Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Cách làm một số đồ chơi tự tạo nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng giảng dạy cho trẻ 5-6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.78 MB, 30 trang )

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN ĐƠNG TRIỀU
TRƯỜNG MẦM NON KIM SƠN

                  ********&********

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở
Đề tài

Cách làm một số đồ chơi tự tạo nhằm nâng 
cao hiệu quả chất lượng giảng dạy
  cho trẻ 5­6 tuổi

Họ và tên: Vũ Thị Nhâm
Chức vụ:    Giáo viên
Đơn vị cơng tác: Trường mầm non Kim Sơn


                                            Năm 2014

     

I/ Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
        Xu thế đổi mới mạnh mẽ của nền Giáo dục nói chung và Giáo dục mầm  
non nói riêng là lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là người hướng dẫn, tổ 
chức các hoạt động nhằm phát huy những năng lực chung cho trẻ, đáp  ứng với 
việc bước đầu hình thành những con người mới cho xã hội hiện đại và khơng 
ngừng phát triển.Trẻ   ở  lứa tuổi mẫu giáo rất ngây thơ, hồn nhiên nhưng cũng 
rất ham thích được học hỏi những cái mới lạ, vậy người giáo viên phải làm thế 
nào để giúp trẻ vừa có thể vui chơi một cách hồn nhiên, nhưng cũng có thể tiếp  


nhận được những kiến  thức mà cơ giáo muốn truyền đạt đến trẻ. 
       Để trẻ khơng những tiếp nhận những kiến thức đó một cách thụ  động mà 
phải tích cực, chủ  động thích được khám phá và tìm hiểu về  thế  giới xung  
quanh, những yếu tố  rất quan trọng giúp cho việc hình thành  ở  trẻ  những kỹ 
năng ban đầu giúp trẻ sẵn sàng tiếp nhận tri thức của lồi người sau này.
       Tuổi  ấu thơ, ai trong chúng ta cũng một lần trải qua cái thời chơi đồ  hàng 
bằng lá cây, lá chuối bằng dây cuốn của các loại dây leo. Lấy đất nặn để  nặn  
thành nồi, chảo, bát …, lấy rơm hoặc dây len cuốn lại thành hình búp bê…
       Đối với trẻ  nhỏ, đồ  chơi là một nhu cầu thiết yếu, khơng thể  thiếu được  
trong cuộc sống. Nó cần cho trẻ  như  thức ăn, nước uống. Ngày nay trong thời  
đại cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế phát triển, đồ  chơi cho trẻ cũng rất  
phong phú, hiện đại. Trong số  đó có những loại đồ  chơi bổ  ích, nhưng cũng  
khơng ít đồ chơi cịn mang tính bạo lực, phi giáo dục, độc hại đối với trẻ em. 
     Những loại đồ chơi phù hợp để phát triển trí tuệ cho trẻ mang tính giáo dục  
càng được bổ  sung phong phú đa dạng bao nhiêu thì kích thích được tính tị mị 
ham hiểu biết cùng khám phá của trẻ bấy nhiêu. Đồ dùng, đồ chơi phải phù hợp  
với quy luật phát triển trí tuệ của trẻ ở đúng độ  tuổi mới có tác động góp phần  
hình thành và phát triển trí tuệ ở trẻ.
     Chúng  ta đã biết ở lứa tuổi mầm non trẻ: “Học mà chơi, chơi mà học”. 
Qua các trị chơi trẻ tiếp nhận kiến thức một cách nhẹ nhàng mà hiệu quả, trẻ 
ln muốn được thể hiện cái tơi của mình, muốn được làm những hành động 
của người lớn và khơng gì có thể giúp trẻ học làm người lớn tốt hơn đó là 
những trị chơi đóng vai theo chủ đề. Qua chơi các góc trẻ được hịa mình vào 
thế giới của người lớn, một thế giới thật trong trí tưởng tượng của trẻ.
    Trẻ mầm non ln có nhu cầu với đồ chơi mới, đặc biệt là trẻ 5 tuổi thích 
được tự tay tạo ra đồ chơi cho mình. Để thỏa mãn được nhu cầu đó của trẻ địi 
2


hỏi giáo viên mầm non phải ln sáng tạo ra nhiều đồ dùng, đồ chơi phù hợp 

với nội dung bài dạy, phù hợp với tình huống giáo dục trong các hoạt động.
      Trong thực tế qua nhiều năm làm cơng tác chủ nhiệm, hàng ngày cho trẻ 
hoạt động  được tiếp xúc với trẻ, được xem trẻ chơi, tơi nhận thấy được rằng 
trẻ nhỏ rất thích được chơi với những đồ chơi mới lạ đặc biệt là những đồ chơi 
mà do tự tay trẻ làm ra , tơi ln quan tâm đến việc xây dựng một mơi trường 
lớp học có thẩm mỹ, khoa học, một mơi trường có nhiều góc mở tạo nhiều cơ 
hội cho trẻ trải nghiệm. Và tơi đã sử dụng nhiều ngun vật liệu khác nhau để 
hướng dẫn trẻ làm đồ dùng, đồ chơi để trang trí ở các góc  và trẻ được trải 
nghiệm bằng chính những sản phẩm do tự tay trẻ tạo ra để khuyến khích tính 
ham hiểu biết thích khám phá, thích tìm tịi cái mới lạ và bước đầu phát huy tính 
tích cực, chủ động ở trẻ. 
       Trong khi đó những đồ chơi hiện có trong lớp lại mang tính phổ biến, hạn 
chế  về  số  lượng và ít được thay đổi. Vì vậy trẻ  sẽ  khơng phát huy được tính 
tích cực sáng tạo trong các hoạt động. Bên cạnh cuộc sống sinh hoạt hàng ngày 
của mỗi gia đình, thường có rất nhiều sản phẩm bị  loại bỏ  sau khi sử  dụng,  
chẳng hạn như  vỏ  chai dầu gội, sữa tắm, lon bia, vỏ  hộp sữa, bìa lịch cũ, đĩa 
CD bị trầy cũ… đó là nguồn vật liệu rất phong phú và đa dạng, có thể tận dụng 
làm những việc hữu ích. Nếu chúng ta có ý thức thu gom, chọn lọc từ  nguồn  
phế thải đó và có ý tưởng làm các đồ dùng, đồ chơi thì có thể biến những chiếc  
hộp, bìa to nhỏ thanh ơ tơ, tàu hỏa, nhà cửa, bàn ghế… Từ những lon bia chúng 
ta có thể tạo thành chú sâu nhỏ học tốn, học chữ đưa vào các giờ dạy, các góc 
chơi của trẻ ở Trường Mầm non.
           Làm như  vậy chúng ta sẽ  tiết kiệm được tiền mua sắm vật liệu, tạo ra  
nhiều đồ  chơi mang tính sáng tạo phong phú cho lớp học của mình. Những đồ 
chơi này vừa dễ làm, dễ sử dụng trong các giờ học và các hoạt động. Thơng qua 
đó là hình thức  tuyền truyền tới các bậc phụ huynh, các ban ngành đồn thể , tới 
các bé học sinh về việc bảo vệ mơi trường. Và như vậy chúng ta đã giảm thiểu  
được lượng rác thải, giảm chi phí cho việc xử  lý rác thải trong vệ  sinh mơi 
trường.
      Từ những lý do trên bản thân tơi là một giáo viên chủ nhiệm, tơi đã dựa vào 

kinh nghiệm của những người đi trước, dựa vào sách báo… tơi xin đưa ra  “ 
Cách làm một số đồ chơi tự tạo nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng giảng 
dạy cho trẻ mẫu giáo 5­ 6 tuổi”. Chính vì vậy tơi đã chọn đề tài trên làm Sáng 
kiến kinh nghiệm, để có thể cùng các bạn đồng nghiệp chia sẻ những kinh 
nghiệm trong q trình thực hiện chương trình mầm non để chương trình giáo 
dục mầm non đạt kết quả tốt hơn.
2. Mục đích nghiên cứu:
    Đề  xuất một số binphỏphngdntr lm dựng, chinhmnõng
caokhnngkhộolộocaụitayvgúpphnlmphongphỳdựngtrcquan
cacỏccỏchotng
3.Thời gian, địa điểm
3


Thời gian: Từ đầu năm học đến cuối năm học ( 2013-2014)
Địa điểm: Trờng mầm non Kim sơn
4. únggúpmivmtthctin
iutrathctrngvn cỏchlm  dùng đồ  chơi tự  tạo nhằm nâng cao 
hiệu quả chất lượng giảng dạy cho trẻ mẫu giáo 5­ 6 tuổi.
  Tìm ra một số biện pháp mới để dạy trẻ làm đồ dùng đồ chơi.
 II. Phần nội dung
1.Chương 1: Tổng quan
1.1. Cơ sở lý luận
* Đặc điểm tâm lý của trẻ mẫu giáo 5­6 tuổi liên quan đến việc tiếp nhận 
cách làm đồdùng đồ chơi tự tạo.
+ Tư duy
     Ở tuổi mẫu giáo lớn 5­6 tuổi tư duy trực quan hành động vẫn tiếp tục phát 
triển. Đồng thời tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh và chiếm ưu thế. 
Nhờ có sự tích lũy nhiều biểu tượng về các sự vật, hiện tượng, con người...và 
các mối quan hệ của chúng dưới dạng hình ảnh mà trẻ tiến hành các thao tác tư 

