Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

EBOOK - ĐIỂM HUYỆT LIỆU PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.02 KB, 79 trang )

ĐIỂM HUYỆT LIỆU PHÁP
Của MÃ TÚ ĐƯỜNG
Nhà xuất bản Thiểm tây khoa học kỹ thuật xuất bản xã- Tháng 2 / 1981
Người dịch. Lê Văn Sửu, Tháng 10/1991

LỜI GIỚI THIỆU SÁCH :

Ông Mã Tú Đường là một nhà châm cứu và điểm huyệt đã nhiều năm.
Riêng về khoa điểm huyệt, ông bắt đầu nghiên cứu từ mùa xuân năm 1956 đến
mùa thu năm 1959, Ông đã đem những liệu pháp kinh nghiệm lâm sàng giai đoạn
đầu làm thành tổng kết bước đầu ,nhà xuất bản Thiểm Tây nhân dân xuất bản xã
giúp đỡ đem xuất bản. Sau đó, trải qua nhận được nhiều thư của độc giả cổ vũ,
thúc giục, ông càng thêm tin tưởng và quyết tâm tăng thêm sức mạnh nghiên cứu
của minh.
Đến năm 1978, trên cơ sở thực tiễn lâm sàng “ Điểm huyệt liệu pháp” đã qua 20
năm, chữa nhiều loại bệnh, tăng thêm được nhiểu thủ pháp chữa trị, xác minh
được một số vấn đề có tính lý luận đã gặp trên lâm sàng, làm cho một liệu pháp
bất luận là cơ sở lý luận, hay là ở vận dụng thủ pháp và thự tiễn lâm sàng đều rất
là phong phú so với sách trước. Nhưng ông nói ở y học viện Địa lý Đà tất cánh là
nơi vun xới chính cho vườn ươm vun xới cho cây ( tứ là vấn đề này ) nẩy nở và
lớn lên, cũng còn cần ngày càng nhiều viện gặp gỡ,thấm nạp và quản lý làm cho
nó dần dần phát triển và lớn lên.
Theo tác giả nói: thì ông tự thấy kinh nghiệm lâm sàng và trình độ lý giải của
mình đều còn rất hạn chế không thể tránh khỏi có sự sai sót.
Khi đọc sách ông viết: Tôi thấy đây là một công trình tâm huyết của một đời
người tận tuỵ với nghề và với con người, nên tôi lược dịch lại để cùng nhau học
tập. Gọi là lược dich vì tôi bỏ đi những phần về kinh lạc, huyệt vị mà chúng ta đã
có dịp học hỏi ở những sách khác, và bỏ đi những y án kèm theo có tính chất xác
minh hiêụ quả để làm căn cứ kiểm tra khi cần, vì chúng sẽ dùng thực nghiệm lâm
sàng của chúng ta để rút ra kinh nghiệm cho mình trong tương lai là chính.
Tôi rất cám ơn ông Mã Tú Đường và xin phép ông được giới thiệu những phần


chúng tôi muốn học ở sách ông viết.
Hà Nội, ngày 28 tháng 10 năm 1991


Lê Văn Sửu














MỤC LỤC :
THIÊN THƯỢNG : TRI THỨC CƠ BẢN

Chương I : NGUYÊN LÝ CỦA ĐIỂM HUYỆT LIỆU PHÁP

Tiết 1 – Thế nào là điểm huyệt liệu pháp
Tiết 2 - Điểm huyệt và quan hệ kinh lạc
Tiết 3 - ảnh hưởng của điểm huyệt đối với tạng phủ
Tiết 4 – Tác dụng của điểm huyệt đối với doanh , vệ , khí , huyết .
Tiết 5 – Quan hệ kinh lạc và tạng phủ ( lược )
Chương II: THỦ PHÁP CỦA ĐIỂM HUYỆT LIỆU PHÁP

Tiết 1 – Bình nhụ pháp ( phép nắn day ngang bằng )
1-1 - Tiêu chuẩn tả hữu bình nhụ
1-2 – Tả hữu bình nhụ và bổ, tả
1-3 – Tác dụng của bình nhụ pháp
1-4 – ứng dụng cỉa bình nhụ pháp
Tiết 2 - áp phóng pháp ( phép nhấn nhả )
2-1 – Tiêu chuẩn áp phóng pháp.
2-2 – Bổ tả của áp phóng pháp
2-3 – Tác dụng của áp phóng pháp
2-4 – úng dụng của áp phóng pháp
( Phụ ) – cụ thể tiêu chuẩn thao tác bình nhụ pháp và áp phóng pháp.
Tiết 3 – Bì phu điểm đả huyệt ( phép chấm gõ ở da )
3-1 – Tác dụng của phép bì thu điểm đả
3-2 – ứng dụng của phép bì phu điểm đả
Tiết 4 – Kinh lạc tuần án pháp ( phép dựa theo đường kinh lạc )
4-1 – Bổ tả của kinh lạc tuần án pháp
4-2 – Tác dụng của kinh lạc tuần án pháp
4-3 – ứng dụng của kinh lạc tuần án pháp
Tiết 5 – Ngũ hành liêm dụng pháp ( phép nối tiếp dùng ngũ hành )
5-1 – Tên gọi năm loại thủ pháp
5-2 – Thứ tự thao tác ngũ hành liên dụng pháp
5-3 – Thao tác cụ thể và lý luận của ngũ hành liên dụng pháp
5-4 – Tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp ( lược )
Tiết 6 – Các thủ pháp bổ trợ khác
6-1 - Đầu bộ thôi vận pháp ( phép đẩy xoay ở vùng đầu )
6-2 – Bối bộ tuần áp pháp ( phép áp theo ở vùng lưng )
6-3 – Chấn chiến pháp ( pháp rung rẩy )
6-4 – Tứ chi dao vận pháp ( phép lắc vần tứ chi )
6-5 - Áp huyệt pháp ( phép áp huyệt )
6-6 – Thiết huyệt pháp ( phép cắt huyệt )

6-7 - Đấu chấn pháp ( phép rung lắc )
6-8 – Thiết dao pháp ( phép cắt lay )
6-9 – Niết huyệt pháp ( phép véo huyệt )
6-10 – Thôi cảnh hạng pháp ( phép đẩy ở cổ gáy )
6-11 - Áp cảnh động mạch đàn nhân nghinh pháp ( phép áp động mạch cảnh
gáy ở nhân nghinh )
6-12 – Kháng bối pháp ( phép chống đỡ ở lưng )
6-13 – Áp tích pháp ( phép nhấn cột sống )
6-14 - Án trú phân băng pháp ( phép ấn giữ kéo chia )
6-15 – Cử suất pháp ( phép nâng lên hạ xuống )
Chương III: SỰ CỐ LÂM SÀNG CẦN CHÚ Ý KHI DÙNG ĐIỂM
HUYỆT LIỆU PHÁP.
Tiết 1: Thái độ của người điểm huyệt
Tiết 2: Công việc chuẩn bị của điểm huyệt
TIết 3: Chú ý sự cố của điểm huyệt
Tiết 4: Tiêu chuẩn lấy huyệt của điểm huyệt liệu pháp
Chương IV: TUẦN HÀNH CỦA 14 KINH MẠCH, BỆNH TẬT CỦA KINH
MẠCH VÀ DU HUYỆT THƯỜNG DÙNG ( LƯỢC )
Chương V: KINH NGOẠI KỲ HUYỆT THƯỜNG DÙNG ( LƯỢC )
Chương VI: PHƯƠNG PHÁP CƠ BẢN VỀ PHỐI HUYỆT CỦA ĐIỂM
HUYỆT LIỆU PHÁP ( LƯỢC )


Thiên Hạ: TRỊ LIỆU LÂM SÀNG

Chương I: Bệnh nội khoa
1 – Bán thân bất toạ
2 – Cao huyết áp ( can dương thượng cang ).
3 – Liệt
4 – Cảm mạo

5 – Thổ tả
6 – Tiêu chảy mãn tính ( tỳ thận hư hàn )
7 – Lỵ
8 – Tao bón
9 – Di tinh
10 – Liệt dương
11 – Mất ngủ
12 – Ho hắng ( viên khí quản )
13 - Đau đầu
14 – Chấn thương não
15 – Choáng váng ( choáng tiền đình )
16 – Chứng hồi hộp ( Chinh trung )
17 - Đau dạ dầy (Viêm mãn tính, nước chua quá nhiều, loét đường tiêu hoá)
18 – Hạ sườn chứơng đau ( viêm gan )
19 – Lừng đùi đau
20 – Vai, cánh tay đau
21 - Đùi, đầu gối đau
22 – Lưng trên, lồng ngực đau
23 – Mất tiếng
24 - Đái nhiều lần
25 - Đái dầm
26 – Tạng taó ( bệnh is–tê-ri )
27 - Động kinh ‘
28 – Bàn tay và cánh tay tê bại ( tê bại do rối loạn thần kinh )
Chương II: Bệnh phụ khoa
1 – Kinh nguyệt không đều
2 – Hành kinh đau bụng
3 – Bế kinh
4 – Băng lộng huyết
5 – Sản dịch không dứt

6 – Có mang nôn mửa
7 – Sảy thai
Chương III: Bệnh trẻ em
1 – Trẻ em pháp sốt
2 – Thổ tả
3 – Trẻ em rối loạn tiêu hoá
4 – Trẻ em sợ hãI
5 – Sưng quai bị ( sưng tuyến dưới tai )
6 – Ho gà (đốn khái, bách nhật khái )
7 - Bại liệt trẻ em
8 – Chứng trẻ em lắc đầu
Chương IV: Bệnh ngoại khoa
Tiết 1 – Cổ gáy có hạch ( tràng nhạc )
Tiết 2 – Thoát giang
Tiết 3 – Sán khí ( hồ sán ) sưng dịch hoàn
Tiết 4 – Bong gân
Tiết 5 – Sái cổ
Tiết 6 – Bướu cổ
Tiết 7 – Sưng cụ bộ do tiêm thuốc
Tiết 8 – Viêm ruột thừa
Tiết 9 – Viêm tổ chức dưới da ( tổ chức phong sào – hình tổ ong )
Tiết 10 – Dị ứng mẩn ngứa
Chương V: Bệnh ngũ quan
Tiết 1 – Tai kêu Tiết 5 – Chảy máu mũi
Tiết 2 – Cấp tính viêm tai giữa Tiết 6 - Đau họng
Tiết 3 – Viêm tai ngoàI Tiết 7 – Thần kinh mặt tê bại
Tiết 4 - Đau răng Tiết 8 – Miệng khó há to.


