Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Công tác xã hội hoá giáo dục của đảng bộ tỉnh hà tây từ năm 1996 đến năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.72 KB, 33 trang )



1
Công tác xã hội hoá giáo dục của Đảng bộ tỉnh
Hà Tây từ năm 1996 đến năm 2008

Nguyễn Thị Hồng

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; Khoa Lịch sử
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60.22.56
Người hướng dẫn: TS.Đặng Bá Minh
Năm bảo vệ: 2012

Abstract. Làm rõ cơ sở để Đảng bộ tỉnh Hà Tây hoạch định chủ trương, chính sách
đề ra giải pháp và chỉ đạo thực hiện công tác Xã hội hóa giáo dục (XHHGD) của
tỉnh. Làm sáng tỏ chủ trương, chính sách và quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo
công tác XHHGD trong thời kỳ đẩy mạnh CNH- HĐH từ năm 1996 đến năm 2008.
Làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, nguyên nhân và từ đó rút ra một số
kinh nghiệm của quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo công tác XHHGD từ năm
1996 đến năm 2008.

Keywords. Đảng Cộng sản Việt Nam; Xã hội hóa giáo dục; Đường lối lãnh đạo;
Đảng bộ; Hà Tây
Content.

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi
quốc gia cũng như toàn thể nhân loại. Lịch sử phát triển xã hội ngày càng khẳng định
vai trò, tác dụng của giáo dục đối với kinh tế- xã hội. Giáo dục là điều kiện cơ bản và


là động lực quan trọng bậc nhất thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã
hội. Ngày nay, chúng ta đang bước vào thời đại của công nghệ thông tin, toàn cầu
hoá, con người nổi lên hàng đầu. Ở nhiều nước vấn đề này đã trở thành vấn đề trung
tâm của chiến lược phát triển đất nước.
Hồ Chí Minh từng nói “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, muốn đất nước
phát triển thì phải phát triển giáo dục- đào tạo. Một nền giáo dục- đào tạo toàn diện
theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải là nền giáo dục mang tính nhân dân sâu sắc, nền


2
giáo dục không chỉ dành riêng cho một số người, hoặc một giai cấp mà của toàn thể
quốc dân Việt Nam:“Ai cũng được học hành”.
Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, trước những khó khăn của sự
chuyển đổi cơ chế nền kinh tế, để ổn định và duy trì ngành học, Bộ GD& ĐT đã đổi
mới cách chỉ đạo, quản lý và đẩy mạnh XHHGD. Đảng đã huy động nhiều nguồn lực
để tập trung chỉ đạo việc xây dựng nhiều loại chương trình, đẩy mạnh công tác đào
tạo giáo viên, xây dựng hệ thống trường trọng điểm chất lượng cao, nhằm đẩy mạnh
công tác tuyên truyền giáo dục cho các bậc cha mẹ và cả cộng đồng. Chủ trương
XHH dần được hình thành. Quan điểm XHHGD được thể hiện trong nhiều Văn kiện,
Nghị quyết của Đảng ta. Trong suốt quá trình lãnh đạo đấu tranh cách mạng, Đảng
luôn coi trọng việc huy động lực lượng toàn dân, toàn xã hội vào việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị như một đường lối vận động quần chúng, tập hợp lực lượng dưới
ngọn cờ Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Tuỳ từng thời kỳ cách mạng, tư tưởng
về XHHGD được thể hiện trong những khẩu hiệu khác nhau như “Toàn dân chăm lo
đến giáo dục- đào tạo ”, “Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong giai đoạn đất
nước gặp những khó khăn nghiêm trọng về kinh tế- xã hội. Đến Đại hội lần thứ VIII(
6/1996) thì “Xã hội hoá” trở thành một trong những quan điểm để hoạch định hệ
thống các chính sách xã hội:“Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh
thần xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân,
các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và các tổ chức nước ngoài

cùng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội” {21, Tr.114}.
Như vậy, sau nhiều năm đổi mới đất nước, thuật ngữ “Xã hội hoá” được dùng
chính thức trong Văn kiện của Đảng. Nó chứa đựng một tư tưởng chiến lược, một
quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với sự nghiệp phát triển đất nước trong giai đoạn
mới, đẩy mạnh nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và từng bước tiến hành CNH- HĐH đất nước.
Kinh nghiệm cho thấy để có thể phát triển “đi tắt, đón đầu”, phải có con
người. Yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển đó là những con người có tri thức, có
năng lực, có trình độ khoa học công nghệ để làm chủ được xã hội. Vì vậy hơn bao
giờ hết, trước mắt cũng như trong tương lai, vấn đề XHHGD luôn giữ vai trò vô cùng
quan trọng và phải coi giáo dục là “Quốc sách hàng đầu”. Đầu tư cho giáo dục được
coi như đầu tư cho sự phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Vì lợi ích mười
năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”.
Trong bối cảnh chung của đất nước, Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo công tác
XHHGD trong những năm 1996 - 2008 đã phát triển mạnh mẽ và đạt được những kết
quả bước đầu. Quy mô giáo dục tiếp tục được mở rộng và phát triển một cách hợp lý,
giáo dục Hà Tây đã phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu quan trọng trên
cả 3 mặt: Quy mô, chất lượng và hiệu quả. Sự lớn mạnh của giáo dục đã đóng góp to