duy với nhiệm vụ đơn giản.
      Đây là nét đặc trưng cho tư duy của trẻ 5­6 tuổi. Vì vậy khi hướng dẫn cho 
trẻ sử dụng  đồ dùng đồ chơi tự tạo vào các hoạt động cơ cần lưu ý vào đặc 
trưng này để có biện pháp thích hợp giúp trẻ nhanh chóng hình thành các biểu 
tượng về sự vật hiện tượng 
+ Ngơn ngữ
     Ở trẻ 5­6 tuổi ngơn ngữ mang tính tình huống, hồn cảnh, ngơn ngữ gắn liền 
với   các sự việc, hiện tượng đang tồn tại trong tri giác của trẻ. Nhờ sự phát 
triển của các cơ quan phát âm, của thính giác sự phát triển nhất định của tư duy 
trẻ phát âm khá chuẩn gần giống như người lớn, trẻ dùng ngơn ngữ nói để diễn 
đạt suy nghĩ của mình và hiểu được lời nói của người lớn
      Việc động viên trẻ làm đồ dùng đồ chơi tự tạo cùng với cơ rất phù hợp với 
đặc điểm phát triển ngơn ngữ của trẻ. Vốn từ của trẻ trong giai đoạn này đã 
tích lũy được khối lượng khá lớn khoảng 2.000 từ. Trẻ biết sửa khi nói sai, biết 
nói câu mở rộng thành phần( Có chủ ngữ vị ngữ). Trẻ cũng cảm nhận được thái 
độ của người nói qua ngữ điệu, giọng nói. Điều này rất thuận lợi cho trẻ tham 
gia q trình làm và sử dụng đồ dùng đồ chơi tự tạo.
+ Chú ý­ trí nhớ
Chú ý: Trẻ 5­ 6 tuổi đã phát triển mạnh cả chú ý khơng chủ định và chú ý có 
chủ định. Nhiều phẩm chất chú ý đặc biệt chú ý có chủ định phát triển mạnh do 
sự phát triển ngơn ngữ và tư duy kích thích. Nắm được đăc điểm này khi hướng 
dẫn  cho trẻ làm đồ dùng đồ chơi tự tạo cơ phải tạo ra khơng gian thần kỳ với 
những hình tượng, kỳ lạ huyền diệu, lung linh màu sắc  để thu hút sự chú ý của 
trẻ
Trí nhớ: Trẻ 5­6 tuổi đã biết sử dụng cơ chế liên tưởng trong trí nhớ để nhớ 
lại sự vật sự kiện, hiện tượng đã gặp đã xem có ấn tượng chỉ một lần. Cùng 
4


với trí nhớ hình ảnh đó thì âm thanh ngơn ngữ sẽ được trẻ tri giác, hiểu, nhớ và 

làm lại.
    Trí nhớ cũng như chú ý đều mang tính chất khơng chủ định, đang hình thành 
và bắt đầu phát triển tới có chủ định
+ Tưởng tượng
    Đặc điểm đặc trưng của tưởng tượng ở trẻ 5­ 6 tuổi có tưởng tượng tái hiện, 
tưởng tượng dựa trên những biểu tượng đã có, đã biết trước đó, tưởng tượng tái 
hiện là q trình tạo ra những hình ảnh mới với cá nhân người tưởng tượng dựa 
trên mơ tả của người khác.
     Trí tưởng tượng của trẻ vơ cùng phong phú, trẻ thường gắn tình cảm, suy 
nghĩ xúc động của mình vào các sự kiên hiện tượng trong nội dung sản phẩm. 
Trí tưởng tượng của trẻ phong phú nhưng khơng vơ tâm, nó tồn tại và hoạt động 
được nhờ có vốn tri thức, kinh nghiệm, nhu cầu và hứng thú của trẻ.
    Vì vậy khi cho trẻ làm và sử dụng các đồ dùng  tự tạo cơ cần lưu ý đặc điểm 
tâm lý này của trẻ để có thể khêu gợi những ước mơ, trí tưởng tượng lành 
mạnh phong phú để bồi dưỡng tư duy sáng tạo cho trẻ.
+ Xúc cảm tình cảm
     Ở tuổi tiền học đường tình cảm thống trị tất cả các mặt trong tâm lý trẻ. 
Đặc biệt ở lứa tuổi mẫu giáo giáo lớn, đời sống tình cảm của trẻ có một bước 
chuyển biến mạnh mẽ vừa phong phú vừa sâu sắc hơn lứa tuổi trước đó. Mặc 
dù xúc cảm tình cảm của trẻ dễ dao động, dễ thay đổi xong nó rất quan trọng 
trong đời sống tâm lý của trẻ. Xúc cảm tri phối mạnh các hoạt động tâm lý
   Tình cảm đạo đức bộc lộ rõ rệt ở trẻ. Trẻ khao khát được u thương, trẻ thể 
hiện tình cảm với mọi người xung quanh, tình cảm ấy dễ dàng được trẻ chuyển 
vào những nhân vật trong chuyện, trẻ thật lịng chia sẻ với các nhân vật.
  Tình cảm trí tuệ của trẻ cũng phát triển mạnh. Trẻ ham thích tìm tịi khám phá 
những ngun nhân nảy sinh các sự vật hiện tượng trong tự nhiên, trong cuộc 
sống. Vì vậy cơ giáo cịn phải giúp trẻ cảm nhận được cái đẹp, biết xúc động 
trước cái đẹp, biết trân trọng cái đẹp để trẻ hình thành một tâm hồn có những 
hành vi cao thượng, có văn hóa, có nhân tính.
1. 2. Cơ sở thực tiễn.

    Một trong những u cầu của chương trình Giáo dục Mầm non được ban 
hành theo Thơng tư 17/2009/ TT­BGDĐT ban hành ngày 25 /7/2009 là tạo điều 
kiện thuận lợi cho trẻ được tích cực tìm tịi, khám phá mọi lứa tuổi. Khi dạy trẻ 
làm và sử dụng đồ dùng đồ chơi tự tạo phải đảm bảo thực hiện theo mục tiêu 
giáo dục, mang tính thẩm mỹ, phải giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, kích thích 
cho trẻ tính độc lập, sáng tạo, đồng thời phải phù hợp với từng lứa tuổi và đảm 
bảo được sự an tồn cho trẻ.. 
   Luật giáo dục năm 2005 ban hành số 38/2005 QH11 ngày 14/6/2005  ở điều 23 
u cầu về nội dung và phương pháp Giáo dục mầm non cũng nhấn mạnh: 
Phương pháp giáo dục mầm non chủ yếu là thơng qua việc tổ chức các hoạt 
động vui chơi để giúp trẻ em phát triển tồn diện. Để trẻ chơi tốt thì phải có đồ 
5


dùng đồ chơi đáp ứng cho trẻ ngồi nguồn đồ chơi do giáo viên cung cấp thì đồ 
dùng đồ chơi do trẻ tạo ra cũng vơ cùng đa dạng và phong phú.
   Trong trường mầm non, vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ  và đồ  chơi là  
phương tiện giúp trẻ thực hiện hoạt động đó, đồng thời cũng chính là cách giúp 
trẻ tiếp thu bài học một cách sinh động, nhiệt tình hơn.
    Hiện nay, đồ  chơi cho trẻ  em có rất nhiều trên thị  trường, tuy nhiên xét về 
phương diện giáo dục thì chúng khơng thể  để  đáp  ứng đầy đủ  các nhu cầu và  
mục đích của chương trình dạy học ở Trường Mầm non. Hơn thế nữa việc mua 
q nhiều đồ chơi cho trẻ làm ảnh hưởng đến kinh phí của các bậc phụ huynh, 
của nhà trường trong khi các phụ, phế  phẩm, các loại vật liệu thiên nhiên từ 
cuộc sống và trong sinh hoạt của địa phương đang sẵn có và có rất nhiều như 
rơm, rạ, cỏ, cây, hoa lá, bìa cát tơng, bèo tây........v v. 
   Để  cho các cháu có thể  sử  dụng làm đồ  chơi cho chính mình, trị chơi với 
những đồ  chơi tự  tạo ln gần gũi và đáp  ứng kịp thời nhu cầu chơi của trẻ.  
Khi món đồ  chơi do tự  tay cơ và cháu làm ra, các cháu sẽ  cảm thấy u q và 
hứng thú hơn rất nhiều so với các đồ chơi mua sẵn. 

Như chúng ta đã biết, hoạt động chủ đạo của trẻ em chính là hoạt động  vui 
chơi,  trẻ  cần phải được thoả  mãn nhu cầu vui chơi. Xuất phát từ vai trị quan 
trọng của hoạt động vui chơi đối với trẻ  em và nhu cầu hưởng  thụ  hoạt động 
này, tơi thấy  việc tổ chức cho trẻ chơi các trị chơi  là  một việc làm cần thiết và 
rất có ý nghĩa.
   Đây cũng là một hình thức dạy cho trẻ biết u q sức lao động ngay khi cịn  
bé, trong q trình làm đồ chơi có mn vàn câu hỏi được đặt ra với cơ giáo, vì  
sao làm con trâu lại phải làm như thế này thế kia?
 Vì sao mũi con chó lại dài?  Tại sao tai con mèo khơng dài mà lại ngắn.?... 
 Xuất phát từ những ý tưởng nêu trên,  tơi nghĩ rằng việc làm và dạy cho trẻ tự 
làm đồ chơi là việc làm hết sức cần thiết và bổ ích cho trẻ mầm non.
2. Chương 2:  Nội dung vấn đề nghiên cứu
2.1.Thực trạng của việc làm một số đồ dùng đồ chơi tự tạo nhằm nâng 
cao hiệu quả chất lượng giảng dạy cho trẻ mẫu giáo 5­ 6 tuổi”.
* Khảo sát đầu năm
  Khái qt q trình điều tra thực trạng
+ Mục đích điều tra
  Chúng tơi tiến hành điều tra nhằm đánh giá thực trạng việc làm đồ chơi tự tạo, 
từ đó định hướng cho q trình nghiên cứu của đề tài.
+ Nội dung
  Thực trạng của việc làm đồ dùng đồ chơi tự tạo cho trẻ 5­6 tuổi  trường mầm  
non Kim Sơn 
   Nhận thức, hiểu biết của giáo viên về  vai trị, vị  trí của việc hướng dẫn trẻ 
làm đồ chơi tự tạo cho trẻ 5­6 tuổi
+ Phương pháp điều tra
6


  Dùng phương pháp dự giờ kết hợp với ghi chép các vấn đề liên quan đến nội 
dung điều tra

