Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

TIỂU LUẬN ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐỐI VÓI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.7 KB, 13 trang )


MỤC LỤC

Trang

I.
II.
III.

IV.

Một số khái niệm
Lý do Nho giáo có sự ảnh hưởng tới sự hình thành
và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Sự ảnh hưởng của Nho giáo tới sự hình thành và
phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh
Liên hệ với thanh niên ngày nay

2
5
7
11

Tài liệu tham khảo

12

Báo cáo đánh giá làm việc nhóm

13


Lời dẫn: Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về các
lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội. Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng
Hồ Chí Minh là sự góp nhặt và chắt lọc những gì tinh túy nhất từ những tư tưởng, chủ nghĩa
2


tiền đề và vận dụng nó một cách có hiệu quả vào thực tiễn cuộc sống. Trong hệ thống tư
tưởng đó, tư tưởng Nho giáo đóng vai trị đặc biệt quan trọng. Nó khơng chỉ góp phần trong
việc hình thành mà còn ảnh hưởng sâu sắc tới tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, những biểu
hiện rõ nhất về tác động của Nho giáo tới Tư tưởng Hồ Chí Minh có thể nhận ra qua 2 mặt:
văn hóa và đạo đức cách mạng.

I. Một số khái niệm
1. Nho giáo
1.1. Khái niệm
Nho giáo là một thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho, theo Hán Tự từ Nho gồm từ nhân
(người) đứng cận chữ Nhu (cần, đợi, chờ). Nho Giáo còn gọi là nhà nho, người đọc sách
thánh hiền, được thiên hạ trọng dụng để dạy bảo người đời, ăn ở cho phù hợp với luân
thường đạo lý.
Người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử (551-479 TCN), tên Khâu, Tự Trọng Ni
người nước Lỗ, Khổng Tử đã hệ thống hóa những tri thức cũng như tư tưởng trước đây
thành học thuyết gọi là Nho học hay Nho giáo.
1.2. Lịch sử phát triển
Khổng Tử là người sáng lập ra học thuyết Nho giáo ở Trung Quốc. Hơn hai nghìn
năm qua, tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng đối với Trung Quốc không chỉ về chính trị, văn
hố...mà cịn thể hiện trong hành vi và phương thức tư duy của mỗi con người Trung Quốc.
Có học giả nước ngồi thậm chí coi tư tưởng Nho giáo là tư tưởng Tôn Giáo của Trung
Quốc. Trong thực tế, trường phái Nho giáo chỉ là một trong rất nhiều trường phái thời cổ
Trung Quốc, nó là một tư tưởng triết học chứ không phải là Tôn giáo, chẳng qua là do được
coi là tư tưởng chính thống trong xã hội phong kiến hơn hai nghìn năm ở Trung Quốc và vì

người Hoa và Hoa kiều có mặt hầu như trên tồn thế giới, có thể nói sự ảnh hưởng của tư
tưởng Khổng Tử đã khơng cịn giới hạn ở Trung Quốc và châu Á nữa.
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu Đính và giải thích bộ Lục Kinh gồm có
Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc
bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ Kinh. Sau khi Khổng Tử mất,
học trị của ơng tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của
Khổng Tử là Tăng Sâm, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của
Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung.
Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông
chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo ngun
thủy, cịn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "Tư tưởng KhổngMạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm: "Nho giáo và Nho gia". Nho gia thì mang
tính học thuật, nội dung của nó cịn được gọi là Nho học; cịn Nho giáo mang tính tơn giáo
vì ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành Giáo Chủ, giáo lý
chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
3


1.3. Những nội dung cơ bản
Nội dung của Nho giáo được thể hiện trong Ngũ Kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh
Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu) hay Tứ Kinh (Luận ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh
Tử). Quan điểm của nho giáo thể hiện trong Tam Cương đó là các mối quan hệ vua-tôi,
cha-con, vợ chồng và Ngũ Thường (Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín). Nho giáo ảnh hưởng hầu
hết các nước phong kiến phương Đơng qua q trình giao thoa và đồng hòa.
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã
hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai
trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là Quân Tử (Quân = người làm vua, Quân tử = chỉ
tầng lớp trên ở trong xã hội để phân biệt với kẻ "Tiểu nhân" những người thấp kém về điạ vị
xã hội. Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "Tự Đào Tạo", phải "Tu
Thân". Sau khi Tu Thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "Hành Đạo", trong đó:
❖ TU THÂN:


Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức... để làm
chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam Cương và Ngũ Thường là lẽ
đạo đức mà Nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà Nữ giới phải theo.
Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tịng, Tứ
Đức thì xã hội sẽ được an bình.
A. Tam Cương: Nói về ba mối quan hệ Quân Thần (vua tôi), Phụ Tử (cha con), Phu Phụ
(chồng vợ).
B. Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm điều phải hằng có
khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
C. Tam Tòng: Tam là ba, Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo, bao
gồm: "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
D. Tứ Đức: bốn tính nết tốt của người phụ nữ phải có là: Cơng - Dung - Ngơn - Hạnh.
❖ HÀNH ĐẠO

Sau khi Tu Thân, người quân tử phải Hành Đạo, tức là phải làm quan, làm chính
trị. Nội dung của cơng việc này được cơng thức hóa thành "Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ".
Tức là phải hồn thành những việc nhỏ là gia đình, cho đến lớn là Trị Quốc, và đạt đến mức
cuối cùng là Bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ).
Đến đời Hán nho, Đổng Trọng Thư đưa nhân nghĩa vào Ngũ Thường. “Tam Cương
Ngũ Thường” trở thành trụ cột của lễ giáo phong kiến. Sang đời Tống nho, hai chữ nhân
nghĩa càng bị trừu tượng hóa. Các nhà Tống nho căn cứ vào thuyết “Thiện Nhân hợp nhất”
khoác cho hai chữ nhân nghĩa sắc thần siêu hình. Trời có ‘lý” người có “Tính” bẩm thụ ở
trời. Đức của trời có 4 điều: “Nguyên, Hạnh, Lợi, Trinh”; Đức của người có “Nhân, Nghĩa,
Lễ và Trí”. Bốn đức của người tượng cảm với đức của trời.
Hệ thống hóa lại một cách tóm tắt hai chữ “Nhân Nghĩa” ở một số thời điểm phát
triển của Nho giáo như trên, ta có thể kết luận hai chữ “Nhân Nghĩa” của Nho giáo là khái
4



niệm thuộc phạm trù đạo lý, nội dung từng thời kỳ có thêm bớt nhưng căn bản vẫn là những
lễ giáo phong kiến khơng ngồi mục đích duy nhất là ràng buộc con người vào khuôn khổ
pháp lý Nho giáo phục vụ quyền lợi của giai cấp phong kiến.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1. Khái niệm
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của quá trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả sự vận dụng sáng tạo và phát triển CNMLN vào
điều kiện cụ thể của nước ta; đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
-

Thực chất của tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý luận phản ánh những vấn đề có
tính quy luật của cách mạng Việt Nam.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm những vấn đề có liên quan đến q trình
phát triển từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ
nghĩa.

2.2. Những nội dung cơ bản
Hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm:
-

Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người;

-

Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại;


-

Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc;

-

Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì
dân;

-

Tư tưởng về quốc phịng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân;

-

Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân;

-

Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư;

-

Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau;

-

Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh
đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…


II. Lý do Nho giáo có sự ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh
1. Nho giáo Việt Nam cuối thế kỷ XIX
5


1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX
Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, lịch sử Việt Nam chứng kiến những sự biến đổi hết
sức to lớn:
-

-

Thực dân Pháp xâm lược và biến nước ta từ một nước độc lập thành một nước thuộc địa
nửa phong kiến với yêu cầu bức thiết và cháy bỏng là: “Độc lập dân tộc và người cày có
ruộng”.
Chế độ phong kiến Việt Nam cùng với hệ tư tưởng Nho giáo ngày càng tỏ ra bất lực trước
yêu cầu của công cuộc chống ngoại xâm vì nền độc lập dân tộc.
Trong nội bộ giai cấp địa chủ phong kiến có sự phân hóa sâu sắc. Triều đình nhu nhược,
cam chịu làm tay sai cho thực dân. Vì vậy các phong trào đấu tranh của nhân dân ta theo ý
thức hệ phong kiến (tiêu biểu là phong trào Văn Thân và phong trào Cần Vương) lần lượt
đều bị thất bại.
Ở nước ta, sau khi Triều đình nhà Nguyễn bạc nhược ký “hịa ước” đầu hàng, những
năm cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Xã hội
Việt Nam bắt đầu có những biến chuyển và phân hóa sâu sắc. Sự xâm nhập của chủ nghĩa tư
bản Pháp đã làm nảy sinh trong xã hội Việt Nam hai giai cấp mới: Giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản. Sự tác động của tư tưởng tiến bộ ở phương Tây cũng như cuộc cách mạng Tân
Hợi và cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu ở Trung Quốc cũng có
ảnh hưởng lớn đến Việt Nam, nhất là quá trình chuyển biến về tư tưởng chính trị.

