Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC CỦA ÔNG CHA TA –MỘT TÀI SẢN TINH THẦN VÔ GIÁ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.8 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC QUỐC PHỊNG
---o0o---

TIỂU LUẬN

NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC CỦA ƠNG CHA TA –MỘT TÀI
SẢN TINH THẦN VÔ GIÁ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

HỌC PHẦN: 2021MILI270128 – ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG VÀ AN
NINH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 9 năm 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC QUỐC PHỊNG
---o0o---

TIỂU LUẬN

NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC CỦA ƠNG CHA TA –MỘT
TÀI SẢN TINH THẦN VÔ GIÁ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

HỌC PHẦN: 2021MILI270128 – ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG VÀ AN
NINH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Họ và tên: Nguyễn Đức Tuấn Anh
Mã số sinh viên: 46.01.101.006
Lớp học phần: 2021MILI270128


Giảng viên hướng dẫn: ThS. Phạm Minh Tuấn

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 9 năm 2021


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. TRUYỀN THỐNG ĐÁNH GIẶC CỦA ÔNG CHA TA ............................. 2
1.1. Đất nước trong buổi đầu lịch sử .............................................................................. 2
1.2. Những yếu tố tác động đến việc hình thành nghệ thuật đánh giặc .......................... 2
1.2.1. Địa lý ................................................................................................................ 2
1.2.2. Kinh tế .............................................................................................................. 3
1.2.3. Chính trị, văn hóa - xã hội ................................................................................ 3
1.3. Những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược ......................................... 5
1.3.1. Những cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên ...................................................... 5
1.3.2. Những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược giành và giữ độc lập từ
thế kỷ thứ II trước công nguyên đến đầu thế kỷ thứ X ...................................................... 5
1.3.3. Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược từ TK X đến TK XVIII ............. 6
CHƯƠNG 2. NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC CỦA ÔNG CHA TA .................................. 9
2.1. Tư tưởng đánh giặc. ................................................................................................. 9
2.2. Kế sách đánh giặc .................................................................................................. 10
2.2.1. Kế sách đánh giặc của dân tộc ta rất mềm dẻo khôn khéo. ............................ 10
2.2.2. Kế sách đánh giặc được vận dụng rất linh hoạt, sáng tạo trong cuộc đấu tranh
chống ngoại xâm của dân tộc. .......................................................................................... 11
2.3. Nghệ thuật chiến tranh nhân dân toàn dân đánh giặc ............................................ 12
2.3.1. Cơ sở thực hiện............................................................................................... 12
2.3.2. Nội dung cơ bản của chiến tranh nhân dân là toàn dân đánh giặc được thể hiện
trong nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên. ............................................................................ 13
2.4. Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh.................... 15

2.5. Nghệ thuật kết hợp đấu tranh giữa các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao và
binh vận ................................................................................................................................ 15
2.6. Nghệ thuật tổ chức và thực hành các trận đánh lớn ............................................... 16
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 18


MỞ ĐẦU
Từ thời đại Hùng Vương đến thời đại Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam ta đã có
hơn 4000 năm lịch sử vẻ vang. Đất nước Việt Nam đã có hàng mấy chục thế kỷ lịch sử
đấu tranh anh dũng, quật cường và bất khuất. Đó là lịch sử của một dân tộc anh hùng
mà sự sống còn, phát triển luôn gắn liền với lịch sử của những cuộc đấu tranh lâu dài
chống kẻ thù xâm lược.
Chúng ta có quyền tự hào về những trang sử vẻ vang thời đại bà Trưng, bà Triệu,
Lê Lợi, Quang Trung… chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc vì
các vị ấy là tiêu biểu cho một dân tộc anh hùng.
Đặc biệt từ 1930 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đứng đầu là chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại. Nhân dân cả nước đã viết ra những trang sử huy hoàng nhất của tổ
quốc. Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng “Tất cả những gì là vĩ đại nhất và đáng tự hào nhất
của dân tộc đã kết tinh lại trong hơn 70 thể kỷ qua”. Đây chính là thời kỳ mà nhân dân
ta trong trào lưu chung của loài người tiến bộ, vươn mình lên với sức sống mãnh liệt của
thời đại mới. Với tất cả truyền thống vẻ vang của dân tộc và ý thức đầy đủ về vận mệnh
và tương lai của mình.
Điều đó ngày nay cả thế giới cơng nhận bằng thực tế lịch sử của dân tộc ta đã
chứng minh một cách sinh động.
Việc nghiên cứu, học tập phát huy truyền thống quật cường bất khuất của dân tộc
luôn là một đòi hỏi khách quan, một nhiệm vụ quan trọng đối với quân và dân ta. Vì
vậy, em chọn đề tài: “Nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta –một tài sản tinh thần vô giá
của dân tộc Việt Nam” để làm tiểu luận.



CHƯƠNG 1. TRUYỀN THỐNG ĐÁNH GIẶC CỦA ÔNG CHA TA
1.1. Đất nước trong buổi đầu lịch sử
Cách đây mấy nghìn năm, từ khi các Vua Hùng mở nước Văn Lang, lịch sử dân
tộc Việt Nam bắt đầu thời đại dựng nước và giữ nước. Do yêu cầu tự vệ trong chống
giặc ngoại xâm và yêu cầu làm thuỷ lợi của nền kinh tế nông nghiệp đã tác động mạnh
mẽ đến sự hình thành của nhà nước trong buổi đầu lịch sử. Nhà nước Văn Lang là nhà
nước đầu tiên của nước ta, có lãnh thổ khá rộng và vị trí địa lí quan trọng, bao gồm
vùng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ ngày nay, nằm trên đầu mối những đường giao thông
qua bán đảo Đông Dương và vùng Đông Nam Á.
Nền văn minh sơng Hồng cịn gọi là văn minh Văn Lang, mà đỉnh cao là văn hố
Đơng Sơn rực rỡ, thành quả đáng tự hào của thời đại Hùng Vương.
Do có vị trí địa lí thuận lợi, nước ta ln bị các thế lực ngoại xâm nhịm ngó. Sự
xuất hiện các thế lực thù địch và âm mưu thôn tính mở rộng lãnh thổ của chúng là nguy
cơ trực tiếp đe doạ vận mệnh đất nước ta. Do vậy, yêu cầu chống giặc ngoại xâm, bảo
vệ độc lập và cuộc sống đã sớm xuất hiện trong lịch sử dân tộc ta. Người Việt muốn tồn
tại, bảo vệ cuộc sống và nền văn hố của mình chỉ có con đường duy nhất là đoàn kết
đứng lên đánh giặc, giữ nước.
1.2. Những yếu tố tác động đến việc hình thành nghệ thuật đánh giặc
1.2.1. Địa lý
Nước Việt Nam nằm ở miền Đơng nam châu á. Ven biển Thái Bình Dương. Với
địa hình đa dạng, phức tạp. Hệ thống giao thơng thuận tiện nên nước ta có một vị trí
chiến lược quan trọng trong khu vực.
Từ hàng chục vạn năm nay, người Việt Nam đã sinh sống trên khoảng đất đai gồm
phần lớn miền Bắc và Bắc Trung Bộ. Đến thế kỷ thứ XVII đất nước Việt Nam đã gồm
hai phần cả miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ ngày nay.
Đến thế kỷ 15 nước Chăm Pa bị phân chia làm ba nước nhỏ và những cuộc tranh
chấp giữa các phe phái phong kiến làm cho thế nước càng ngày càng suy yếu. Trong thế
kỷ 17, họ Nguyễn nhân đấy, lấn chiếm dần đất Chăm Pa. Cũng vào thế kỷ 17, một số
quan lại, tướng tá nhà Minh sau khi chống Thanh thất bại, phải chốn ra nước ngoài, họ
Nguyễn đã cho trên 5 nghìn Hoa kiều do Dương Ngạn Định và Trần Thượng Xuyên