THIÊN THƯỢNG


Tri thức cơ bản
o0o

Chương I: NGUYÊN LÝ CỦA ĐIỂM HUYỆT LIỆU PHÁP

Tiết 1: Thế naò là điểm huyệt liệu pháp

Điểm huyệt liệu pháp là một phép chữa bệnh không dùng thuốc, lại không dùng
công cụ, chỉ dựa vào hai bàn tay, vận dụng thủ pháp nhất định có thể đạt mục
đích chữa bệnh.
Huyệt vị là nói về kinh huyệt, nó có quan hệ rất mật thiết với kinh lạc. Do dùng
ngón tay nắn, áp, điểm, gõ trên huyệt vị là có hiệu quả chữa bệnh, cho nên gọi là
điểm huyệt liệu pháp.
Những năm gần đây, điểm huyệt liệu pháp dưới sự chỉ đạo của lý luận y học cổ
đại Phương Đông như Kinh lạc, âm dương, ngũ hành,….Thông qua thực tiễn lâm
sàng, chứng minh hiệu quả chữa bệnh của nó rất cao, thu được những tiến triển
rất lớn. Trong đời sống xã hội Phương Đông, nó đang dần dần trở thành một
trong những phương pháp chữa bệnh, bảo vệ sức khoẻ của nhân dân.
Nguyên lý của điểm huyệt liệu pháp là căn cứ lý luận của thúc, án ma mà kết
hợp nghiên cứu, bởi vì lý luận của hai loại này đều quan hệ mật thiết với kinh
huyệt, kinh lạc, và ngũ tạng, kinh huyệt và kinh lạc tổ hợp thành hệ thống tuần
hoàn khí huyết, luân chuyển phân bố toàn thân.
Ngũ tạng là khí quan chứa tinh của cơ thể con người, nó phản ứng tính tinh khí,
ở phương diện kinh huỵêt và kinh mạch, nhưng mà phản ứng lại dựa vào sự tuần
hoàn của doanh, vệ, khí, huyết.
Ngũ tạng có tương sinh tương khắc, tương thừa, tương vũ, đối lập mà lại thống
nhất, loại thống nhất này là trọn vẹn một quá trình sinh tàn tinh khí, con người
khi có bệnh, sẽ mất đi mất bình thường của tính thống nhất, sẽ ảnh hưởng tới sức
khoẻ của con người.

Sinh mạng của cơ thể con người là sự kết hợp với nhâu giữa tiên thiên và hậu
thiên, Tiên thiên thuộc về chỗ y học Phương Đông gọi là thận, hậu thiên thuộc về
tì, Thận tác dụng tương thông với nhâm mạch và đốc mạch, do thận tuần hành lên
bụng, đi kẹp hai bênh nhâm mạch cách năm phân, Bàng quang kinh tuần hành từ
đỉnh đầu vào não, lại ra ở dưới mà đi ở vùng lưng, kẹp hai bên đốc mạch cách 1,5
thốn. Du huyệt của ngũ tạng lục phủ đều ở trên bàng quang kinh vùng lưng. Thận
và bàng quan cùng biểu lý và đều có quan hệ với đốt xương sống, quan hệ đó
cùng với phương diện giải phẫu của thần kinh não tuỷ và thần kinh thực vật có
quan hệ rất lớn. Tiên thiên là sự chi phối nhất thiết với cơ thể của con người, hậu
thiên bị tiên thiên chi phối, tiên thiên nêú không có hậu thiên bồi bổ cung cấp khí
huyết cũng không thể duy trì sinh lý đó được bình thường.
Tỳ là gốc của hậu thiên, tỳ và vị là biểu lý tương hỗ, vị nạp đồ ăn tỳ chủ vận
hoá, tỳ vị thuộc trung tiêu. Trung tiêu đem tinh hoa của đồ ăn thức uống làm cho
biến đổi thành phần (chưng phát ) hoá thành khí huyết, đưa lên phế, tuần hoà
toàn thân.
Tác dụng của điểm huyệt là sự kết hợp tương hỗ của thủ pháp và kinh huyệt
thông qua sự tuần hoàn của khí huyết, doanh vệ, để xuc tiến phản ứng của tinh
khí ngũ tạng, làm cho tiên thiên chi phối năng lực và quá trình cung cấp khí huyết
của hậu thiên, đạt đến sinh lý đúng đắn, loại bỏ chứng trạn, khôi phục sức khoẻ.

Tiết 2 : Điểm huyệt và quan hệ kinh lạc

Kinh huyệt nằm trong sự bao hàm của học thuyết kinh lạc, bởi vì cần làm rõ
kinh huyệt, tức là cần phải biết kĩ về kinh lạc. Điểm huyệt tuy trọng điểm tiến
hành thủ pháp trên huyệt vị, nhưng trên thực tế là căn cứ và sự phân bố và tuần
hành của kinh lạc ở thân người. Vì kinh lạc là đường thông để vận thành doanh,
vệ, khí, huyết ở thân người, mà kinh huyệt là điểm giao hội hiện rõ sự vận hành
doanh, vệ, khí, huyết trong đường thông, cho nên có một số huyệt như Đại chuỳ
hội với thủ tam dương, túc tam dương và đốc mạch, Quan nguyên là hội của túc
tam ông và nhâm mạch … Những cái đó nói nên rằng kinh huyệt và kinh lạc

tương hỗ thành một qua hệ gắn bó, do đó điểm huyệt có đủ sức điều chỉnh các
biến hoá biểu lý giữa các kinh lạc và các lệch lạc về hàn nhiệt của âm kinh và
dương kinh. Cho nên muốn hiểu rõ được liệu pháp điểm huyệt, trước hết cần phải
hiểu rõ được học thuyết kinh lạc, nắm được bản chất hệ thống (thể) kinh lạc, mới
có thể đủ sức nơi có bệnh, căn cứ của biện chứng thí trị.

Tiết 3: Ảnh hưởng của điểm huyệt đối với tạng phủ

Cơ thể người ta là do khí, huyết, gân mạch, xương, tuỷ, phủ, tạng hợp thành. Mỗi
một bộ phận tổ thành, chúng dựa dẫm vào nhau đều có quan hệ âm dương không
thể chia cắt. Khí và huyết, cân và mạch, cốt và tuỷ, phủ và tạng đều là giúp nhau
làm việc. Khí là soái của huyết, khí hành thì huyết hành, khí dừng thì huyết dừng.
Cân là sứ của mạch, cân đậu thì mạch nhanh ( cấp ), cân tĩnh thì mạch chậm (
hoãn ). Cốt là nhà của tuỷ, xương rắn chắc thì tuỷ đầy đủ, xương mềm thì tuỷ
rỗng. Phủ là biểu của tạng, phủ khoẻ thì tạng khoẻ, phủ yếu thì tạng suy. Chúng
đều thuộc về nhau theo biểu lý âm dương, kinh mạch, kinh mạch nối liền suốt
giữa các hỗ tương đó, trong sự hỗ tương của khí huyết vận hành, thành một hệ
thống hoàn chỉnh ( chỉnh thể ). Trong đó nổi lên tác dụng chủ đạo là của ngũ tạng
lục phủ, Ngũ tạng lục phủ phối hợp trong thuộc tính ngũ hành mộc, hoả, thổ,
kim, thuỷ, trong đó nổi lên tác dụng sinh khắc lẫn nhau, chế ước lẫn nhau, duy trì
nhau ở mức bình thường, mà còn có thể đủ sức ảnh hưởng đến quan hệ sinh lý
đều đặn của các mặt khí, huyết, cân mạch, cốt, tuỷ….
Chỉnh thể con người bất luận phát sinh bệnh biến ở một bộ phận nào đều có
quan hệ với tạng phủ sinh khắc, chế ước. Dựa vào quan hệ phân bố của kinh lạc,
trong thì thông với ngũ tạng lục phủ, ngoài thì nối với tứ chi, bách hàI ( trăm đốt).
Do mười hai kinh mạch thống thuộc tạng phủ ( kinh mạch từng tạng phủ nối nhau
), quan hệ cuả kinh huyệt và tạng phủ cũng rất mật thiết, vì vậy, tiến hành điểm
huyệt ở bề mặt cơ thể con người cũng sẽ có thể nhằm vào tạng phủ gây nên ảnh
hưởng nhất định, cũng có thể trực tiếp điều tiết giữa cái hữu dư hoặc bất túc của
ngũ tạng lục phủ, làm cho sự sinh khắc, chế hoá lẫn nhau trở lại trạng thái ngang

bằng, từ đó làm cho tổ chức chỉnh thể tiếp tục duy trì được hiện tượng bình
thường của nó.
Tạng phủ có hữu dư hoặc bất túc, tức là trên sinh lý mất đi hiện tượng bình
thường, xuất hiện hiện tượng bệnh lý mất bình thường. Liệu pháp điểm huyệt căn
cứ vào tình huống hiện thực loại này, vận dụng thủ pháp cụ thể, bổ cái bất túc, tả
cái hữu dư, thúc đẩy công năng tạng phủ duy trì sinh lý bình thường.

Tiết 4: Tác dụng của điểm huyệt với doanh, vệ, khí, huyết

Kinh huyệt là bộ phận hợp thành của kinh lạc, 12 kinh lạc và 8 mạch kỳ
kinh xuyên suốt chỉnh thể người ta, hình thành hệ
thống kinh lạc hoàn chỉnh. Doanh, vệ, khí, huyết là yếu tố duy trì hoạt động sinh
lý bình thườngcủa cơ thể con người. Liệu pháp điểm huyệt có thể chữa được bệnh
chủ yếu là có thể điều chỉnh được quan hệ của doanh, vệ, khí, huyết…
Thiên “ Doanh vệ sinh hội” sách Linh Khu nói: (( Người ta thụ khí ở ngũ
cốc, cốc vào dạ dầy, rồi chuyển vào phế, ngũ tạng lục phủ, đều thụ khí ở đó )).
( nhân thụ khí vu cốc, cốc nhập vu vị, di chuyển vu phế, ngũ tạng lục phủ, giai dĩ
thụ khí, Kỳ thanh giả… vi doanh, trọc giả vi vệ, doanh tại mạch trung, vệ tại
mạch ngoại), (( Cái trong là doanh, cái đục là vệ, doanh ở trong mạch, vệ ở ngoàI
mạch )), … Trong “ Trung Quốc y học đại từ điển” có giải thích đoạn kinh văn
đó như sau: “ Trong là doanh ( trong sạch ), tức là máu ở trong huyết quản đi ra (
phát huyết quản ), cũng gọi là máu ở động mạch , Thoạt đầu qua phế lọc qua
trong không khí sạch, qua tâm phòng đẩy ra, làm cho tinh khiết mà có máu đỏ.
đục(trọc ) là vệ, tức là máu trong sạch, máu trở về, cũng gọi là máu ơ tĩnh mạch.
Đúng nhất là chưa về trước lúc vào phế tạng, chất vẩn đục có nhiều ở trong máu,
cho nên mạch máu đó cũng xanh tối mà không tươi sáng. Doanh tại mạch trung,
tưc là phát huyết quantrong con người là mạch máu ở từng trong. Vệ tại mạch
ngoại, tức là hồi huyết quản trong con người là mạch máu từng ngoàI, điều đó nói
rõ quan hệ doanh vệ với hệ thống tuần hoàn.
Thiên “ Quyết khí” nòi: (( Trong tiêu thụ khí lấy nước lỏng, biến hoá cho đỏ làm