   Dùng phương pháp quan sát, dùng phiếu điều tra An­ két   phương pháp thực 
hành, kết hợp với trao đổi, trò chuyện với giáo viên
+ Tiến hành   
   Để  nắm được thực trạng về  việc làm một số  đồ  dùng đồ  chơi tự  tạo nhằm  
nâng cao hiệu quả chất lượng giảng dạy cho trẻ mẫu giáo 5­ 6 tuổi. 
+ Tơi tiến hành khảo sát  40 giáo viên ở Trường Mầm non Kim Sơn
  Tơi đã sử dụng phương pháp đàm thoại, quan sát, dùng phiếu điều tra An­ két 
đối với các giáo viên. Tơi đã thu được kết quả như sau
­ 35/40 ý kiến chiếm 87,5% giáo viên nhận thức được vai trị của việc hướng 
dẫn trẻ làm đồ dùng đồ chơi có vai trị quan trọng trong việc phát triển trí tưởng  
tượng của trẻ
­ 5/40 ý kiến chiếm 12,5% giáo viên cho rằng khơng quan trọng.
­  35/40 giáo viên cho rằng hướng dẫn trẻ làm đồ dùng đồ chơi ảnh hưởng đến  
đời sống tình cảm và sự phát triển ngơn ngữ của trẻ.
­ 36/40 ý kiến chiếm 90% giáo viên có quan tâm và thường xun tổ chức hướng 
dẫn trẻ làm đồ dùng đồ chơi.
 Tóm lại: Khi điều tra bằng phiếu An­ két thì đa số giáo viên đã nhận thức đúng  
về việc làm đồ dùng đồ chơi tự tạo cho trẻ mẫu giáo nói chung và mẫu giáo lớn 
nói riêng. Coi đồ  dùng đồ  chơi là phương tiện giáo dục có hiệu quả  và hiểu  
được biện pháp tích cực để nâng cao hiệu quả trong cơng tác chăm sóc trẻ.
+Tơi tiến hành khảo sát trẻ 5­6 tuổi ở lớp 5C tại Trường Mầm non Kim Sơn­ 
Đơng Triều­ Quảng Ninh. Các cháu đều phát triển bình thường, khả năng nhận 
thức ngang nhau 
Tổng số lớp tơi là 36 học sinh.
Khi nhận trẻ vào lớp tơi đã tìm hiểu khả năng nhận biết và một số tiêu chí của 
trẻ về các trị chơi có liên quan đến sử dụng đồ dùng đồ chơi tự tạo.
­ Trẻ u thích, hứng thú tham gia trị chơi có sử dụng đồ dùng trực quan
  15/36 =41,6%
­ Hiểu biết về đồ chơi 16/36 = 44,4 %
­ Trẻ quan sát cơ làm đồ dùng đồ chơi 14/36 = 38,8%

­ Phát triển nhận thức 17/36 %= 47,2 %
­ Tinh thần đồn kết­ ý thức tập thể 20/36= 55,5%
 Bảng 1: Thực trạng của việc sử dụng một số đồ dùng đồ chơi tự tạo 
nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng giảng dạy cho trẻ mẫu giáo 5­ 6 
tuổi”.
Nhận thức
Thể hiện
Số trẻ
Mức độ
Số trẻ
Tỷ lệ %
Số trẻ
Tỷ lệ %
1
15
41,6
13
36,1
36 trẻ
2
17
47,2
18
50
3
4
11,1
7
19,4
7



  Nhận xét
  Như vậy nhìn vào kết quả trên cho thấy đa số trẻ đã nhận thức được  khi quan  
sát cơ hướng dẫn sử dụng đồ  dùng trực quan trẻ biết cảm nhận được nội dung  
của các nhân vật song trẻ chưa  thể hiện được bằng nét mặt cử chỉ về tính cách  
của các nhân vật trong tác phẩm.
+ Đánh giá phân tích kết quả điều tra.
Tơi tiến hành  phân tích kết quả điều tra ở các khía cạnh.
Trình độ chun mơn
Nhận thức của giáo viên về vai trị, vị trí của vệc làm đồ dùng đồ chơi.
Tìm  tịi các ngun vật liệu, phế thải sẵn có để làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo
Phương pháp, giải pháp chủ yếu sử dụng trong q trình hướng dẫn trẻ làm và 
sử dụng đồ dùng đồ chơi tự tạo.
   Nhận xét
Ưu điểm: 
* Về phía giáo viên Mầm non 
Được ban giám hiệu nhà trường rất quan tâm, đầu tư  về  cơ  sở  vật chất tạo  
điều kiện cho giáo viên được đi học hỏi bồi dưỡng chun mơn, học tập tham 
quan ở các trường bạn. Đồng thời cũng tự nghiên cứu tài liệu, học hỏi trao đổi 
với đồng nghiệp.
Tất cả giáo viên đứng lớp đều được đào tạo qua các lớp chính quy, lớp vừa làm 
vừa học các giáo viên đều có trình độ chuẩn và trên chuẩn, u nghề mến trẻ có 
trách nhiệm cao trong cơng việc, có khả năng sư phạm tốt, nhiều năm nhà 
trường có giáo viên tham gia thi làm đồ dùng đồ chơi tự tạo cấp cụm và cấp 
huyện.
     Giáo viên có trình độ đại học 14/40= 35% 
Giáo viên có trình độ cao đẳng 9/40 = 22,5
Giáo viên có trình độ trung cấp: 17/40= 42,5% ( Các đồng chí đang theo học 
lớp Đại học Mầm non)

 Qua nhiều năm cơng tác hầu hết tất cả  giáo viên trong trường đều thấy rằng  
việc làm đồ  dùng đồ  chơi để  phục vụ  các hoạt động của trẻ  rất thu hút được  
rất nhiều trẻ tham gia, đồ  chơi đã kích thích trẻ  sử  dụng được những kỹ  năng, 
kĩ xảo, ngơn ngữ  của các nhân vật mà trẻ  được tiếp xúc và làm quen qua giờ 
làm quen với tác phẩm văn học, qua hoạt động vui chơi, qua mơn học tốn, qua 
các hoạt động góc ( Kể chuyện sáng tạo, tốn đếm các đối tượng, chơi với rối)
    Kinh nghiệm bản thân qua nhiều năm dạy lớp mẫu giáo lớn tơi thấy trẻ rất  
hứng thú với các trị đặc biệt là trị chơi đóng kịch. Thơng qua các trị chơi trẻ 
được trải nghiệm, được nhập vai, được hóa thân vào các nhân vật mà trẻ  u 
thích.
    Đa số phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con em, thường xun phối  
kết hợp với giáo viên tham gia thu gom những phụ phế thải, những vật liệu làm 
đồ dùng, đồ chơi cho trẻ.
8


Các giáo viên tồn trường tham gia nhiệt tình trong việc làm đồ dùng đồ chơi tự 
tạo.
 Hạn chế
+ Đối với giáo viên
         Trong thực tế Trường Mầm non Kim sơn các lớp học đã được trang bị 
nhiều đồ dùng đồ chơi hiện đại xong để phục vụ q trình hoạt động của trẻ 
trong lớp theo kế hoạch của giáo viên đề ra thì vẫn cịn chưa đáp ứng được.
Từ trước đến nay giáo viên chỉ cho trẻ chơi các trị chơi tự do là chủ yếu, 
hoặc chơi các trị chơi thường khơ khan, gị ép, lặp đi lặp lại nhiều lần, 
khơng lơgic 
theo chủ đề,… nên dễ gây nhàm chán đối với trẻ.
 Đồ chơi khơng gây được hứng thú cho trẻ.
Giáo viên chưa thật sự tạo mơi trường nhằm kích thích trẻ hứng thú vui chơi.
 Giáo viên chưa có đủ ngun vật liệu để làm đồ dùng theo ý tưởng.

Giáo viên ít có thời gian để nghiên cứu làm thêm những đồ dùng mới lạ
Cơng việc bận rộn rất nhiều cũng khơng có thời gian đầu tư  cho việc làm đồ 
dùng, đồ chơi để phổ biến cho các chị em giáo viên trong trường.
Đội ngũ giáo viên trong trường năng khiếu làm đồ dùng đồ chơi cũng cịn nhiều  
hạn chế
   Thời gian tổ chức cho trẻ chơi rất hạn hẹp vì một trị chơi khơng thể diễn ra 
trong  suốt cả một hoạt động của trẻ mà nó chủ yếu chỉ được lồng ghép và tích 
hợp vào các hoạt động mà thơi.
+ Về phía trẻ:
Theo phiếu điều tra về thái độ của trẻ với việc làm và sử dụng đồ dùng đồ chơi 
tự tạo như sau
­ Đồ dung trực quan cịn ít chưa đa dạng phong phú, thẩm mỹ chưa đạt, giá trị 
sử dụng chưa cao. Đặc biệt là đồ dùng cho trẻ hoạt động cịn rất ít.
­   Phụ  huynh phần lớn là lao động nghèo, nên rất khó khăn trong việc hỗ  trợ 
đóng góp kinh phí để tạo góc hoạt động  cho trẻ.
Khả năng chú ý có chủ định của trẻ cịn kém. 
Hứng thú chơi của trẻ: Trẻ dễ dàng hứng thú vào các đồ chơi và các trị chơi 
nhưng cũng nhanh chóng tự rút ra khỏi trị chơi nếu nó khơng cịn hứng thú.
Trong lớp cịn một số trẻ rụt rè, nhút nhát, thiếu tự tin và khơng thích tham gia 
vào các hoạt động tập thể.
Đồ dùng tự tạo trong q trình sử dụng cịn dễ bị hư hỏng do các cháu chơi chưa 
biết cách gìn giữ cẩn thận.
+ Ngun nhân
 ­ Qua khảo sát thực tế   ở  Trường Mầm non Kim Sơn tơi thấy một số  ngun 
nhân dẫn đến thực trạng trên đó là:
­ Do giáo viên chưa thường xun làm đồ dùng đồ chơi tự tạo, 
­ Các trị chơi, vai diễn đều do những trẻ khá có năng khiếu đóng vai, cịn những  
trẻ khác là những khán giả thụ động.
9