cầm đầu vào khai khẩn vùng Mỹ Tho, Biên Hồ. Một nhóm Hoa kiều khác do Mạc Cửu
cầm đầu khai khẩn vùng Hà Tiên. Do dân cư còn thưa thớt họ tổ chức những đội gồm 6
người một chia làm 3 ra Bắc bắt trẻ con. Nên có sự tích doạ trẻ con (Ơng ba bồ chín quai
mười hai con mắt chuyên bắt trẻ con).


Từ đó đến nay, lãnh thổ thống nhất của nước ta đi từ cực Bắc là chòm Lũng Cú
trên cao nguyên Đồng Văn (Hà Giang), đến điểm cực Nam là xóm Rạch Tầu trên mũi
Cà Mau. Diện tích 334.334 km2 3.260 km đường bờ biển. Trên lãnh thổ thống nhất đó
đã sinh sống phát triển các dân tộc hợp thành dân tộc Việt Nam thống nhất. Cùng chung
một lịch sử, một nền văn hóa, dân số hiện nay trên 80 triệu người.
Vì ở một vị trí chiến lược quan trọng khu vực nên từ xa xưa nước ta thường xuyên
bị các thế lực nước ngoài đe dọa, xâm lược. Đồng thời cũng từ đó tổ tiên ta đã triệt để
lợi dụng yếu tố “Địa lợi” để lập thế trận giữ nước.
1.2.2. Kinh tế
Đất nước ta có núi rừng trùng điệp, có sơng ngịi dài rộng, có biển cả bao la, có
đồng bằng bát ngát, khối lượng tài ngun khống sản phong phú, thổ nhưỡng đỏ và
vàng ở vùng đồi núi nhất là đất đỏ ba dan, phù sa các châu thổ nhất là sông Cửu Long
và sông Hồng. Nguồn nước ngọt dồi dào vì có vùng lưới sơng ngịi dầy đặc (dọc bờ biển
khoảng 20 km) lại gặp một cửa sông. Giới sinh vật, động vật phong phú… chưa kể các
khoáng sản quý hiện đang ẩn náu trong thềm lục địa.
Mặc dù vậy nhưng vẫn là nước lấy sản xuất nơng nghiệp là chủ yếu với hình thức
tự cung tự cấp trình độ canh tác thấp, quy mơ nhỏ, tính chất phân tán.
Quá tình phát triển dân tộc ta đã kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng kinh tế, xây dựng
đất nước với chăm lo củng cố quốc phòng, sẵn sàng đánh giặc giữ nước vừa phát triển
phồn thịnh vừa sẵn sàng đối phó với mọi nguy cơ chiến tranh xảy ra.
1.2.3. Chính trị, văn hóa - xã hội
1.2.3.1. Chính trị

• Các dân tộc Việt Nam chung sống hồ thuận, yêu quê hương đất nước.

Do phát triển địa lý ngã ba đường khu vực Đông Nam Á và những biến động lịch
sử liên tục diễn ra nên Việt Nam đã tiếp nhận nhiều thành phần dân tộc khác nhau, do
đó Việt Nam là quốc gia thống nhất đa dân tộc. Hiện nay là 54 thành phần dân tộc, tộc
người.
+ Người Việt Kinh là 87 % các dân tộc thiểu số bằng 13%.
+ Có 6 dân tộc có dân số trên dưới 1 triệu người là Tày, Thái, Mường, Hoa, Khơ
Me, Nùng.
+ 11 dân tộc có dân số xấp sỉ 10 vạn đến 50 vạn là HơMông, Dao, Gia Lai, Eđê,
Bana, Sán Chay, Chăm, Sơ đăng, Sán dìu, Hrê, Cơ Ho.


+ 17 dân tộc có dân số từ 1 vạn đến 10 vạn là Ralai, Mơnông, Thổ, Xtiêng, Khơ
Mú, Bru, Vân Kiều, Giáy, Kơtu, Giá riêng, Tà ôi, Mạ, Co, Choro, Hà Nhì, Xinh, Mun,
Churu, Lào.
+ 14 dân tộc có dân số từ hơn 1000 đến 1 vạn là Phà Then, Lô Lô, Chứt, Mang,
Cơ lao, Bố Y, La Ha, Cống, Ngái.
+ 5 dân tộc có dân số từ 100 đến 500 người là Sida, Pu Péo, Brâu, Rơ Măm, Ơ đu.
+ Mật độ dân cư giữa các vùng miền phân bố không đồng đều nhau nhưng đã sớm
biết gắn quyền lợi đất nước, tổ quốc với quyền lợi gia đình với bản thân, gắn bó nước
với nhà làng với nước trong quan hệ keo sơn bền chặt.

• Sớm xây dựng nhà nước, xác định chủ quyền lãnh thổ, tổ chức ra quân đội, đề ra
các luật lệ, phép tắc để quản lý bảo vệ và xây dựng đất nước.
Từ khi có lịch sử dân tộc, mở đầu bằng quốc gia Văn Lang, hơn 40 thế kỷ đã trôi
qua, hơn 4000 năm lịch sử dân tộc ta đấu tranh anh hùng kiên cường, liên tục, bền bỉ,
chinh phục thiên nhiên hà khắc và chống sự xâm lược nước ngoài để sống cịn và phát
triển.
Thế kỷ thứ III trước cơng ngun An Dương Vương thành lập nước Âu Lạc đóng
đơ tại Phong Khê (Cổ Loa thuộc Hà Nội ngày nay).
Năm 218 trước công nguyên 50 vạn quân Tần xuống xâm lược.