ra máu)) ( Trung tiêu thụ khí thủ chấp, biến hoá nghi xích thị vi huyết ).
Thiên “ tà khách…” nói: “ Doanh khí thấm ra ngoài là tân dịch, trú ở trong
mạch, hoá làm huyết để nuôi dưỡng tứ chi, bên trong thì trú ở tạng phủ” (Doanh
khí giả, thảm kỳ tân dịch, trú chi vu mạch, hoá dĩ vi huyết, dĩ doanh tứ mạt, nội
trú ngũ tạng lục phủ). Căn cứ vào cách nói trên, huyết có nguồn gốc từ trong tiêu
hoá hấp thu được chất tinh vi của đồ ăn thức uống, thông qua tác dụng khí hoá
mà thành doanh khí, doanh khí phân chia ra tân dịch vào trong mạch, trú ở trong
ngũ tạng lục phủ, nuôi tứ chi trăm đốt ở ngoài, toàn thân không có chỗ nào không
chịu sự nuôi dưỡng của nó, Vệ cũng giống như thế,từ trong sự hấp thu đồ ăn uống
đó phần dưỡng ra mà thành.
Thiên “Bại luận”, trong Tố vấn kinh nói rằng: “Vệ là hãn khí của đồ ăn uống,
khí đó cực kỳ trơn tru nhanh nhậy, không thể vào trong mạch, cho nên đi ở trong
da nơi giữa da và thịt hun đúc hoang mạc, tản ra ở ngực , bụng”, (vệ giả, thuỷ cốc,
chi hãn, khí dã, kì khí phiếm tật hoạt lợi, bất năng nhập vu mạch dã, cố tuần bì
phu chi trung, phân nhục chi gian, chưng vu hoang mạc, tán vu hung phúc). Căn
cứ vào đoạn kinh văn trên, vệ khí phân bố ở ngoài mạch đạo, rất có quan hệ với
đường đi của tĩnh mạch.
Thiên “âm dương ứng tượng đại luận” nói: “Khí trời thông vào phế, địa khí
thông vào họng”, ( thiên khí thông vu phế, địa khí thông vu ích). điều đó cũng
nói, một là không khí của trời theo thở hít mà vào phổi, một nữa là khí của thuỷ
cốc mà vào họng. Từ đó chứng minh, khí của cơ thể con người là khí của thuỷ
cốc gộp lại với khôn khí của trời mà thành, cũng là cổ nhân đã chỉ rằng nguồn
gốc cụ thể của doanh, vệ, khí, huyết có quan hệ với kinh lạc.
Bình nhụ pháp của điểm huyệt liệu pháp là điều lý âm dương trong cơ thể con
người. Bởi vì tượng trưng của âm dương là trái và phải, trái thuộc dương, phải
thuộc âm, vì thế phép bình nhụ dựa đúng theo quan hệ âm dương, có quan hệ
phải, trái. Cổ nhân lấy âm là tĩnh, dương là động, tĩnh cũng là không động, động
cũng là không dừng. Nhụ là động kết hợp với tĩnh, vì thế phép bình nhụ cũng có
thể điều lý quan hệ âm dương.
Áp phóng pháp của điểm huyệt liệu pháp cụ thể điều tiết doanh, vệ, là theo đúng

doanh hành mạch trung, ở tổ chức kinh lạc vùng hơi sâu hơn, vệ hành mạch
ngoài ở vùng hơi nông của tổ chức kinh lạc. Vì vậy, áp phóng pháp là áp sâu đạt
đến doanh, phóng nông đến vệ, áp cùng kết hợp với phóng, trực tiếp điều tiết
doanh vệ.
Kinh huyệt là điểm cuối cùng của sự tuần hoàn doanh, vệ, khí, huyết, ở thân
thể con người. Cơ thể người ta một khi sinh ra bệnh biến, cùng với bệnh biến là
kinh mạch hữu quan và kinh huyệt trong vùng sẽ sinh ra một phản ứng biến hoá
nhất định, như tê dại, đau đớn, sưng đỏ.v.v.v. khác nhau, người khác thấy mà
mình cũng tự thấy, đó là những hiện tượng trực tiếp trở ngại của sự tuần hành
doanh, vệ, khí, huyết. Bình nhụ, áp phóng trong điểm huyệt liệu pháp có thể làm
mất đi hiện tượng phản ánh trong huyệt vị và vùng trung quanh cũng là nhằm
vào chỗ gây nên tác dụng điều tiết doanh, vệ , khí, huyết.

Tiết 5 – Quan hệ kinh lạc và tạng phủ ( lược )

Chương thứ hai: THỦ PHÁP CẢU ĐIỂM HUYỆT LIỆU PHÁP

Thủ pháp điểm huyệt chia ra: “ Bình nhụ pháp”, “ Áp phóng pháp”, “ Bì phu
điểm đả pháp”, “ Kinh lạc tuần án pháp”, “ Ngũ hành liên dụng pháp” là năm loại
thủ pháp cơ bản. Ngoài ra còn có: “ Đầu bộ thôi vận pháp”, “ Bối bổ tuần áp
pháp”, “ Tứ chi dao vận pháp” và các thủ pháp bổ trợ khác.
Việc vận dụng thủ pháp trên lầm sàng phải căn cứ tình hình bệnh tật mà tuyển
chọn. Khi thời gian ít, dùng riêng một loại thủ pháp. Khi thời gian nhiều, dùng hai
loại thủ pháp trở lên. Đối với chứng thần kinh chức năng, bệnh hệ thống nội tạng,
phần lớn lá dùng bình nhụ pháp và áp phóng pháp, có khi phối hợp với ngũ hành
liên dụng pháp ( ngũ liên pháp ), đối với tật nạn đau đớn vùng lưng đùi, ngoài
trọng điểm dùng ngũ liên pháp, căn cứ vào bệnh tình khác nhau, có khi sử dụng
bình nhụ pháp, áp phóng pháp, hoặc kinh lạc tuần án pháp ( tuần án pháp ), và tứ
chi dao vận pháp ( dao vận pháp ). Quá trình thao tác cụ thể của thủ pháp, sẽ nói
kỹ trong các thủ pháp và thủpháp phối hợp trong chữa từng bộ phận.


Tiết 1: Bình nhụ pháp ( phép nắn day ngang bằng )
Gọi tên là Bình nhụ pháp vì “ Bình mà nhụ”.
“ Bình” tức là không chế nghiêng lệch, giữ gìn mức ngang bằng thích đáng.
“ Nhụ” tức là động tác ấn xoa, là động tác “ án công” và “ ma công” cùng phối
hợp lại. Án công là tay ấn nặng và dừng ở trong cơ ( bắp thịt )không động. Ma
công là tay xoa nhẹ ở da không ngừng, Bất động là tĩnh, thuộc âm, Không dừng là
động, thuộc dương. nhụ là phát huy của sự kết hựop “ án” và “ ma”, có tác dụng
điều tiết âm dương.
Thao tác cụ thể của Bình nhụ pháp là:
Đầu ngón tay giữa của người thaỳ điểm huyệt vị người bệnh, kế đó đem đầu
ngón tay cái để ở dưới gầm, phía trong của ngón tay giữa, chỗ khớp đốt thứ nhất,
lại lấy ngón trỏ và ngón bốn chụm lại áp ở phía ngoài đốt thứ nhất ngón giữa, để
làm thế bổ trợ cho ngón giữa tiện cho thao tác của ngón giữa. Sau đó dùng đầu
ngón giữa đã để trên huyệt vị làm bình nhụ hình vòng tròn, gốm có hai ý ấn và
day.
Vì bề mặt của ngón tay nhụ phải lõm và dưới da huyệt vị, đây là động dạng
nhụ ( kiểu như nắn day ) sẽ không thể rời khỏi da ( nếu như nhụ đầu ngón tay
ngang bằng với mặt da, mà đầu ngón tay và mặt da làm thành trạng thái mài xát,
kiêu đó sẽ hình thành phép xoá trong án ma cần chú ý thêm ). Bình nhụ một vòng
là một lần, tiêu chuẩn chung là 50 – 100 lần. Tăng giẳm số lần phải tuỳ bệnh tình
mà quyết định.
Diện tích vùng nhụ là do vùng huyệt quyết định, mặt khác cần căn cứ tình
hình bệnh. Do đó ở thao tác nhụ,cần phải xem xét toàn diện nhưng chủ yếu là
vòng ngón tay nhu ước chừng trên dưới 1 phân ( lem ), lấy đó làm phạm vi vòng
tròn vận nhụ và kết hợp với diện tích vùng huyệt linh hoạt vận dụng thích đáng.
Xoay nhụ của bình nhụ pháp, tuỳ thao tác trên huyệt vị nhưng do liên tục kích
thích của bình nhụ, ở trong tổ chức huyệt vị cũng dẫn đến cảm giác buốt tê hoặc
buốt khó chịu, cũng là cho sinh ra biến hoátổ chức huyệt vị,dẫn đến cơ nặng điều
tiết trên sinh lý của tổ chức trong cơ thể con người. Đây là một thủ pháp trọng yếu

phi thường trong toàn bộ phép điểm huyệt. Vì vậy, nó được ứng dụng trên lầm
sàng rất là rộng rãi. Thủ pháp nặng hay nhẹ cần phân biệt ở thể chất gầy hay béo,
bệnh tình lâu hay mới mà quyết định. Người béo mới bị bệnh thì thủ pháp nặng,
người gầy yếu bệnh lâu lài thì thủ pháp nhẹ. Nhưng ở người béo khẻo cũng có khi
dùng thủ pháp nhẹ, người gầy yếu bệnh lâu cũng có khi dùng thủ pháp nặng.
Hiện tượng này là phương thuốc biến hoá căn cứ vào tình hình đặc thù của bệnh
tật mà linh hoạt quyết định sử dụng. Ngoài ra thủ pháp này không những trực tiếp
điều tiết âm dương, mà còn có thể căn cứ vào 12 kinh âm dương tuần hành, cũng
với vấn đề khởi chỉ của mạch nhâm tuần hành ở bụng, mạch đốc tuần hành ở
lưng, tiến hành thủ pháp bổ tả, tăng mạnh thêm tác dụngđiều tiết âm dương.