3
lớn và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi giai đoạn có
đặc điểm lịch sử riêng, khó khăn riêng song dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng,
chính quyền các cấp, sự ủng hộ của toàn xã hội, sự cố gắng hết mình của các thế hệ
cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên, giáo dục Hà Tây vẫn không ngừng phát triển về
mọi mặt.
Là người con sinh ra đất Hà Tây, cùng với những năm học tập, nghiên cứu
chương trình cao học, với những kiến thức lý luận đã nhận thức được cùng với vốn
sống thực tiễn, tôi mạnh dạn chọn đề tài “ Công tác xã hội hoá giáo dục của Đảng
bộ tỉnh Hà Tây từ năm 1996 đến năm 2008” làm luận văn thạc sĩ lịch sử chuyên

ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, luận văn thành công sẽ là tài liệu tham khảo
cho các ban, ngành trong quá trình thực hiện công tác XHHGD của tỉnh Hà Tây.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
- Nhóm những tác phẩm bài viết, bài phát biểu của các nhà lãnh đạo Đảng,
Nhà nước, các nhà khoa học về vấn đề XHHGD:
Trong thời kỳ đổi mới, thuật ngữ xã hội hoá ngày càng được nhiều người
quan tâm nghiên cứu, nhiều nhà quản lý giáo dục đã bàn luận về xã hội hoá giáo dục.
Bài phát biểu của Nguyễn Tấn Phát khai mạc Hội nghị đánh giá 10 năm thực hiện
XHHGD bằng con đường Đại hội giáo dục các cấp. Trong bài phát biểu đã cho chúng
ta thấy quan điểm của Đảng về vai trò quan trọng của công tác XHHGD thông qua
các Nghị quyết TW 4 (khoá VII), Nghị quyết TW 2 (khoá VIII), thông tư liên tịch số
35/TT-LT và đã nêu ra các nội dung của công tác XHHGD. Báo cáo đánh giá 10 năm
thực hiện XHHGD thông qua tổ chức Đại hội giáo dục các cấp của Lê Hồng Sơn.
Đặng Ngọc Tiến trong bài phát biểu tại tổng kết 10 năm thực hiện xã hội hoá giáo
dục. Đồng chí Vũ Oanh đã nhấn mạnh vai trò của Hội khuyến học trong công tác
XHHGD.
Đặc biệt Phạm Minh Hạc, đã viết nhiều tài liệu về xã hội hoá giáo dục, nhiều
bài phát biểu chỉ đạo phong trào xã hội hoá giáo dục. Trong cuốn “Xã hội hoá công
tác giáo dục” xuất bản năm 1997, do ông làm tổng chủ biên đã khẳng định “Xã hội
hoá công tác giáo dục là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo
dục, một con đường phát triển giáo dục nước ta”. Trong cuốn “Giáo dục Việt Nam
trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI” ông một lần nữa khẳng định “Sự nghiệp giáo dục
không phải chỉ của Nhà nước mà là của toàn xã hội, mọi người cùng làm giáo dục,
Nhà nước và xã hội, Trung ương và địa phương cùng làm giáo dục, tạo nên một cao
trào học tập trong toàn dân”. Trong lời giới thiệu cuốn sách “Những nhân tố mới về
giáo dục trong công cuộc đổi mới”, ông đã nhấn mạnh “Phát triển giáo dục theo tinh
thần xã hội hoá. Viện khoa học giáo dục đã triển khai nhiều năm hệ thống đề tài về
xã hội hoá giáo dục, tổng kết kinh nghiệm, phát triển lý luận, đề xuất cơ chế xã hội
hoá giáo dục. Năm 1999, cuốn sách “Xã hội hoá công tác giáo dục- nhận thức và