Năm 180 trước công nguyên Triệu Đà một tướng nhà Hán tiến quân đánh Âu Lạc,
quân và dân ta đều anh dũng chống lại nhưng rồi lại rơi vào ách thống trị. Dân tộc ta
mất nền độc lập từ đó.
Trong gần 12 thế kỷ từ thế kỷ thứ II trước công nguyên đến thế kỷ X dân tộc ta đã
hàng trăm lần anh dũng nổi dậy lật đổ ách thống trị nước ngồi. Khơi phục chủ quyền.
Năm 40 khởi nghĩa hai bà Trưng; 160 Chu Đạt; 178 Lương Long; 218 Bà Triệu;
541 Lý Bôn; 722 Mai Thúc Loan; 905 Khúc Thừa Dụ; 931 Dương Diên Nghệ; 938 Ngô
Quyền…
Trong 12 thế kỷ trên dân tộc ta luôn tỏ ra kiên cường bất khuất anh dũng vùng lên.
Nhưng do thiếu kinh nghiệm nên tạm thời thất bại.
Năm 981 Lê Hoàn chống quân Tống; 1075 – 1077 Lý Thường Kiệt; 1258 – 1285
- 1288 nhà Trần đánh quân Nguyên.
Năm 1407 – 1427 Nguyễn Huệ quật đổ chế độ phong kiến phản động Nguyễn –
Trịnh – Lê. Đánh tan 20 vạn quân Mãn Thanh.
Đến thế kỷ 19: 1858 Thực dân Pháp xâm lược.


Khởi nghĩa Trương Định; Phan Đình Phùng – Hồng Hoa Thám.
Tóm lại, mỗi khi có giặc ngoại xâm nhân dân ta lại đoàn kết vùng lên đấu tranh,
chống lại sự thống trị giành chủ quyền dân tộc, q trình đó đã tạo ra nhiều cách đánh
khôn khéo, mềm dẻo, mưu trí, linh hoạt, hiệu quả.
1.2.3.2. Văn hóa - xã hội
“Lịch sử nước ta đã khẳng định sự trường tồn của đất nước bắt nguồn từ sức sống
của nền văn hóa dân tộc là yêu thương đùm bọc”.
- Nước ta có nền văn hoá bản địa xuất hiện sớm. Ngay từ thời tiền sử, với kết cấu
vững chắc: Nước có nhà, có làng bản, nhiều dân tộc cùng sinh sống, mỗi làng, xã, mỗi
dân tộc có phong tục tập quán riêng.
- Nước Văn Lang xuất hiện với một tổ chức chính trị xã hội đã phát triển với một
nền văn hoá tương đối cao. Là kết quả của một quá trình phát triển lâu dài hàng nghìn
năm trước đó của nền văn minh Sông Hồng.

- Do sự phân bố tương đối của các dân tộc Việt Nam theo nơi cư trú, phong tục,
tập quán, lối sống nên mỗi dân tộc có nét đặc trưng riêng.
Nhưng tất cả 54 dân tộc đều có nét chung về truyền thống văn hố, tinh thần đoàn
kết yêu nước. Tinh thần kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm, tinh thần lao động
cần cù sáng tạo ln được xây dựng, phát triển trong q trình dựng nước và giữ nước
của dân tộc.
Tất cả những yếu tố đó đã ảnh hưởng trực tiếp, có tính quyết định đến sự hình thành,
phát triển nghệ thuật đánh giặc độc đáo, sáng tạo của dân tộc ta.
1.3. Những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược
1.3.1. Những cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên
Cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên mà sử sách ghi lại là cuộc kháng chiến chống
quân Tần. Đó là cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ, từ năm 214 đến 208 TCN của
nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của vua Hùng và Thục Phán.
Sau cuộc kháng chiến chống Tần là cuộc kháng chiến của nhân dân Âu Lạc do An
Dương Vương lãnh đạo chống chiến tranh xâm lược của Triệu Đà, từ năm 184 đến 179
trước công nguyên, nhưng bị thất bại. Từ đây, đất nước ta rơi vào thảm họa hơn một
nghìn năm bị phong kiến Trung Hoa đơ hộ (thời kì Bắc thuộc).
1.3.2. Những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược giành và giữ độc lập
từ thế kỷ thứ II trước công nguyên đến đầu thế kỷ thứ X
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào mùa xuân năm 40 đã giành được độc lập.
Nền độc lập dân tộc được khôi phục và giữ vững trong ba năm.


Năm 248, Triệu Thị Trinh phất cờ khởi nghĩa. Nghĩa quân của người con gái núi
Nưa (Triệu Sơn, Thanh Hoá) làm cho quân thù nhiều phen kinh hồn, bạt vía. Sau gần
nửa năm chiến đấu khiến cho toàn thể Giao Châu đều chấn động. Mặc dù bà Triệu cùng
nghĩa quân chiến đấu rất anh dũng, nhưng kẻ thù có sức mạnh vượt trội và đàn áp rất
khốc liệt, nên khởi nghĩa bị thất bại.
Mùa xuân năm 542, phong trào yêu nước của người Việt lại bùng lên mạnh mẽ, rầm
rộ. Dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Lý Bôn, anh hùng hào kiệt bốn phương cùng toàn

dân vùng lên lật đổ chính quyền của nhà Lương. Sau đó, nghĩa quân liên tiếp đánh thắng
hai cuộc phản công của kẻ thù.
Đầu năm 544, Lý Bơn lên ngơi hồng đế (Lý Nam Đế), đặt quốc hiệu là Vạn Xuân.
Khởi nghĩa của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến năm 687.
Khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế) năm 722.
Khởi nghĩa của Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương) năm 766 đến 791.
Trước hành động phản bội của Kiều Công Tiễn và hoạ xâm lăng của quân Nam
Hán, Ngô Quyền là một danh tướng của Dương Đình Nghệ đã đứng lên lãnh đạo quân
dân ta, kiên quyết đánh giặc, bảo vệ chủ quyền dân tộc. Trận quyết chiến trên sông Bạch
Đằng, Ngô Quyền cùng qn và dân ta đã nhấn chìm tồn bộ đoàn thuyền của quân Nam
Hán, khiến Hoàng Thao phải bỏ mạng, vua Nam Hán phải bãi binh, chấm dứt hơn một
nghìn năm Bắc thuộc, đất nước ta mở ra một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỉ
nguyên của độc lập, tự chủ.
1.3.3. Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược từ TK X đến TK XVIII

• Kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất năm 981 của nhà Tiền Lê.
Thời nhà Đinh, công cuộc xây dựng đất nước đang được xúc tiến thì năm 979, Đinh
Tiên Hồng bị ám hại. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước thừa dịp âm mưu lật đổ
và thơn tính. Lúc bấy giờ, ở Trung Quốc, nhà Tống đã thành lập và đang phát triển. So
với Nam Hán, thì nhà Tống là một triều đại cường thịnh của một quốc gia phong kiến
lớn nhất châu Á đương thời. Nhân dịp suy yếu của nhà Đinh, nhà Tống quyết định phát
động cuộc chiến tranh xâm lược Đại Cồ Việt (quốc hiệu của nước ta lúc đó). Trong khi
vua Đinh cịn trẻ, chưa đủ khả năng và uy tín tổ chức lãnh đạo cuộc kháng chiến, vì sự
nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc, triều thần và quân sĩ đã suy tôn Lê Hoàn, người đang giữ
chức thập đạo tướng quân lên làm vua. Lê Hồn lên ngơi, lập nên triều đại nhà Tiền Lê
và đảm nhiệm sứ mạng lịch sử, tổ chức và lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống
quân Tống.

• Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ 2 (1075 - 1077) của nhà Lý



Tuy bị đại bại trong lần xâm lược năm 981, nhà Tống vẫn chưa chịu từ bỏ tham
vọng xâm lược nước ta. Khoảng giữa thế kỉ XI, vua Tống Thần Tông ra lệnh chuẩn bị
lực lượng đánh Đại Việt lần nữa, nhằm giành thắng lợi ở Đại Việt để tạo thế uy hiếp
nước Liêu, nước Hạ. Trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, Lý Thường Kiệt, lúc đó
nắm giữ binh quyền trực tiếp lãnh đạo kháng chiến, nhận thấy khơng thể để bị động đối
phó, đợi qn giặc tiến công sang, mà phải chủ động tiến công trước để đẩy kẻ thù vào
thế bị động. Với chủ trương thực hiện "tiên phát chế nhân", "Ngồi yên đợi giặc không
bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của chúng", Lý Thường Kiệt đã chủ động
đưa quân tiến công sang đất Tống tiêu diệt lực lượng ở các căn cứ xuất phát của kẻ thù,
rồi rút về phòng thủ đất nước. Biết quân Tống thế nào cũng kéo quân sang phục thù, Lý
Thường Kiệt đã cho khẩn trương chuẩn bị kháng chiến, xây dựng phòng tuyến Như
Nguyệt để chặn giặc ; đồng thời, triển khai lực lượng, bố trí thế trận chống giặc ngoại
xâm.
Trận phản công Như Nguyệt (tháng 3/1077), quân và dân Đại Việt đã quét sạch
quân xâm lược Tống ra khỏi biên cương của Tổ quốc.

• Ba lần kháng chiến chống quân Nguyên – Mông của nhà Trần ở thế kỉ XIII
Từ năm 1225, nhà Trần thay thế nhà Lý đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo công cuộc
dựng nước và giữ nước (1226 - 1400), đã lãnh đạo nhân dân ta ba lần kháng chiến chống
quân Nguyên – Mông giành thắng lợi vẻ vang, bổ sung những nét đặc sắc vào nền nghệ
thuật quân sự Việt Nam.
Cuộc kháng chiến lần thứ nhất vào năm 1258, quân và dân ta đã đánh thắng 3 vạn
quân Nguyên – Mông.
Cuộc kháng chiến lần thứ hai vào năm 1285, quân và dân ta đã đánh thắng 60 vạn
quân Nguyên – Mông.
Cuộc kháng chiến lần thứ ba vào năm 1287 - 1288, quân và dân ta đã đánh thắng
50 vạn quân Nguyên – Mơng.
Trong vịng 30 năm (1258 - 1288), dân tộc ta phải liên tiếp ba lần đứng lên chống
xâm lược. Kháng chiến chống quân Nguyên – Mông không chỉ là cuộc đọ sức quyết liệt

giữa một đế quốc đầu sỏ mạnh nhất thế giới lúc đó với một dân tộc nhỏ bé nhưng kiên
quyết đứng lên chống xâm lược để bảo vệ đất nước, mà còn là cuộc đấu tranh gay gắt
về tài trí giữa hai nền nghệ thuật quân sự của Đại Việt và qn xâm lược Ngun Mơng.

• Cuộc kháng chiến chống quân Minh do Hồ Quý Ly lãnh đạo.
Vào cuối thế kỉ XIV, triều đại nhà Trần từng bước suy tàn, Hồ Quý Ly là một quý
tộc có thanh thế đã phế truất vua Trần, lập ra vương triều mới, triều đại nhà Hồ. Tháng


5/1406, dưới chiêu bài "phù Trần diệt Hồ", nhà Minh đã đưa quân xâm lược nước ta.
Trong tác chiến, nhà Hồ q thiên về phịng thủ, coi đó là phương thức cơ bản, dẫn đến
sai lầm về chỉ đạo chiến lược. Mặt khác, khơng phát động được được tồn dân đánh
giặc, tổ chức phản công chiến lược không đúng thời cơ, bị tổn thất nặng, nên bị thất bại.
Đất nước ta một lần nữa bị phong kiến phương Bắc đô hộ.

• Khởi nghĩa Lam Sơn và chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi, Nguyễn Trãi lãnh
đạo.
Mặc dù chiếm được Đại Việt, nhưng giặc Minh không khuất phục được dân tộc ta,
các cuộc khởi nghĩa của các tầng lớp nhân dân yêu nước vẫn liên tiếp nổ ra, tiêu biểu là
khởi nghĩa Lam Sơn. Sau 10 năm (1418 – 1427) chiến đấu bền bỉ, ngoan cường, cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn đã phát triển thành chiến tranh giải phóng, hồn thành nhiệm vụ vẻ
vang, quét sạch kẻ thù ra khỏi bờ cõi. Thắng lợi vĩ đại đó chứng tỏ nghệ thuật quân sự
trong khởi nghĩa, chiến tranh giải phóng của ông cha ta đã đạt đến đỉnh cao và để lại
nhiều bài học lịch sử quý giá.

• Khởi nghĩa Tây Sơn và các cuộc kháng chiến chống quân Xiêm 1784 - 1785, kháng
chiến chống quân xâm lược Mãn Thanh 1788 - 1789.
Sau khi đánh thắng giặc Minh xâm lược, Lê Lợi lên ngôi, lập nên triều Hậu Lê (triều
Lê Sơ), đây là giai đoạn hưng thịnh nhất của phong kiến Việt Nam..



CHƯƠNG 2. NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC CỦA ÔNG CHA TA
2.1. Tư tưởng đánh giặc.
Tư tưởng xuyên suốt: Tích cực chủ động tiến công.
“Mỗi khi dân tộc ta vùng dậy chống ngoại xâm là chỉ có tiến cơng” – Lê Duẩn.
Xét thực tiễn diễn biến nhiều cuộc chiến tranh thắng lợi có thể thấy rõ tổ tiên ta
khơng bao giờ đi trệch khỏi mục đích quân sự cuối cùng là tiến công tiêu diệt địch trên
đất nước ta. Nhưng tổ tiên ta cũng khơng hề tách mục đích cần đạt đó với điều kiện
khách quan là lúc đầu lực lượng quân địch mạnh ta yếu.

