Việt Nam như sau: những ngành có lợi thế so sánh sẽ phát triển
mạnh và những ngành không có lợi thế sẽ thu hẹp đáng kể. Nói cách khác,
những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động sẽ có cơ hội phát triển
mạnh trong khi những ngành sử dụng nhiều vốn, nhiều công nghệ cao, hoặc
sử dụng nhiều cả 2 yếu tố này sẽ đi vào suy thoái. Đây là điều ngoài ý muốn
của chính phủ khi mà chiến lược phát triển công nghiệp của Việt Nam là tích
cực sản xuất và xuất khẩu sản phẩm của những ngành công nghiệp có lợi thế
so sánh và dùng nguồn ngoại tệ thu được để “nuôi” những ngành công nghiệp
không có lợi thế so sánh nhưng được xác định là ngành công nghiệp mũi
nhọn, chiến lược, ví dụ như những ngành công nghệ cao.
IV/ Những giải pháp phát triển ngoại thương sau khi gia nhập
WTO của nước ta
- Trước mắt, Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế, chính sách, các văn bản
luật và hướng dẫn thi hành, đặc biệt là những lĩnh vực có liên quan đến những
cam kết và thỏa thuận theo hiệp định thương mại song phương, đa phương và
quy chế WTO đề ra. Bên cạnh đó, cũng cần đẩy nhanh quá trình tổ chức, sắp
xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa DNNN, chuẩn
bị đầy đủ tiềm lực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang những ngành
mũi nhọn, có khả năng cạnh tranh cao. Những doanh nghiệp thuộc những
ngành kinh tế mũi nhọn cần được tập trung mọi nguồn lực để nâng cao năng
lực cạnh tranh, thích ứng với môi trường kinh doanh toàn cầu, trở thành 'đầu
tầu' của nền kinh tế. Những doanh nghiệp năng lực cạnh tranh thấp, hoặc làm
ăn không hiệu quả cần được chuyển đổi hoặc bán, bảo đảm cho mọi nguồn
lực kinh tế được đầu tư vào những lĩnh vực có hiệu quả nhất. Những thị
trường hỗ trợ cho thị trường hàng hóa như thị trường tài chính, thị trường tiền
tệ cần được quan tâm phát triển một cách đồng bộ. Ðồng thời, Nhà nước cần
tập trung đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, chuẩn bị cho quá trình tiếp thụ
những tiến bộ khoa học - kỹ thuật, những công nghệ tiên tiến,những kinh

nghiệm quản lý để đáp ứng yêu cầu của bộ máy quản lý đa năng và chuyên
nghiệp hóa sau này
- Cần đẩy mạnh sự liên kết giữa các công ty FDI với các loại doanh
nghiệp trong nước như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân .
- Tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
hơn nữa. FDI là biện pháp hữu hiệu, là con đường ngắn nhất để tăng sức cạnh
tranh. Thay đổi chính sách theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu và tự do hoá nhập
khẩu sản phẩm trung gian
- Cần chuyển từ chiến lược, chính sách thay thế nhập khẩu sang chiến
lược xúc tiến xuất khẩu.Chính sách đánh thuế cao trên linh kiện, bộ phận để
tăng tỷ lệ nội địa hoá đã làm tăng giá thành sản phẩm lắp ráp, sản phẩm này
do đó phải được bảo hộ trong thị trường nội địa
- Về phía các doanh nghiệp cần chuẩn bị sẵn sàng tiếp cận thị trường
toàn cầu, trong đó, hiểu sâu sắc và nghiêm túc thực hiện những quy chế trong
kinh doanh thương mại quốc tế, như vấn đề bản quyền, tiêu chuẩn, chất
lượng, vệ sinh an toàn, bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng Cũng cần chuẩn
bị thật tốt nguồn nhân lực với trình độ cao, nhằm tiếp thụ những công nghệ
mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, tăng dịch vụ sau bán
hàng, để hàng hóa Việt Nam có đủ sức cạnh tranh với sản phẩm của các nước
khác .
- Chúng ta sẽ đối mặt với nhiều diễn biến có thể sẽ phức tạp khó lường,
nếu chúng ta không chuẩn bị sẵn sàng ứng xử với những phát triển mới, nhất là
đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và cả mỗi người dân
là người tiêu dùng. Theo lộ trình đã định, ta sẽ phải tiếp tục cắt giảm với 493
dòng thuế nông nghiệp từ mức bình quân 39,27% xuống mức 35,54%. Đáng
chú ý là các mặt hàng như hoa quả, chanh, muối, cam, cà phê, dầu thực vật,
thực phẩm chế biến, đường mía, bánh kẹo, sản phẩm chế biến từ ca cao, rau
quả, nước khoáng và đặc biệt là các sản phẩm rượu, bia, thuốc lá, xì gà đang có
mức thuế nhập khẩu và bảo hộ cao (thuế 80-100%) bắt đầu thực hiện cắt giảm.