­ Trang thiết bị như sân khấu rối, đạo cụ cịn ít chưa phong phú để phục vụ các 
trị chơi
­ Tổ chức hướng dẫn cho trẻ chơi đặc biệt là trị chơi đóng kịch ở Trường Mầm 
non ít được quan tâm. Đa  phần các trị chơi, vở kịch thường là giáo viên lấy sẵn  
trong chương trình
 ­ Các biện pháp hướng dẫn cách làm và cách sử dụng  đồ chơi cịn đơn điệu. 
Giáo viên chưa quan tâm  đến sự  lĩnh hội và thể  hiện trên trẻ, nếu có cũng chỉ 
mang tính hình thức.
 ­ Do nhận thức của trẻ về cảm nhận các nhân vật trong các tác phẩm  cịn thấp.
­  Do kết hợp giữa gia đình và giáo viên chưa tốt.
Tóm lại: Q trình làm đồ  dùng đồ  chơi tự  tạo cho trẻ  hoạt động giữ  vai trị  
quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ. Trên thực tế  việc làm đồ 
dùng đồ  chơi tự  tạo cho trẻ  hoạt động  ở  các trường trên địa bàn huyện Đơng 
Triều nói chung cịn nhiều hạn chế  do nhiều ngun nhân dẫn đến tình trạng 
trên và đối với việc làm đồ  dùng đồ  chơi tự  tạo cho trẻ  5­6 tuổi hoạt động  ở 
Trường Mầm non Kim Sơn nói riêng.
 Ngun nhân chủ yếu là do giáo viên chưa nắm vững các phương pháp để vận 
dụng kiến thức cơ bản để làm đồ  dùng đồ  chơi cho trẻ. Để  nâng cao hiệu quả 
của việc làm đồ dùng đồ chơi tự tạo cho trẻ 5­6 tuổi.
       Tơi xin đề xuất một số giải pháp giáo dục phù  hợp với độ tuổi, có hệ 
thống, có phương pháp khoa học để giúp giáo viên dễ tổ chức, dễ hướng dẫn 
trong q trình dạy trẻ hoạt động. 
2.2. Các giải pháp làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo nhằm nâng cao chất lượng 
giảng dạy cho trẻ 5­6 tuổi.
Giải pháp là gì?
      Một trong những vấn đề  quan trọng nhất của giáo dục học mẫu giáo cũng  
như tâm lý học mẫu giáo là vấn đề  sáng tạo ở trẻ. Sự phát triển năng lực sáng  
tạo và ý nghĩa của cơng việc sáng tạo đổi mới sự phát triển chung và sự trưởng 
thành của trẻ em. Để thực hiện được vấn đề quan trọng của giáo dục học mầm  

non chúng ta cần hồn thiện cách tổ  chức tiết học và vận dụng các biện pháp  
thích hợp để  kích thích tính tích cực. Tư  duy, tưởng tượng nghệ  thuật và khẳ 
năng sáng tạo trong tiết học: “ Theo từ điển Tiếng Việt: Biện pháp là cách làm 
cách giải quyết một vấn đề cụ thể”. Như mục đích đề tài đã đặt ra ở đề tài này 
chúng tơi đã hệ thống hóa và đưa ra một số giải pháp mới dựa trên những cơ sở 
khoa học liên ngành, các phương pháp chung cơ  bản cho trẻ  làm quen với tác 
phẩm văn học.
*Giải pháp1: Bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho trẻ  thơng qua tạo mơi 
trường hoạt động trong và ngồi lớp học.
     Tạo mơi trường cho trẻ hoạt động là rất cần thiết trong chương trình đổi 
mới. Hiện nay nếu cơ tạo được mơi trường cho trẻ hoạt động tốt thì sẽ kích 
thích trẻ phát triển ngơn ngữ, tham gia vào các hoạt động và kết quả đạt được 
10


rất cao. Vì thế ngay từ đầu năm học tơi đã lên kế hoach tạo mơi trường trong và 
ngồi lớp học , xây dựng mơi trường góc mở khuyến khích trẻ hoạt động           
 Tơi đã sử dụng những mảng tường và các giá đồ chơi để thiết kế thành những 
góc hoạt động cho trẻ.. Tơi đã xây dựng những các góc chơi:
Góc tạo hình  ­ Góc phân vai­ Góc nghệ thuật­ Góc xây dựng
 Và một số bảng trang trí lớp:
­ Một ngày hoạt động của bé­ Hơm nay bé nào đến lớp­ Mừng sinh nhật bé
     Bằng cách đưa hình ảnh nhân vật của các câu chuyện nổi bật vào góc học 
tập và một số góc trong và ngồi lớp học thể hiện trên các mảng tường. Vẽ và 
sưu tầm một số bộ truyện tranh ngồi chương trình để đưa vào giảng dạy, vận 
động phụ huynh khéo tay làm các đồ chơi phục vụ cho trẻ đưa vào góc chơi cho 
trẻ hoạt động thường ngày
    Góc hoạt động được thiết kế phù hợp với chiều cao của trẻ để trẻ có thể dễ 
dàng lấy, cất đồ chơi và tự ý bày biện đồ chơi theo ý thích của mình. Sử dụng 
những sản phẩm do trẻ tạo ra để trang trí cũng như làm đồ dùng góc chơi, chính 

việc này làm cho góc hoạt động khơng bao giờ cũ đối với trẻ. Vì ln được thay 
đổi để phù hợp với các chủ điểm trong năm học 
­ Những câu chuyện được thể hiện trên các mảng tường trong khơng gian to đã 
giúp trẻ dễ tri giác, trẻ được thảo luận, bàn bạc về câu chuyện đó. Từ đó trẻ 
biết vận dụng những kiến thức đó sáng tạo ra đồ chơi một cách dễ dàng. 
­ Ngồi việc tạo những bức tranh trên mảng tường, những tập truyện tranh chữ 
to tơi cịn đi sâu làm một số đồ dung trực quan cho trẻ hoạt động như: một số 
con rối dẹt có bánh xe, có cử động tay chân và tận dụng những truyện tranh cũ, 
những sản phẩm vẽ của trẻ, cắt dán bồi bìa cứng cho trẻ ghép tranh cho trẻ  kể 
chuyện sáng tạo hoặc cắt dời các con vật cho trẻ tự chọn các con vật đó để kể 
chuyện sáng tạo theo ý tưởng của mình.
­ Bé trai ở lớp tơi cũng đã từng hỏi tơi “Cơ ơi!, ai là người làm ra những con rối 
này, mình làm được khơng cơ?”. Từ lúc đó tơi tự nghĩ, mình phải làm gì để trả 
lởi được câu hỏi đó. Từ đó tơi ln trăn trở, tìm tịi sáng tạo, tham khảo tài liệu, 
sách báo, được bạn bè tận tình góp ý, tơi đã vận dụng sáng tạo để làm đồ dùng 
đồ chơi tự tạo cho trẻ

11


(Giáo viên đang làm đồ dùng tự tạo)
­ Điều đặc biệt hơn nữa tơi đầu tư suy nghĩ và làm ra các loại rối tay cho trẻ 
hoạt động. Thực tế tơi nhận thấy đồ dùng làm bằng rối tay hầu như ở các lớp 
khơng có cho trẻ hoạt động, qua nghiên cứu tìm tịi tơi đã vận dụng làm từ các 
quả bóng, chổi rơm, đĩa nhựa đồ chơi…để làm mặt con rối sau đó dùng vải 
hoặc len móc làm váy, thân tay để khi trẻ sử dụng khơng bị thơ và cứng. Các 
khn mặt có thể thay đổi tuỳ theo nội dung, nhân vật của câu chuyện trẻ kể.
­ Qua cách nghĩ và làm như vậy tơi đã tạo ra một góc với đầy đủ chủng loại về 
đồ  dùng trực quan đa dạng phong phú, đã giúp trẻ  hứng thú tham gia vào hoạt 
động và nhiều ý tưởng hay khi trẻ kể chuyện sáng tạo.

­ Bên cạnh đó trong giờ hoạt động ngồi trời tơi cịn tận dụng những bức tranh 
tường ở trong trường bằng cách gợi mở cho trẻ cùng nhau kể lại về những bức 
tranh đó hoặc có các con vật trong sân trường tơi cũng gợi mở cho trẻ thi nhau 
kể chuyện về các con vật đó…hình thức này đã giúp trẻ em có nhiều ý tưởng 
sáng tạo hay và có ý thức thi đua để đạt kết quả tốt.Phần nào thỏa mãn được 
nhu cầu của trẻ nhỏ.
­ Tạo mơi trường cho trẻ hoạt động là một việc làm vơ cùng quan trọng bởi nó 
là chỗ dựa, là cơ sở vững chắc cho trẻ hoạt động. Địi hỏi cơ giáo phải biết tạo 
cảm xúc cho trẻ  bằng các con vật ngộ  nghĩnh, đáng u, đồng thời cũng phải  
biết hướng lái, gợi mở cho trẻ có cảm xúc tích cực khi tham gia hoạt động.
­ Qua nội dung các bức tranh, các nhân vật, các con rối trẻ được xem và nói lên  
nhận xét của mình về  các đồ  dùng đó. Như  vậy ngơn ngữ  cuả  trẻ  được phát 
triển một cách phong phú và đa dạng.

12


  Các góc hoạt động liên kết mật thiết với nhau, qua mỗi buổi chơi và  ở  các  
nhóm chơi khác nhau, trẻ có thể tạo ra nhiều sản phẩm để trưng bày, cũng như 
sử  dụng sản phẩm của các bạn khác trong lớp để chơi, chính điều này làm cho 
mỗi buổi chơi trở  nên phong phú hơn, hấp dẫn hơn và mỗi buổi chơi có hiệu  
quả hơn với trẻ. Khơng những vậy, việc tạo ra nhiều sản phẩm cịn rèn cho trẻ 
những đức tính tốt, như: kiên trì, biết tơn trọng và giữ  gìn sản phẩm do chính  
mình
 
hay
 
người
 
khác

 
t ạo
 
ra…
­ Ngay từ lúc cịn nằm trong nơi, các bé đã biết tỏ thái độ vui vẻ, tay chân khua 
đập lung tung khi được bố  mẹ treo những chiếc xúc xắc xinh xinh, những quả 
bóng bay các màu, những con búp bê nghộ  nghĩnh đang đung đưa trước mặt bé. 
Trẻ thơ đang vui như vậy, nếu ta đột ngột cất đi những đồ chơi này, thì lập tức  
bé sẽ  có phản  ứng, lúc đầu là ngơ  ngác rồi sau đó bật khóc. Lớn lên một chút 
khi trên tay bé biết cầm chặt, lúc này thì chúng ta khó có thể mà lấy được những  
đồ  chơi mà bé cầm trong tay.Theo năm tháng, bé lớn lên thì có con búp bê xinh 
xinh, những chú gấu bơng đã thực sự là những người bạn thân thiết và gần gũi 
nhất của bé trong mọi sinh hoạt của trẻ thơ, ngay cả trong lúc ăn, ngủ, vui chơi, 
trẻ vẫn có em búp bê hay bạn gấu bên mình..
­ Vậy điều gì đã gắn bó và hấp dẫn trẻ  với các đồ  chơi con rối, thú bơng đến 
thế? Phải chăng những đồ  chơi này đã phần nào thỏa mãn được nhu cấu thiết  
yếu của trẻ thơ, ngồi những nhu cầu về dinh dưỡng, ăn mặc và phát triển thể 
lực, trẻ thơ cịn có những nhu cầu khác nữa mà các bậc phụ huynh cùng cơ giáo  
ni dạy trẻ cần quan tâm đến:
Thỏa mãn nhu cầu giải trí, vui chơi của trẻ.
Thỏa mãn nhu cầu nhận thức của trẻ.
Thỏa mãn nhu cầu giao tiếp của trẻ.
Thỏa mãn nhu cầu tưởng tượng của trẻ.. 
13