• Cách tiến cơng: tích cực chuẩn bị, tiến công liên tục, từ nhỏ đến lớn, từ cục bộ đến
toàn bộ.
Trước quân địch lớn mạnh, các nhà quân sự ta đã biết tránh quyết chiến trong điều
kiện khơng có lợi khi cuộc chiến tranh mới bắt đầu. Nhằm bảo toàn lực lượng tranh thủ
thời gian. Tạo nên thế có lợi cho ta làm cho địch suy yếu. Bồi dưỡng lực lượng ta rồi
từng bước tiêu diệt quân địch mà giành thắng lợi trong chiến tranh.
Trong chiến tranh tự vệ, trước thế tiến công mạnh mẽ của quân địch có ưu thế về số
lượng. Tổ tiên đã tránh khơng dốc tồn bộ lực lượng để hịng phân thắng bại giành thắng
lợi trong buổi đầu mà đã biết thực hành rút lui chiến lược. Có gan rút khỏi kinh đơ. Cho
địch vào sâu mà tiêu hao địch.
Ví dụ: Đời nhà Trần
Lần 1: Tướng Lê Phủ Trân thấy địch mạnh khuyên vua Trần “nên lánh đi”.
Lần 2: Trần Quốc Tuấn rút khỏi Vạn Kiếp, rút khỏi kinh thành. Để thực hiện chủ
trương “Nguyên binh khí nhuệ đương hưng, kịp đánh chẳng bằng kiên thủ chờ suy”.
Đánh giá về việc rút lui chiến lược đời nhà Trần: Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhiệm,
Nguyễn Huệ đã đánh giá: “Chịu nhịn để tránh sức mạnh ban đầu của chúng, đành hãy
chỉnh đốn đội ngũ rút về giữ chỗ hiểm yếu, trong thì khiến lịng qn kích thích ngồi
thì thì khiến cho lịng giặc kiêu căng”
Tóm lại trong q trình rút lui vẫn tiến cơng tích cực.
Bài học: đời nhà Hồ chống qn Minh trận quyết chiến ở Đa Bang. Thất bại rồi chỉ

rút lui chạy dài mà khơng tích cực tiến cơng địch. Đã đưa cuộc kháng chiến chính nghĩa
của dân tộc đến thất bại.

• Mục tiêu tiến cơng: tiêu diệt nhiều sinh lực địch, làm thay đổi so sánh lực lượng trên
chiến trường, thay đổi cục diện chiến tranh và giành thắng lợi.


Thừa nhận sự cần thiết rút lui chiến lược biết cách rút lui đúng đắn và có lợi. Quán
triệt tư tưởng tiến công các nhà quân sự của ta rất thông thạo trong việc tạo điều kiện để
chuyển sang quật trả lại địch những đòn quyết liệt. Biết vận dụng một cách sáng tạo
nguyên tắc quân sự cổ điển “Dĩ Dật đãi lao” tức là “Lấy nhàn chờ mệt, lấy mạnh chờ
yếu lấy sung sức chờ hao mịn”.
Trong q trình phòng ngự rút lui (chước thứ 4: Khi ở thế thượng phong trong 36
kế tinh hoa mưu lược) không những đã liên tục tiêu hao địch. Buộc địch phải chịu ảnh
hưởng khơng có lợi của khí hậu, địa hình nước ta. Hãm chúng vào tình trạng thiếu lương
thực nghiêm trọng. Mà còn buộc địch phải rải quân ra (như Trần Quốc Tuấn) chống
quân Nguyên lần 2: Chỉ huy chủ lực phía Bắc rút lui từng bước. Nhưng lại chặn đứng
địch phía Nam.
Hoặc làm cho địch sơ hở phạm sai lầm như Nguyễn Huệ đánh quân Thanh: Địch
chưa rải quân nhưng có sơ hở nên ta thực hành chia cắt địch ra từng mảnh giáng những
đòn mãnh liệt vào chỗ hiểm yếu nhất của địch. Đánh vào trung tâm đầu não (bắt giặc
phải bắt vua. Mưu thứ 6 ở thế tiến cơng trong 36 chước) khiến địch chống, kinh hồng,
rối loạn, tê liệt.
Quán triệt tư tưởng tiến công để tự vệ: Ngày 27/ 10 /1075 Lý Thường Kiệt tập kích
thẳng sang đất Tống nhằm tiêu diệt các căn cứ xâm lược của kẻ thù rồi nhanh chóng
quay về phịng thủ đất nước. Mục tiêu tiến công là các trại biên giới của quân Tống, cửa
biển Khâm Châu, Liêm Châu chủ yếu là thành Ung Châu. Mục đích cuộc tiến cơng
thành Ung Châu là để tự vệ một cách tích cực tạo điều kiện cho quân dân ta giành được
thế chủ động trong kháng chiến. Sau 42 ngày công phá là chiếm thành Ung Châu.
Tóm lại: Tư tưởng tiến cơng được vận dụng suốt trong lịch sử dân tộc. Tiêu biểu

qua các triều đại Lý, Trần, Tây Sơn cụ thể.
Nhà Lý chủ động tiến công trước để phá thế mạnh của quân Tống.
Nhà Trần kết hợp chặt chẽ phía trước tiến cơng phía sau. Triệt phá đường tiếp lương,
kết hợp chặt chẽ giữa phản công và rút lui đúng lúc. Tiến công chiến lược.
Nhà Tây Sơn tổ chức lực lượng gọn. Hành binh thần tốc, tập trung lực lượng mạnh,
chủ động tiến cơng, đánh bất ngờ. Hợp đồng chặt chẽ nhanh chóng đánh tan quân địch
giữ vững nền độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ tổ quốc.
2.2. Kế sách đánh giặc
2.2.1. Kế sách đánh giặc của dân tộc ta rất mềm dẻo khôn khéo.
Kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với binh vận ngoại giao tạo nên thế trận
của ta, phá thế mạnh của giặc. Trong đó tiến cơng qn sự ln giữ vai trị quyết định.


Chiến tranh là một cuộc đọ sức tổng hợp của cả một xã hội. Một quốc gia trên mọi
lĩnh vực cũa đời sống, quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hoá, khoa học kỹ
thuật…
Nhân tố giành thắng lợi trong chiến tranh cũng là những nhân tố tổng hợp. Mỗi nhân
tố, ở những thời điểm khác nhau có vị trí quan trọng khác nhau. Trong q trình chiến
tranh chúng ta phải biết khai thác, kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các mặt trận để
luôn hỗ trợ cho mặt trận quân sự giành thắng lợi trên chiến trường.
Về chính trị: Phát huy cao độ nhân tố chính nghĩa luyện đúc tinh thần, ý chí chiến
đấu kiên cường bền bỉ, bất khuất đoàn kết toàn dân trước nạn nước thù nhà. Tất cả cùng
tin tưởng vào thắng lợi cùng một chí hướng, nguyện vọng nhất tề đứng dậy tạo nên một
sức mạnh phi thường đủ sức đánh bại những kẻ thù xâm lược hung bạo nhất.
Quân sự: Quán triệt tư tưởng tiến cơng phát huy chỗ mạnh của mình tạo những cách
đánh thiên biến vạn hoá, những cách đánh vượt ra khỏi những cách đánh thông thường
của binh pháp. Bảo toàn lực lượng ta mà lực lượng địch tan rã.
Địch vận: Đánh vào lòng người. Nguyễn Trãi, Lê Lợi tiến hành kiên nhẫn và kết
quả “Thành giặc nhiều nơi mũi nhọn khơng dính máu mà tự mở”.
Nguyễn Trãi: “Chúng đã sợ chết xin hoà. Thực thà cầu sống, ta muốn tồn qn làm

