Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Công ty TNHH một thành viên quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.93 KB, 21 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
VAMC: Công ty TNHH một thành viên quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam
gọi tắt là Công ty Quản lý tài sản.
AMC: Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại
TCTD: Tổ chức tín dụng
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân Hàng Thương Mại
TSĐB : Tài sản đảm bảo
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước

2


LỜI GIỚI THIỆU
Trong thời gian qua vấn đề xử lý nợ xấu vẫn luôn là một yêu cầu đặt ra không chỉ
với bản thân các tổ chức tín dụng mà còn cả toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế .
Các số liệu mới nhất của Ngân hàng Nhà nước cho biết, nợ xấu tính đến năm 2013 đã
giảm từ hơn 8% năm 2012 xuống còn 6%. Trong khi đó, Vneconomy ngày 14/3 cũng dẫn
báo cáo của các tổ chức tín dụng cho biết, nợ xấu hiện còn 4,08% sau khi lên cao nhất
4,86% vào cuối tháng 11/2012. Đồng thời, tốc độ tăng nợ xấu cũng có xu hướng giảm và
giảm tới 12,2% vào tháng 12/2012 chủ yếu do tổ chức tín dụng tự xử lý bằng dự phòng
rủi ro. Theo Thống đốc Nguyễn Văn Bình khi trả lời phóng viên hồi cuối 2012, mục tiêu
trong 2013 là giải quyết được 4 - 5% nợ xấu trong tổng số khoảng 8% của hệ thống ngân
hàng, trong đó, tổ chức tín dụng tự xử lý bằng dự phòng khoảng 40 - 50 nghìn tỷ đồng.
Để phần nào giải quyết vấn đề này, chính phủ đưa ra đề án lập công ty quản lý tài
sản VAMC, với mục đích giải quyết bớt số nợ xấu trong xã hội. Sự kiện thành lập Công
ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) là một sự kiện lớn trong lĩnh vực tài chính của nước
ta và cũng gây ra không ít vấn đề bàn cãi trong thời gian qua.


Có lẽ mục tiêu thành lập VAMC là vô cùng hợp lý trong một bối cảnh hết sức cần
thiết để có một tổ chức như vậy. Tuy nhiên trong thời gian qua, từ khi bắt đầu triển khai
đến giờ thì hiệu quả dự án vẫn chưa thuyết phục các chuyên gia tài chính và các đối
tượng quan tâm. Và để hiểu rõ hơn chúng ta cùng nhau xem xét bối cảnh thành lập, mục
tiêu thiết thực cũng như hiệu quả hoạt động cho tới thời điểm hiện tại của VAMC. Từ đây
ta đưa ra những vấn đề tranh cãi cần quan tâm và cần có sự giải đáp hợp lý trong tương
lai.

3


Dự án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC)

1. Thực trạng nợ xấu ngân hàng Việt Nam
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc, nợ xấu là các khoản nợ quá hạn trả lãi và/
hoặc gốc trên 90 ngày ; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc,
tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thoả thuận, hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn
dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được
thanh toán đầy đủ.
Còn theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005, và sửa đổi theo Quyết định
18/2007/QĐ-NHNN, Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới
mức tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn). Tỷ lệ nợ
xấu là tỷ lệ nợ xấu so với tổng nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5.
Việt Nam là một trong những nước tốc độ tăng trưởng huy động và cho vay cao
nhất trong khu vực, trong đó, hệ thống ngân hàng đóng vai trò chủ lực với thị phần tín
dụng chiếm tới xấp xỉ 95% của toàn hệ thống các TCTD. Trong các giai đoạn phát triển
của nền kinh tế, trong bối cảnh thị trường vốn còn chưa phát triển, TDNH luôn đóng vai
trò là kênh dẫn vốn chủ đạo trên thị trường tài chính, bảo đảm đáp ứng nhu cầu vốn cho
đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. TDNH đã tăng trưởng bình quân trên 30%/năm trong giai đoạn 2001-2010, tỷ lệ tín

dụng/GDP đã tăng từ 40,1% vào năm 2000 lên tới 125% vào năm 2010.
Bên cạnh sự tăng trưởng mạnh mẽ với những đóng góp tích cực cho nền kinh tế
trong thời gian vừa qua, hoạt động TDNH cũng còn rất nhiều vấn đề tồn đọng mà nổi bật
và luôn được quan tâm nhiều là vấn đề nợ xấu. Nợ xấu là sự tồn tại tất yếu trong hoạt
động của hệ thống ngân hàng, vì vậy sự tồn tại của nợ xấu chỉ thực sự nguy hiểm khi nó
vượt lên ngưỡng cao hoặc bối cảnh kinh tế, tình hình tài chính hiện tại của các chủ thể
trong nền kinh tế có thể đẩy nợ xấu lên mức nguy hiểm trong tương lai.
Sau khi khối lượng nợ tồn đọng từ những năm 1990 được xử lý thì tỷ lệ nợ xấu từ
năm 2000 với mức 2 con số đã giảm xuống còn ở mức thấp 1 con số. Tuy nhiên trong
những năm gần đây, tỷ lệ nợ xấu đang có chiều hướng gia tăng.
Nhận định về nợ xấu, nhiều chuyên gia đã ví: “Nợ xấu giống một bộ phận trên cơ
thể con người, khi bệnh đã nặng cần xử lý nhanh để tránh thối rữa. Nếu che lên vết
thương bằng nhiều loại vải chỉ là nhất thời, không nhìn thấy, nhưng bệnh thì càng tồi
tệ.Bởi vậy, xử lý nợ xấu cần nhanh hơn, mạnh, dứt điểm và minh bạch, chuẩn xác về tỷ
lệ”.
Nhóm 3 – Lớp TC01 – K23 – Khoa TCDN

4


Dự án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC)
Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước

Sự chuẩn xác về tỷ lệ nợ xấu là vấn đề đang được dư luận quan tâm khi các NHTM công
bố tỷ lệ nợ xấu chỉ bằng một nửa con số của Thống đốc NHNN đưa ra. Tuy nhiên để
thống nhất trong phân tích và đánh giá chúng ta dùng số liệu của Ngân hàng Nhà Nước.
Năm 2011, lần đầu tiên (NHNN) chủ động công bố tỷ lệ nợ xấu trong các ngân
hàng. Theo đó, nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng ở mức 3,6 - 3,8% tổng dư nợ. Con số này
tới cuối năm 2012, theo công bố của NHNN là 4,08 %, cho dù theo các tổ chức đánh giá
độc lập thì con số thực tế cao hơn nhiều.