4
hành động” của Viện khoa học giáo dục là một bước hoàn thiện về nhận thức và
hướng dẫn thực tiễn. Bộ giáo dục tạo đào tạo cũng có “Đề án xã hội hoá giáo dục”,
đánh giá thực trạng và đưa ra biện pháp xã hội hoá giáo dục ở tầm vĩ mô, nhằm tạo
chuyển biến cơ bản trong GD& ĐT, chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho sự nghiệp
CNH- HĐH trong hai chục năm đầu của thế kỷ XXI. Cuốn sách “Xã hội hoá giáo
dục” do Võ Tấn Quang chủ biên cùng tập thể tác giả Trần Kiểm, Nguyễn Thanh
Bình, Lê Đức Phúc, Thái Duy Tuyên, Nguyễn Văn Đản, Đào Duy Ngân khẳng định:
xã hội hoá công tác giáo dục- một phương thức thực sự giáo dục nhằm xã hội hoá cá
nhân. Bàn về xã hội hoá giáo dục còn nhiều tài liệu, bài viết của các tác giả: Hà Nhật
Thăng, Lê Khanh, Nguyễn Nghĩa Dân, Hồ Hương, Nguyễn thanh Phong, Mai Hắc
Lương, Vũ Văn Tảo
- Nhóm những đề tài luận văn, luận án
Luận văn thạc sĩ lịch sử: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp giáo
dục phổ thông (1975- 2000) năm 2007 của Trương Thị Hoa. Luận văn thạc sĩ lịch sử:
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo sự nghiệp giáo dục- đào tạo từ năm 1997- 2005
năm 2006 của Lý Trung Thành
- Nhóm các bài báo, tạp chí:
Bài “Đổi mới giáo dục- đào tạo theo đường lối chủ trương của Đảng” của
Dương Thu Hiền trên TCLSĐ số 4-1999. Bài “Xây dựng xã hội học tập- một vấn đề
giáo dục cơ bản trong Văn kiện Đại hội X của ĐCSVN” của Phạm Tất Dong trên
TCGD số 145- 2006. Bài “Hồ Chí Minh với việc xây dựng một nền giáo dục mới của
Việt Nam” của Phan Ngọc Liên trên TCLSĐ số 1/2008
Các công trình nêu trên đã phân tích làm rõ một số nội dung về mục tiêu, yêu
cầu, ý nghĩa của XHHGD nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách cơ bản, hệ
thống dưới góc độ lịch sử Đảng về XHHGD của tỉnh Hà Tây. Song những đề tài,
công trình nghiên cứu khoa học nêu trên là tài liệu quý để tác giả tham khảo trong
quá trình triển khai thực hiện đề tài.
Để làm sáng tỏ thêm vấn đề XHHGD, thiết thực phục vụ cho nhiệm vụ chuyên

môn của bản thân sau này, tôi muốn vận dụng những kiến thức đã học và những kinh
nghiệm thực tiễn của mình để nghiên cứu đề tài “Công tác xã hội hoá giáo dục của
Đảng bộ tỉnh Hà Tây từ năm 1996 đến năm 2008”. Đây là một đề tài nhỏ chưa
được đề cập trong một luận văn, luận án nào, đặc biệt từ góc độ công tác xã hội hoá
giáo dục của tỉnh Hà Tây, trong mã ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN
* Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ tình hình xã hội hoá giáo dục trong điều kiện phát triển của Hà Tây;
Trên cơ sở đó làm sáng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Tây trong quá trình
thực hiện chủ trương của Đảng về xã hội hoá giáo dục từ năm 1996 đến năm 2008.


5
Rút ra những kinh nghiệm để thực hiện công tác XHHGD đạt kết quả tốt,
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển GD&ĐT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ cơ sở để Đảng bộ tỉnh Hà Tây hoạch định chủ trương, chính sách đề
ra giải pháp và chỉ đạo thực hiện công tác XHHGD của tỉnh.
- Làm sáng tỏ chủ trương, chính sách và quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ
đạo công tác XHHGD trong thời kỳ đẩy mạnh CNH- HĐH từ năm 1996 đến năm
2008.
- Làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, nguyên nhân và từ đó rút ra
một số kinh nghiệm của quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo công tác XHHGD từ
năm 1996 đến năm 2008.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
* Đối tƣợng nghiên cứu:
Nghiên cứu những quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hà
Tây về công tác XHHGD từ năm 1996 đến năm 2008.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian : Đề tài được giới hạn trên địa bàn tỉnh Hà Tây.

- Về thời gian : Nghiên cứu sự lãnh đạo công tác XHHGD của Đảng bộ tỉnh
Hà Tây từ năm 1996 đến năm 2008.
- Về nội dung: Chủ yếu nghiên cứu, làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng
bộ tỉnh Hà Tây về thực hiện chủ trương của Đảng về công tác XHHGD từ năm 1996
đến năm 2008.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU
* Phƣơng pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử, phương pháp logic
và sự kết hợp của hai phương pháp đó. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp tổng hợp,
phân tích, lệch đại, đồng đại, so sánh Phương pháp phân kỳ, khảo sát
* Nguồn tài liệu nghiên cứu:
- Các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Tỉnh uỷ Hà Tây.
- Các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Hà Tây về giáo
dục.
- Các công trình khoa học đã được công bố, các tài liệu về XHHGD của các
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài.
6. Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN
- Cung cấp thêm tư liệu, làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo
XHHGD từ năm 1996 đến năm 2008, nêu lên những kinh nghiệm có ý nghĩa vận
dụng.


6
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy những
vấn đề liên quan đến XHHGD ở địa phương.
7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được
kết cấu 3 chương 6 tiết .