* Giải pháp2: Luyện kỹ năng thực hành và phối kết hợp với cha mẹ học  
sinh làm đồ dùng đồ chơi tự tạo cho trẻ. 
      Như chúng ta đã thấy mơi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà  
trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp 

khơng thể  thiếu. Phụ  huynh chính là nhân tố  quết định trong việc tạo nguồn 
nhiên liệu phế thải để làm đồ chơi cho trẻ.
    Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tơi nêu tầm quan trọng của lĩnh vực phát 
triển ngơn ngữ  cho trẻ, đặc biệt là thơng qua hoạt động sử  dụng đồ  dùng đồ 
chơi. Hàng tháng tun truyền với phụ  huynh qua các biểu bảng nêu lên nội  
dung về chủ điểm, về các nhân vật câu chuyện, bài thơ của cơ và trẻ. 
 Bên cạnh một mơi trường hoạt động với đầy đủ các loại đồ dùng trực quan đa  
dạng phong phú, thu hút sự  hứng thú tham gia hoạt động sáng tạo của trẻ  thì 
chúng ta cịn phải dạy trẻ cách sử  dụng nhân vật phù hợp với ngơn ngữ  lời kể 
sáng tạo.
­ Tơi xác định để làm được đồ dùng thì đồ dùng đồ chơi đó phải:
­  Đơn giản, dễ làm, rèn luyện được các kỹ năng và phù hợp với khả  năng của 
trẻ.
­ Ngun vật liệu trẻ có thể tự tìm hoặc tìm cùng bố mẹ, cơ giáo.
      ­ Các bước làm đồ chơi rõ ràng, dễ hiểu.
     ­ Trẻ cùng nhau trưng bày hay nghĩ ra cách sử dụng đồ chơi đó.
     ­  Sắp xếp thời gian để trẻ có thể làm đồ chơi ở những hoạt động nào cho phù  
hợp.    
             Trước hết cần phải định hướng một số ngun vật liệu cần thiết sẵn có  
ở địa phương: Vỏ ốc, lá cây… tiếp theo phải phối hợp chặt chẽ với phụ huynh  
để biết những ngun vật liệu nào mà trẻ có thể sưu tầm được
Ví dụ: Các loại vỏ  hộp, giấy cứng, bình nước suối, hạt nút…. Trên cơ  sở  đó,  
giáo viên sẽ  giao nhiệm vụ  và hướng dẫn cho trẻ  cách sưu tầm, thu nhặt, và  
bảo quản các các ngun vật liệu. Tùy vào từng nhiệm vụ và điều kiện cụ thể 
của trẻ mà qui định thời gian thực hiện ngắn hay dài.   Có những ngun vật liệu 
trẻ có thể thu lượm được ngay trong trường: Vỏ hộp sữa, lá cây, vỏ  chai nước  
suối… Giáo viên hướng dẫn trẻ thu lượm, làm vệ sinh, phơi khơ ráo…
         Muốn có nguồn ngun vật liệu đa dạng và dồi dào cơ phải kết hợp cùng  
với phụ  huynh để  tích luỹ  những đồ  phế  thải trong gia đình thì mới có được.  
Bên cạnh đó giáo viên cũng tìm hiểu và gợi hỏi  ở những cơ quan làm việc của 

phụ huynh có những ngun vật liệu phế thải nào giáo viên có thể tận dụng cho  
trẻ làm đồ dùng được như: Lõi ống chỉ cơng nghiệp, các loại hộp to nhỏ….
         Trong năm học có thể  chia ra làm nhiều đợt huy động phụ  huynh mang  
ngun vật liệu đến cũng  hoặc có khi phụ huynh có ngun vật liệu mang vào 
cho gi viên ngay. Những nguyện vọng này giáo viên cần phải trao  đổi và 
thống nhất với phụ huynh ngay từ đầu năm học. Sau đó đến từng chủ đề cần gì 
thêm giáo viên thơng tin trên bảng thơng báo cho phụ huynh biết.
 Khi có ngun vật liệu giáo viên cùng trẻ phân loại và để vào các thùng, ghi 
14


( kí hiệu) rõ loại phế liệu gì?
       Chọn loại đồ chơi để làm
     Giáo viên nên động viên hướng dẫn trẻ làm cùng với cơ, cơ nên gợi ý cho trẻ 
tự chọn mẫu đồ chơi, đồ dùng mà mình thích. Sau đó giáo viên mới hướng dẫn 
cụ thể phương pháp thực hiện với từng loại đồ chơi sao cho phù hợp với trẻ.
Ví dụ: Cơ nói có rất nhiều vỏ hộp thuốc giáo viên đưa ra và hỏi ý tưởng của trẻ 
có thể  làm được đồ  chơi gì? (trẻ nói làm: Làm ơ tơ, người máy) Cơ đưa những 
hộp thuốc nhỏ bằng nhau và hỏi: Thế những hộp thuốc này chúng ta sẽ làm gì? 
Giáo viên có thể gợi ý cho trẻ làm domino. Làm đomino chúng ta phải cần thêm 
cái gì? (tranh ảnh tuỳ từng chủ đề ,trẻ chọn tranh ảnh để gắn lên cho phù hợp)
Lưu ý: Khi gợi mở cho trẻ giáo viên cần lưu ý đến khả năng của trẻ và nhu cầu  
đồ  dùng đồ  chơi trong lớp đang cần. Hay giáo viên cần rèn kỹ  năng gì cho trẻ 
thơng qua việc làm đồ dùng đồ chơi nào đó
Ví dụ: Rèn kỹ năng cắt và trang trí qua việc làm các ơ cửa của ngơi nhà lớn. Hay 
kỹ năng xâu hạt và sắp xếp theo quy tắc qua việc xâu các hạt nút lớn nhỏ, nhiều  
màu sắc thành vịng đeo tay…tơi đã chọn một số  mẫu để  làm và cùng hướng 
dẫn trẻ làm
+ Phương pháp hướng dẫn
Khi hướng dẫn giáo viên phải biết cách gợi ý cho trẻ  làm đồ  dùng đồ  chơi sao  

cho   đảm bảo phù hợp với sự  phát triển của từng độ  tuổi tức là cho trẻ  họat  
động từ  đơn giản, dễ  đến khó dần trên nền những kiến thức đã biết, phù hợp  
với tình hình lớp, địa phương. Phát huy được sự  sáng tạo, linh hoạt giúp trẻ 
hứng thú tham gia các hoạt động.
Trong từng khâu khi làm đồ chơi phải có các bước làm cụ thể rõ ràng để trẻ có 
thể làm được.
Ví dụ: 
+ Khâu chuẩn bị cần những ngun vật liệu gì, đồ dùng gì?
+ Khâu thực hiện gồm những bước như thế nào?
Tuy nhiên trong một số  đồ  chơi khơng bắt buộc phải trẻ  tự làm hết tất cả  các 
khâu, trong một số bước cần phải có sự hỗ trợ của cơ giáo hay phụ huynh
VD: Khi làm mơ hình “ Thành phố biển thì cơ cần có gợi ý cho trẻ bố cục phần  
đất liền và phần biển , cơ hỗ trợ trẻ làm dây nối cáp treo, đục lỗ cho cabin ......
Mơ hình “Thành phố biển của bé” Trẻ 5­6 tuổi
Chuẩn bị  :Vật liệu bằng vỏ  hộp sữa , màu nước, màu sáp, cọ, keo dán, giấy 
bìa cứng, vỏ rau câu, ống hút, dây cước, giấy màu, vỏ hạt dẻ, hộp bánh trịn.tấm  
xốp
Thực hiện :
­ Bước 1: Vẽ màu nước vào tấm xốp để tạo thành biển,Vo giấy màu làm núi
­ Bước 2 Dán hạt dẻ với keo sữa chia thành 2 bên đường ,ở giữa con đường dán  
hình  lơ gơ  hộp sữa.
­ Bước 3 : Lấy hộp bánh bằng sắt có hình trịn trụ  của cáp treo,dán bên ngồi  
bằng lơ gơ hộp sữa.
15


­ Bước 4: Chọn hộp chữ nhật làm nhà bạch dinh và nhà lầu. Cắt giấy màu làm 
các ơ cửa, vẽ khung cửa
­Bước 5: Cắt lấy ½ vỏ  hộp sữa ra làm cabin của cáp treo và làm dây nối lại từ 
dưới lên trên núi.