Bước sang năm 2013, tỷ lệ nợ xấu vẫn còn ở mức cao, mức cao nhất là 4.77% vào
tháng 10/2013. Đặc biệt, tháng 12/2013, nợ xấu của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng
Việt Nam có bước giảm mạnh nhất trong năm: từ 4,55% tháng liền trước xuống chỉ còn
3,61%.
Lần đầu tiên trong năm 2013 tỷ lệ nợ xấu mới giảm được xuống dưới 4%. Dù đây là tỷ lệ
tổng hợp từ báo cáo của các tổ chức tín dụng, mức độ sát thực có hạn chế nhất định,
nhưng là kết quả của loạt giải pháp mà Ngân hàng Nhà nước triển khai quyết liệt trong
hai năm qua.

Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước

Có hai hướng xử lý cụ thể và trực tiếp nhất tạo nên kết quả trên: một là các tổ chức
tín dụng tự xử lý; hai là bán lại nợ xấu cho VAMC (dù nợ xấu vẫn còn đó nhưng không
còn thể hiện ở con số báo cáo). Thế nhưng, đà giảm mạnh trong tháng 12/2013 không thể
nối tiếp. Sau đợt cao điểm mua lại gần 40.000 tỷ đồng nợ xấu, VAMC cũng tạm thời
chững lại. Nợ xấu lại có xu hướng tăng lên. Theo báo cáo tài chính quý 1/2014 mà các
ngân hàng thương mại tập trung công bố cho thấy nhiều trường hợp khó khăn hơn ở nợ
Nhóm 3 – Lớp TC01 – K23 – Khoa TCDN

5


Dự án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC)

quá hạn. Như ACB đã chính thức vượt mốc 3% với 3,27%; DongA Bank đã lên mức khá
cao với suýt soát 4%; PG Bank sau khi giảm được trong năm qua (một phần lớn nhờ bán
lại cho VAMC) cũng đã trở lại trên 4%; hay tại Sacombank, một trong số ít thành viên có
tỷ lệ thấp năm 2013 (1,45%), đã tăng lên 1,86%...
Ở diễn biến chung, theo cơ quan chuyên trách của Ngân hàng Nhà nước đưa ra
gần đây, đến hết tháng 2/2014, nợ xấu của toàn hệ thống vào khoảng 122.000 tỷ đồng,

ứng với tỷ lệ 3,86%. Nếu tính cả các khoản nợ được cơ cấu theo Quyết định 780, nợ xấu
của toàn hệ thống lên tới gần 308.000 tỷ đồng (chiếm 9,71% dư nợ).
Báo cáo Cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam 2013 được Ngân hàng Thế
giới (WB) công bố gần đây cho thấy, ở khu vực tài chính ngân hàng, tuy những rủi ro về
hệ thống đã có phần được cải thiện nhưng quá trình cải cách và tái cơ cấu ở khu vực này
vẫn còn mong manh, chưa được thực hiện quyết liệt. Cải cách mạnh mẽ các ngân hàng là
vấn đề cần phải được triển khai quyết liệt hơn nữa. Thực ra, nếu chúng ta cản trở những
hoạt động hay hạn chế việc cho vay thì chính là đã hạn chế việc đưa luồng vốn vào ổn
định kinh tế. Như vậy, nó sẽ làm chậm lại quá trình phát triển và tăng trưởng. Các chuyên
gia của WB và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho rằng, ngân hàng thương mại Nhà nước cần
phải có những cải cách, cải thiện hơn nữa để nâng cao năng lực.
Bên cạnh đó, phần lớn những khách hàng lớn của ngân hàng thương mại Nhà
nước lại chính là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Số liệu của một số nhà khoa học
cho thấy khu vực DNNN hiện đóng góp vào 70% nợ xấu của toàn hệ thống, trong đó các
tập đoàn kinh tế, tổng công ty chiếm 53% số nợ xấu. Một đặc điểm nổi bật là nợ xấu của
các DN Việt Nam gắn khá chặt chẽ với khu vực bất động sản (BĐS). Dư nợ cho khu vực
này vay chiếm dưới 16% nhưng các tài sản thế chấp bằng BĐS cho các khoản vay khác
nhau chiếm tới 60-80% tổng giá trị tài sản thế chấp. Khi thị trường BĐS suy giảm, những
khoản nợ xấu, nợ quá hạn được thế chấp bởi BĐS sẽ rất khó thanh lý.Việc thanh lý mạnh
các tài sản thế chấp sẽ tiếp tục khiến giá BĐS giảm thêm và càng làm trầm trọng thêm
tình hình nợ xấu của nền kinh tế.Do đó, cải cách phải song song việc cải cách khối ngân
hàng thương mại Nhà nước với cải cách các DNNN. Tuy nhiên, báo cáo Cập nhật tình
hình phát triển kinh tế Việt Nam 2013 của WB cũng cho thấy tiến độ cải cách và tái cơ
cấu các DNNN vẫn hết sức chậm chạp sau 2 năm kể từ khi Chính phủ phê duyệt chủ
trương và lộ trình cải cách.
1. Khung pháp lý và cơ chế giám sát nợ xấu
1.1 Khung pháp lý:
Nhóm 3 – Lớp TC01 – K23 – Khoa TCDN

6



Dự án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC)