Chƣơng I
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY VỀ
CÔNG TÁC
XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2000
1. 1. Sự cần thiết và chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về công tác xã
hội hoá giáo dục từ năm 1996 đến năm 2000
1.1.1. Sự cần thiết của công tác xã hội hoá giáo dục của tỉnh Hà Tây thời kỳ
công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
* Đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội của tỉnh Hà Tây:
Năm 1991, Hà Tây được thành lập từ tỉnh Hà Sơn Bình và 6 huyện của Hà
Nội. Hà Tây, là tỉnh thuộc châu thổ sông Hồng bao bọc phía Tây và Nam thủ đô Hà
Nội. Hà Tây có 12 huyện, 2 thị xã với 325 xã, phường, thị trấn.
Hà Tây là tỉnh có trình độ dân trí cao, sự nghiệp giáo dục đào tạo phát triển
mạnh cả về số lượng và chất lượng, cả tỉnh có hơn 70.000 người đi học, chiếm gần
30% dân số.
Hà Tây lại có những thuận lợi hết sức cơ bản.
Các cấp uỷ đảng, chính quyền từ tỉnh đến xã, phường luôn quan tâm, chỉ đạo
và đưa ra những chính sách phù hợp giúp cho công cuộc phát triển GD&ĐT ngày
càng đạt hiệu quả.
Nhân dân trong tỉnh có truyền thống hiếu học, đã trở thành động lực thúc đẩy
phát triển nền giáo dục tỉnh nhà kể từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay.
Nằm trong vị trí thuận lợi: là sát thủ đô Hà Nội, trong khu vực kinh tế trọng
điểm của miền Bắc- khu tam giác kinh tế Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh.
Những khó khăn trong phát triển sự nghiệp GD&ĐT
Có mật độ dân số cao, hiện tại kinh tế chủ đạo của toàn tỉnh là nông nghiệp,
trong khi đó bình quân đất nông nghiệp trên đầu người rất thấp chỉ có 514 m

2
.


7
Do vị trí địa lý và cấu tạo địa hình nên Hà Tây có một phần lãnh thổ thuộc các
huyện đồng bằng nằm trong vùng phân lũ của quốc gia nên việc bố trí sử dụng, xây
dựng cơ sở vật chất cho các công trình gặp khó khăn.
Do đặc điểm địa hình, mật độ dân cư giữa các khu vực trong Tỉnh không đều,
trình độ dân trí giữa các địa phương trong tỉnh còn chệnh lệch khá lớn, CSVS hạ tầng
của các địa phương nhất là các trường học còn nghèo.
* Thực trạng tình hình xã hội hoá giáo dục của tỉnh Hà Tây trước năm
1996:
Trong những năm đầu đổi mới, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, nhưng sự
nghiệp GD&ĐT của tỉnh vẫn giữ được thế ổn định. Chất lượng dạy và học hầu hết ở
các trường được nâng cao. Hoạt động hướng nghiệp bước đầu gắn với phát triển kinh
tế- xã hội của địa phương. Song nhiệm vụ GD&ĐT nói chung và công tác XHHGD
nói riêng đang đặt ra nhiều vấn đề cần tập trung giải quyết, nhất là phát triển chất
lượng, số lượng GD&ĐT đòi hỏi ngày càng cao nhưng nguồn kinh phí hạn hẹp. Do
vậy, cần có đóng góp về nhân lực, vật lực, tài lực của tất cả lực lượng trong xã hội để
phát triển GD&ĐT.
* Yêu cầu đòi hỏi của công tác xã hội hoá giáo dục thời kỳ công nghiệp
hoá- hiện đại hoá:
Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định
tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Như
vậy, muốn kinh tế- xã hội phát triển chỉ có con đường duy nhất là phát triển giáo dục,
đáp ứng trước yêu cầu cao về nhân lực trong thời đại CNH- HĐH. Phải thực hiện các
chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với GD&ĐT, thực sự coi GD&ĐT là quốc sách hàng
đầu.
Thực hiện công bằng xã hội trong GD&ĐT. Tạo điều kiện ai cũng được học

hành. Người nghèo được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để học tập. Bảo đảm điều
kiện cho những người học giỏi phát triển tài năng. Đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí ,
đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ CNH-HĐH.
1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về công tác xã hội hoá giáo
dục:
1.1.2.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác xã hội hóa
giáo dục:
Tháng 06/1996 ĐHĐBTQ lần thứ VIII của ĐCSVN đã khẳng định “Xã hội
hoá” là một quan điểm để hoạch định hệ thống các chính sách xã hội. Đại hội Đảng
lần thứ VIII, GD- ĐT tiếp tục được khẳng định là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô,
nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả.


8
Nghị quyết TW2 (khoá VIII) ngày 24/12/1996 về “Định hướng chiến lược
phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ CNH- HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000”
của Ban chấp hành TW Đảng một lần nữa khẳng định rõ: “Giáo dục và đào tạo là sự
nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.
Điều 11, Luật giáo dục ban hành năm 1998 có quy định về xã hội hoá sự
nghiệp giáo dục cụ thể như sau:“Mọi tổ chức, gia đình và công dân đều có trách
nhiệm chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi trường
giáo dục lành mạnh, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục. Nhà
trường giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục, khuyến khích, huy
động và tạo điều kiện để tổ chức, các nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về XHH là thực hiện đồng bộ, hiệu quả
trên cả ba mặt: Tăng cường vai trò chủ đạo của Nhà nước, đổi mới cơ chế hoạt động
của các cơ sở công lập, phát triển các cơ sở ngoài công lập để đảm bảo vừa phát triển
về quy mô, vừa từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của nhân dân.