Những sự biến đổi to lớn về chính trị - xã hội vào cuối thế kỷ XIX đã tác động đến
Nho giáo thời bấy giờ. Sau khi bước qua thời kỳ cực thịnh giai đoạn thế kỷ XV, XVI, Nho
giáo ở Việt Nam đã bắt đầu có những dấu hiệu của sự lụi tàn khi xã hội thời bấy giờ lần lượt
xuất hiện những hệ tư tưởng mới, du nhập từ nước ngoài và phù hợp hơn với thời đại. Song
Nho giáo vẫn phần nào có tác động đến tư tưởng của thế hệ những nhà Nho của thời đại cũ.
1.2. Nho giáo Việt Nam cuối thế kỷ XIX
Nho giáo được củng cố mạnh mẽ trong xã hội; Phật giáo, Đạo giáo ngày càng suy
giảm và lùi vào đời sống dân chúng trên phương diện tôn giáo. Điều đó khiến đời sống tư
tưởng chính thống có phần nghèo nàn hơn so với thế kỷ trước. Mặc dù vậy, đến giữa thế kỷ
XIX, Việt Nam không thể tránh khỏi làn sóng bành trướng, xâm lược của tư bản Phương
Tây. Cuộc xâm chiếm Việt Nam của thực dân Pháp kéo dài gần 4 thập kỷ đã khiến bức
tường thành ý thức hệ Nho giáo bị lung lay tận gốc rễ. Nho giáo tỏ ra bất lực trong vai trò là
đường lối dẫn dắt dân tộc bảo vệ đất nước trước một kẻ thù hoàn toàn mới về ý thức hệ và
nền văn hoá. Bài học về mối quan hệ truyền thống với hiện đại trong giải quyết bài toán của
lịch sử được đặt ra chính thức trong giai đoạn này.
Bước qua hàng thế kỷ “thống trị” hệ tư tưởng của Việt Nam, Nho giáo thế kỷ XIX
đã cho thấy sự suy tàn rõ rệt. Vào giai đoạn thế kỷ XIX, nhà Nguyễn sau khi được dựng lên
đã ra sức đề cao Nho giáo, lấy đó làm điều kiện củng cố triều đại. Nhưng việc phục hồi Nho
giáo lúc bấy giờ là việc làm trái với xu thế của thời đại, của tình hình thế giới. Sau khi thơn
tính hồn toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1884, thực dân Pháp từng bước tìm mọi cách để
ngăn cản, hạn chế vai trò của Nho giáo. Tuy nhiên, thực dân Pháp vẫn sử dụng Nho giáo ở
mức độ nhất định để củng cố chế độ thuộc địa.
6


Có thể nói rằng, kể từ khi vào Việt Nam, một mặt, Nho giáo là cơng cụ thống trị của
chính quyền đơ hộ và phục vụ cho chính quyền đơ hộ; mặt khác, sự truyền bá Nho giáo
cùng việc phổ biến chữ Hán đã đưa Việt Nam tới một kho tàng tri thức xã hội và tự nhiên.
Với tất cả các ưu và nhược điểm, giáo dục Nho giáo luôn chiếm vị trí quan trọng trong giáo
dục nước ta. Bởi vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa giáo dục Nho giáo một cách có phê