Ngày 05/10/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 149/2001/QĐTTg về việc phê duyệt đề án xử lý nợ tồn đọng của các NHTM, đây được coi là cơ sở
pháp lý cho hoạt động phân loại nợ và xử lý các khoản nợ tồn động phát sinh trước thời
điểm 31/12/2000 của các Ngân hàng thương mại. Kèm theo là Thông tư liên tịch số
02/2002/TTLT-NHNN-BTP ngày 05/02/2002 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn thực
hiện quyết định 149/2001/QĐ-TTg về thủ tục bán tài sản đảm bảo, công chứng, chứng
thực văn bản bán tài sản và giao tài sản cho các ngân hàng thương mại theo bản án, quyết
định của toà án.
Đồng thời, vào ngày 05/10/2001, Thủ tướng cũng ra quyết định số 150/2001/QĐTTg về việc thành lập công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng
thương mại. Theo quyết định này, các ngân hàng thương mại được phép thành lập Công
ty quản lý nợ và khai thác tài sản đảm bảo (AMC), có tư cách pháp nhân, hạch toán độc
lập sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.
Đến ngày 22/04/2005, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN, ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập dự phòng để xử lý rủi
ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng. Theo quyết định này, nợ
được phân làm 5 nhóm: nhóm 1 là nợ đủ tiêu chuẩn với mức trích dự phòng là 0%, nhóm
2 là nợ cần chú ý với mức trích lập dự phòng 5%, nhóm 3 là nợ dưới tiêu chuẩn với mức
trích lập dự phòng 20%, nhóm 4 là nợ nghi ngờ nên mức trích lập lên đến 50%, còn lại
nhóm 5 là nợ có khả năng mất vốn với mức trích lập 100%. Và quyết định này được sửa
đổi bổ sung vào ngày 25/04/2007 theo quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN.
- Và những năm gần đây, khi nền kinh tế đang suy giảm, vấn đề nợ xấu trở thành mối lo
ngại thực sự đối với các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Ngân hàng nhà nước
ban hành Thông tư số 02/2013/TT_NHNN vào ngày 21/01/2013 nhằm mục đích giám sát
nợ xấu của hệ thống ngân hàng tốt hơn. Phạm vi xác định, phân loại nợ, trích lập dự
phòng rủi ro được mở rộng thêm các tài sản: các khoản cấp tín dụng dưới hình thức phát
hành thẻ tín dụng, tiền mua và uỷ thác mua trái phiếu doanh nghiệp, uỷ thác cấp tín dụng,
tiền gửi (trừ tiền gửi thanh toán) tại các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó, việc phân loại nợ

còn phải sử dụng kết quả phân loại của Trung tâm Thông tin Tín dụng Ngân hàng nhà
nước (CIC) để điều chỉnh. Tuy nhiên, hiệu lực của thông tư này đã bị hoãn so với dự kiến
vào ngày 01/06/2013.
Nghị định số 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ về thành lập tổ chức hoạt động của
Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam ra đời. Tiếp theo ngày
Nhóm 3 – Lớp TC01 – K23 – Khoa TCDN

7


Dự án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC)

31/05/2013, Quyết định 843/2013/QĐ-TTG phê duyệt Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống
các tổ chức tín dụng” và Đề án “Thành lập Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín
dụng Việt Nam”được Thủ tướng Chính phủ ký thông qua. Ngày 27/06/2013, Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước đã ra quyết định số 1459/QĐ-NHNN về thành lập Công ty Trách
nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam. Những
Quyết định này đã đưa ra được Phương thức mới trong việc giải quyết vấn đề Nợ xấu
cũng như thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý và từ đây nhiều Quyết định cũng như
Thông tư ra đời nhằm định hướng hoạt động cho công ty quản lý tài sản này.
Thông tư số 19/2013/TT-NHNN ngày 06/09/2013 Quy định về việc mua, bán và
xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý Tài sản của các tổ chức tín dụng. Ở đây Ngân hàng
Nhà nước đã phân định thẩm quyền; nguyên tắc mua, bán nợ xấu; đồng tiền giao dịch là
Việt Nam Đồng (VNĐ); tỷ giá quy đổi ngoại tệ USD là tỷ giá bình quân liên ngân hàng
và tỷ giá tính thuế xuất nhập khẩu đối với các ngoại tệ khác; đối với việc mua nợ xấu
bằng vàng thì sẽ sử dụng giá mua vào của công ty trách nhiêm hữu hạn một thành viên
vàng bạc đã quý Sài Gòn. Trong Thông tư này cũng quy định việc phát hành Trái phiếu
đặc biệt của Công ty Quản lý tài sản: Chủ thể phát hành; điều kiện, điều khoản của Trái
phiếu đặc biệt; phương án và thủ tục phát hành cũng như trách nhiệm quản lý, sử dụng.
Ngoài ra, phương thức xử lý nợ xấu và tài sản đảm bảo của công ty Quản lý Tài sản, việc

trích lập dự phòng rủi ro của các tổ chức tín dụng bán nợ, trách nhiệm của các bên tham
gia được quy định cụ thể.
Ngày 09/09/2013, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ra thông tư số 20/2013/TTNHNN quy định về cho vay tái cấp vốn trên cơ sở trái phiếu đặc biệt của Công ty Quản
lý Tài sản của các tổ chức Tín dụng Việt Nam. Thông tư này nhằm hỗ trợ nguồn vốn hoạt
động của các Tổ chức tín dụng trong quá trình xử lý nợ xấu theo nghị định 53/2013/NĐCP, quy định các điều kiện được tái cấp vốn, mức lãi suất, mức tái cấp vốn, thời hạn tái
cấp vốn và trình tự thủ tục tiến hành.
Ngoài ra việc xử lý nợ xấu còn phải tuân theo các bộ luật Dân sự (2005), Luật Đất
đai (2003), Luật Phá sản (2004), Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2010), Luật
Doanh nghiệp (2005), Luật tổ chức tín dụng (2010).
1.2 Cơ chế giám sát, xử lý nợ xấu:
1.2.1 Phân loại nợ và trích lập dự phòng, xử lý nợ tồn đọng:
Như phần trên đã đề cập, tại Việt Nam, Nợ xấu là nợ thuộc các nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5.
Dựa vào phân loại định lượng ta có:
Nhóm 3 – Lớp TC01 – K23 – Khoa TCDN