­Bước 6: Cắt những cây dừa và chậu hoa bằng vỏ sữa để trang trí .
­Bước 7: Vỏ  rau câu sơn đủ  màu sắc và dán vào  ống hút để  thành trụ  đèn  
đường.
­Bước 8: Cắt thêm những chiếc thuyền và ghế đá để trang trí thêm cho đẹp.
Bước 9: Sắp xếp các đồ dùng đã làm lên mơ hình
Như vậy đã thực hiện xong việc tạo ra một thành phố biển theo ý muốn. 
Lưu ý:  Khi làm các đồ  chơi có tổng hợp nhiều loại đồ  chơi hay có nhiều kỹ 
năng, giáo viên cần chia nhỏ ra làm từng đồ dùng, từng bộ phận hay từng nhóm  
trẻ làm sau đó mới tổng hợp lại tạo thành một bộ đồ dùng lớn.
Ví dụ: Như làm con rối, làm tranh ảnh.
  Rối có nhiều loại: Rối tay, rối ngón tay, rối dẹt...Rối  được làm từ  những  
ngun liệu khác nhau: Giấy, bìa, vải... những thứ đó rất rẻ tiền và dễ kiếm, chỉ 
cần giáo viên chịu khó làm và sáng tạo là trẻ có những con rối vừa đẹp vừa hấp  
dẫn
Rối mở:
 Ngun liệu:
Vải vụn, bơng, dây len, dây ru băng.
Giấy vẽ, màu sáp, giấy màu, hồ dán, keo
Cách làm
Lấy một nắm bơng xoay trịn và lấy vải bọc kín làm phần đầu của con rối. Lấy 
một miếng bìa nhỏ, cuốn trịn dạng ống (hay vỏ  lọ  hồ  dán đã hết) để  làm thân 
con rối, tiện cho việc sử dụng, điều khiển rối sau này.
Sân khấu rối đơn giản nhất là một chiếc khung gỗ hoặc làm bằng tre . ... được 
trang trí thêm cỏ  hoa...Đối với các loại rối dẹt gắn trên phơng vải, trên bảng  
nam châm khơng cần dùng đến sân khấu. Sử  dụng rối thường gây được hứng 
thú cho trẻ, bởi vì các nhân vật rất sinh động, thể hiện được những thao tác đơn 
giản như: Gật đầu, trao thư, hái hoa, khóc...Mỗi loại rối có tác dụng hỗ trợ khác  
nhau nhưng có thể sử dụng rối trong các trường hợp:
Cách sử dụng: 
Với loại rối này, ta có thể  sử  dụng để  làm các nhân vật truyện trong giờ  làm  

quen văn học hay đưa vào hoạt động góc. Rối mở  có thể  sử  dụng cho cả trẻ ở 
cả 3 khối lớp.
  Giới thiệu tác phẩm: Sân khấu rối phải gọn gàng, đơn giản tránh dùng q  
nhiều con rối. Mục đích của việc dùng rối  ở  đây chủ  yếu là gây hứng thú cho 
trẻ, sau đó cơ đọc thơ diễn cảm cho trẻ nghe, thời gian sử dụng rối chỉ gói gọn  
trong vài phút, giáo viên phải cất rối nhanh để  trẻ  khỏi phải chờ, trẻ  sẽ  giảm  
hứng thú
 Hỗ trợ đọc thơ cho trẻ nghe
16


Đàm thoại: Ngồi việc sử  dụng rối để  giới thiệu bài thơ, để  hỗ  trợ  cho giọng 
đọc diễn cảm, cịn dùng rối trong đàm thoại nữa. . Do đó, cơ giáo đặt câu hỏi  
đến nhân vật nào thì cho nhân vật đó xuất hiện.
Mơ hình: Chỉ được dùng  để  hỗ trợ  cho kể chuyện hoặc đọc thơ, sự  khác nhau  
nữa là, thơng thường sân khấu rối hoặc phơng vải đều bố  trí quay về  phía trẻ,  
nghĩa là trẻ nhìn sân khấu và các con rối từ một  phía, vị trí của cơ ở  sau khung 
đó. Đối với mơ hình và sân khấu gỗ trẻ có thể  xúm quanh đó trẻ được quan sát 
con rối và khung cảnh từ mọi phía. Chính vì vậy hình thức này giúp giáo viên khi 
đọc thơ cho trẻ  vẫn gần gũi với trẻ, một ưu điểm nữa là mơ hình, sân khấu gỗ 
cho trẻ được hình dung đầy đủ về bối cảnh xảy ra câu chuyện. 
Cơ giáo cần lưu ý đến sự  tương quan về  mặt kích thước giữa các con vật  khi 
chọn chúng làm đồ dùng trực quan, đó là sự tương ứng về kích thước thật trong  
thực tế, khơng thể chọn con voi bé hơn con gà, hoặc con thỏ lại to hơn búp bê
Rối tay, rối ngón tay:
Ngun liệu:
Xốp màu, bìa màu, hồ dán, lị xo, kéo, dập gim súng bắn keo.

Cách làm:
Vẽ hình các con vật (nhân vật rối) lên giấy A4.

Cắt những hình con vật đó bằng xốp màu (bìa màu) ở dạng phẳng.
Cuộn các hình đã cắt sang dạng khối để  tạo thành các bộ  phận của con vật;  
Đầu, thân.
Gắn các bộ phận với nhau để tạo thành con vật hồn chỉnh.
Lấy xốp màu hoặc bìa cứng cuộn trịn dạng  ống bằng ngón tay hoặc bàn tay  
gắn vào con rối để thuận lợi cho việc sử dụng và điều khiển rối.
Có thể gắn một đoạn lị xo giữa đầu và thân các con vật để nó thêm sinh động.
Cách sử dụng:
17


Với loại rối này ta có thể sử dụng để làm các nhân vật trong mơn làm quen văn  
học. (ví dụ:  ở  trẻ  nhỏ  trẻ  sử  dụng những con rối này để  cùng nhau kể  lại  
chuyện hay tự nghĩ ra nội dung câu chuyện để kể dựa vào những con rối sẵn có.  
Trẻ lớn thì cơ vẽ những nhân vật và phơtơ làm nhiều bản để  cho trẻ  tự  tơ màu  
các con rối. Trẻ tự làm rối bằng cách cắt và dán ghép các bộ phận của các nhân  
vật rối lại với nhau và trẻ được chơi với những con rối mà mình vừa làm ra. Khi 
đó trẻ rất hứng thú.
Loại rối này thỏa mãn được các nhu cầu của trẻ:
­ Thỏa mãn nhu cầu vui chơi giải trí: Trẻ chơi với đồ chơi
­ Thỏa mãn nhu cầu nhận thức: Vận dụng vốn kiến thức của trẻ để  vẽ, cắt, xé 
dán các bộ phận của cơ thể.
­ Thỏa mãn nhu cầu tưởng tượng: Trẻ có thể  tưởng tượng ra các nhân vật rối  
và làm theo ý thích của mình.
­ Thỏa mãn nhu cầu giao tiếp: Hai trẻ sử dụng nhân vật rối và nói chuyện giao  
tiếp với nhau.
 + Tranh vẽ ( Tranh liên hồn, tranh mơ phỏng, truyện tranh, tranh có con rối cử 
động....) . Đặc biệt là tranh màu có tác dụng lớn trong việc giáo dục thẩm mĩ 
cho trẻ, rèn luyện khả năng quan sát, nhận xét, phát triển tư duy logíc cho trẻ..
     Một trong những tiêu chuẩn của tranh vẽ  là phải đảm bảo tính thẩm mĩ, 

nhưng trong hồn cảnh hiện nay, tạo ra tranh vẽ là rất khó khăn. Cơ giáo có thể 
khắc phục bằng cách tự  nâng cao khả  năng của mình, Sử  dụng các   tranh vẽ 
phong cảnh làm nền, cơ giáo dán thêm các con vật bằng bìa, bằng giấy lên đó 
( Ví dụ: Gấp bảy con chim làm bằng giấy bay lên)
   Tranh liên hồn là loại tranh mơ phỏng lại tồn bộ nội dung câu chuyện từ đầu  
đến cuối, do đó số lượng tranh vẽ minh họa cho một tác phẩm  khá nhiều. Giáo 
viên cần dán các bức tranh thành một băng dài, làm một hộp nhỏ có màn ảnh vơ 
tuyến truyền hình, hoặc làm một màn  ảnh chiếu phim, mỗi bức tranh sẽ  lần  
lượt hiện ra trên màn hình. 
  Trong lớp nên có những bức tranh mơ phỏng nội dung bài thơ, câu chuyện để 
gây khơng khí văn học, kích thích trẻ có nhu cầu nghe đọc và kể chuyện.
+ Mơ hình hoặc sân khấu gỗ:  Nói chung đều chia làm hai mảng thể  hiện: 
Khung cảnh thì được gắn cố  định, cịn nhân vật thì tự  do di chuyển, sử  dụng  
hình thức này có thể  tận dụng đồ  dùng đồ  chơi sẵn có trong lớp để  minh họa. 
Chẳng hạn các cây. Các khối gỗ trong trị chơi xây dựng được dùng để  tạo các 
khung cảnh các đồ  chơi: Búp bê, gấu, chó.. bằng nhựa dùng để  minh họa cho 
các nhân vật
Trực quan có tính hỗ trợ , do đó cơ giáo cần nắm vững được cách sử  dụng của 
từng loại để vận dụng sáng tạo sao cho đạt kết quả tốt nhất. Khi sử dụng trực  
quan tránh phơ trương về  hình thức, bày ra cho đẹp nhưng tác dụng lại rất ít.  
Ngồi việc cơ giáo sử  dụng đồ  dùng trực quan và làm đồ  dùng trực quan , cơ  
giáo nên cho trẻ  tập sử  dụng và làm những đồ  dùng đơn giản. Ví dụ: Làm mũ  
thỏ, mũ gấu....
18


Thông thường trực quan được sử dụng  trong các thời điểm khác nhau như: Để 
gây hứng thú cho trẻ  , để  minh họa, để  hỗ  trợ  cho trẻ  đọc thơ....Cô giáo cần 
phải biết  ưu và nhược điểm của mỗi loại trực quan mà sử  dụng cho đúng lúc,  
đạt được kết quả cao.

+Làm bảng đa năng
Nguyên liệu:
- Xốp màu, bìa (lịch cũ có mặt trắng) dây len, gai dính…
Cách làm:
Cắt miếng bìa hình chữ nhật bằng khổ giấy A4, sau đó dán những miếng gai 
dính nhỏ lên tấm bìa.
Cắt những bơng hoa bằng xốp màu hoặc các loại rau, các con vật, phương tiện 
giao thơng phù hợp với bài dạy và gắn gai dính  ở  mặt sau của hoa, con vật,  
PTGT (cơ có thể vẽ cho trẻ tự cắt).
Buộc sợi giây len vào chính giữa cạnh trên của tấm bìa.
Kẻ viền xung quanh tấm bìa.
Làm hai túi nhỏ bằng nilon nhựa trong ở hai góc dưới của tấm bìa để đựng thẻ 
số.
Cách sử dụng:
­ Sử dụng trong giờ làm quen với tốn, mơi trường xung quanh qua trị chơi 
“Rung chng vàng”.
Trong giờ  làm quen với tốn. Ví dụ  Số  8: Tách nhóm có 8 đối tượng ra làm  
nhiều phần. “Với trị chơi sợi dây thần kỳ”: Cách chơi: Trẻ sẽ dùng sợi dây tách  
8 bơng hoa ra làm 2 phần theo ý thích và gắn thẻ số tương ứng.
Trị chơi “Rung chng vàng”: Trị chơi này có thể  tổ  chức rất nhiều trong các 
mơn học: Làm quen chữ cái, mơi trường xung quanh, làm quen với tốn… Hay tổ 
chức được trong hoạt động ngồi trời…
Cách chơi: 
Mỗi bạn chơi có một bảng và một rổ  hoa. Cơ giáo đưa ra câu hỏi để  các bạn 
chơi cùng trả lời, mỗi câu trả lời đúng sẽ đươc gắn một bơng hoa lên bảng của  
mình. Kết thúc cuộc chơi bảng của bạn nào có nhiều bơng hoa nhất thì bạn đó  
sẽ được rung chng vàng.
Ví dụ: Làm quen chữ cái: Chữ gì có một nét thẳng và một nét cong hở trái? 
 chữ B
Làm quen mơi trường xung quanh: Bé hãy kể tên 4 con cơn trùng có ích hoặc hãy 

kể tên 5 loại rau ăn lá…
àm quen với tốn: 3 bơng hoa thêm 4 bơng hoa là mấy bơng hoa?.
+ Làm đồ chơi: Sâu con học chữ, học tốn.
* Ngun liệu: 
Vỏ lon bia, vỏ hộp sữa, cốc nhựa cũ, bóng nhựa, xốp màu, gai dính, dây điện, 
thẻ chữ cái, thẻ số…
Cách làm:
19