1 – 1: Tiêu chuẩn tả hữu bình nhụ
Hướng về bên trái bình nhụ, hoặc là hướng về bên phải bình nhụ là lấy vị trí của
người bệnh mà quyết định trái phải. Khi huyệt vị ở bên trái hoặc ở bên phải của
người bệnh, không kể là huyệt ở dương kinh hay ở âm kinh, xoay nhụ từ phải qua
trái hướng lên là hướng tả bình nhụ. Ngược lại, từ trái qua phải hướng lên mà xoay
nhụ là hướng hữu bình nhụ.
1 – 2: Tả hữu bình nhụ và bổ tả
Bản thân bình nhụ pháp vốn có đủ tác dụng điều tiết âm dương. phương pháp bổ
tả của hướng tả bình nhụ và hướng hữu bình nhụ có thể tăng thêm mạch điều tiết
bất túc. Đó là căn cứ vào bắt đầu và dứt ở 14 kinh tuần hành trên cơ thể ngừơi, và
vấn đề thăng giáng của tả dương hữu âm, kết hợp cụ thể vào thủ pháp thao tác,
tiến hành bổ tả nghênh tuỳ.
Thủ tam dương kinh đi từ tay lên đầu bằng:
Khi nhụ huyệt vị ở bên trái, hướng tả bình nhụ tứ là nhụ từ phải qua trái, hướng
lên theo chiều đường kinh mà nhụ xoay là tả.
Khi nhụ huyệt vị ở cạnh phải hướng bình nhụ tức là nhụ từ trái qua phải, hướng
lên theo đường kinh mà nhụ xoay là bổ, hướng xuống đón ngược chiều đường
kinh mà nhụ xoay là tả.
( Nếu dùng cả hai tay mà nhụ cho người bệnh đều lấy hướng lên mà bổ, hướng

xuóng là tả )
Thủ tam âm kinh đi từ ngược ra tay bằng:
Khi nhụ huyệt vị ở cạnh trái, hướng hữu bình nhụ tức là nhụ từ trái qua phải,
hướng lên đón ngược chiều đường kinh đi mà nhụ xoay là tả, hướng xuống theo
chiều đường kinh đi mà nhụ xoay là bổ.
Khi nhụ huyệt vị ở cạnh phải, hướng tả bình nhụ tức là nhụ từ phải qua trái,
hướng lên đón ngược chiều đường kinh đi mà nhụ xoay là tả, hướng xuống theo
đường kinh đi mà nhụ xoay là bổ.
( Hai tay nhắm vào nhau mà nhụ, đều là lấy hướng lên làm tả, hướng xuống là
bổ )
Túc tam dương kinh đi từ đầu tới chân:
Khi nhụ huyệt vị ở cạnh trái hướng tả bình nhụ – tức là nhụ ở phải qua trái
hướng lên theo chiều đường kinh mà nhụ xoay là bổ, hướng xuống đón ngược
chiều đường kinh là nhụ xoay là tả.
Khi nhụ huyệt vị ở cạnh phải, hướng hữu bình nhụ - tức là nhụ từ trái qua phải,
hướng lên theo đường kinh đi mà nhụ xoay là bổ, hướng xuống đóng ngược chiều
đường kinh đi mà nhụ xoay là tả.
( Hai tay nhắm vào nhau mà nhụ, đều là lấy hướng lên làm bổ, hướng xuống
là tả )

( Phụ )
Hình vẽ bổ tả ở thủ tam dương kinh

Hình vẽ và những ví dụ kể trên là bổ tả ở nam giới. Nếu khi dùng ở nữ giới thủ
pháp bổ tả bình nhụ thì phải đổi ngược chiều tả hữu ( tức là ở nam giới hướng tả
bình nhụ là bổ, thì ở nữ giới hướng hữu bình nhụ là bổ. Nam hướng bình nhụ là
tả, thì ở nữ giới hướng tả bình nhụ là tả.
Ghi chú: Bất luận là hướng tả bình nhụ hoặc hướng hữu bình nhụ đều có tác
dụng điều tiết âm dương . Vì để tăng cường tác dụng điều tiết phải cần đến thủ
pháp nghênh tuỳ trong bình nhụ.

“ Nghênh” là nguyên tắc cổ nhân nhằm tiến hành tả, “ nghênh nhi đoạt chi” tức
là đón kinh khí đến, ý tứ là đoạt lấy tà khí thực.
“ Tuỳ” là nguyên tắc cổ nhân tiến hành bổ, “ tuỳ nhi tế chi” tức là theo điều kinh
khí, ý tứ là giúp cho chính khí hư.
Không rõ bổ tả, bàn hướng tả bình nhụ hoặc hướng hữu bình nhụ cũng được,
không sao.
Sự sai lạc giữa không dùng bổ tả và dùng bổ tả làm. nói chung các bệnh tật,
không dùng thủ pháp bổ tả thì hiệu quả chữa cũng đã rất cao. Ở những bệnh tật
nghiêm trọng có những biểu hiện đột xuất ở âm dương, biểu, lý, hư, thực, hàn,
nhiệt, thì tiến hành thủ pháp bổ tả càng tốt.
1 – 3: Tác dụng của bình nhụ pháp
Như đã nói ở phần trước, “ Nhụ” là sản vật của sự kết hợp hai loại án và ma,
khái quát chủ yếu là án trú bất động làm cho ức chế, cần phải có cái nông dừng
của ma để hưng phấn. Bình nhụ có thể làm cho ức chế và hưng phấn kết hợp giúp
cho nhau và giúp nhau gây nên ngang bằng.
Bình nhụ trên huyệt vị có thể gây nên tác dụng vì ở kinh huyệt và ở kinh lạc có
quan hệ mật thiết, do đó sau khi bình nhụ ở huyệt vị, làm cho bản kinh ở thuộc (
dương kinh hoặc âm kinh có huyệt vừa làm thủ pháp ) được đến sự điều chỉnh.
Như thế, sẽ làm cải biến hiện trạng tuần hành khí huyết trong kinh mạch. Vì vậy,
làm cho công năng sinh lý trong cơ thể người nảy sinh ra một loại biến hoá mới,
mà loại biến hoá này ảnh hưởng ngay đến mọi mặt của bản kinh và tạng phủ có
quan hệ biểu lý.
Nói tóm lại, bình nhụ là điều tiết âm dương và các hiện tượng không thăng bằng,
nó có thể bổ hư, có thể tả thực, thăng được, giáng được, tiêu tích, trừ hãn, cũng có
thể đẩy cái cũ đến tác dụng mới, là thủ pháp chủ yếu trong điểm huyệt.
1 – 4: Ứng dụng của bình nhụ pháp
Bình nhụ pháp trên lâm sàng, không kể là dùng thủ pháp bổ hoặc dùng thủ pháp
tả, hoặc bình bổ bình tảpháp, tất cần phải kết hợp với sự nhẹ nặng của thủ pháp,
tốc độ nhanh chậm khi nhụ xoay và kết hợp với thế bệnh nặng nhẹ hoãn cấp, thể
chất người bệnh khoẻ yếu béo gầy, và cả quan hệ khác nhau như nam nữ già trẻ,

nắm chắc tuỳ thời, gặp chứng ứng biến.
Bình nhụ pháp ứng dụng cực rỗng rãi trên lâm sàng, bệnh tật nói chung đều có
thể chọn dùng. Khi phối hợp thủ pháp, thường sử dụng kết hợp với áp phóng
pháp, và các thủ pháp khác đều có thể phối hợp. Khi tháo tác, một ngón tay giữa
cũng có thể lấy để nhụ, hai ngón tay giữa cũng có thể lấy để nhụ. Một hướng tả
bình nhụ cũng được, hướng hữu bình nhụ cũng được, để cho thuận tay người thày
là được. Nếu như ở một loại bệnh khi mà thấy không có hiệu quả hoặc thu hiệu
qủa không nhiều, thì có thể chọn dùng phương pháp bổ tả của bình nhụ. Giả như,
đối với việc luyện tập chưa thành thạo phương pháp bổ tả của bình nhụ, thì binh
nhụ đối với một nam giới, ta lấy huuyệt ở cạnh bên trái trứơc, lấy huyệt ở cạnh
bên phải sau. Bình nhụ ở nữ giới ta lấy huyệt cạnh bên phải trước, lấy huyệt ở
cạnh bên trái sau hoặc nhụ hai tay nhằm vào nhau, thay đổi đều mỗi bên một nửa
số nhụ ( như nhụ đúng là 50 lần, nhụ quay lại là 50 lần, như thế này cũng gây nên
được tác dụng bình bổ, bình tả ).

Tiết 2: Áp phóng pháp ( phép nhấn nhả )
Áp phóng là một loại thủ pháp tiến hành trên huyệt vị, “ Áp” là áp dùng ở dưới,
“ Phóng” là buông nới tay lên. Hai thứ đối lập nhau, nhưng động tác cùng kết hợp
với nhau.
Khi thao tác bình nhụ xong, đầu ngón tay giữa để lâu dài trên huyệt vị đó., ấn
xuống tầng sâu của huyệt vị, làm cho đầu ngón tay ở dưới mức ngang bằng của
mặt da huyệt vị, áp xuống xong thì phóng, phóng xong lại áp. Một áp một phóng
là một lần. Nói chung thường lấy 50 lần đến 100 lần làm tiêu chuẩn, số lấn đó tăng
hay giảm, phải căn cứ vào bệnh tình mà quyết định.
1 –1: Tiêu chuyển của áp phóng
Áp và phóng, khoảng cách trong quá trình áp phóng lá áp xong phóng mở xong
lại áp., nhất định cần phải giữ cho được tốc độ nhanh chậm thích đáng. Nếu như
nhanh chậm không đều, sẽ mất đi tính hiệp đồng điều hoá giữa áp và phóng. Áp
ở chỗ sâu, kình ở tầng trong của huyệt vị, phóng mở ngang bằng với mặt da, kình
ở tầng bề mặt của huyệt vị.