8


Dự án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC)
-

-

-

-

-

Nợ nhóm 3: Nợ dưới mức tiêu chuẩn bao gồm: nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày;các khoản

nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại; các khoản
nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 3, khoản 4 thuộc điều 6,
chương 2: Quy định cụ thể của Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN
(Khoản 3: Trường hợp khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ với tổ chức tín dụng
mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì tổ chức tín dụng bắt
buộc phải phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào nhóm nợ rủi ro cao hơn
tương ứng với mức độ rủi ro. Khoản 4: Trường hợp các khoản nợ (kể các các khoản nợ
trong hạn và các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu
lại) mà tổ chức tín dụng có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy
giảm thì tổ chức tín dụng chủ động quyết định phân loại các khoản nợ đó vào các nhóm
nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.)
Nợ nhóm 4: Nợ nghi ngờ bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ
cấu lại; các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định khoản 3 và khoản 4
điều 6 chương 2 Quy định cụ thể Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN.
Nợ nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn bao gồm: các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; các
khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lý; các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn
trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại; các khoản nợ khác được phân loại và
nhóm 5 theo quy định khoản 3 và khoản 4 điều 6 chương 2 Quy định cụ thể Quyết định
số 493/2005/QĐ-NHNN.
Theo phân loại này thì mức trích lập dự phòng được đưa ra như sau: nhóm 3: 20%,
nhóm 4: 50% và nhóm 5: 100%. Đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý sẽ
trích lập dự phòng theo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng.
Dựa vào phân loại định tính (nếu tổ chức tín dụng có đủ khả năng và điều kiện thực
hiện)
Nợ nhóm 3: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi
cả gốc lẫn lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả
năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
Nợ nhóm 4: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn thất cao.
Nợ nhóm 5: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi,

mất vốn.
Mức trích lập dự phòng cũng tương tự như phân loại định lượng.
Số tiền dự phòng cụ thể phải trích được tính theo công thức:
Nhóm 3 – Lớp TC01 – K23 – Khoa TCDN

9


Dự án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC)

R = Max {0, (A – C)} x r
Trong đó:
R: Số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: Giá trị của khoản nợ
C: Giá trị của tài sản đảm bảo
r: Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể.
Ngoài ra các tổ chức tín dụng sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng đối với
các khoản nợ trong các trường hợp: Khách hàng tổ chức, doanh nghiệp bị giải thể, phá
sản theo quy định của pháp luật, cá nhân bị chết hoặc mất tích; Các khoản nợ thuộc nhóm
5 theo cả hai phương pháp định tính và định lượng. Các tổ chức tín dụng thực hiện việc
sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro một quý một lần. Việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro
theo nguyên tắc: sử dụng số tiền dự phòng cụ thể để xử lý rủi ro tín dụng với khoản nợ
đó; phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi nợ; trường hợp phát mại tài sản không đủ bù đắp
cho rủi ro tín dụng của khoản nợ thì được sử dụng dự phòng chung để xử lý đủ.
Sau năm năm kể từ ngày sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, tổ chức tín
dụng được xuất toán các khoản nợ đã được xử lý rủi ro tín dụng ra khỏi ngoại bảng, riêng
đối với các ngân hàng thương mại Nhà nước thì việc xuất toán chỉ được phép thực hiện
sau khi được Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
Và Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài Chính kiểm tra việc
thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng trong hoạt động

ngân hàng của tổ chức tín dụng.
1.2.2 Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản AMC:
Sau khi Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 150/2001/QĐ-TTg, các ngân hàng
thương mại đã thành lập công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng
thương mại. Đây là một định chế có mục tiêu đặc biệt, có trách nhiệm và quyền lực đặc
biệt trong việc thực hiện chức năng mua, quản lý các khoản nợ khó đòi từ hệ thống ngân
hàng và xử lý các khoản nợ đó một cách tối ưu. Việc thành lập AMC tại Việt Nam nhằm
mục đích: Chuyên nghiệp hoá hoạt động quản lý, xử lý nợ quá hạn; góp phần xử lý nợ
xấu một cách nhanh chóng và hiệu quả bằng biện pháp giãn nợ, miễn lãi xuất, đầu tư
thêm, chuyển đổi nợ thành vốn góp,..; cải tiến quản lý rủi ro trong hoạt động cấp tín
dụng; lấy thu bù chi để bảo toàn và phát triển vốn; quản lý an toàn tài sản các ngân hàng
giao, đóng góp một phần lợi nhuận cho ngân hàng.
Nhóm 3 – Lớp TC01 – K23 – Khoa TCDN

10


Dự án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC)

Tính đến năm 2011 tại Việt Nam có 27 AMC trực thuộc các Ngân hàng thương
mại và 1 AMC trực thuộc Bộ tài chính (DATC). Điểm mạnh của AMC tại Việt Nam là
Ngân hàng thương mại góp vốn 100% nên AMC nhận được sự hỗ trợ lớn từ các ngân
hàng từ vấn đề vốn, nhân sự và uy tín thương hiệu. Tuy nhiên, Việt Nam lại chưa có
khung pháp lý về cơ chế hoạt động của AMC.Vậy nên hiện tại hoạt động của nó chỉ xoay
quanh việc quản lý nợ và khai thác tài sản của chính ngân hàng thương mại thành lập nên
AMC.
Trong thời gian qua, các AMC của các ngân hàng thương mại đang thực hiện
những hoạt động: tiếp nhận tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của những khoản nợ khó
đòi thuộc hệ thống ngân hàng thương mại để quản lý, khai thác; phát mãi, bán đầu giá tài
sản theo hình thức thu tiền một lần, thu tiền nhiều lần; cho thuê tài sản; góp vốn mua cổ

phần của các doanh nghiệp khác bằng tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh đã được giao
cho công ty quản lý khai thác; đầu tư, cải tạo để nâng cấp, thay đổi công năng tài sản phù
hợp với các mục đích và yêu cầu sử dụng tài sản; định giá tài sản đảm bảo; tiếp nhận,
quản lý các khoản nợ tồn đọng và tài sản đảm bảo nợ vay liên quan đến các khoản nợ để
xử lý, thu hồi vốn nhanh nhất; Hoàn thiện hồ sơ có liên quan đến các khoản nợ theo quy
định pháp luật; được quyền chủ động xử lý các tài sản đảm bảo nợ vay kể cả tài sản là bất
động sản thuộc quyền định đoạt của ngân hàng thương mại (theo hình thức: tự tổ chức
bán công khai trên thị trường, bán qua trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản, bán cho công ty
mua bán nợ của Nhà nước); cơ cấu lại nợ tồn đọng.
Tuy nhiên, theo đánh giá của PGBankResearch thì hoạt động của AMC vẫn chưa
thực sự hiệu quả. Điều này cũng có thể thấy rõ qua việc nợ xấu ngân hàng gia tăng
nhanh trong các năm gần đây, đặc biệt vào 10/2013 tỷ lệ nợ xấu là 4.77% trong tổng dư
nợ tín dụng. Từ đó đặt ra cần có cơ chế xử lý nợ một cách hiệu quả và nhanh chóng để
đưa hệ thống tín dụng ra khỏi khủng hoảng nợ xấu.
2. Quá trình hình thành ý tưởng VAMC
VAMC đã thành hình từ những ý tưởng ban đầu dựa trên hình thức, mục tiêu,
phương thức hay là những lợi ích hoạt động dự kiến. Phần này chúng ta xem xét những ý
tưởng ban đầu để có một VAMC chính thức như hiện nay.
2.1 Mục đích hoạt động:
Nợ xấu lớn như hiện nay cũng đã làm ách tắc dòng chu chuyển vốn trong nền kinh
tế, ảnh hưởng tiêu cực không chỉ với các TCTD mà còn cả các doanh nghiệp. Do bị đọng
vốn trong nợ xấu, các TCTD không có điều kiện mở rộng tăng trưởng tín dụng, khiến cho
Nhóm 3 – Lớp TC01 – K23 – Khoa TCDN