Nhà nước quản lý thống nhất đối với các cơ sở công lập và ngoài công lập, tạo
điều kiện để các cơ sở đó phát triển ổn định, lâu dài, đảm bảo lợi ích của từng cá
nhân, tập thể và của toàn xã hội.
Cần đổi mới cơ chế hoạt động của các cơ sở giáo dục theo hướng tự chủ,
không bao cấp tràn lan, không vì mục đích lợi nhuận để nâng cao chất lượng giáo
dục, tăng hiệu quả đầu tư của Nhà nước cho phúc lợi xã hội và giữ vai trò nòng cốt
của các cơ sở công lập.
1.1.2.2. Quan điểm, phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu phát triển công
tác xã hội hoá của tỉnh Hà Tây (1996-2000)
* Một số quan điểm của Đảng bộ tỉnh Hà Tây:
Đại hội Đảng bộ lần thứ XII năm 1996, đặc biệt là Nghị quyết 03 của Tỉnh uỷ
“về phát triển giáo dục- đào tạo trong thời kỳ CNH-HĐH” đưa ra chủ trương phát
triển giáo dục và đào tạo.
Huy động các lực lượng xã hội, các tập thể và cá nhân làm công tác giáo dục,
xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh.
Tăng cường cơ sở vật chất và các nguồn lực cho giáo dục, chăm lo đời sống
của giáo viên. Cụ thể hoá các chính sách đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, tăng nguồn
lực đầu tư, đồng thời đổi mới mục tiêu phương thức, cơ cấu và nguồn vốn đầu tư; tập
trung cho các mục tiêu ưu tiên, các chương trình quốc gia phát triển giáo dục; hỗ trợ
các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc; ưu đãi các đối tượng chính sách và trợ
giúp người nghèo.
Đa dạng hoá các loại hình giáo dục, phát triển mạnh các cơ sở giáo dục ngoài
công lập với hai hình thức dân lập và tư thục. Khuyến khích đầu tư trong và ngoài


9
nước bằng hình thức phù hợp với quy hoạch phát triển, yêu cầu, đặc điểm giáo dục ở
từng vùng, miền.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và các ban ngành đối với sự nghiệp
GD&ĐT. Đảng bộ Hà Tây luôn xác định công tác XHHGD phải đạt chất lượng hiệu

quả, đảm bảo sự thống nhất quản lý Nhà nước, giữ vai trò nòng cốt của các trường
công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân, gắn liền với nhu cầu phát triển kinh tế- xã
hội của địa phương.
* Phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu thực hiện, phát triển công tác xã hội
hoá giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá:
- Phương hướng, nhiệm vụ phát triển công tác XHHGD.
Phát triển GD&ĐT gắn với phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng, an
ninh cuả tỉnh. Coi trọng phát triển cả về số lượng, chất lượng và phát huy hiệu quả.
Giáo dục phải phục vụ cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần vào sự nghiệp
CNH-HĐH của tỉnh. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Giữ vững vai trò
nòng cốt của các trường công lập đi đôi với đa dạng hoá các loại hình GD&ĐT. Từng
bước mở các trường tư thục ở một số bậc học: Mầm non, THPT, THCN, dạy nghề.
Mở rộng hình thức không tập trung: Đào tạo tại chức, đào tạo từ xa theo hướng dẫn
của Bộ GD&ĐT.
- Mục tiêu phát triển công tác xã hội hoá giáo dục.
Mục tiêu chủ yếu là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở tất cả các bậc
học, ngành học; tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, nhân cách và khả năng thích
ứng với thực tiễn, năng lực thực hành. Đồng thời tiếp tục mở rộng quy mô ở tất cả
các ngành học, cấp học, thu hút số đông người đi học ở tất cá các bậc học, các loại
hình GD&ĐT
Tích cực huy động mọi nguồn lực để xây dựng CSVC các trường học, các
trung tâm giáo dục. Các trường đều đảm bảo cảnh quan sư phạm. Tập trung xây dựng
các trường trọng điểm: Mầm non, phổ thông, TTGDTX, TTKTHN- DN để làm nòng
cốt cho việc xây dựng trường, đơn vị giáo dục trong tỉnh. Phấn đấu xây dựng hoàn
chỉnh các trường sư phạm, trường Đại học cộng đồng.
1.2. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo công tác xã hội hoá giáo dục từ năm
1996 đến năm 2000
1.2.1. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo xây dựng một xã hội học tập:
Đảng bộ Hà Tây đã đẩy mạnh xây dựng một xã hội học tập, tạo điều kiện cho
mọi thành viên trong xã hội học tập suốt đời, góp phần nâng cao trình độ phổ cập

giáo dục phổ thông, tạo điều kiện cho việc nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, tri thức và
khả năng thích ứng với thị trường lao động. Thực hiện XHHGD nhằm phát huy tiềm
năng về trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp
giáo dục, đồng thời tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính sách,