cốt, nghỉ ngơi cùng dân”, “Thần vũ khơng giết, Đức lớn hiếu sinh nghĩ đến kế lâu dài
của nước nhà. Tha ngay 10 vạn hàng binh.”
Ngoại giao: Thông qua đấu tranh ngoại giao để nhân dân thế giới, kể cả nhân dân
nước địch hiểu rõ tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược. Thấy được tội ác
mà kẻ thù gây ra cho nhân dân ta. Để họ ủng hộ ta.
Ví dụ: Hiệp định Giơnevơ năm 1954 và hiệp định năm Paris 1973.
Chúng ta mềm dẻo trong việc kết hợp không chỉ hỗ trợ cho quân sự khi giành thắng
lợi. Mà sau khi giành thắng lợi quyết định trên chiến trường, quân địch bị thất bại nặng
nề mà thực chịu thua ta vẫn khéo léo kết hợp nhằm củng cố mà mở rộng thành quả cách
mạng.
2.2.2. Kế sách đánh giặc được vận dụng rất linh hoạt, sáng tạo trong cuộc đấu tranh
chống ngoại xâm của dân tộc.
Về thực tế cũng như về lý luận trong chiến tranh giải phóng và chiến tranh tự vệ
nghệ thuật tác chiến của ta đều chú trọng tránh chỗ mạnh của địch, giành chỗ lợi cho
mình. Lấy chỗ mạnh của địch khơng dùng được, lực lượng lớn của địch không phát huy
được sức mạnh, không đạt được hiệu quả cao.


Trái lại ta thì dùng mọi sức mạnh của ta một cách thích hợp biết cắt địch ra từng
mảnh, đánh bại địch từng bước “Tức bẻ đũa không bẻ cả nắm”.
Lợi dụng sơ hở, những chỗ yếu của địch, khoét sâu sơ hở và nhược điểm của địch
rồi giáng những đòn mạnh mẽ.
Tạo nên sơ hở cho địch làm cho địch bộc lộ những chỗ yếu bằng nhiều biện pháp
tích cực khác nhau. Như nghi binh, tỏ ra yếu, che dấu ý định của mình đưa địch vào
những địa điểm bất lợi, nhận định sai lầm, chủ quan, coi thường đối phương tự bộc lộ
sơ hở nhược điểm.
Ví dụ:
Thời Lê: bao vây gọi hàng chủ động cấp lương cho kẻ bại trận để dập tắt muôn đời
chiến tranh.
Thời Tây Sơn: chịu nhịn để tránh sức mạnh ban đầu của địch.

Sau khi thắng chủ động thiết lập mối bang giao để đẩy lùi nguy cơ chiến tranh.
Tóm lại: Tư tưởng tích cực chủ động tiến công và kế sách mềm dẻo, khôn khéo đã
trở thành truyền thống đánh giặc của tổ tiên ta. Với truyền thống đó quân và dân ta đã
đánh bại nhiều cuộc chiến xâm lược của kẻ thù, giữ vững độc lập dân tộc bảo vệ chủ
quyền của tổ quốc.
2.3. Nghệ thuật chiến tranh nhân dân toàn dân đánh giặc
2.3.1. Cơ sở thực hiện.
Toàn dân đánh giặc, cả nước đánh giặc là truyền thống, nghệ thuật đánh giặc độc
đáo sáng tạo của dân tộc ta được thể hiện cả trong khởi nghĩa vũ trang và trong chiến
tranh.
- Các cuộc khởi nghĩa chiến tranh nhân dân trong lịch sử dân tộc ta đều thể hiện
tính chính nghĩa để bảo vệ tổ quốc hoặc giải phóng dân tộc.
Từ xa xưa đến nay, dân tộc ta luôn bị những nước phong kiến và đế quốc lớn mạnh
gấp nhiều lần uy hiếp và xâm lược. Mưu toan vứt bỏ quyền làm chủ của đất nước. Thủ
tiêu nền độc lập dân tộc mưu toan đồng hoá dân tộc. Làm tiêu tan tinh thần u nước
tình cảm dân tộc, mưu toan cướp bóc mọi của cải vật chất, chiếm đoạt những giá trị tinh
thần của nhân dân.
Do vậy chiến tranh nhân dân của dân tộc ta là chính nghĩa.
- Dân tộc ta có truyền thống u nước thương nịi, có ý chí kiên cường bất khuất
chống giặc ngoại xâm.


Kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh đã làm cho tổ tiên ta nhận thức một cách
sâu sắc rằng để sống cịn và phát triển. Muốn thốt khỏi cuộc sống trâu ngựa cho cả
nước. Dân tộc ta khơng cịn con đường nào khác là phải tự lực tự cường, kiên cường,
bất khuất phải cầm vũ khí vùng lên đấu tranh một mất một còn với kẻ thù xâm lược.
Tinh thần ấy được giữ vững và phát triển qua hàng ngàn năm lịch sử. Nó đã trở thành
truyền thống sâu sắc một sức mạnh vật chất kỳ diệu của dân tộc ta.
- Các nhà nước phong kiến Đại Việt luôn có tư tưởng “Trọng dân, an dân”
“Khoan sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ đó là thượng sách giữ nước”.

Dân tộc Việt Nam trên 4000 năm lịch sử hơn 20 triều đại thời kỳ phong kiến tập
quyền đều trọng dân. Đây là vấn đề rất lớn, có quan hệ mất còn đối với vận mệnh dân
tộc. (đời nhà Hồ ít trọng dân, khoan sức dân dẫn đến thất bại).
Nguyễn Trãi qua lịch sử đã tổng kết trong 2 câu mở đầu bài Bình Ngơ Đại Cáo:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Quân điếu phạt trước là khử bạo…”. Muốn “yên dân”
thì trước hết phải dùng “Quân điếu phạt” để “khử bạo” ngồi ra khơng cịn con đường
nào khác.
Tất cả những hành vi đầu hàng thoả hiệp tin tưởng ở sự “vỗ về của thượng quốc”
cầu xin ở kẻ thù… đều là phản bội là ảo tưởng đều dẫn đến mất nước. Đó là kinh nghiệm,
là truyền thống, là sự “lợi, hại, được, mất” của dân tộc ta mà thực tế lịch sử đã chứng
minh rõ rệt.
Sớm hiểu như vậy nên dân tộc ta rất kiên cường anh dũng, đã bao lần đứng lên cầm
vũ khí kiên cường đấu tranh đánh bại kẻ thù xâm lược. Hoặc đang thống trị. Vơ luận đó
là kẻ thù nào dù là phong kiến phương Bắc, đế quốc Mông Cổ khổng lồ là thực dân Pháp
hay đế quốc Mỹ.
2.3.2. Nội dung cơ bản của chiến tranh nhân dân là toàn dân đánh giặc được thể
hiện trong nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên.
- Lực lượng đánh giặc: Thực hiện “Trăm họ là binh tồn dân đánh giặc”
Nghệ thuật đó khơng những chỉ đạo lực lượng vũ trang mà còn chỉ đạo nhân dân vũ
trang kết hợp với lực lượng vũ trang để giành chiến thắng.
Tồn dân đánh giặc. Điều đó đã được nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược trong
lịch sử ta chứng minh, nhân dân không những cất giấu lương thực. Thực hành “Thanh
dã” (rút hết cả dân chúng đi và để đất trống qn địch đến chẳng có gì ăn) gây cho địch
nhiều khó khăn về tiếp tế lương thực, mà còn trực tiếp giết giặc. Ơ nước ta “Giặc đến
nhà đàn bà cũng đánh” thiếu niên, phụ lão cũng đánh những điều đó đã có từ ngàn xưa.
Thời Trần: Nhà nhà làm kế “thanh dã” cùng với quân triều đình và qn các lộ chủ
động tiến cơng địch.