11


Dự án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC)

hoạt động sản xuất của nền kinh tế gặp khó khăn. Xử lý được nợ xấu sẽ góp phần hạ mặt

bằng lãi suất, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng lành mạnh và góp phần tháo gỡ khó khăn cho
sản xuất, đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng bền vững. Chính vì những lý do đó
cần phải có một tổ chức chuyên nghiệp đứng ra để giải quyết các vấn đề trên và VAMC
được thành lập. Mục đích cơ bản của VAMC là mua lại nợ xấu từ hệ thống ngân hàng và
tìm cách thu nợ, bán nợ… để thu hồi vốn. Các khoản nợ sẽ được xem xét mua lại nếu đáp
ứng những điều kiện cơ bản sau: khách hàng vay còn tồn tại; khoản nợ có tài sản đảm
bảo hợp lệ, không tranh chấp; có giá trị từ 3 tỷ trở lên đối với doanh nghiệp, 1 tỷ trở lên
đối với cá nhân; và các điều kiện khác
2.2 Hình thức hoạt động :
VAMC là sẽ công cụ đặc biệt của Nhà nước nhằm góp phần xử lý nhanh nợ xấu,
lành mạnh hóa tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp và thúc
đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý cho nền kinh tế, là công cụ đặc biệt của Nhà nước nhằm
góp phần xử lý nhanh nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức
tín dụng, doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý cho nền kinh tế. Công ty
Quản lý tài sản sẽ là doanh nghiệp đặc thù do Nhà nước sở hữu 100% vốn, chịu sự quản
lý nhà nước, thanh tra, giám sát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Công ty
Quản lý tài sản hoạt động với số vốn điều lệ 500.000.000.000 VND (năm trăm tỷ đồng)
và theo nguyên tắc lấy thu bù chi, không vì mục tiêu lợi nhuận; công khai, minh bạch;
hạn chế rủi ro và chi phí trong xử lý nợ xấu.
2.3 Hình thức và điều kiện mua nợ:
Một là mua nợ xấu theo giá trị ghi sổ bằng trái phiếu đặc biệt do VAMC phát
hành. Đây là hình thức được nhắc tới nhiều nhất khi VAMC được thành lập.Các khoản nợ
đủ điều kiện cơ bản sẽ được chuyển giao cho VAMC.Ở chiều ngược lại, VAMC sẽ phát
hành một trái phiếu đặc biệt có thời hạn tối đa 5 năm cho các tổ chức tín dụng bán
nợ.Trái phiếu này không được chuyển nhượng nhưng được chấp nhận chiết khấu tại ngân
hàng nhà nước.
Hai là mua theo giá trị thị trường bằng nguồn vốn không phải trái phiếu đặc biệt. VAMC
tiến hành định giá lại khoản nợ và tiến hành mua lại hoàn toàn khoản nợ này.Về kỹ thuật,
nợ xấu được loại bỏ hoàn toàn khỏi ngân hàng bán nợ. Điều kiện VAMC đặt ra để mua
nợ theo giá thị trường chặt chẽ hơn, quy trình cũng phức tạp hơn nhiều so với mua nợ

bằng hình thức phát hành trái phiếu đặc biệt. Có thể nói, sau khi bán nợ theo phương
pháp này, ngân hàng thương mại không còn trách nhiệm với nợ xấu đã bán nữa.
Nhóm 3 – Lớp TC01 – K23 – Khoa TCDN

12


Dự án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC)

Khi trái phiếu tới hạn (thời hạn tối đa của trái phiếu này là 5 năm), các ngân hàng
thương mại bán nợ theo phương pháp nhận trái phiếu sẽ có nghĩa vụ mua lại khoản nợ đã
bán, qua đó VAMC thu hồi lại vốn của mình. VAMC nếu thu hồi được nợ xấu, số tiền thu
hồi sẽ được hoàn trả lại cho tổ chức tín dụng đã bán nợ.
Các khoản nợ xấu phải đáp ứng đủ 5 điều kiện sau mới được Công ty Quản lý tài sản
mua:
1- Khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, bao gồm nợ xấu trong các hoạt động cấp tín dụng,
mua trái phiếu doanh nghiệp, ủy thác mua trái phiếu doanh nghiệp, ủy thác cấp tín dụng
và hoạt động khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;
2- Khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm;
3- Khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm phải hợp pháp và có hồ sơ, giấy tờ hợp lệ;
4- Khách hàng vay còn tồn tại;
5- Số dư của khoản nợ xấu hoặc dư nợ xấu của khách hàng vay không thấp hơn mức quy
định của Ngân hàng Nhà nước.
2.4 Những lợi ích mà VAMC sẽ mang lại:
Xử lý nợ xấu hiện nay đang là một yêu cầu đặt ra không chỉ với bản thân các
TCTD mà còn cả toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.
Riêng với các TCTD thì xử lý nợ xấu là yêu cầu cấp bách và mang tính chiến
lược, bởi lẽ nợ xấu đến thời điểm bấy giờ đã ở mức lớn và ảnh hưởng nghiêm trọng đến
thanh khoản, hiệu quả và sự an toàn của bản thân các TCTD này. Khi có nợ xấu thì các
Ngân hàng thương mại sẽ phải đối mặt với rất nhiều nguy cơ:

-

-

Thứ nhất, các ngân hàng có nợ xấu trên 3%, nếu không có các biện pháp cần thiết để cải
thiện tỷ lệ nợ xấu thì sẽ đối mặt với những kiểm soát vô cùng chặt chẽ của ngân hàng nhà
nước, thậm chí phải tái cơ cấu bắt buộc.
Thứ hai, Những món nợ nhóm 5 (cần phải thanh lý và phát mãi tài sản đảm bảo) của hệ
thống ngân hàng đang dần tăng lên cả về tỷ trọng và khối lượng. Nhưng việc phát mãi tài
sản là một quy trình vô cùng phức tạp, tốn nhiều thời gian. Bên cạnh đó, với thị trường
bất động sản đang đóng băng, rõ ràng số tiền thu về từ bán tài sản thế chấp phần lớn là
bất động sản (chiếm tới 70%-80%) sẽ vô cùng thấp. Vì vậy việc có một tổ chức đứng ra
mua lại khoản nợ xấu này và giải quyết chúng thì trước mắt có thể giúp cho ngân hàng
cải thiện tính thanh khoản và tập trung hơn vào công việc chính thay vì phải xử lý đống
tài sản do nợ xấu gây ra.

Nhóm 3 – Lớp TC01 – K23 – Khoa TCDN

13


Dự án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC)
-

-

Thứ ba, Một thực tế không thể phủ nhận là việc các ngân hàng định giá tài sản đảm bảo
quá cao so với thực tế nhằm lách quy chế nội bộ và cho vay được nhiều hơn. Sau những
biến động của thị trường bất động sản thời gian qua cũng như hoạt động thanh kiểm tra
gắt gao của ngân hàng nhà nước, rõ ràng không sớm thì muộn giá trị của những tài sản

đảm bảo bị thổi phồng sẽ trở về giá trị thực. Lúc này, việc trích lập dự phòng lên tới 50%
hoặc 100% cho khoản nợ, kể cả sau khi được khấu trừ giá trị tài sản cũng sẽ là cú sốc với
một số tổ chức tín dụng. Nếu VAMC ra đời với chính sách trích lập 20% mỗi năm bằng
cách bán nợ cho VAMC lại trở thành chiến thuật kéo dài thời gian hiệu quả và giảm nhẹ
gánh nặng cho các TCTD trong thời gian khó khăn như hiện nay.
Thứ tư, hình ảnh của hệ thống ngân hàng đã suy giảm nghiêm trọng trong thời gian vừa
qua. Thị giá cổ phiếu của ngành ngân hàng lao dốc khi chứng kiến những chỉ báo tài
chính tiêu cực. Việc ra đời VAMC sẽ làm đẹp phần nào báo cáo tài chính là một cách thức
gây dựng lại niềm tin và sự thiện cảm với nhà đầu tư và khách hàng.
Với những ý tưởng cơ bản bước đầu như trên, đề án thành lập công ty Quản lý tài
sản Việt Nam đã hình thành và trình lên Quốc hội. Chính vì dựa trên nhu cầu cần thiết
của xã hội mà nó đã được thông qua để cho ra đời một công ty Quản lý tài sản như hiện
tại. Với mục đích đúng đắn và sự cần thiết của VAMC liệu rằng trong thực tế những ý
tưởng tốt đẹp ấy có mang lại lợi ích cho xã hội không? Phần tiếp theo sẽ cho chúng ta câu
trả lời.
3. Tình hình hoạt động trong 2 năm vừa qua và các vấn đề đặt ra
3.1 Tình hình hoạt động:
Sau một năm kể từ khi khai trương hoạt động, VAMC đã chủ động triển khai các
công việc để có những hoạt động thiết thực ngay trên thực tế, theo đó VAMC đã xây
dựng và ban hành các văn bản quy định nội bộ ; tiếp xúc với các định chế tài chính, các
tổ chức trong và ngoài nước; chủ động làm việc với các TCTD để nắm bắt thông tin và
phối hợp triển khai việc mua, bán nợ xấu; xây dựng và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt
kế hoạch mua, bán, xử lý nợ ; thẩm định hồ sơ và ký hợp đồng mua nợ với các TCTD.
Tính đến ngày 30/6/2014, VAMC đã mua được hơn 2.684 khoản nợ của 34 tổ chức
tín dụng với tổng dư nợ gốc đạt gần 52.000 tỷ đồng. VAMC đã thực hiện phân loại 145
khoản nợ đã mua, với dư nợ gần 15.000 tỷ đồng, bên cạnh đó đang thực hiện cơ cấu lại
nợ cho 112 khách hàng có khả năng phục hồi hoạt động sản xuất - kinh doanh với dư nợ
gốc hơn 9.000 tỷ đồng. Riêng 6 tháng đầu năm 2014, VAMC mua 1.047 khoản nợ xấu từ
477 khách hàng của 29 tổ chức tín dụng, với tổng số dư nợ gốc 12.533 tỷ đồng. Được
Nhóm 3 – Lớp TC01 – K23 – Khoa TCDN


14


Dự án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC)