10
người nghèo được hưởng thụ thành quả giáo dục ngày càng cao. UBND Tỉnh đã tập
trung chỉ đạo làm chuyển biến mạnh mẽ công tác XHHGD. Đồng thời UBND tỉnh đã
ra Quyết định 649/QĐ-UB thực hiện chế độ miễn giảm học phí và các khoản đóng
góp khác cho người nghèo đi học.
Tỉnh tiến hành ĐHGD& thành lập HĐGD cấp tỉnh từ 1997, sớm nhất trong
toàn quốc. Đến nay có 100% huyện, thị xã, phường đều thành lập HĐGD và tiến
hành ĐHGD lần 2, lần 3.
Năm 1997, Tỉnh đã chỉ đạo thành lập các HĐGD từ cấp xã đến cấp Tỉnh để
tiến hành công tác XHHGD.Với nhiều hình thức đa dạng và phong phú. HĐGD các
cấp đã tích cực xây dựng quỹ khuyến học. Thực hiện Chỉ thị 29/1999 của Thủ tướng
Chính Phủ về việc phát huy vai trò của HKH Việt Nam trong sự nghiệp giáo dục,
Tỉnh uỷ có Thông tri số 27-TTr/TU ngày 22/6/2000 “Về việc thành lập tổ chức HKH
các cấp”
1.2.2. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo thực hiện đa dạng hoá các loại hình giáo
dục:
Đảng bộ tỉnh Hà Tây đã chủ trương giữ gìn vai trò nòng cốt của các trường
công lập, đi đôi với đa dạng hoá các loại hình GD&ĐT. Phát triển các trường bán
công, dân lập ở nơi có điều kiện. Từng bước mở các trường tư thục ở một số bậc học:
Mầm non, THPT, Trung học chuyên nghiệp, Dạy nghề. Mở rộng hình thức đào tạo
không tập chung: Đào tạo tại chức, đào tạo từ xa theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT,
từng bước hiện đại hoá hình thức giáo dục.
Toàn tỉnh hoàn thành phổ cập cấp THCS tiến tới đa dạng hoá hình thức học
cấp 2 để đạt phổ cập THPT. Mở rộng dạy nghề trong các trường trung học, phát triển

cấp 3, tổ chức học tin học, ngoại ngữ để tăng cường giao lưu quốc tế. Mở rộng các cơ
sở dạy nghề bằng mọi hình thức, đáp ứng yêu cầu về nhân lực và kỹ thuật.
UBND tỉnh Hà Tây đã chỉ đạo thành lập ở mỗi xã, phường một trường mầm
non do UBND xã quản lý. Tỉnh chỉ đạo lập lại trật tự kỷ cương trong GD&ĐT, không
tổ chức lớp chọn ở các cấp học, không tổ chức trường chuyên ở bậc Tiểu học và
THCS.
Tỉnh chỉ đạo xây dựng mô hình trường Tiểu học và Trung học trọng điểm chất
lượng cao được xây dựng, áp dụng phương pháp dạy học tích cực để nhân rộng trong
toàn Tỉnh. Bước đầu đưa nội dung dạy nghề, giáo dục dân số, tin học vào nhà trường.
Các trung tâm như Tin học, ngoại ngữ, trung tâm giáo dục thường xuyên tiếp tục phát
triển Tỉnh chỉ đạo mỗi huyện, thị xã thành lập một trung tâm hướng nghiệp- dạy
nghề. Mở các lớp học tại chức, Đại học từ xa và chuyên ngành. Các trung tâm
KTHN-DN thường xuyên kết hợp với THCS, THPT để mở các lớp hướng nghiệp cho
90% học sinh cuối cấp học tập. Đặc biệt chú trọng việc đưa khoa học điện tử, vi tính
phục vụ cho sự nghiệp đổi mới. Nâng cao chất lượng dân tộc nội trú. Tỉnh và ngành


11
giáo dục luôn quan tâm ưu tiên, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển giáo dục ở các
xã thuộc khu vực đặc biệt khó khăn, các xã nghèo miền núi. Nâng cao chất lượng các
lớp tại chức, dạy nghề ứng dụng, các lớp chuyên đề ngắn hạn, các lớp ôn luyện và
nâng cao kiến thức.
1.2.3. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo công tác xây dựng cơ sở vật chất:
Nhân dân ngày càng tăng về số lượng và đa dạng về hình thức như; đóng góp
tiền, ngày công lao động, nguyên vật liệu, các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ
chức kinh tế- xã hội. Hội đồng giáo dục các cấp cũng làm tốt công tác tham mưu để
chính quyền địa phương quy hoạch đất đai, khuôn viên cho các trường học.
Tăng cường đầu tư cho CSVC trường học nhất là ở nông thôn và miền núi. Hỗ
trợ kinh phí cho xây dựng trường, sách giáo khoa, miễn giảm học phí cho học sinh.
Nguồn vốn đầu tư mua sắm sách và thiết bị trường học chiếm khoảng 10% tổng chi