Lấy quả bóng nhựa làm đầu của sâu, cắt xốp màu làm mắt mũi miệng, chân của  
sâu.
Lấy dây điện làm râu của sâu.
Lấy các vỏ lon bia, vỏ hộp sữa, bóng nhựa, làm thân của con sâu.
Làm gai dính giữa các thân của con sâu và trên thân sâu để gắn thẻ số và thẻ chữ 
cái khi cần thiết.
Cách sử dụng:
 Được sử dụng trong giờ làm quen với tốn và làm quen mơi trường xung quanh.
Trong giờ  làm quen với chữ  cái: Cơ đố  trẻ  bên trái chữ  u là chữ  gì? Hoặc bên 
phải chữ d là chữ gì?
 Cơ vừa củng cố được chữ cái và củng cố được bên phải, bên trái cho trẻ.
Trong giờ làm quen với tốn:
Trẻ sắp xếp các số trên thân con sâu từ 1 đến 10
Xác định được số liền trước, số liền sau của các số  trong dãy số  tự nhiên . Khi  
các số  được gắn trên thân con sâu, trẻ  dễ  dáng xác định hơn là khi cơ chỉ  gắn 
một dãy số tự nhiên lên bảng từ 1 – 10.
Trong giờ làm quen mơi trường xung quanh: Con vật đứng trước con chó là con 
gì? Con vật đứng sau con mèo là con gì?
+  Làm bảng zic zắc.
 Ngun liệu: 

Đinh mũ, đề cal, nilon trong, gỗ ép, bìa cứng, các thẻ chữ cái, chữ số, lơ tơ mơi 
trường xung quanh…
Cách làm: 
Đóng đinh mũ lên tấm gỗ ép, khoảng cách giữa 2 đinh lớn hơn đường kính hình  
trịn cần thả.
Làm các ơ vng  ở  phía dưới bảng để  giữ  hình trịn sau khi rơi. Trên ơ vng  
làm túi nilon đề cài thẻ chữ cái và lơ tơ mơi trương xung quanh.
Một hình bằng bìa cứng có dán đề can mỏng.
Làm các mép bao xung quanh khơng cho hình trịn rơi ra ngồi.
 Cách sử dụng
Trong giờ làm quen chữ cái: Cơ thả hình trịn zic zắc, rơi vào ơ chữ cái nào, trẻ 
phát âm to chữ cái đó.
Trong giờ làm quen mơi trường xung quanh: Hình trịn zic zắc rơi vào lơ tơ nào, 
trẻ phải đọc to tên gọi hoặc nhóm của lơ tơ đó.
+ Đồ dùng học tốn: (tạo từ những hình hình học cơ bản; Hình trịn)
 Nguyện liệu: 
Bìa màu, hồ dán, kéo.
Lịch treo tường cũ, thiếp mời.
 Cách làm: 
Đồ dùng từ dạng hình trịn:
Bìa màu, lịch treo tường cũ, thiếp mời cắt thành những hình trịn to nhỏ  khác 
nhau đề tạo thành hình các con vật;
20


Ví dụ: Làm con bướm: 
Lấy một hình trịn cuộn lại làm thân bướm.
Lấy một hình trịn khác cắt đơi lại làm cánh bướm.
Lấy một hình trịn nhỏ làm đầu bướm.
Gắn các bộ  phận lại với nhau và thêm các chi tiết phụ như: mắt, mũi, râu, hoa  

văn trên cánh bướm.
Ví dụ: Làm con gà.
Lấy một hình trịn to gấp đơi lại để làm thân gà.
Lấy ½ hình trịn gấp đơi lại để làm đi gà.
Lấy một hình trịn nhỏ làm đầu gà.
Lấy ½ hình trịn nhỏ gấp đơi lại làm cổ gà.
Ghép các bộ phận của con gà lại với nhau bằng cách dập gim để tạo thành chú 
gà hồn chỉnh    
 Cách sử dụng:
Với loại rối này ta có thể sử dụng để học tốn cao, thấp. (con hươu cao hơn, 
con chim thấp hơn), học các số lượng (Dạy trẻ đếm các con vật).
Sử dụng để bày vào các sa bàn dạy làm quen văn học, làm quen với MTXQ.
Sử dụng để chơi ở góc học tập của trẻ đặc biệt là trẻ mẫu giáo lớn có thể sử 
dụng các hình hình học các hình hình học cơ bản làm những con vật làm trẻ 
thích
* Giải pháp 3: Giải pháp biểu dương đánh giá, tun truyền giúp trẻ hoạt 
động tích cực.
­  Cùng với tồn ngành thực hiện chủ  đề  năm học xây dựng trường học thân 
thiện học sinh tích cực. Thì việc tạo cảnh quan sư  phạm trong phịng học, mơi 
trường xung quanh cũng là một chun đề mà tơi chú trọng trong năm học này. 
­ Tơi ln chú ý tạo cảnh quan sự  phạm trong phịng học, đồ  dùng đồ  chơi tự 
tạo được sắp xếp, gọn gàng, ngăn nắp, từng góc riêng biệt mỗi kệ  góc tơi đều 
làm mới và làm tp tên đồ  dùng mới làm, để  hấp dẫn trẻ, tạo cảm giác thích  
thú ln mong muốn được sắp xếp ngăn nắp.
    Đặc biệt là góc thiên nhiên được trang trí và trồng nhiều cây cảnh để tạo cho  
trẻ  một khơng gian xanh, để  mỗi ngày trẻ  có thể  tự  mình chăm sóc cây xanh,  
giáo dục trẻ biết u cái đẹp. Qua hoạt động này kích thích trẻ u lao động, tạo 
tình cảm của trẻ  với thế  giới tự  nhiên, gần gũi và thân mật, đã trở  thành thói 
quen ở trẻ.
 Để tạo cảnh quan sân trường, trước giờ học tơi thường cho trẻ nhặt , lá cây để 

làm con trâu, con nghé bằng lá cây .....làm con nhím bằng vỏ  chơm chơm, làm 
con cá bằng cánh bèo tây,  bên cạnh đó cũng  tạo mơi trường sạch đẹp, 

21


 

(Giáo viên hướng dẫn trẻ nhặt lá cây tạo mơi trường sạch đẹp)
­ Cịn đối với kệ  góc đồ  chơi đầu tuần tơi thường tổ  chức cho trẻ  thi đua lau 
dọn, sắp xếp đồ  chơi gọn gàng. Nhờ  vậy, qua mỗi lần tổ  chức hoạt động vui  
chơi trẻ chơi xong thu dọn đồ chơi gọn gàng và ngăn nắp.
­ Trong lớp tơi có sọt rác, để vào góc lớp, sau mỗi giờ nêu tiêu chuẩn bé ngoan  
xong, tơi thường nhắc nhở, động viên trẻ sau khi ăn q vặt nên vứt rác vào giỏ 
để  giữ  vệ  sinh chung và trẻ  thực hiện tốt, nhất là sau hoạt động tạo xé dán  
trong lớp khơng cịn mảnh giấy vụn nào rơi xuống sàn. Thi đua giữa các tổ  và 
kiểm tra lại bằng hình thức tổ  nào thu gom được nhiều giấy vụn.......thì tổ  đó  
được tun dương trước cả lớp.
    Tâm lý của con người thích được khen hơn là chê nhất là đối với trẻ lúc nào 
cũng muốn được khen và khen nhiều. Hằng ngày vào giờ  nêu gương cuối ngày 
trước khi cắm cờ, tơi cho trẻ tự  nhận xét về  mình trong ngày đó có bạn nào có 
hành vi tốt lời nói hay tơi nêu gương ra cho cả lớp và tặng trẻ một bơng hoa
Ví dụ: Như  hơm nay bạn Dun uống sữa xong đã biết rửa vỏ  hộp để  làm đồ 
chơi bán hàng. Hoặc bạn Ngọc đi qua thấy góc chơi đồ chơi bị đổ bạn đã dừng  
lại xếp đồ chơi ngay ngắn
Tơi làm mỗi màu hoa là một nội dung u cầu. Buổi sáng khi trị chuyện với trẻ 
tơi nêu các tiêu chuẩn bé ngoan trong ngày.
­ Hoa màu trắng: Bé sạch sẽ.
­ Hoa màu hồng: Bé lễ phép.
­ Hoa màu đỏ: Bé học ngoan.