biết, VAMC đang chuẩn bị ký hợp đồng mua khoảng 1.200 tỷ đồng của VietinBank và
tổng giá trị trái phiếu đặc biệt phát hành là 900 tỷ đồng.
Theo số liệu do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh TP.HCM công bố, đến
cuối tháng 3/2014, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại trên địa bàn giảm còn
44.700 tỷ đồng, chiếm 4,7% tổng dư nợ. Tuy nhiên, đến cuối tháng 6/2014, nợ xấu tại các
ngân hàng thương mại lại tăng lên mức 4,84%, cho dù đã xử lý được 6.600 tỷ đồng nợ
xấu. Điều đáng ngạc nhiên là tốc độ mua nợ xấu của VAMC giảm mạnh trong 6 tháng
đầu năm nay, trong khi riêng quý IV/2013, Công ty này mua 39.000 tỷ đồng nợ xấu. Tính
đến nay, VAMC đang thực hiện miễn giảm lãi cho 10 khách hàng của 6 tổ chức tín dụng
với tổng số tiền miễn giảm lãi xấp xỉ 56 tỷ đồng. Hơn thế, VAMC trực tiếp cùng tổ chức
tín dụng xử lý tài sản bảo đảm của 17 khách hàng với dư nợ gốc gần 1.600 tỷ đồng;
VAMC ủy quyền cho tổ chức tín dụng xử lý tài sản bảo đảm của 284 khách hàng với giá
trị tài sản bảo đảm là 9.605 tỷ đồng; VAMC ủy quyền cho các tổ chức tín dụng khởi kiện
đối với 300 khách hàng với tổng dư nợ gốc là 5.640 tỷ đồng.
3.2 Thành tựu và thách thức:
3.2.1 Thành tựu:
Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD và Đề án thah lập VAMC được ban
hành theo quyết định số 843/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã được ngân hàng nhà
nước và một số Bộ, ngành, địa phương triển khai tích cực, quyết liệt. Kết quả bước đầu
đạt được là nợ xấu đã được kiềm chế và mức độ giảm rất đáng khích lệ, khẳng định các
giải pháp xử lý nợ xấu tại Quyết định số 843/QĐ-TTg là đúng đắn, khả thi, kể cả một số
giải pháp rất đặc thù chưa có tiền lệ, các giải pháp xử lý nợ xấu phát huy ngay tác dụng.
Tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng ngành Ngân hàng đã quyết tâm triển khai có kết quả các
giải pháp xử lý nợ xấu theo nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 843/QĐ-TTg, đồng

thời vẫn đảm bảo tiếp tục tái cơ cấu, tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế, hạ mặt bằng
lãi suất, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và góp phần ổn định hệ thống
ngân hàng, kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
3.2.2 Thách thức:
Mới đây, lãnh đạo của VAMC đã phải thừa nhận khó khăn trong việc xử lý nợ xấu. Theo
VAMC, trong quí 1-2014, công ty này đã mua 3.929 tỉ đồng nợ gốc với giá 3.048 tỉ đồng
từ việc phát hành trái phiếu đặc biệt. Tính từ lúc ra đời cho đến hết quí 1-2014, VAMC đã
mua vào khoảng 42.829 tỉ đồng nợ gốc với giá 35.448 tỉ đồng. Như vậy, so với mục tiêu
mua nợ xấu trong năm 2014 được công bố trước đó thì VAMC mới thực hiện được
Nhóm 3 – Lớp TC01 – K23 – Khoa TCDN

15


Dự án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC)

khoảng 3%. Cũng theo báo cáo của VAMC thì số tiền thu được từ việc xử lý nợ mới chỉ
khoảng 300 tỉ đồng, tức chưa đến 1% giá trị khoản nợ.
Việc VAMC đặt mục tiêu sẽ mua từ 100.000-150.000 tỉ đồng nợ xấu trong năm 2014 là
hoàn toàn không khả thi. Nguyên nhân vì con số này còn lớn hơn số nợ xấu theo báo cáo
chính thức của các TCTD. Ngoài ra, giả sử nếu VAMC mua được 150.000 tỉ đồng nợ xấu,
thì số tiền TCTD phải trích lập dự phòng nợ xấu trong năm 2014 sẽ lên tới 30.000 tỉ
đồng. Con số này cao hơn tổng lợi nhuận năm 2013 của tất cả các ngân hàng cộng lại. Đó
là một cái giá quá đắt và khó chấp nhận đối với bản thân các TCTD và ngay cả với Ngân
hàng Nhà nước. Thông tư 02 về phân loại nợ xấu trì hoãn đến lần thứ hai là một minh
chứng rõ ràng cho việc đó
3.3 Các vấn đề đặt ra:
3.3.1 Nếu sau 5 năm các khoản nợ xấu bán cho VAMC không được xử lý triệt để,
trong khi ngân hàng lại không trích dự phòng, thì vòng luẩn quẩn nợ xấu sẽ
lặp lại và xấu hơn.

Mặc dù nợ xấu đã được các NHTM ráo riết bán cho VAMC. Nhưng theo đánh giá
của một chuyên gia lĩnh vực tiền tệ, nếu sau 5 năm, các khoản nợ xấu bán cho VAMC
không được xử lý triệt để, thì ngân hàng khó có thể trút được gánh nợ, bởi khoản nợ này
sẽ được trả lại cho ngân hàng. Trong khi đó, việc trích lập dự phòng 20% cho trái phiếu
đặc biệt sau khi bán nợ cho VAMC cũng chưa hẳn được các ngân hàng thực hiện một
cách đầy đủ, nhất là đối với những ngân hàng yếu kém, lợi nhuận thậm chí âm.
3.3.2 Xử lý nợ xấu đang là vấn đề đặt ra đối với VAMC
Mô hình hoạt động của VAMC không giống bất kỳ một công ty mua bán nợ nào
trên thế giới. Mô hình mà có người cho là sáng tạo và “không dùng tiền từ ngân sách”
này không có chức năng mua bán và xử lý nợ xấu thực sự, nên VAMC không có quyền
lực và động cơ trong việc này. VAMC thực chất chỉ là một nơi cất giấu nợ tạm thời cho
các TCTD. Công ty này không trực tiếp xử lý nợ xấu mà chỉ đóng vai trò như một nhà
môi giới và quản lý hộ nợ xấu của các TCTD. Việc bán nợ xấu cho ai, với giá bao nhiêu
vẫn tùy thuộc hoàn toàn vào các TCTD đã bán nợ.
Để xử lý được nợ xấu, VAMC cũng cần phải có thị trường mua – bán nợ, cũng
như cần có sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, việc này không hề đơn
giản, bởi việc mua – bán nợ đằng sau đó thực chất là bất động sản (phần lớn các tài sản
thế chấp hiện nay là bất động sản), trong khi Luật Đất đai lại không cho phép người nước