phán trên quan điểm lập trường giai cấp vô sản và để lại cho chúng ta những quan điểm
giáo dục có giá trị bền vững.
2. Xuất thân của Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là Nguyễn
Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là Nguyễn Ái Quốc),
sinh ngày 19/5/1890 ở làng Kim Liên, xã Nam Liên (nay là xã Kim Liên), huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An; mất ngày 02/9/1969 tại Hà Nội.
2.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất thân từ một gia đình Nho giáo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho, nguồn gốc
nơng dân, ở làng Hồng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền
thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội
và sự giáo dục của gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Người ngay từ thời niên thiếu.
Thân sinh của Hồ Chí Minh là cụ Nguyễn Sinh Sắc. Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc
sinh năm Nhâm Tuất 1862. Cụ là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm (người Thanh ChươngNghệ An) và bà Hà Thị Hy làm nghề hát rong. Theo gia phả họ Hà thì Ơng tổ của nguyễn
Sinh Nhậm là Nguyễn Bá Phổ ở làng Kim Liên (Làng Sen, Nam Đàn, Nghệ An), đến thế hệ
thứ tư thì ơng tộc trưởng Nguyễn Bá Dân xin đổi chữ lót họ thành Nguyễn Sinh. Cụ phó
bảng được nhà nho Hồng Xn Đường nhận làm con nuôi và cho ăn học hành tử tế và gả
con gái đầu của mình là Hồng Thị Loan làm vợ. Năm 1891, ông vào Vinh thi tú tài nhưng
không đỗ. Năm 1894, ông tham dự kỳ thi Hương và đỗ cử nhân tại trường thi Nghệ An.
Năm sau (1895), ông Sắc vào Huế thi hội bị hỏng, đã xin đi làm hành tẩu bộ Hộ. Ba năm
sau, ông hỏng kỳ thi hội một lần nữa vào năm 1898.
Có thể thấy người – cha cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã có những ảnh hưởng lớn
nhất đến chủ tịch Hồ Chí Minh. Ơng Nguyễn Sinh Sắc lúc lên ba tuổi thì bố mất và sau đó
ba năm thì mẹ cũng qua đời và đến tuổi ba mươi bảy thì vợ tạ thế. Cuộc đời ơng chịu nhiều
cơ đơn. Từ đó sống cảnh gà trống nuôi con, đi đâu ông cũng mang cậu Nguyễn Sinh Cung
theo cùng.
Cậu bé Nguyễn Tất Thành cũng gặp khó khăn vất vả ngay từ lúc nhỏ 3 tuổi thì ơng
ngoại mất, 10 tuổi thì mẹ qua đời, và bố là người có nhiều ảnh hưởng sâu đậm nhất đối với
cuộc sống và sự nghiệp của cậu. Cách dạy của cụ Phó bảng với các con là dạy lịng nhân ái,

đức tín nghĩa và sức trí dũng, lấy bản thân làm chủ, nhân quân làm gốc. Cụ chăm lo bồi đắp
cho con cái về đạo làm người, lấy cơ sở làm nền tảng luân lý truyền thống Việt Nam làm
nền tảng.
2.2 Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp xúc với Nho giáo từ rất sớm.
7


Có một điều hơi khơng bình thường là: Nho giáo đã từng bén duyên với Nguyễn Aí
Quốc từ thời niên thiếu và theo mãi Hồ Chí Minh cho tới trọn đời. Khi còn nhỏ, Nguyễn
Sinh Cung thường theo cha đi gặp những người bạn Nho gia, bàn về Nho giáo, con đường
tìm lại độc lập dân tộc. Đặc biệt, sự gặp gỡ với Phan Bội Châu - nhà Nho lỗi lạc thời bấy
giờ, tiên phong trong phong trào Đông Du - đã đem đến cho Nguyễn Ái Quốc cái nhìn sâu
sắc hơn về Nho giáo và góp phần định hình tư tưởng cho cậu thiếu niên ấy.
Chúng ta lại còn thấy: chính lúc thiếu niên Bác đã học chữ Hán trong đó có Nho
giáo. Bác học Nho qua những sách gì, đến trình độ nào, thật ra ngày nay chúng ta suy đoán
nhiều hơn là biết thật cụ thể. Điều có thể biết thật cụ thể về trình độ Hán của Bác là việc
Bác làm thơ chữ Hán, mà “Nhật ký trong tù” là đỉnh cao nhất. Nhưng đây là chuyện Hán
học nói chung chứ chưa hẳn là Nho giáo. Trong Nhật ký trong tù, ảnh hưởng của Nho giáo
không phải khơng có nhưng là gián tiếp vì dù sao đây là tiếng nói của thơ chứ khơng là văn
chính luận, rút cục lại, cái gọi là ảnh hưởng của Nho giáo đối với Bác mà ai cũng đã thấy
chính là thể hiện rõ nhất trong nhiều bài viết của mình tính từ năm 1921 đến sau này mà có
người đã tính được là hơn 100 trường hợp, trong đó lời Khổng Mạnh chiếm nhiều nhất.
Bên cạnh đó, cịn có ý kiến cho rằng: “Như vậy là thái độ của Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh đối với Khổng Khâu và Nho giáo có sự phát triển qua các chặng thời gian nhưng
rõ ràng nhất quán một quan điểm lịch sử đúng đắn, khẳng định đúng mức với lịng tơn kính
những giá trị chân chính mà người xưa đã đạt được. Đương nhiên là trong suốt cuộc đời
hoạt động của mình, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã triệt để phê phán bác bỏ ý thức
Nho giáo phong kiến phản tiến hóa”.
III.