Nguyên tắc ở đây là do bệnh tình khác nhau, lại có thể rút ngắn quá trình áp
phóngm nhưng vẫn không được đem đầu ngón tay ra khỏi mặt da.
Áp là dùng dầu ngón tay giữa để áp, không thể dùng ngón tay mà áp. Dùng
móng tay mà áp sẽ thành ra thiết ( cắt ), cũng không dùng phao ngón tay mà áp.
Dùng phao đầu ngón tay để áp cũng thành án ( ấn ). Hai quá trình áp và phóng
cần phải giữ đúng trung tâm huyệt vị, làm cho cái động của kình và trung tâm
huyệt vị thành đường thẳng đứng. Không đúng thế, sẽ giảm yếu tác dụng do thủ
pháp này gây nên.
2 – 2: Bổ tả của áp phóng pháp.
Mấu chốt của bổ tả áp phóng pháp chủ yếu là nằm được động tác áp xuống.
Nhưng cần phải theo đúng quan hệ tuần hành của 14 kinh mạch để dễ làm đến
nghênh và tuỳ, đạt đến thủ đoạn bổ và tả.
Khí huyết của thủ tam dương kinh, đi từ tay lên đầu. Khi vận dụng thủ pháp, bổ,
áp kình trong huyệt vị hơi đi lên một ít. Khi vận dụng tả pháp, áp kình trong
huyệt vị hơi đi xuống một ít.
Khí huyết của thủ tam âm kinh, đi từ ngực ra tay. Khi vận bổ pháp, áp kình ở
trong huyệt vị hơi đi xuống một ít. Khi vận dụng tả pháp, áp kình trong huyệt vị
hơi đi lên một ít.
Khí huyết của túc tam dương kinh, đi từ đầu xuống chân.Khi vận dụng thủ pháp
bổ, áp kình trong huyệt vị hơi đi xuống một ít. Khi vận dụng tả pháp, áp kình
trong huyệt vị hơi đi lên một ít.
Khí huyết của tam âm kinh đi từ chân lên bụng. Khi vận dụng bổ pháp, áp kình
trong huyệt vị hơi đi lên một ít. Khi vận dụng tả pháp, áp kinh trong huyệt vị hơi
đi xuống một ít.
Ngoài ra, áp kinh giữ nguyên tại trung tâm huyệt vị, thuộc về bình bổ, bình tả
pháp.
2 – 3 : Tác dụng của áp phóng pháp
Áp phóng là chèn ép tổ chức của huyệt vị, làm cho nó co rút, ức chế, xu hướng ở
trạng thái tĩnh dừng. Phóng là đem phóng mở sự chèn ép ở huyệt vị, làm cho nó
giãn chương, hưng phấn, xu hướng ở trạng thái hoạt động.

Áp xuống đi nông sâu, lấy phóng lại khống chế cho nên kết hợp áp phóng là
lấy phóng chế áp. áp sâu, trong cơ thể là doanh phần. áp nông, ở trong cơ thể là
vệ phần. Do đó, áp phóng có công năngđiều tiết doanh, vệ, khí, huyết. Áp là áp
dừng tính hoạt động của bệnh thế nói chung, có đủ các hiệu lực thu liễm, dứt
nghịch, dứt nôn, dứt mồ hôi, dứt đau. Phóng là duy trì tác dụng sau khi áp gây
nên, không thể do áp mà dẫn đến hiện tượng chẳng lành.
2 – 4 : Ứng dụng của áp phóng
Áp phóng pháp và bình nhụ pháp ứng dụng trên lâm sàng trọng yếu như nhau.
Khi thao tác cũng cần phải kết hợp với thể chất của người bệnh khoẻ yếu , gầy
béo, giữ vững thủ pháp nặng nhẹ thích đáng. Theo bệnh tình nặng nhẹ và đã mắc
bệnh lâu hay mới, nắm chắc tốc độ của áp và phóng. Mức nông hay sâu của áp có
quan hệ với áp nặng hoặc nhẹ. áp nhẹ hay áp nặng lại có quan hệ với vùng kinh
huyệt. Vì thế, ở việc vận dụng áp phóng cần liên hệ với các mặt mới có thể phát
huy tác dụng ứng với mục đích.
( Phụ ): Tiêu chuẩn thao tác cụ thể của bình nhụ pháp và áp phóng pháp.
a. Độ nhanh chậm của thao tác.
Tiêu chuẩn nhanh chậm của thao tác bình nhụ và áp phóng là căn cứ vào nhịp
nhạch nhảy của người bình thường, lấy đó làm tỷ lệ nhanh chậm của thủ pháp.
mạch bình thường đập mỗi phút từ 70 – 80 lần. Trong bắt mạch của Thiết trẩn
Đông y, một lần thở ra, một lần hít vào là 4 – 5 lần. Nhiều hơn số trên 80 lần là
thủ pháp nhanh, ít hơn số dưới 60 lần là thủ pháp chậm. Đây là ngang với mạch
lý “ ba lần là chậm, sáu lần là nhanh” ( Tam chí vi trì, lục chí vi sác ) của phương
diện bắt mạch.
Mỗi phút bình nhụ hoặc áp phóng khoảng 70 – 80 lần đó là thủ pháp không
nhanh không chậm, cũng có thể nói là thủ pháp trung hoà. Tiêu chuần này của
thủ pháp dùng ở bệnh tật của tỳ vị, cũng là tiêu chuẩn của thủ pháp thường dùng
trên lâm sàng.
Thủ pháp nhanh ( tức là trên 80 lần trong một phút ) tương đương với mạch xác,
có thẻ dùng trong bệnh tật hư hàn, cũng có thể dùng ở cảm mạo khi bị mát lạnh.
Thủ pháp chậm ( tứ là dưới 70 lền trong một phút ) tương đương với mạch trì, có

thể dùng trong bệnh phiền táo ( thần kinh chức nặng, tinh thần khác thường, bệnh
mất máu ).
b. Mức thao tác nặng nhẹ:
Mức nặng nhẹ của thao tác bình nhụ pháp và áp phóng pháp, chủ yếu là theo
vùng của ngũ tạng, và quy luật bình thường của nhịp mạch, qua đó quyết định
mức nặng, mức nhẹ và mức không nặng không nhẹ của thủ pháp.
Phế và tâm, ở vùng trên trong cơ thể con người, mạch tượng nổi ( phù ), chủ về
khí huyết. Can và thận, ở vùng dưới trong cơ thể con người, mạch tượng chìm (
trầm ), chủ về gân xương. Tỳ vị ở vùng giữa trong cơ thể con người, mạch tượng
không nổi không chìm ( mạch ở trung bộ ), chủ về cơ bắp.
Do đó, mức nặng nhẹ của thủ pháp cũng căn cứ theo lý luận trên, mà chưa thành
mức nhẹ của thủ pháp ở vùng khí huyết, mức nặng của thủ pháp ở vùng gân
xương, mức không nặng không nhẹ ở vùng cơ bắp.
Tiêu chuẩn nặng nhẹ của thủ pháp chỉ là tương đối, lại cần phải kết hợp với thể
chất gầy béo và vùng huyệt vị. Do vậy, đại để là theo nguyên tắc dựa vào mức của
tiêu chuẩn, nhưng cần kết hợp với tình hình bệnh, mới có thể linh hoạt thích
đáng, như thể mới có thể đạt đến thủ pháp gây được tác dụng.
c. Mức cự ly của vòng tròn bình nhụ:
Căn cứ vào tình hình hàn, nhiệt, hư, thực của bệnh, mà chia cái vòng bình nhụ
làm ba mức là vòng to, vòng nhỏ và vòng trung. Bởi vùng huyệt vị khác nhau do
đó cái vòng tiêu chuẩn của nhụ cũng cần phải tương đối linh hoạt.
Tiêu chuẩn to nhỏ của vòng, lấy căn cứ từ vòng cỡ trung. Tiêu chuẩn của vòng
cỡ trung là căn cứ phạm vi nói chung của huyệt vị chừng to bằng hạt đậu, cũng là
khi ngón tay giữa ở chỗ bình nhụ cụ thể, vòng quanh đầu ngón tay không vượt
qua một phân. Vòng nhỏ là nhỏ nhơn so với đó, vòng to là to hơn so với đó. Về
phương diện linh hoạt, vòng to lại có thể phóng to hơn, vòng nhỏ cũng có thể thu
nhỏ lại hơn.
d. Mức độ cự ly áp phóng của áp phóng pháp:
Cự lý của thủ pháp áp phóng là độ nông sâu thống nhất của quá trình, là có tác
dụng điều tiết doanh, vệ, khí, huyết. Ngoài thế ra, căn cứ vào bệnh tình khác

nhau, lại đem chia thủ pháp này làm 3 vùng tức là vùng khí huyết, vùng gân
xương, vúng cơ bắp, tiến hành áp phóng. Nhưng ở đây nó là nguyên tắc, khi ứng
dụng lại có thể linh hoạt. Ví dụ: Đối với chứng mất máu, khi tiến hành thủ pháp
áp phóng mức cự ly của áp phóng không thể là lớn, bởi vì áp phóng mức độ lớn
đều có tình giãn nở đối với mạch máu, sẽ làm cho giãn đến mức xuất huyết trở lại.
Nếu như áp phóng mức nhỏ thích hợp, sẽ có tính thu liễm, có thể thúc cho vùng
huyết quản tương đối co rút, đạt đến tác dụng cầm máu. Lại như, đối với người
bệnh huyết áp bị kẹt, khi tiến hành thủ pháp áp phóng, sẽ cần đưa cự ly áp phóng
đạt đến phạm vi nông, sâu, đó là để làm cho khoảng chênh lệch giữa tối đa vào
tối thiểu của huyết áp biến giãn ra. Nhưng thủ pháp không phải là cái tuyệt đối,
cái đó cần phải kết hợp với chọn huyệt phối phương theo tình huống, mới có thể
phát huy tác dụng trị liệu chân chính.