ngân sách sự nghiệp giáo dục. Tỉnh chỉ đạo đảm bảo đủ phòng học cho các ngành
học, cấp học phù hợp với độ tuổi, phấn đấu cơ bản xây dựng kiên cố và cao tầng các
trường học. Các trường phổ thông được tiếp tục thu tiền đóng góp để xây dựng
trường, sở theo quyết định 241/TTG ngày 24/05/1993 của Thủ Tưởng Chính phủ. Từ
năm 1997, Tỉnh quyết định tăng nguồn đầu tư xây dựng cơ bản hàng năm từ 10% như
hiện nay lên ngang bằng các tỉnh là 20-25%. Hàng năm, ngân sách đầu tư cho giáo
dục tăng, trong đó giai đoạn năm 1996-2000 tăng bình quân 19,6%. Đầu tư cho sự
nghiệp GD&ĐT cần có tỷ lệ đảm bảo cho 10% đi bồi dưỡng, đào tạo lại và cho hợp
đồng, thêm giờ, thêm lớp.
1.2.4. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo chăm lo đời sống giáo viên:
Năm 1997, ĐHGD ở các cấp và tổ chức thành công ĐHGD cấp Tỉnh, Tỉnh
khuyến khích giáo viên mầm non, giáo viên miền xuôi lên miền núi và 3 xã giữa
Sông Hồng, trợ cấp cho giáo viên dạy chuyên, giáo viên học lên trình độ cao, học
giỏi.
Năm 1997 UBND Tỉnh đã có Quyết định 1002 QĐ/UB, quy định mức lương
tối thiểu của giáo viên mầm non dân lập.Tỉnh có chính sách trợ cấp cho giáo viên
mầm non. Một số trường đã chú trọng chăm lo đời sống lâu dài cho giáo viên bằng
cách trích 10%-20% tổng quỹ lương gửi tiết kiệm hoặc mua bảo hiểm nhân thọ cho
giáo viên. Chính sách nâng mức lương cho giáo viên hợp đồng. Sở giáo dục đã hoàn
thành kế hoạch bồi dưỡng giáo viên tại chỗ theo chu kỳ 1997-2000. Dành một số chỉ
tiêu biên chế giáo viên mầm non để lập các trường Mầm non công lập cho những xã
nghèo, khuyến khích tạo công bằng cho xã hội.
Tỉnh đầu tư kinh phí: Đủ giáo viên để thực hiện phổ cập THCS, có giáo viên
để dạy ngoại ngữ cho học sinh từ lớp 3 trở lên, có giáo viên để đảm bảo cho 60%
giáo viên Mầm non, Tiểu học, THCS được đi học để đạt chuẩn mới của Bộ GD&ĐT.


12
1.2.5. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo xây dựng môi trường giáo dục lành
mạnh, chất lượng giáo dục toàn diện, kết hợp tốt Nhà trường- Gia đình- Xã hội:

Tỉnh chủ trương phát triển toàn diện gắn với phát triển kinh tế- xã hội phù hợp
với yêu cầu CNH-HĐH từng giai đoạn. Củng cố nâng cao chất lượng phổ cập Tiểu
học đúng độ tuổi và XMC cho người trong độ tuổi, giảm tỷ lệ lưu ban bỏ học, nâng
cao chất lượng dạy và học, chất lượng chính trị, tư tưởng, đạo đức cho học sinh.
Chất lượng giáo dục phổ thông được chú trọng; Công tác giáo dục đạo đức
học sinh được quan tâm chăm lo, các trường chú ý sâu tới giáo dục nâng cao nhận
thức, hành vi đạo đức cho học sinh. Thanh toán mù chữ cho người trong độ tuổi 15-
35, thu hẹp diện mù chữ ngoài độ tuổi.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Tỉnh chỉ đạo triển khai đại trà sách giáo
khoa mới ở 6 khối lớp: lớp 1, 2, 3 và lớp 6, 7, 8 đúng mục tiêu và tiến độ đã đề ra.
Thực hiện Chỉ Thị 61- CT/TƯ ngày 28/12/2000 của Bộ Chính Trị và NQ
41/2000/QH X của Quốc Hội về tập trung lực lượng để phổ cập giáo dục THCS.
Hoạt động của Hội đồng giáo dục các cấp đã góp phần to lớn thực hiện các mục tiêu
về phổ cập giáo dục, xây dựng trường chuẩn quốc gia và nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện. Năm 2001 Tỉnh được Bộ GD-ĐT công nhận đạt chuẩn phổ cập THCS
với 99,3% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn.
1.2.6. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của chính quyền đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo:
Thực hiện Chỉ Thị số 34- CT/TW ngày 30/05/1998 của Bộ chính trị về tăng
cường công tác tư tưởng, củng cố tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng và công tác
phát triển đảng viên trong trường học, công tác phát triển đảng viên trong các nhà
trường được tăng cường. Các cấp uỷ đã điều chuyển đảng viên đến các trường chưa
có đảng viên, chỉ đạo các trung tâm chính trị mở lớp bồi dưỡng đối tượng đảng cho
đội ngũ giáo viên vào dịp hè. Do vậy, đảng viên là giáo viên tăng lên.
Tổ chức Đảng ở trường học có tác dụng phát huy được tính tích cực chủ động
của các tổ chức chính trị- xã hội trong trường học. Mặt khác, tổ chức Đảng phải là
người tập hợp, điều chỉnh các mối quan hệ giữa Đảng và các đoàn thể, đảm bảo được
hoạt động chủ động và độc lập của mỗi tổ chức chính trị- xã hội trong trường học đối
với công tác quản lý nhà trường, cũng như đối với việc thực hiện chương trình, kế
hoạch công tác của chính quyền trong trường học.