Sự ảnh hưởng của Nho giáo tới sự hình thành và phát triển Tư tưởng Hồ
Chí Minh
1. Biểu hiện của sự ảnh hưởng của Nho giáo trong Tư tưởng Hồ Chí Minh

Sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với tư tưởng Hồ Chí Minh được biểu hiện qua sự kế
thừa và phát triển tích cực đạo đức Nho giáo trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, xây
dựng nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng đáp ứng yêu cầu thực tiễn giải phóng dân tộc và
xây dựng đất nước. trong đó tiêu biểu là sự kế thừa và vận dụng ở 2 lĩnh vực:
1.1. Văn hóa

Từng được UNESCO ghi nhận là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt
xuất Việt Nam”, Hồ Chủ tịch đã có những đóng góp xuất sắc trong việc sáng tạo văn hóa
văn nghệ, xác lập hệ thống quan điểm về văn hóa và xây dựng nền văn hóa mới ở Việt
Nam. Nền văn hóa mà Hồ Chí Minh hướng tới là nền văn hóa có sự kết hợp giữa những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc với sự phát triển, nâng cao của tinh hoa văn hóa nhân loại,
thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính.
Với vốn hiểu biết uyên thâm sâu sắc về những giáo lý trong thuyết Khổng Tử, ngay
từ sớm, Hồ Chí Minh đã nhận rõ tầm quan trọng của việc cải tạo và xây dựng văn hóa Việt
Nam khi đặt trong mối tương quan với các lĩnh vực khác của xã hội (kinh tế, chính trị, đạo
đức, ...). Dựa trên mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau, Bác cho rằng, văn hóa khơng thể đứng
ngồi mà phải ở trong chính trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, đồng thời mọi hoạt động
8


của tổ chức và các nhà chính trị phải có hàm lượng văn hóa cao. Với kinh tế, văn hóa đóng
vai trị là kiến trúc thượng tầng, văn hóa khơng phụ thuộc hồn tồn vào kinh tế mà có vai
trị tác động tích cực trở lại kinh tế. Về mặt xã hội, có giải phóng xã hội thì văn hóa mới có
điều kiện phát triển. Đặc biệt, Người nhân mạnh rằng phải biết giữ gìn bản sắc dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại. “dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt
Nam”. Phải biết giữ gìn truyền thống tốt đẹp của cha ơng và tiếp thu có chọn lọc tinh hóa

văn hóa nhân loại.
Bên cạnh đó, quan điểm của người về văn hóa là rất rõ ràng. Đầu tiên, Người nhấn
mạnh, phải biến văn hóa thành mục tiêu động lực của sự nghiệp cách mạng. Văn hóa chính
là khát vọng sống của nhân dân về các giá trị chân, thiện, mỹ, về 1 xã hội dân chủ, cơng
bằng, văn minh, khơng cịn các tệ nạn xã hội. Khi bàn về các lĩnh vực văn hóa cụ thể trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, động lực có thể nhận thức ở các phương diện: văn hóa chính trị, văn
hóa văn nghệ, văn hóa giáo dục và văn hóa đạo đức. Đồng thời, văn hóa cũng là 1 mặt trận
bởi tính độc lập bởi mối quan hệ độc lập với các lĩnh vực xã hội khác. Mặt trận văn hóa là
cuộc chiến đấu trên lĩnh vực văn hóa, với các chiến sĩ nghệ thuật trong sự nghiệp “phị
chính trừ tà”, biết phê bình nghiêm khắc những thói hư tật xấu, ca ngợi gương người tốt
việc tốt nhằm giáo dục con cháu đời sau. Và trên tất cả, văn hóa phục vụ đời sống nhân dân,
nó phản ánh khát vọng hạnh phúc của nhân dân.
Ứng với từng thời kì, giai đoạn lịch sử, quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng
nền văn hóa mới lại có những thay đổi khác nhau, tích cực. Nhưng tựu chung lại, quan điểm
của người là phải xây dựng một nền văn hóa tồn diện, giữ gìn được cốt cách văn hóa dân
tộc , bảo đảm tính khoa học, tiến bộ, nhân văn.
1.2. Đạo đức