Tiết 3 Bì phu điểm tả pháp (chấm, gõ da)
Chấm gõ ở da là lấy đầu ngáo giữa tay tiến hành thao tác, trước tiên là nâng ngón
giữa lên, rời xa mặt ra khoảng 1-2 thốn, lại đem đầu ngón tay giữa nhằm vào đúng
trung tâm huyệt vị chấm gõ xuống. Khi chấm gõ làm cho lực chọi nâng lên tựa
như có tính đàn hồi. Dạng như thế, sức ngón tay chấm gõ, chấm gõ tại tầng biểu
da dẻ, không hứng chí làm cho trọng lượng gõ không bình thường. Một lần gõ,
nâng là một lần, số lần chấm gõ thường lấy 100 lần làm tiêu chuẩn. Mức nặng nhẹ
của chấm gõ, một cách đều như nhau cần phải căn cứ vào bệnh tình mà quyết
định. Cho đến tốc đọ của chấm gõ, nói chung thủ pháp chấm gõ đều nhanh. Do
nhanh mới có đủ sức sinh ra nhiệt, cái đó có tác dụng tương đương với cứu ngải.
3–1: Tác dụng của chấm gõ da( Bì phu điểm đả):
Phép chấm gõ da là trên bề mặt huyệt vị của người bệnh, tiến hành chấm gõ, có
thể dẫn đến các mao tế (vi ti ) Huyết quản giãn nở. Vì thế, ở chung quanh huyệt vị
sinh ra tình huống hơi đỏ, hơi nóng. Hiện trạng hơi đỏ, hơi nóng đó kéo dài một
thời gian không lâu sẽ dần dần tiêu tan, cũng là quá trình mao huyết quản co rút.
Do cục bộ mao huyết quản ở da trái qua quá trình chấm gõ xong bị giãn nở rồi
chuyển làm co rút, rất rõ ràng đã cấp cho tổ chức tầng ngoài của huyệt vị tăng

thêm lực lượng, thay đổi trả lại tuần hoàn dẫn đến tác dụng khoẻ mạnh cơ năng
sinh lý. Da huyệt vị qua chấm gõ hơi đỏ, hơi nóng giống như cứu ngải xong cũng
hơi đỏ hơi nóng. Cứu ngải là cung cấp nhiệt từ ngoài vào, nhiệt của chấm gõ là
bản thân dẫn đến nhiệt. Nhiệt của ngải cứu thường táo, chứng cấm kỵ cứu ngải
thường nhiều. Nhiệt của chấm gõ ít táo, chứng cấm kỵ cũng rất ít.
Ngoài thế ra, pháp chấm gõ có tác dụng thúc đẩy cơ năng hấp thu phần nước. Ví
dụ: chữa bằng chấm gõ trong chứng trẻ em tiêu chẩy, qua một lần chữa là có thể
làm cho đang từ mỗi ngày tiêu chẩy trên hai chục lần, giảm xuống còn dưới 10
lần. Lại cách chấm gõ đối với người đại tiện phân khô khan. Ngược lại, dẫn đến
đại tiện bí kết. Đó là những chứng minh phép chấm gõ có đủ sức thúc đẩy cơ
năng của ruột hấp thu nước. Từ trong chứng minh ở thực tiễn lâm sàng, ta thấy
phép chấm gõ da có những tác dụng với cầm tiêu chẩy khử phong, dứt ngứa.
3 – 2 ứng dụng của phếp chấm gõ da.
Phép chấm gõ da đủ sức làm cường tráng cơ năng, đối với chứng hư nhược có
hiệu quả cao nhất. Như chứng bại liệt ở trẻ em, mỗi huyệt vị đều không thể thiếu
được phép chấm gõ. Chứng mất máu (các loại xuất huyết) dùng huyệt ẩn bạch,
cũng cần phải có chấm gõ mới có thể phát huy tác dụng cầm máu.
Trọng điểm của chấm gõ da chủ yếu là ở tầng biểu của da.Do đó, đối với chứng
phong hàn cảm mạo nói chung hiệu nghiệm rất tốt. Đối với chứng da dẻ ngứa gãi,
kết quả thu được càng rõ.
Tóm lại, phép chấm gõ da thường dùng phối hợp với hai loại thủ pháp trước.
Nhưng đối với chứng dị ứng mẩn ngứa và bệnh da nói chung, có thể chỉ dùng
riêng một phép đó. Đối với chứng thấp chẩn (ngứa gãi có mụn chẩy nước) cần
phối hợp với bình nhụ pháp. Bệnh nhiệt tính (có sốt) ít dùng, cấm dùng khi người
bệnh bị bí đại tiện.

Tiết 4 - Kinh lạc tuần án pháp ( phép dựa theo đường kinh lạc.
Phép dựa theo đường kinh lạc là lấy ngón tay giữa hoặc ngón tay trỏ, trên đường
qua huyệt và kinh lạc đó tiến hành trở đi, trở lại hoặc nhụ, hoặc áp, hoặc chấm
gõ, đó là tuần án (dựa theo). Ví dụ như: Hợp cốc là kinh huyệt của Đại trường có

tác dụng thêm mạnh bản kinh, sẽ tuyển chọn một số huyệt trên đường từ Hợp cốc
đến Kiên ngung, làm nhụ hoặc áp phóng, hoặc chấm gõ trở đi trổ lại. Ngoài ra có
các thủ pháp đẩy theo bổ tả 1 (tuần thôi bổ tả 1), đẩy theo bổ tả 2 (tuần thôi bổ tả
2). Và thủ pháp bổ trợ tuần án là: Thác niệm, (mài vê xoay), áp án ( áp ấn), ma sát
( mài xoa) để tiện cho việc xem chừng trên lâm sàng mà tuyển chọ sử dụng.
4–1: Bổ tả của phép dựa theo đường kinh lạc.
Bổ tả của phép dựa theo là theo đúng đường tuần hành của kinh lạc tiến hành thủ
pháp dựa theo. Làm thao tác dựa theo bổ pháp, thường nhiều lần thuận theo
đường kinh mạch đi, ít lần ngược theo đường kinh lạc đến thường theo tỷ lệ hai so
với một. Ví như, trong khoảng từ huyệt hợp cốc đến huyệt Kiên ngung của kinh
Đại trường làm hai lần hoặc nhụ, hoặc áp, hoặc điểm, từ huyệt Kiên ngung đến
huyệt Hợp cốc thì làm một lần. Hoặc là từ huyệt Kiên ngung đến huyệt Hợp cốc,
lại từ huyệt Hợp cốc đến huyệt Khúc trì.
Bình bổ bình tả của phép dựa theo là làm đi trở lại như nhau, thao tác đi và trở
lại,
(Phụ): Bổ tả đẩy theo kinh lạc (1)
Đẩy theo kinh lạc bổ pháp ví như ở thủ dương minh đại trường kinh, ngón tay
cái đẩy từ huyệt Hợp cốc đến huyệt Khúc trì làm một lần, 9 lần là cửu dương số,
thường là đều làm 9 x 9=81 lần. Đẩy theo kinh lạc tả pháp là từ huyệt Khúc trì đẩy
đến huyệt Hợp cốc, 6 lần là lục âm số, thường đẩy 6 x 6 =36 lần. Cự ly đẩy dài hay
ngắn, có thể liệu chừng mà tăng giảm. Đẩy theo bổ tả ở các đường kinh khác đều
dựa theo cách đẩy này.
Bổ tả đẩy theo kinh lạc ( 2)
Quá trình thao tác đẩy theo kinh lạc làm trước tả sau bổ, trước tả là: như đẩy kinh
Bàng quang ở chi dưới, một tay nắn ở vùng lưng chọn dùng huyệt hoặc a thị huyệt
ở cơ bắp cục bộ, tay kia từ bắp đùi phía dưới hướng lên trên đi ngược đường kinh
mạch đẩy đến huyệt chỗ huyệt Thưà phù. Cùng với lúc đẩy như thế, tay nắn cơ
bắp cũng theo đó kình nâng lên. Động tác nâng và đẩy kết hợp cùng nhất trí, đẩy
nâng như thế là một lần, đẩy nâng tất cả 18 lần. Sau bổ là một tay nắn nâng đổi
thành làm ấn xuống, tay kia đẩy cũng đổi thành thuận đường kinh đẩy xuống,

nhưng từ huyệt Thừa phù, đẩy từ trên xuống dưới tới phía bờ dưới bắp đùi, là một
lần, ấn xuống và đẩy kết hợp lại, cũng phải ấn và đẩy nhất trí, ấn đẩy tất cả là 27
lần.Phép này cũng có thể tuỳ theo tình hình các kinh khác mà chọn dùng, nó có
hiệu dụng thư giãn gân, hoạt huyết.
Thủ pháp bổ trợ cho phép dựa theo: Đếm mài xoay, áp ấn, xoa sát.
Nay phân ra kể như sau:
- Mài xoay: Dùng hai lòng bàn tay hoặc chụm các ngón ở hai bàn tay lại, có
thể dùng ở tứ chi và vùng bàn tay, bàn chân, thích hợp với chứng đau đớn tê
bại, mài vòng đi lại 8 –9 lần là được.
- Áp ấn: lại còn gọi là áp bách, tức là một tay áp ở vùng thao tác, tay kia kế
đó ấn ở phía trên tay áp, hai tay kết hợp với nhau ấn 8 –9 lần là đước.
- Xoa sát: Đây là động tác thêm ở ngoài da, một hay hai tay thao tác đều
được, tức là lòng bàn tay để lên vùng có bệnh, xoa sát 8 –9 lần là được.
4– 2: Tác dụng của phép dựa theo kinh lạc
Phép dựa theo do thao tác trong phạm vi kinh lạc có thể trực tiếp thúc đẩy tuần
hoàn khí huyết. Đồng thời, do ở bổ tả khác nhau, lại có thể làm thay đổi tình hình
đi, đến của khí huyết ở trong kinh lạc, cách này có thể tăng thêm tác dụng bổ tả
của mấy loại thủ pháp phía trước.
Phép dựa theo khi dùng phối hợp thì nó có tính chất bổ trợ. Nếu dùng riêng nó
thì cũng có hiệu nghiệm thông kinh lạc, hoạt khí huyết, dứt đau, chữa tê bại …Bởi
vì trong dựa theo có thủ pháp hưng phấn, có thủ pháp ức chế. Từ trong thủ pháp
nhanh, chậm, nặng, nhẹ khác nhau lại có thể sử dụng bình nhụ, áp phóng, là hai
loại thủ pháp có tính năng cải biến . Nếu như thủ pháp thao tác chậm mà nặng sẽ
có thể đem tác dụng hưng phấn đến làm ức chế, ngược lại thủ pháp thao tác
nhanh mà nhẹ cũng có thể đem theo tác dụng ức chế biến làm hưng phấn. Đó là
vì đối lập với hưng phấn là ức chế, hưng phấn giảm yếu thì cũng lại biến thành ức
chế. Đây là tính thống nhất của hai mặt âm dương đối lập nhau trong lý luận đông
y.
4–3: Ứng dụng của phép dựa theo kinh lạc.
Phép dựa theo kinh lạc ứng dụng trên lâm sàng chủ yếu là căn cứ vào quan hệ

của sự phân bố và tuânf hành kinh lạc, thường dùng vào bệnh phong thấp và tê
bại do cơ năng trở ngại về mặt số lần thao tác và vùng thao tác, cần phải căn cứ
vào tình hình bệnh và phạm vi bệnh, tiến hành dựa theo ở cục bộ hoặc dựa theo
trên toàn thân, lấy từ 5 –8 – 9 lần, hoặc lại nhiều hơn một ít cho thích hợp kết hợp
các thủ pháp cần kết hợp với bệnh tình mà chọn tuyển, cũng không phải là đem
toàn bộ phép dựa theo kinh lạc dung lên.
Mức nặng, nhẹ, nhanh, chậm của thủ pháp dựa theo cũng cần phải căn cứ vào
bệnh thế của người bệnh năng, nhẹ,cũ, mới, và kết hợp với thể chất khoẻ yếu, gầy
, béo, linh hoạt nắm lấy, tự mình có thể đạt đến dự cảm kết quả chuqã của phép
dựa theo kinh lạc.