Nhóm 3 – Lớp TC01 – K23 – Khoa TCDN

16


Dự án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC)

ngoài được sở hữu bất động sản. Do đó, thị trường mua – bán nợ khó có thể hình thành
như kỳ vọng.
Vấn đề đối với việc xử lý nợ xấu không chỉ là các rào cản kỹ thuật mà còn ở cơ
chế. Một tỷ lệ rất lớn nợ xấu hiện nay là từ doanh nghiệp, tập đoàn nhà nước (doanh

nghiệp nhà nước sở hữu trên 50% vốn) và các công ty sân sau của ngân hàng hoặc những
người có liên quan. Nếu việc xử lý nợ xấu được tiến hành quyết liệt thì nhiều mảng tối
trong cấp tín dụng và cho vay sẽ lộ ra. Bên cạnh đó, việc xử lý nợ bằng kiện tụng, thanh
lý tài sản đảm bảo của những doanh nghiệp có “ô dù” tuy là điều rất nhiều người không
muốn nhưng cũng không dễ dàng.
3.3.3 Khuôn khổ pháp lý cơ bản cho tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại
vừa thiếu, vừa không đồng bộ đang là rào cản lớn nhất làm chậm quá trình tái
cơ cấu hệ thống các ngân hàng thương mại.
Khó khăn lớn nhất của VAMC trong thời điểm hiện tại chính là việc thiếu các cơ
chế đặc biệt để xử lý dứt điểm và triệt để nợ xấu. Điều này gây khó khăn cho VAMC
trong việc xử lý các tranh chấp, kiện tụng liên quan đến TSBĐ.
Trong quá trình bán nợ xấu, VAMC không thể tự quyết định giá bán nợ, mà phải có sự
chấp thuận của TCTD khiến quá trình bán nợ gặp nhiều trở ngại, do sự mâu thuẫn về giá
trị TCTD muốn bán và giá mua thực sự của thị trường.
Việc VAMC chậm bán nợ ra thị trường là do khó xác định được giá bán nợ, vì
VAMC đã mua các khoản nợ với giá khá cao (70 - 75% giá trị khoản nợ), trong khi còn
nhiều vướng mắc liên quan đến tài sản đảm bảo.
Được biết, rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài bày tỏ mong muốn mua nợ của Việt Nam,
song ông Nguyễn Quốc Hùng cho hay, việc bán nợ không dễ, bởi hai bên khó tìm được
tiếng nói thống nhất về giá cả. “Bán thì dễ, bán được giá mới khó. VAMC không bán tháo
nợ xấu bằng mọi giá”.
Đại diện của Sacombank cho biết, dù khách hàng đã mất khả năng trả nợ, ngân
hàng được quyền bán tài sản đảm bảo, nhưng khâu thi hành án quá nhiêu khê, khiến ngân
hàng bị “chôn” hàng trăm tỷ đồng.
Được biết, để tháo gỡ khó khăn về thủ tục, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tư pháp và một số
bộ, ngành liên quan đang hoàn thiện các văn bản liên quan đến mua bán nợ, xử lý tài sản
đảm bảo. Tuy nhiên, trong khi VAMC và Ngân hàng Nhà nước tỏ ra sốt ruột với nợ xấu,
thì dường như các bộ, ngành quá cẩn trọng, khiến lộ trình xử lý nợ chậm hơn kỳ vọng.

Nhóm 3 – Lớp TC01 – K23 – Khoa TCDN


17


Dự án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC)

KẾT LUẬN
Khi đề án thành lập công ty quản lý nợ VAMC được thông qua thi trường luôn kỳ
vọng vào tác dụng thần kỳ trong xử lý nợ xấu của tổ chức này. Thế nhưng sau thời gian
thực hiện đề án này đã gặp phải những vướng mắc. Những vấn đề vướng mắc đó là: thị
trường mua bán nợ chưa hoàn thiện, vấn đề định giá tài sản khó khăn, hay chưa có công
ty định giá mua bán nợ cũng với các cản trở về số vốn điều lệ quá nhỏ, ảnh hưởng khá
lớn từ thị trường bất động sản đóng băng hay mức trích lập dự phòng khá cao cho các
ngân hàng. Những hạn chế này đã được nhìn thấy trước chứ không phải mới đây. Nhưng
càng đi vào hoạt động một thời gian thì VAMC càng bộc lộ rõ những vướng mắc này.
Mặc dù sự nỗ lực để thành lập VAMC của Ngân hàng nhà nước rất đáng hoan nghênh
nhưng tự hệ thống NH và VAMC khó giải quyết nhanh được nợ xấu.
Trong bối cảnh hành lang pháp lý vẫn đang ở giai đoạn hình thành, trong khi thực
tiễn thị trường đòi hỏi cần phải xử lý nợ xấu nhanh, Công ty Quản lý tài sản quốc gia
(VAMC) đang phải chịu áp lực không nhỏ. Tuy nhiên, những khó khăn đó không phải rào
cản lớn và VAMC đang tìm cho mình một lối đi phù hợp. Với những vấn đề đặt ra chúng
ta kỳ vọng có các giải pháp thích hợp, và hy vọng rằng VAMC sẽ thể hiện được vai trò
của mình là công cụ hữu hiệu trong hệ thống quản lý, giám sát và xử lý nợ xấu của các tổ
chức tín dụng. Qua đó, góp phần vào việc hoàn thành mục tiêu xử lý nợ xấu của hệ thống
các TCTD Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên quá kỳ vọng VAMC sẽ là
phương thuốc thần có thể xử lý được hết nợ xấu lưu lại từ nhiều năm qua. Bởi vì, để xử
lý rốt ráo nợ xấu, chúng ta cần nhiều giải pháp đồng bộ và sự hợp sức từ nhiều thành
phần kinh tế một cách nghiêm túc và kiên trì.

Nhóm 3 – Lớp TC01 – K23 – Khoa TCDN


18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
www.sbvamc.vn
www.vietstock.vn
www.cafe.vn
www.thoibaonganhang.vn
www.sbv.gov.vn/
tru-no-xau-11973.aspx
7. />8. />9. />10. Quyết định số 149/2001/QĐ-TTg
1.
2.
3.
4.
5.
6.

/>ItemID=22026
11. Quyết định số 150/2001/QĐ-TTg
/>12. Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN
/>ItemID=18421
13. Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN
/>ItemID=13722
14. Thông tư số 02/2013/TT_NHNN
/>15. Nghị định số 53/2013/NĐ-CP
/>ItemID=28508
19



16. Quyết định 843/2013/QĐ-TTG
/>17. Quyết định số 1459/QĐ-NHNN
/>18. Thông tư số 19/2013/TT-NHNN
/>19. Thông tư số 20/2013/TT-NHNN
/>
20



×