Tư tưởng Hồ Chí Minh đã kế thừa, sử dụng nhiều phạm trù, mệnh đề đạo đức có giá
trị và sức sống của Nho giáo, đồng thời đã bổ sung, phát triển những nội dung mới, phù hợp
với thời đại.
Một số phạm trù đạo đức của Nho giáo được Hồ Chí Minh sử dụng đó là Nhân,
Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm, Trung, Hiếu. Việc Hồ Chí Minh cải tạo các phạm trù của Nho giáo
thể hiện rõ nhất ở hai phạm trù Trung và Hiếu. Hồ Chí Minh viết: “Đạo đức, ngày trước thì
chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải
trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào”. Có thể thấy, trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, nếu chữ Trung mang một nội hàm hồn toàn mới, từ Trung với vua trở thành Trung
với nước, thì chữ Hiếu lại được mở rộng trên cơ sở phổ qt hố đạo đức cá nhân, trong đó
gốc của Hiếu với Dân phải là Hiếu với cha mẹ. Có thể thấy, xuất phát từ Nho giáo nhưng
Hồ Chí Minh đã khai thác và phát triển phạm trù Trung - Hiếu với sự đề cao những phẩm

chất của những người cách mạng, những người cộng sản trong thời đại mới.
Về đức trị, trong Nho giáo, Đức trị là học thuyết chính trị do Khổng Tử (551- 479
TCN) khởi xướng, có nghĩa “Chính trị là đạo đức”. Sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu
nước, thấm nhuần tư tưởng Nho giáo lấy “dân vi bang bản” (tức coi dân là gốc nước), “dân
vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (tức dân là quý nhất, thứ nhì là xã tắc, cuối cùng mới
đến vua), Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong học thuyết “Đức trị” những yếu tố tích cực và tiếp
nhận với tinh thần rộng mở, không định kiến, không cố chấp. Đồng thời, Người vận dụng
9


sáng tạo học thuyết Mác - Lênin để mở rộng và nâng tầm ý nghĩa của quan điểm “Đức trị”
cho phù hợp với những yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam.
“Đức trị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền là một nhà
nước: do Đảng chân chính và cách mạng lãnh đạo, một đảng là đạo đức, là văn minh,
“Ngồi lợi ích của nhân dân và của giai cấp công nhân, Đảng ta khơng có lợi ích nào khác”.
Đồng thời, là nhà nước có những con người thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa, hết lòng
hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. “Đức trị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn
mang hàm ý “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”; đồng thời ra sức nêu gương, tăng cường giáo
dục, rèn luyện đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên, cho nhân dân, để hình thành con người
mới, phù hợp với xã hội mới.
Thực tiễn cho thấy, nền chính trị mà Hồ Chí Minh xây dựng là một nền chính trị đạo
đức. Đạo đức cao nhất mà Người đưa ra là “đạo đức cách mạng”. Mục tiêu mà suốt đời
Người đeo đuổi, phấn đấu là: “Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Như vậy, tư tưởng đạo đức và tư tưởng về chính trị của
Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng tách rời nhau mà thống nhất với nhau. Các phạm trù của học
thuyết “Đức trị” đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và phát triển, thấm đượm bản chất giai cấp,
tính nhân dân và tính chiến đấu để trở thành những phạm trù “Đạo đức cách mạng”. Nội
dung của “Đạo đức cách mạng” Hồ Chí Minh có sự khác biệt về chất so với đạo đức Nho
giáo phong kiến. Người khẳng định: “…Đạo đức đó khơng phải là đạo đức thủ cựu. Nó là

đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó khơng phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung
của Đảng, của dân tộc, của lồi người. Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có
nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có
đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Người nêu rõ: “Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”.
Trong bài nói chuyện với Lớp bổ túc cán bộ quân sự Trung ương tổ chức tháng 10/1947,
Người căn dặn: “Muốn có đạo đức cách mạng phải có 5 điều sau đây: Trí - Tín - Nhân Dũng - Liêm”. “Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục khoét
dân, thì gọi là LIÊM, chữ liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp. Cũng như ngày xưa trung là trung với
vua. Hiếu là hiếu với cha mẹ mình thơi. Ngày nay, nước ta là Dân chủ Cộng hồ, chữ LIÊM
có nghĩa rộng hơn; là mọi người đều phải LIÊM. Cũng như trung là trung với Tổ quốc, hiếu
là hiếu với Nhân dân”. Người đã nhiều lần đề cập tới yêu cầu của người cán bộ, đảng viên
là: “Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững đạo đức cách
mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính. Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là:
Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân. Mọi việc
thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không”.
Như vậy, các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ “Đức
trị” trong Nho giáo, song đã được Người vận dụng, sáng tạo, bổ sung phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh thực tiễn của đất nước và con người Việt Nam. So với lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, quan điểm của Hồ Chí Minh về “đạo đức cách mạng”, về “Đức trị” thể hiện tư
duy độc lập, sáng tạo, có sự kế thừa và phát triển trên tinh thần khoa học, trên cơ sở Nho
giáo, nhưng thấm đẫm tinh thần nhân văn, dân tộc, phù hợp với hoàn cảnh đất nước và thời
đại.
10