­ Khi nào trẻ nhận được bơng hoa màu gì, tơi hỏi cả  lớp vì sao bạn nhận được 
bơng hoa màu đó?
­ Cuối tuần bao giờ cũng có tiết mục kể chuyện về gương tốt kết hợp sử dụng  
đồ dùng tự tạo cho trẻ quan sát , tuần nào cũng vậy tơi khơng bao giờ bỏ qua.
22


­ Ví dụ: Tuần 1 tháng 10 tơi kể  chuyện "Tích Chu" cho trẻ  nghe. Kết hợp với  
rối rẹt để  kể  chuyện cho trẻ  nghe  Sau khi trẻ thực hành kể  lại chuyện có sử 
dụng rối hoặc sau mỗi trị chơi  thi đua giữa các tổ bằng hình thức tặng mỗi đội 
chơi giỏi là một món q  xinh xắn, ngộ  nghĩnh với trẻ, hay tặng trẻ  buổi đi 
thăm quan cơng viên, đi dạo chơi ở khu vui chơi giải trí cho trẻ, giúp trẻ tích cực  
thật bất ngờ cuối trị chơi mới được khám phá
­ Tuần khác tơi kể cho trẻ nghe "Sự tích cây vú sữa"... hoặc những câu chuyện 
về  ăn uống có văn hố do tơi đặt ra hoặc sưu tầm, những giờ  như vậy trẻ  rất  
thích lắng nghe, nhằm kích thích trẻ học ngoan, muốn được cắm cờ, trẻ sẽ nỗ 
lực như ý muốn.
Vì trẻ   ở  lứa tuổi này thích động viên khen ngợi, được khen trẻ  thêm tự  tin và 
hào hứng thực hiện tốt u cầu của cơ.
2.3. Kết quả 
* Tiêu chí đánh giá:
 Dựa vào đặc điểm khả năng sử dụng mà đồ chơi của trẻ  nhà tâm lý học đã rút 
ra tiêu chí sau
­ Trẻ nhớ tên nhân vật bài thơ, câu chuyện 
­Sự  tập trung chú ý của trẻ  trong q trình quan sát các nhân vật trong trun, 
thơ
­ Trẻ có nhu cầu quan sát và thích thú tự tạo được các nhân vật.
*  Thang đánh giá.
­ Mức độ 1: ( Tốt )
+Trẻ  tập trung chú ý hứng thú, quan sát các nhân vật trong các tác phẩm thơ 

truyện mà trẻ đã được học
+ Bộc lộ cảm xúc  thể hiện  qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ. 
+Trẻ  nói được cảm nhận riêng của mình về  các nhân vật, hình tượng của bài 
thơ,câu chuyện
­  Mức độ 2 (Trung bình )
+ Trẻ tập trung chú ý.
+ Trẻ nhớ nội dung nhân vật theo sự gợi ý của cơ
+ Bộc lộ cảm xúc  thể hiện   qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ đơn thuần
­ Mức độ 3 ( Yếu )
+  Trẻ khơng  đạt u cầu trên.
* Kết quả sau khi đánh giá
Ưu điểm
­ Sau khi nghiên cứu, các đồ dùng, đồ chơi tự tạo ứng dụng vào trong giảng dạy 
và tổ chức các hoạt động cho trẻ, tơi thấy chất lượng ngày càng được nâng cao.
­ Nâng cao chất lượng làm quen chữ  cái: Qua trị chơi ziczắc chơi con sâu học  
tốn và bảng hoa: Trẻ dễ dàng nhận biết vị trí các số  liền trước, liền sau trong 
các dãy số  tự nhiên, Trẻ  thích được thêm, bớt, tạo nhóm và chia các đối tượng 
thành 2 phần trong phạm vi 10 một cách dễ dàng. Sử  dụng cho trẻ định hướng  
trên dưới, đếm, thêm bớt, chia nhóm các đối tượng, so sánh cao thấp, to, nhỏ.  
23


Qua trị chơi ziczắc   và con sâu học chữ: trẻ  nhớ  lâu các chữ  cái đã học. trẻ 
hứng thú và tích cực nhận biết, phân biệt và phát âm các chữ cái .
 ­ Nâng cao chất lượng làm quen văn học và phát triển ngơn ngữ  thơng qua đồ 
chơi rối mở: Trẻ biết thể  hiện tính cách của nhân vật qua khn mặt của rối, 
phát triển tình cảm, thẩm mỹ, u cái đẹp. Nhờ các đồ dùng, đồ chơi do mình tự 
làm ra, trẻ  dễ  dàng nhanh thuộc truyện hơn và thích được kể  lại chuyện cùng 
với các con rối nhỏ đó. …
 Khám phá mơi trường xung quanh: trẻ khám phá về thế giới động vật, thực vật  

qua đó giúp trẻ nhận biết về tên gọi, cấu tạo, màu sắc, trẻ  dùng các sản phẩm  
này để phân nhóm, phân loại.
     ­ Nâng cao chất lượng mơn hoạt động tạo hình: Thơng qua rối mở và một số 
sản phẩm của đất nặn: Kỹ  năng vẽ, nặn, cắt, xé của trẻ  được nâng cao, phát 
triển khả năng khéo léo của đơi bàn tay, là tiền đề cho trẻ khi bước và tiểu học.
­ Nghệ thuật tạo hình: Sản phẩm do cơ giáo tự tạo ra có tác dụng rất lớn trong 
việc kích thích trẻ mong muốn tạo ra sản phẩm giống cơ, trẻ  biết u q, giữ 
gìn sản phẩm. Các đồ dùng này dùng cho trẻ quan sát để tích luỹ biểu tượng về 
thế giới thực vật từ đó trẻ có thể tạo ra các sản phẩm tạo hình phong phú. 
­   Hoạt động góc: Sử  dụng sản phẩm để  xây cơng viên, vườn rau, vườn hoa, 
cửa hàng hoa, quả, vườn bách thú, trang trại chăn ni…. Trẻ  sử  dụng sản  
phẩm  ở  góc chơi học tập để  đếm, phân nhóm, phân loại, so sánh to, nhỏ, cao  
thấp…
­ Ngồi ra những sản phẩm này cịn được dùng trang trí lớp và sử dụng được 
nhiều chủ điểm. Những bộ đồ dùng này có tính thẩm mỹ và tính giáo dục cao.
Hạn chế
Giáo viên: Khi cơ sử dụng biện pháp đàm thoại thì những câu hỏi mà cơ đặt ra 
có câu đơn giản q, có câu lại q sức tư duy của trẻ. Nhìn chung các câu hỏi 
của cơ đặt ra cần có sự gợi mở để trẻ dễ hình dung, tưởng tượng và sống với 
tác phẩm, với câu truyện mà mình được nghe.
       Vì vậy địi hỏi mỗi giáo viên khi soạn giáo án cần phải có sáng kiến của 
mình. Các cơ mới chú ý đến việc ổn định tổ chức lớp và chú ý đến những trẻ 
mạnh dạn tham gia vào q trình chơi, tham gia trả lời câu hỏi mà chưa quan 
tâm đến các cháu nhút nhát khả năng tiếp thu kém cách sử dụng đồ dùng cịn 
ngượng.
  Về phía trẻ: Phần nhỏ một số trẻ chưa chú ý vào tiết học. Khả năng trả lời 
các câu hỏi và sử dụng đồ chơi của trẻ cịn kém.
Bảng 2: Kết quả việc  đưa đồ dùng đồ chơi tự tạo vào hoạt động cho trẻ mẫu 
giáo 5­6 tuổi. 
Nhận thức

Thể hiện
Số trẻ
Mức độ
Số trẻ
Tỷ lệ %
Số trẻ
Tỷ lệ %
1
32
88,8
29
80,5
36 trẻ
2
2
5,5
4
11,1
3
4
11,1
3
8,3
24


­  Nhận xét
   Như vậy nhìn vào kết quả trên cho thấy đa số trẻ đã nhận thức được  khi quan 
sát cơ hướng dẫn sử dụng đồ  dùng trực quan trẻ biết cảm nhận được nội dung  
của các nhân vật  trẻ thể hiện được bằng nét mặt cử  chỉ  về  tính cách của các 

nhân vật trong tác phẩm.
Bảng 3: So sánh với cùng kỳ năm trước
Kết quả năm 2013
Kết quả năm 2014
Số  Mức 
Nhận thức
Thực hiện Nhận thức
Thực hiện
trẻ độ
Số trẻ Tỷ   lệ  Số trẻ Tỷ 
Số trẻ Tỷ 
Số trẻ Tỷ   lệ 
%
lệ %
lệ %
%
1
18
50
18
50
32
88,8
29
80,5
36 
2
12
33,3
10

27,7
2
5,5
4
11,1
trẻ
3
6
16,6
8
22,2
4
11,1
3
8,3
     Nhìn vào bảng ta thấy kết quả của 2 năm khác nhau rõ rệt. Chứng tỏ  rằng  
bằng những phương pháp thực nghiệm trẻ đã nắm được u cầu tốt hơn nên đã 
nâng cao hiệu quả về nhận thức đồng thời cũng tăng rõ rệt về mặt thể hiện so  
với năm trước nhưng chưa được cao lắm.
    Kết quả  này đã chứng minh kiến thức việc sử  dụng đồ  dùng tự  tạo vào các  
hoạt động của trẻ được nâng cao. Mặc dù sự tiến bộ của năm nay là chưa nhiều  
nhưng phần nào chứng minh biện pháp chúng tơi đưa ra có tính khả  thi trong  
thực tiễn, nó góp phần nâng cao khả năng nhận thức của trẻ .
2.4.Rút ra bài học kinh nghiệm
+ Bài học chung
­ Giáo viên phải nắm vững phương pháp bộ  mơn để  đưa đồ  dùng vào giờ  dạy 
vào các hoạt động một cách hợp lý.
­ Tích cực tham khảo tài liệu trong và ngồi chương trình, học hỏi đồng nghiệp  
để nâng cao trình độ, hình thức và phương pháp giảng dạy phù hợp.
­ Bản thân giáo viên phải chịu khó, kiên trì, có khả  năng tạo hình tốt để  tạo ra 

sản phẩm đẹp, phù hợp với độ tuổi trẻ.
­ Cần có sự  kết hợp với phụ  huynh một cách khéo léo, lơi cuốn phụ  huynh để 
phụ huynh cùng đóng góp các vật liệu đã qua sử dụng.
­ Giáo viên cần phải tạo ra nhiều cơ  hội cho trẻ  được tham gia vào các hoạt 
động, được tham gia giúp cơ những cơng việc vừa sức, đồ  chơi được làm trên 
cơ sở hứng thú, theo nhu cầu của trẻ mới đạt hiệu quả  cao nhất trong cơng tác 
giáo dục trẻ.
+ Bài học riêng
Sau khi nghiên cứu tơi  rút ra bài học cho riêng mình là
­Tơi thấy mình đã nâng cao được phong cách nghệ thuật lên lớp, giọng nói được 
trau dồi diễn cảm, thu hút trẻ hứng thú tham gia vào tiết học.
­Tơi đã rút ra được nhiều kinh nghiệm qua cách dạy trẻ  kể  chuyện sáng tạo 
bằng đồ chơi tự tạo, sưu tầm được nhiều truyện tranh, học thuộc nhiều truyện  
ngồi chương trình.
25


×