Tiết 5 – Ngũ hành liên dụng pháp ( phép nối tiếp dùng ngũ hành).
Ngũ hành là mộc, hoả, thổ, kim, thuỷ. Quan hệ ngũ hành tương hỗ là tương sinh,
tương khắc, tương thừa, tương vũ. Theo ngũ hành sở thuộc của ngũ tạng ( can và
đảm thuộc mộc, tâm và tiểu trường thuộc hoả , tỳ và vị thuộc thổ, phế và đại
trường thuộc kim, thận và bàng quang thuộc thuỷ ), ngũ tạng sở chủ ( can chủ
gân, thận chủ xương, tâm chủ huyết, phế chủ khí, tỳ chủ cơ bắp ), tập hợp thành
quan hệ hỗ tương chỉnh thể, cùng với vùng ở nội tạng bên trong là nhất trí. Tâm
phế ở trên, nhất trí với khí huyết ở tầng nông của chi thể. Can thận ở dưới, nhất trí
với gân xương ở tầng sâu của chi thể. Tỳ vị ở giữa, nhất trí với cơ bắp ở khí huyết
khoảng giữa gân xương. Ngũ hành liên dụng pháp là dựa theo đúng lý luận kể
trên, chia làm:
5 – 1: Tên gọi của năm loai thủ pháp.
Tên gọi của 5 loại thủ pháp là:
a). Áp phóng ở xương ( cốt áp phòng )
b). Rung rẩy ở gân ( cân chấn chiên )
c). Nhụ trái phải ở cơ bắp ( cơ nhụ tả hữu nhụ )
d). Xoa đẩy ở mạch máu ( huyết mạch ma thôi )
đ). Chấm gõ ở da ( bì phu điểm tả )
Vì năm loại thủ pháp này là phối hợp năm loại du huyệt tỉnh, huỳnh, du, kinh,

hợp thao tác liên tục cho nên gọi là ngũ hành liên dụng pháp.
5 –2: Thứ tự thao tác nguc hành liên dụng pháp
Căn cứ vào sự khác nhau về nông sâu của khí huyết, gân xương, cơ bắp, tập hợp
lại thành quan hệ tương hỗ chỉnh thể, và kết hợp với phương hướng tuần hành
của thủ túc âm dương kinh, đêm một thủ pháp này chia thành thứ tự trước sau tiến
hành thao tác. Do thủ âm dương kinh xu thế tuần hành là từ trên đi.xuống ( thủ
kinh giao với túc kinh ). Thứ tự của thủ pháp là : Chấm gõ, xoa đảy, áp phóng (
ấn nhả ), rung rẩy, bình nhụ trái phải. Túc dương kinh và âm kinh có xu thế tuần
hành là từ dưới đi lên ( túc kinh giao với thủ kinh ), thứ tự của thủ pháp là: áp
phóng ( ấn nhả ), rung rẩy, chấm gõ, xoa đảy, bình nhụ phải trái. Nhâm mạch và
độc mạch tuần hành đều là từ dưới lên trên, thứ tự của thủ pháp giống như ở túc
kinh.
5 – 3: Thao tác cụ thể và lý luận của ngũ hành liên dụng pháp
a. Chấm gõ ( điểm đă ): Thao tác chấm gõ là tiếp xúc với da dẻ của huyệt vị,
thuộc về phế, phế là kinh chủ khí. Quá trình của thủ pháp là: Một ngón giữa
tay tiến hành chấm gõ ở vùng huyệt chủ đã chon, ngón giữa tay kia ấn áp ngay
và để nguyên không động ở huyệt phối phợp là kim huyệt trong phạm vi kinh
mạch, làm phối hợp với huyệt chủ để tăng mạch tác dụng của chấm gõ, có
giống như chấm gõ ở đoạn ngắn tắc của phế mạch ( tay kinh nâng lên của chấm
gõ ) nhất loạt đêù làm 100 lần.
b. Xoa đẩy ( ma thôi ): Thao tác của xoa đẩy là tiếp xúc với huyết mạch của
huyệt vị, thuộc về tâm, tâm là hoả. Quá trình thủ pháp là : lòng bàn tay của
một tay, hoặc cạnh nghiêng của gốc ngón cái tay để ở vùng huyệt chủ đã chon,
xoa đẩy đi và lại thuận theo đường kinh một lần, tay kia áp giữ ngay và để
nguyên không động ở huyệt phối hợp là hoả huyệt trên bàn kinh, lam cho tác
dụng phối hợp với chủ huyệt để tăng cường tác dụng của xoa đẩy. Phạm vi xoa
đẩy vượt quá huyệt vị ( tức là huyệt vị ở hai mặt trên và dưới của kinh lạc ), có
tựa như tâm mạch phùđại mà tán, mỗi huyệt xoa đẩy tất cả là 100 lần.
c. Ấn nhả ở xương ( cốt áp phóng ) : Thao tác ấn nhả là ấn sờ thấy đến vùng
xương ( giả sử như ở vùng bụng gặp khi ước chừng phải ấn nhả, ấn nặng cảm

thấy đến tốt, tức là ấn nặng ( ấn nặng khó chịu thì giảm bớt sức ấn ), thuộc về
thận, thận là thuỷ. Quá trình thủ pháp là : ngón giữa của một tay của huyệt chủ
áp sâu xuống đến tới vùng xương, sau đó từ từ hơi nhả tới vùng gân. Một ấn
một nhả là một lần. Thủ pháp chậm mà nặng, có thể nhất loạt chỉ nhấn nhả
năm bảy lần là được, nhấn nhả ở vùng sâu, động tác lại chậm, có tựa như mạch
của thận chìm mà mềm (chầm nhi nhuyễn ). Cùng lúc với nhấn nhả, ngón giữa
của tay kia nhanh chóng ấn để nguyên ở thuỷ huyệt của bản kinh làm cho
huyệt phối hợp tăng cường tác dụng của nhấn nhả.
d. Rung rẩy ( chấn chiến ): Phép này là ấn sờ ở vùng gân, thuộc can, can là
mộc. Quá trình thủ pháp là : ngón tay giữa của một tay làm rung rảy ở huyệt
chủ. Trước hết làm cho lắc 7 – 9 lần. Mỗi lần lắc rung rẩy một, hai xong hơi
ngừng rồi lại làm như trước ( tức là lắc và rung kết hợp lại ), kế đó là rung rẩy (
tức là ngón giữa ở trên huyệt vị liên tục rung động ) từ 70 – 90 lần. Rung lắc
hoặc rung rẩy đều cần có chứa trong đó tính chất nảy động ( đàn đông ), có
giống như mạch của can là huyết trường ( căng như giây đàn dài ). Cùng lúc
với rung rẩy ngón giữa của tay kia nhanh chóng ấn giữ nguyên ở loại huyệt
mộc của bản kinh, là huyệt phối hợp để tăng cường rung rẩy ở chủ huyệt.
e. Tả hữu bình nhụ : Day ngang bằng trái phải thao tác bình nhụ trái phải là
tiếp xúc ở cơ bắp, thuộc về tỳ, tỳ là phổi. Quá trình của thủ pháp là: ngón giữa
của một tay ở huyệt chủ làm chính nhụ, xoay nhụ mỗi chỗ 100 lần, nhụ không
nặng không nhẹ và cần phải đều, có tựa như mạch của tỳ là hoà hoãn, đối với
bệnh viêm mãn tính đường ruột thì rất tốt. Nếu như bệnh phong thấp hoặc đau
thần kinh, có thể làm nhụ nhẹ bớt đi và nhụ hơi nặng ( vì nhụ nhẹ và nhụ nặng
có phân biệt ). Nhụ bới nhẹ, là cơ bắp li\\\\ huyệt mạch ( nhụ châm ), đây là âm
giúp cho dương. nhụ hơi nặng, là cơ bắp liền gân xương ( nhụ cứng ) đây là
dương giúp âm, có thể dứt đau, có thể xúc tiến khôi phúc cơ năng.
( Chú thêm ): Ngũ hành liên dụng pháp lấy năm loại huyệt tỉnh, hỳnh du, kinh,
hợp, làm cơ sở phối hợp huyệt chọn lấy huyệt chính tiến hành năm loại thủ pháp
(xem trên ).
Âm kinh, tỉnh huyệt là mộc, mộc sinh hoả ( huỳnh ), hoả sinh thổ ( du ), thổ

sinh kim ( kinh ), kim sinh thuỷ ( hợp ).
Dương kinh, tỉnh huyệt là kim, kim sinh thuỷ ( huỳnh ), thuỷ sinh mộc ( du ),
mộc sinh hoả ( kinh ), hoả sinh thổ ( hợp ).
Năm loại thủ pháp và năm loại du huyệt của tứ chi ( chỉ năm loại du huyệt của
một đường kinh ), hỗ tượng phối hợp nhau gọi là ngũ hành liên dụng pháp, nếu
như ở cục bộ chọn hai huyệt vị ( không phối hợp ngũ du huyệt ) thì chỉ gọi là
năm loại thủ pháp.
5 – 4: Tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp.
Mười hai kinh mạch có liên hệ với ngũ tạng lục phủ. Các tạng phủ có quan hệ
tương hỗ của ngũ hành là tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ. Mỗi một
kinh mạch đều có ngũ du huyệt là tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp. Phân bố của ngũ
du huyệt là: âm kinh và dương kinh của tay thù từ bàn tay xếp hàng lên đến
khuỷu tay , âm kinh và dương kinh của chân thì xếp hàng từ bàn chân lên đến đầu
gối. Sự xếp đặt và phân vố của ngũ du huyệt này rõ ràng là quan hệ hỗ tương giữa
tạng khí của một kinh với tạng khí của bốn kinh, tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp ở
những nơi vùng của kinh mạc âm dương là nhất trí, như theo ngũ hành thì có
phân biệt. Vì thế, dương kinh của thủ túc, tỉnh là kim: âm kinh của thủ túc, tỉnh là
mộc. Dương kinh tỉnh kim từ bàn tay lên khửu tay, từ bàn chân lên đầu gối: kim
sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ. Âm kinh tỉnh mộc từ bàn
tay lên khửu từ bàn chân lên đầu gối; mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim,
kim sinh thuỷ.
Sự xếp đặt của dương tỉnh kim và âm tỉnh mộc, cùng với sự tuần hành của 12
kinh mạch từ khởi đến chỉ là nhất trí. Theo phế thuộc kim, khí huyết tuần hành
xuất ở thủ thái âm phế. Theo can thuộc mộc, khí huyết tuần hành tối hậu của một
kinh là túc quyết âm can. Đó cũng là tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp ở mỗi kinh lấy
ngũ hành làm căn cứ lý luận chủ yếu để sắp xếp.