2. Đánh giá

Dưới ảnh hưởng của Nho giáo, Hồ Chí Minh khơng chỉ kế thừa mà cịn khai thác và
phát huy sáng tạo thành Tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ những khái niệm đạo đức cũ, đã có từ
lâu trong hệ thống quan điểm đạo đức Việt Nam nói riêng và phương Đơng nói chung, Hồ

Chí Minh đã rất thành cơng trong việc vận dụng những gì đã có và biến đổi sao cho phù
hợp với thời đại, bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ của dân tộc Việt Nam.
Đơn cử có thể nhắc đến phạm trù trung - hiếu trong triết lý phương Đơng và tư
tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề giáo dục cách mạng hiện nay. Sự vận dụng và phát triển
sáng tạo đạo lí “Trung với vua, hiếu với cha mẹ” - đạo lí nổi tiếng trong thuyết Nho giáo
của Khổng Tử (Trung Quốc) đã được Hồ Chí Minh nghiên cứu, thấu hiểu và sử dụng với
những nội dung mới hơn, rộng lớn hơn “Trung với nước, hiếu với dân”. Nếu trong giáo lý
của Khổng Tử “trung” là trung thành với bề quân vương, “hiếu” là hiếu thảo với ơng, bà,
cha, mẹ thì Bác lại tiếp nhận trung - hiếu ở một tầm nhận thức mới. Bác đã gọt bỏ nội dung
cũ của Nho giáo là trung với vua và đưa vào đó nội dung mới: Trung là trung với nước. Ở
Người, chữ hiếu khơng cịn bó hẹp trong phạm vi trọn đạo làm con đối với ơng bà cha mẹ
mình, mà hiếu cịn là hiếu thảo với nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ; khơng chỉ thương
u ơng bà cha mẹ mình, mà cịn phải thương yêu ông bà cha mẹ người. Điều này đã tạo
nên cuộc cách mạng sâu sắc trong lĩnh vực đạo đức bởi “Đạo đức cũ như người đầu ngược
xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được trên đất,
đầu ngẩng lên trời” (Hồ Chí Minh). Đó khơng chỉ là việc kế thừa những giá trị yêu nước
truyền thống của dân tộc mà còn vượt qua được những hạn chế của truyền thống đó. Ngồi
ra, rất nhiều Nho lý khác đã được Người ứng dụng thành công trong việc đặt làm khuôn
mẫu cho cơng cuộc hình thành và cải cách đạo đức cách mạng sau này.
IV.

Liên hệ với thanh niên ngày nay
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, mặt giá trị, tính thời đại của Nho giáo là rất lớn.
Người cho rằng, đối với các dân tộc phương Đơng giàu tình cảm, trọng đạo lý, việc tu
dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi con người có vai trị vơ cùng quan trọng. Riêng với
thế hệ trẻ, việc tu dưỡng này còn quan trọng hơn, vì họ là "người chủ tương lai của nước
nhà"; là cái cầu nối giữa các thế hệ - "người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già,
đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai". Chính vì vậy, việc giáo
dục đạo đức và chăm lo cho việc rèn luyện đạo đức của sinh viên đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh quan tâm từ rất sớm. Nói chuyện với sinh viên, Người khẳng định: "Thanh niên phải

có đức, có tài. Có tài mà khơng có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng
lại đi đến thụt két thì chẳng những khơng làm được gì ích lợi cho xã hội mà cịn có hại cho
xã hội nữa. Nếu có đức mà khơng có tài ví như ơng Bụt khơng làm hại gì, nhưng cũng
khơng lợi gì cho lồi người".
Với năng lực, trí tuệ un bác, óc phê phán tinh tường, Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận
dụng và phát triển sáng tạo các giá trị đạo đức của Nho giáo phù hợp với thực tiễn cách
mạng và con người Việt Nam. Đó là nền đạo đức vừa phát huy những giá trị truyền thống
của dân tộc với 5 đạo đức cần có như Nhân – Nghĩa – Lễ - Trí - Tín. Nhờ đó phần lớn sinh
viên, thanh niên trí thức vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh: khiêm
tốn, luôn cần cù và sáng tạo trong học tập: sống có bản lĩnh, có chí lập thân, lập nghiệp,
11