Một yếu tố khác để hàng Việt có thể vươn xa hơn, công tác xúc tiến
kinh tế đối ngoại càng sớm huy động tổng lực các “binh chủng” tham gia
càng tốt. Đặc biệt cần tạo điều kiện nhiều hơn cho các doanh nghiệp ở mọi
lĩnh vực trực tiếp xúc tiến hoạt động kinh tế đối ngoại của họ, giúp họ tham
gia mạnh hơn các hoạt động của các hiệp hội để nâng cao vai trò của loại hình
này.
- Cơ hội cho cả hai khi ta "mở", họ cũng phải "mở":
Muốn hay không muốn chúng ta phải mở cửa thị trường nội địa hơn.
Còn thị trường các nền kinh tế thành viên WTO, để đổi lại, cũng phải mở cửa
rộng hơn cho ta. Vấn đề là kinh tế, thương mại, hàng hóa, doanh nhân của ta
có nhanh chóng củng cố thêm, tăng cường năng lực của mình để vừa bảo vệ
được lợi ích của người dân "trên sân nhà”, lại vừa có thể vươn ra thi thố cạnh
tranh để giành lại các lợi ích "từ sân người".
- Xác định lợi thế cạnh tranh ngành khi gia nhập WTO
Một trong những vấn đề nóng bỏng đặt ra sau khi Việt Nam gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là xác định những lợi thế cạnh tranh
cũng như những điểm yếu của các ngành, các lĩnh vực sản xuất để từ đó có
những định hướng chiến lược phát triển phù hợp, nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của lĩnh vực đó trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng
- Dưới sức ép của toàn cầu hoá kinh tế, cạnh tranh ngày càng gay gắt,
ngày càng xuất hiện nhiều hình thức rào cản thương mại mới, tinh vi như áp
dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm hay các biện pháp
chống bán phá giá, do đó, một mặt, chúng ta phải nâng cao năng lực của nền
kinh tế, của từng doanh nghiệp, đồng thời cần nâng cao khả năng nhận biết
sớm các rào cản đó để kịp thời ứng phó nhằm đạt được sự công bằng trong
quan hệ TMQT
- Liên kết hàng ngang là tiến hành hợp tác với các công ty đa quốc gia
về nhiều mặt để sản xuất và xuất khẩu ra thị trường thế giới.
KẾT LUẬN
Như vậy khi nước ta gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO tạo

ra những cơ hội,đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với Việt
Nam.Điều đó thể hiện rõ trong cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu.Cơ cấu xuất
khẩu tiếp tục có sự chuyển biến về chất, chuyển dần từ hàng nguyên liệu thô
sang hàng chế biến.Thị trường xuất khẩu cũng được đa dạng hóa và giúp Việt
Nam ít phụ thuộc hơn vào sự biến động của từng nước bạn hàng. Tỷ trọng của
các mặt hàng nông sản và khai khóang trong tổng giá trị xuất khẩu giảm và
tăng tỷ trọng của các sản phẩm chế tạo .Trong cơ cấu nhập khẩu đã có những
dấu hiệu cho thấy tỷ trọng của hàng tiêu dùng đang tăng lên.Tuy nhiên,đối với
nhiều nước mọi người cho hội nhập sẽ tạo ra nhiều cơ hội hơn, nhưng đối với
Việt Nam đa số chỉ nhìn thấy bất lợi.Nhiều ngành hàng xuất khẩu có nguy cơ
vỡ kế hoạch Nhập siêu tăng mạnh là vấn đề làm đau đầu các nhà quản lý:tốc
độ tăng nhập khẩu cao gấp rưỡi tốc độ tăng xuất khẩu
Làn sóng công nghiệp ở vùng Đông Á với đặc tính là sự phân công
hàng ngang giữa các nước đang ngày càng lan rộng, nhất là tập trung mạnh
trong những ngành chế tạo các loại máy móc. Sự xuất hiện mạnh mẽ của
Trung Quốc làm nhiều người lo ngại nhưng thị trường lớn này cũng mở ra
nhiều cơ hội đẩy mạnh hơn nữa sự phân công trong vùng và nhiều nước Đông
Á đã thành công trong việc nắm bắt cơ hội đó.
Thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như giữa Việt Nam
và các nước ASEAN chủ yếu là thương mại hàng dọc, bất lợi đối với Việt
Nam, và Việt Nam đang đứng trước một thử thách là phải tiến hành công
nghiệp hoá trong trào lưu tự do hoá thương mại trong khu vực. Tuy nhiên,
Việt Nam đang có lợi thế so sánh động trong nhiều ngành công nghiệp, nhất
là các ngành liên quan đến các loại máy móc, nếu có chiến lược, chính sách
đúng đắn vẫn có thể tham gia vào sự phân công năng động ở vùng này.

×