Tiết 6 – Các thủ pháp bổ trợ khác
Thủ pháp bổ trợ trong điểm huyệt liệu pháp là chủ pháp có tính chất bổ trợ mà ở
trên mấy loại thủ pháp có một phía cục bộ nào đó không đủ. Phân ra các mặt:

Vùng đầu, vùng lưng, vùng bụng, tứ chi,, huyệt vị. Đây cũng là tính năng và
phương pháp, trình bầy riêng như sau:
6 –1 Phép đẩy xoay ở vùng đầu (đầu bộ thôi vận pháp ).
Khi đẩy xoay ở vùng đầu, trước hết nói để người bệnh ngồi ngay ngắn, thầy
thuốc lấy hai tay ấn ở hai bên vùng tóc mai của người bệnh, lại đem hai ngón tay
cái từ chỗ giữa hai lông mày người bệnh thay đổi nhau đẩy lên 24 lần, kế đó từ
phía trên xương gồ lông mày ở trên lông mày, chia ra đẩy sang hai bên cạnh chỗ
tóc mai, qua mép trên của hai tai đến xương chẩm vùng đầu rrồi đi xuống chỗ
huyệt phong trì. Khi đẩy lên, hai đầu nhọn ngón tay chầu lên, đồng thời động tác
đẩy hai lần: Đẩy sang đến chỗ hai tóc mai, hai đầu nhọn ngó tay chầu vào nhau,
hướng lên đẩy đến hai góc đầu phía sau huyệt, đẩy hai lần. Lại từ đường giữa
mép tóc, hai cạnh ngón tay cái hợp vào nhau, đầu nhọn ngón tay chầu lên, hoặc
đầu nhọn ngón tay để ở da, áp lên một hàng ngang, tuỳ áp, tuỳ dời vị trí, thẳng
đến huyệt Bách hội áp hai lần. Phương pháp đẩy xoay ở trên có thể đẩy xoay một
số lần. Sức tay nặng, nhẹ, nhanh chậm thì lấy cảm nhận của người bệnh thấy thoải
mái là vừa. Phép này đối với chứng đâu đầu, mệt đầu, khí ngược lên, nôn mửa ,
có hiệu quả.
6 –2 Phép áp theo vùng lưng ( bối bộ tuần áp pháp )
Phép áp theo vùng lưng là dùng ngón tay cái để ở hai bên mỏm gai đốt sông lồng
ngực người bệnh, đường thứ nhất bên cạnh của túc thái dương bàng quang kinh (
cách dường chính giữa cột sống bằng bề ngang hai ngón tay ) đường thứ hai (
cách đường chính giữa cột sống bằng bề ngang 4 ngón tay ), từ trên xuống dưới,
trước bên phải, sau bên trái, áp theo (thứ tự ) trên nhẹ mà dưới nặng. Kiểu đó có
tác dụng ức chế và dụ đạo, đối với các chứng có tính xông lên như nấc, nôn mửa,
rất là hợp, là thủ pháp bổ trợ cho bệnh ở nội tạng nói chung. Mỗi đường có thể áp
theo 8 – 9 lần. Sau khi áp xong đường thứ nhất và đường thú hai, nên cùng áp
theo ở đường giữa cột sống (tức là đốc mạch ). Khi áp theo ở kinh túc thái dương
hai bên, từ trên ngang với đốt sống một lồng ngực, xuớng dưới chừng đến đốt
sống 6 – 7 lồng ngực.
6 –3 Phép rung rẩy ( chấn chến pháp )

Phép rung rẩy chia làm rung rẩy vùng bụng, rung rẩy huyệt vị, rung rẩy khớp
gối, khớp vai.
a- Rung rẩy vùng bụng: Dùng lòng bàn tay để ở những nơi huyệt Trung quản,
Thần khuyết, Quan nguyên, trong khi đang ấn thì hơi dùng làm rung rẩy nhẹ
nhẹ, có dụng dứt đau, rung rẩy mấy phút là được.
b- Rung rẩy huyệt vị: Dùng ngón tay giữa chấn trên huyệt vị, áp nặng xuống
sâu ở huyệt vị, giữ dừng, làm động tác rung lắc, đối với đau khớp do phong
thấp hoặc đáu thần kinh, có tác dụng dứt đau.
c- Rung rẩy khớp gối và khớp vai: Dùng hai lòng bàn tay chụ ấn tại khớp hai
bên khớp vai hoặc khớp gối, sau khi ấn trên đó mấy phút, hai tay đồng thời lắc
động rung rẩy. Phép này tuy là thủ pháp cục bộ, nhưng đúng là có hiệu quả
hoạt huyết dứt đau.
6 – 4: Phép lắc vần tứ chi ( tứ chi giao vận pháp )
Phép lắc vần tứ chi dùng ở tứ chi. Nếu vận dụng thủ pháp ở chi trên, một loại là
lấy một tay nắn khưỷu tay người bệnh, một tay giữ cổ tay, làm cho người bệnh có
động tác gập khưỷu và duỗi khưỷu, làm đi làm lại một số lần. Một loại thủ pháp
nữa là, lấy một tay ấn ở khớp vai của người bệnh, ngón tay cái ở chỗ huyệt Nhu
du, ngón tay giữa áp ở chỗ huyệt Vân môn, tức là ngón cái tay ở phía sau khớp
vai, ngón tay giữa ở phía trước khớp vai, một tay giữ cổ tay làm cho nâng lên, kế
đó là buông xuống, đưa ra phía sau lưng, hoặc từ từ vận động thành vòng tròn,
làm tiếp nhau 8 – 9 lần là đước.
Lại như, thủ pháp ở chi dưới, để một tay đậy lấy vùng xương bánh chè, ngón tay
cái ở cạnh ngoài, ngón trỏ và ngón giữa để ở cạnh trong, một tay kia giữ bàn chân
người bệnh, làm cho bàn chân có động tác gập lại và duỗi ra, và có thể làm động
tác xoay phía ngoài mà co duỗi, xoay về phía trong mà co duỗi, số lần đều 8 – 9
lần là vừa. Phép vần lắc tứ chi, chủ yếu là nhằm vào chứng cơ năng vưới víu,
dùng thì có hiệu quả.
6 – 5: Phép áp huyệt ( áp huyệt pháp )
Pháp áp huyệt là lợi dụng ngón trỏ, ngón giữa và ngón cái của một tay hoặc hai
tay đồng thời áp ở 2 –3 huyệt vị thích ứng với chúng. Phép này thường dùng ở

vùng đầu. Khi áp huyệt, đầu ngón tay mền ra làm động tác nhụ áp và rung rẩy
mấy phút.
a) Phép áp huyệt đau phía trước đầu, lấy hai ngón tay cái áp ở hai huyệt: Tán
trúc, hai ngón trỏ áp ở hai huyệt Đầu duy, hai ngón giữa áp ở huyệt Thái dương
hoặc Ty trúc không.
b) Phép áp huyệt đau bên đầu: lấy ngón tay cái áp ở huyệt thái dương hoặc Ty
trúc không, ngón trỏ áp ở huyệt đầu duy, ngón tay giữa áp ở huyệt suất cố.
c) Phép áp huyệt đau phía sau đầu: hai ngón tay cái để ngang nhau cùng áp vào
huyệt Phong phủ, hai ngón tay trỏ áp vào huyệt Phong trì, hai ngón tay giữa áp
ở huyệt Hoàn cốt.
Phép này không hạn chế ở các huyệt vùng đầu, ở các vùng khác nếu khi dùng
phép này có hiệu quả cũng có thể sử dụng.
6 – 6: Phép cắt huyệt ( thiết huyệt pháp )
Không kể là kinh huyệt hoặc kỳ huyệt, a thị huyệt, đều có thể dùng phép cắt
huyệt. Cụ thể của phép cắt huyệt là dùng móng tay ngón cái, ngón trỏ hoặc ngón
giữa cắt ở trên huyệt vị. Cắt huyệt và áp huyệt khác nhau, nhất định cần chú ý
vùng cắ. Nếu như dùng sức nặng dễ dàng cắt đứt ra trừ huyệt vị vùng đầu, vùng
tay chân ra, nhất loạt tốt nhất là căt cách quần áo. Thủ pháp cắt huyệt nặng hay
nhẹ phải căn cứ tình hình tự thấy của người bệnh mà định. Phép này có hiệu quả
dứt đau. Nếu cắt ở 12 tỉnh huyệt và huyệt Nhân trung, có tác dụng rất tốt trong
cấp cứu đến tỉnh não.
6 – 7: Phép rung lắc ( đấu chấn pháp )
Phép rung lắc chia làm hai loại cục bộ rung lắc và toàn thân rung lắc. Thông qua
rung lắc hoạt động của tổ chức cơ thể đạt đến mục đích thư kinh lạc, hoạt huyết
mạch. Có thể dùng vào chứng cơ năng vận động vướng ngại.
Phép rung lắc: dùng ở vùng ngón tay, chi trên, chi dưới và ngón chân. Khi làm
rung lắc ở ngón tay và ngón chân, người thầy thuốc dùng ngón cái và ngón trỏ
của một tay kẹp lấy trước đầu ngón tay hoặc ngón chân của người bệnh, rung lắc
lay động lên xuống, làm cho khớp bị rung lắc phát sinh ra hoạt động chấn động.
Rung lắc liên tục một số lần là được.

Khi là rung lắc ở chi trên, người thầy thuốc dùng hai tay chụm nắm lấy vùng
khớp cổ tay của người bệnh, tức là hai ngón cái tay cùng dựa vào phía mu bàn tay
của khớp côt tay người bệnh, các ngón còn lại cùng hợp ở phía lòng bàn tay của
khớp cổ tay, sau đó dùng sức rung lắc, làm cho tất cả vùng cánh tay và khớp vai
chịu sự rung lắc. rung lắc liên tục chừng 5 – 10 lần.
Khi làm rung lắc ở chi dưới, một tay người thấy thuốc đỡ lấy gót chân người
bệnh, ngón cái tay ở chỗ huyệt Chiếu hải phía dưới mắt cá trong chân, bốn ngón

×