Nêu lên điểm đó: Nhà quân sự vĩ đại Trần Quốc Tuấn có nói: “Cả nước góp sức

chiến đấu nên giặc phải bó tay”.
Thời Lê: Phát huy cao độ sức mạnh toàn dân, quân đi đến đâu cũng được nhân dân
ủng hộ người và vật chất.
Thời Tây Sơn: Trong cuộc hành quân thần tốc ra Thăng Long diệt giặc Thanh. Nhờ
sự đồng tình ủng hộ về người và vật chất, phương tiện của nhân dân các địa phương.
Kết hợp với phương thức tiến cơng kiên quyết, táo bạo, mưu trí, dũng cảm của các mũi,
hướng nên chỉ trong thời gian ngắn, quân và dân ta đã giành được thắng lợi vang dội.
(Từ 30/12 đến 5/1 năm Kỷ Dậu tức ngày 25 đến 30/ 1 / 1789 đã quét sạch 20 vạn quân
Mãn Thanh.
Tóm lại: Với lực lượng vũ trang cả nước, lực lượng vũ trang các địa phương kết
hợp với thổ binh, hương binh, dân binh và dân chúng, sức mạnh của toàn dân, toàn quân
được phát huy đến cao độ để diệt giặc.
- Thế trận đánh giặc.
Thực hiện cả nước là một chiến trường. Mỗi thơn xóm bản làng là một trận địa diệt
giặc. Thế trận đó làm cho quân địch luôn sa vào thế bị động, lúng túng. Đơng mà hố ít,
mạnh mà hố yếu. Lúc nào cũng có nguy cơ bị tiêu diệt.
Ngay từ thời bình ta phải tích cực xây dựng khu vực phịng thủ sẵn sàng đáp ứng
với mọi tình huống xấu có thể xảy ra.
Trong quá trình đánh giặc. Tổ tiên ta đã biết vận dụng ưu thế địa hình, xây dựng
khu vực phịng thủ vững chắc để chủ động đánh giặc. Như tuyến phịng thủ sơng Như
Nguyệt, sơng Bạch Đằng, ải Chi Lăng…
- Vận dụng linh hoạt, sáng tạo cách đánh giặc.
Căn cứ vào tình hình thực tiễn, áp dụng linh hoạt các mưu kế “Tiêu thổ” (tức huỷ
phá nơi trọng yếu) “Thanh dã” “Cất giấu lương thực” “ Đầu độc nguồn nước”… đưa
chúng vào thế “ tiến thoái lưỡng nan”.
Sử dụng nhiều thứ quân với nhiều cách đánh làm nòng cốt cho tồn dân đánh giặc.
Sử dụng nhiều hình thức tác chiến tiến cơng, tập kích, phục kích…
Đồng thời tập trung lực lượng, sức mạnh cho các trận quyết chiến lược giành thắng
lợi quyết định trong chiến tranh. Như phịng tuyến sơng Như Nguyệt, Bạch Đằng, Đống
Đa, Ngọc Hồi.

Tóm lại: Tồn dân đánh giặc, cả nước đánh giặc là truyền thống, nét độc đáo trong
nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên ta. Với truyền thống đó dân tộc ta đã đánh thắng nhiều


kẻ thù xâm lược. Như thiên tài quân sự Trần Quốc Tuấn khẳng định: “Sở dĩ nước ta
thắng giặc ngoại xâm qua nhiều triều đại là do ta biết đồng lòng đánh giặc, cả nước
chung sức”.
2.4. Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh
Đây là nét đặc sắc và tất yếu trong nghệ thuật quân sự của ông cha ta, khi dân tộc
ta luôn phải chống lại các đội quân xâm lược có quân số, vũ khí, trang bị lớn hơn nhiều
lần. Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh chính là sản
phẩm của lấy “thế” thắng “lực".
Quy luật của chiến tranh là mạnh được, yếu thua, nhưng từ trong thực tiễn chống
giặc ngoại xâm, cha ông ta đã sớm xác định đúng về sức mạnh trong chiến tranh, đó là:
sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, chứ không thuần tuý là sự so sánh, hơn kém về
quân số, vũ khí của mỗi bên tham chiến.
Để chống lại 30 vạn quân xâm lược Tống (1077), nhà Lý trong khi chỉ có khoảng
10 vạn quân, Lý Thường Kiệt đã tận dụng được ưu thế địa hình và các yếu tố khác để
tạo ra sức mạnh hơn địch và đánh thắng địch.
Thời nhà Trần có khoảng 15 vạn quân, chống lại giặc Nguyên - Mông, lần thứ 2 là
60 vạn, lần 3 là khoảng 50 vạn. Nhà Trần đã “lấy đoản binh để chế trường trận", hạn
chế sức mạnh của giặc, để đánh thắng giặc.
Cuộc khởi nghĩa của Lam Sơn, quân số lúc cao nhất có khoảng 10 vạn, nhưng đã
đánh thắng 80 vạn quân Minh xâm lược. Vì Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã vận dụng “tránh thế
ban mai, đánh lúc chiều tà” và vận dụng cách đánh “vây thành để diệt viện".
Trong cuộc kháng chiến chống quân Mãn Thanh xâm lược, nhà Tây Sơn có khoảng
10 vạn quân, nhưng đã đánh thắng 29 vạn quân xâm lược và quân bán nước Lê Chiêu
Thống vì Nguyễn Huệ đã dùng lối đánh táo bạo, thần tốc, bất ngờ.
2.5. Nghệ thuật kết hợp đấu tranh giữa các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao
và binh vận

Chiến tranh là sự thử thách toàn diện đối với mỗi quốc gia trong tham chiến. Trong
chống giặc ngoại xâm, ông cha ta đã biết kết hợp chặt chẽ các mặt trận nhằm tạo ra sức
mạnh tổng hợp để đánh thắng kẻ thù. Mỗi mặt trận có vị trí, tác dụng khác nhau, nhưng
cùng thống nhất ở mục đích tạo ra sức mạnh để giành thắng lợi trong chiến tranh.
Mặt trận chính trị nhằm cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân, quy tụ sức mạnh
đại đoàn kết dân tộc, là cơ sở để tạo ra sức mạnh quân sự.
Mặt trận quân sự là mặt trận quyết liệt nhất, thực hiện tiêu diệt sinh lực, phá huỷ
phương tiện chiến tranh của địch, quyết định thắng lợi trực tiếp của chiến tranh, tạo đà,
tạo thế cho các mặt trận khác phát triển.