năng động, nhạy bén, dám đối mặt với những khó khăn thách thức, dám chịu trách nhiệm,
không ỷ lại, chây lười; ln gắn bó với nhân dân, đồng hành cùng dân tộc phấn đấu cho sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh.
Kết luận: Không thể phủ nhận rằng tư tưởng Hồ Chí Minh có vai trị vô cùng quan
trọng không chỉ trong thời kỳ kháng chiến cách mạng khi xưa mà còn y nguyên ở trong cả
thời hiện đại ngày nay. Sự vận dụng của chất Nho giáo trong tư tưởng của Người trong 2
mặt văn hóa và đạo đức cách mạng đóng vai trị kim chỉ nam cho hành động của Đảng, của
nhân dân nhằm hướng tới xây dựng và phát triển một xã hội tốt đẹp hơn, hướng tới xây
dựng một nền xã hội lý tưởng - XHCN Cộng sản. Và nhiệm vụ của chúng ta - thế hệ trẻ
trong thời đại mới, không gì khác ngồi việc gìn giữ, kế thừa và vận dụng tư tưởng ấy vào
cuộc sống hàng ngày, để trở thành người cơng dân tốt, có ích cho xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh dành cho bậc đại học - không chuyên ngành lý luận
chính trị (Mạch Quang Thắng chủ biên)
2. ThS.Phan Văn Thuận. 2017. Bối cảnh chính trị - xã hội Việt Nam và cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX trước khi Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước; Ý chí và quyết tâm đi tìm

đường cứu nước của Người. Tọa đàm kỷ niệm 100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu
nước Trường Chính trị tỉnh Bến Tre.
3. Lê Trung Khoa. 2014. Về giáo dục Nho giáo ở Việt Nam từ thế kỷ I đến thế kỷ XIX.
Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2014.
4. Lê Thị Lan. 2015. Các đặc trưng của tư tưởng triết học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93).2015.
5. 2018. Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh. Truy cập ngày 5/9/2021 từ
/>6. Hồng Vân. 2021. Thân sinh chủ tịch Hồ Chí Minh là ai?. Truy cập ngày 5/9/2021 từ
/>7. Phan Văn Các. Hồ Chí Minh với Nho giáo, in trong sách “Hồ Chí Minh, anh hùng giải
phóng dân tộc, danh nhân văn hố. NXB KHXH HN 1990.
8. Lê Thị Chiên. 2019. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau theo di chúc Hồ Chí Minh.
Truy cập ngày 5/9/2021 từ

12


/>9. Khái quát về Nho Giáo. Truy cập ngày 5/9/2021 từ
/>10. PGS.TS Nguyễn Xuân Trung. 2018. Vấn đề "Đức trị" và "Pháp trị" trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Truy cập ngày 5/9/2021 từ
/>11. “Phạm trù trung - hiếu trong triết lý phương Đơng và tư tưởng hồ Chí Minh với vấn đề
giáo dục đạo đức cách mạng hiện nay” - Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
( - Truy cập ngày
5/9/2021

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ
NHÓM SỐ:4
Đề tài nghiên cứu: Ảnh hưởng của Nho giáo đối với sự hình thành và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh
Trưởng nhóm: Nguyễn Kiều Trinh


STT

Họ và tên

Nhiệm vụ
được phân cơng

Kết quả đạt
được

1
2
3
4
5
6

Nguyễn Kiều Trinh
Nguyễn Thị Chung
Nguyễn Thị Linh
Lại Thị Hạnh
Lê Hồng Minh
Nguyễn Tuệ Minh

Lí do của sự ảnh hưởng
Một số khái niệm
Word và slide
Nội dung ảnh hưởng (phần 1)
Liên hệ
Nội dung ảnh hưởng (phần 2)


Hoàn thành tốt
Hoàn thành tốt
Hoàn thành tốt
Hồn thành tốt
Hồn thành tốt
Hồn thành tốt

Nhóm trưởng
Trinh
Nguyễn Kiều Trinh

13

Đánh
giá điểm
(Từ 0
đến 4
điểm)
4
4
4
4
4
4



×