Mặt trận ngoại giao có vị trí rất quan trọng, đề cao tính chính nghĩa của nhân dân
ta, phân hố, cơ lập kẻ thù, tạo thế có lợi cho cuộc chiến. Mặt khác, mặt trận ngoại giao
kết hợp với mặt trận qn sự, chính trị tạo ra thế có lợi để kết thúc chiến tranh càng sớm
càng tốt. Điển hình: Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã mở “Hội thề Đông Quan", cấp ngựa, thuyền,
lương thảo cho hàng binh nhà Minh về nước trong danh dự, để muôn đời dập tắt chiến
tranh.
Mặt trận binh vận để vận động làm tan dã hàng ngũ của giặc, góp phần quan trọng
để hạn chế thấp nhất tổn thất của nhân dân ta trong chiến tranh.
2.6. Nghệ thuật tổ chức và thực hành các trận đánh lớn
Trong các triều đại phong kiến, ông cha ta đã tổ chức và thực hành các trận đánh
lớn để giải phóng đất nước, kết thúc chiến tranh.
Thời nhà Lý có phịng ngự sơng Cầu (Như Nguyệt), đây là một điển hình về kết hợp
chặt chẽ hai hình thức tác chiến phịng ngự và phản cơng trên cả quy mơ chiến lược,
chiến thuật. Tác chiến phịng ngự ở Như Nguyệt khơng chỉ chặn đứng 30 vạn quân Tống,
mà còn làm thất bại ý đồ đánh nhanh, thắng nhanh để chiếm Thăng Long của chúng,
khiến quân địch phải chuyển từ chủ động tiến cơng sang bị động phịng ngự.
Thời nhà Trần, lần chống giặc Nguyên thứ 2, Trần Quốc Tuấn đã tổ chức một cuộc
rút lui chiến lược, làm thất bại kế hoạch hợp vây của địch. Trong cuộc truy đuổi, giặc
Nguyên khơng thực hiện được những địn quyết chiến với chủ lực ta, trái lại, chúng vấp

phải một cuộc chiến tranh của toàn dân Đại Việt. Do vậy, quân Nguyên đã sa vào tình
trạng muốn đánh mà khơng đánh được, “lực càng yếu, thế càng suy", điều đó đã tạo ra
thời cơ phản công cho quân ta.
Thời nhà Hậu Lê, sau 10 năm bền bỉ, gian khổ, ngoan cường, cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang giải phóng dân tộc, giải phóng
Thăng Long. Thắng lợi đó là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó nghệ thuật tổ chức và
thực hành các trận đánh lớn giữ một vai trò rất quan trọng, đặc biệt ở giai đoạn cuối của
chiến tranh. Trong chỉ đạo tác chiến, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương “lánh chỗ thực,
đánh chỗ hư, tránh nơi vững chắc, đánh nơi sơ hở". Khi nghe tin viện binh nhà Minh
sắp sang, nhiều tướng sĩ yêu cầu Lê Lợi hạ gấp thành Đông Quan (Thăng Long) để diệt
trừ nội ứng, rồi sau đó sẽ dốc tồn lực để đánh viện binh. Lê Lợi đã phân tích một cách
sáng suốt và quyết định: “Đánh thành là hạ sách...Sao bằng nuôi dưỡng sức quân, giữ
lấy nhuệ khí để đợi viện binh của giặc. Viện binh bị phá thì thành tất phải hàng. Làm
một việc mà được cả hai, đó mới là kế sách vẹn tồn". Việc lựa chọn rất đúng mục tiêu
tiến cơng chiến lược và kiệt xuất trong tổ chức, thực hành trận quyết chiến Xương Giang
- Chi Lăng, buộc lũ giặc Vương Thông trong thành Đông Quan không đánh mà bị bắt


đã chứng tỏ tài năng quân sự xuất sắc của ông trong tổ chức và thực hành các trận đánh
lớn của ông cha ta.
Nghệ thuật quân sự của Nguyễn Huệ và quân Tây Sơn được biểu hiện tập trung
nhất, rực rỡ nhất trong việc tổ chức và thực hành các trận quyết chiến chiến lược, đặc
biệt là giải phóng Thăng Long trong mùa xuân Kỷ Dậu 1789. Khi chọn đánh vào Thăng
Long, là địa bàn tập trung hầu hết quân địch, là nơi bộ chỉ huy quân Thanh và triều đình
Lê Chiêu Thống, Nguyễn Huệ đã nhìn thấy rất rõ trong cái mạnh của địch, chúng bộc lộ
những điểm yếu và sơ hở. Điểm yếu cơ bản của quân tướng nhà Thanh là rất chủ quan,
ngạo mạn, cho rằng, Tây Sơn không dám và không thể tiến công chúng, do đó thế trận
rất lỏng lẻo.
Trong thực hành tác chiến, Nguyễn Huệ đã thiết lập một hệ thống tổ chức hành quân
đạt hiệu quả tối đa, khiến quân địch hoàn toàn bị động. Trong cách đánh, Nguyễn Huệ

rất chú trọng hợp vây chiến dịch, chiến thuật và tiến công địch bằng các địn thọc sâu,
hiểm hóc. Đây vừa là nghệ thuật kết hợp tiến cơng chính diện với bên sườn, vừa là tiến
hành nhiều trận đánh diễn ra đồng thời, liên tiếp, nhanh mạnh, bất ngờ, khiến địch không
thể ứng cứu được cho nhau và nhanh chóng thất bại.


KẾT LUẬN
Dưới lá cờ của Đảng dân tộc chúng ta đã đánh thắng hoàn toàn các cường quốc đế
quốc. Giành độc lập dân tộc.
Thắng lợi đó khơng tách khỏi truyền thống quật cường bất khuất của dân tộc.
Và truyền thống đó bao giờ cũng là một nhân tố tạo nên sức mạnh chiến thắng của
dân tộc ta.
Nghiên cứu nghệ thuật quân sự của các thế hệ ông cha, chúng ta có quyền tự hào về
tinh thần dũng cảm, ý chí kiên cường trong chống giặc ngoại xâm để bảo vệ sự tồn vong
của đất nước. Ngày nay, đất nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nhưng kẻ thù cịn đó, chúng đang
tìm mọi thủ đoạn để xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do vậy, trách nhiệm của
sinh viên rất nặng nề đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trước hết, mỗi sinh viên cần phát huy tinh thần tự lực, vượt quan khó khăn để hồn
thành nhiệm vụ học tập, đặc biệt là khơng ngừng bồi đắp lịng yêu quê hương, đất nước.
Mặt khác, phải phấn đấu, tu dưỡng để trở thành những công dân tốt, sẵn sàng làm nhiệm
vụ khi Tổ quốc cần.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Duẩn, L. (1966). Thanh niên trong lực lượng vũ trang hãy vươn lên hơn nữa. Tạp

chí Quân Đội Nhân Dân số 8, 18.
2. Hồ Chí Minh tồn tập - tập 3. (2011). Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
3. Lê Đức Sơn, T. X. (2020). Hướng dẫn tự học mơn Giáo dục quốc phịng và an

ninh. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
4. Lê Văn Hưu, P. P. (Tái bản 2017). Đại Việt sử ký toàn thư. Nhà xuất bản Khoa
học Xã hội .



×