* Tiểu kết chương 1: Sau khi thực hiện kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế- xã
hội của Đảng bộ tỉnh Hà Tây, nền giáo dục Hà Tây đã thu được những kết quả quan
trọng, công tác XHHGD được tuyên truyền sâu rộng trong Đảng uỷ, cơ quan, các ban
ngành đoàn thể và nhân dân. Do vậy, các mục tiêu phát triển giáo dục được đề ra
trong Nghị quyết 03 của Tỉnh uỷ năm 1996 cơ bản được thực hiện.


13
Tỉnh tiến hành thành công ĐHGD cấp cơ sở, cấp huyện lần 2, ĐHGD tỉnh lần
thứ nhất. Qua đó, công tác XHHGD được phát triển mạnh, công tác giáo dục bây giờ
đã có sự đóng góp về mọi mặt của rất nhiều lực lượng khác nhau trong xã hội.
Mạng lưới trường học phát triển rộng khắp trong Tỉnh. Việc đa dạng hoá các
hình thức giáo dục đối với bậc THPT đã bước đầu có kết quả, tỷ lệ trường bán công,
dân lập chiếm 19%. Có 13 TTGDTX ở các huyện, thị xã làm nhiệm vụ XMC, bổ túc
văn hoá, 6 TTHN-DN, 12 trường dạy nghề của địa phương để hướng nghiệp cho học
sinh phổ thông và dạy nghề cho nhân dân. Là một trong 8 tỉnh trong cả nước đạt tiêu
chuẩn quốc gia về XMC và PCGDTH năm 1992 và năm 2000 đạt PCGDTHCS và
chất lượng PCGDTH, THCS ngày càng được nâng cao.
CSVC nhà trường hàng năm được tăng cường, cơ bản đã đủ phòng học, bàn
ghế cho học sinh, không còn tình trạng học sinh học 3 ca.

Chƣơng 2
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY VỀ ĐẨY
MẠNH CÔNG TÁC XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2008
2.1. Chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về công tác xã hội hoá giáo dục
từ năm 2001 đến năm 2008
2.1.1. Đặc điểm và yêu cầu mới về công tác xã hội hoá giáo dục
* Đặc điểm về công tác xã hội hoá giáo dục:
Đến nay, quy mô mạng lưới trường lớp chỉ đảm bảo điều kiện thực hiện

nhiệm vụ phổ cập GDTH đúng độ tuổi, GDTHCS mà chưa đủ điều kiện thực hiện
nhiệm vụ Phổ cập giáo dục THPT và xây dựng trường chuẩn Quốc gia. Quy mô
trường lớp bất hợp lý về cơ cấu trường THPT.
Hệ thống mạng lưới trường lớp Tiểu học, THCS có quy mô đủ đáp ứng nhu
cầu học tập, địa bàn dân cư tập trung, hoàn thành tốt công tác PCGDTH đúng độ tuổi
và PCTHCS. Chất lượng toàn diện của học sinh đại trà còn tình trạng lệch lạc. Chất
lượng giáo dục hướng nghiệp dạy nghề phổ thông chưa đạt hiệu quả cao mà nguyên
nhân chủ yếu là thiếu giáo viên dạy nghề.
Tỷ lệ giáo viên hợp đồng còn cao. Mức lương hiện tại trả cho giáo viên hợp
đồng còn thấp, chế độ chính sách đối với giáo viên mầm non ngoài công lập còn chưa
đảm bảo. Đội ngũ giáo viên vừa thừa vừa thiếu. Nhiều trường CSVC còn thiếu và
yếu, nhất là các trường Mầm non, Tiểu học, tình trạng thiếu phòng thí nghiệm, phòng
bộ môn và phòng tập đa năng ở THCS và THPT.
Công tác quản lý giáo dục đã được chú ý và đạt được một số kết quả nhất
định. Tuy nhiên so với yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục hiện nay thì công tác quản


14
lý của ngành còn nhiều hạn chế. Tỉnh chưa động viên khuyến khích được nhiều các
tổ chức, cá nhân tham gia vào phát triển giáo dục, chưa có những chính sách để thu
hút được đầu tư trong nước và nước ngoài cho GD&ĐT.
* Yêu cầu mới về công tác xã hội hoá giáo dục:
Sau năm 2000, cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển ngày
càng nhạnh. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất. Phát triển công tác XHHGD phải đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
của Đảng. Muốn phát triển giáo dục thì phải đổi mới toàn diện, xác định những biện
pháp cụ thể là: Đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học theo
hướng “Chuẩn hóa, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Phát huy trí sáng tạo, khả năng vận
dụng, thực hành của người học, đề cao trách nhiệm của gia đình, nhà trường, xã hội.
Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở- mô hình xã hội

học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học
ngành học.
2.1.2. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chủ trương đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo
dục:
2.1.2.1. Chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam về công tác xã hội hoá
giáo dục:
Tháng 04/2001, ĐHĐBTQ lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ:
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, đổi mới nội dung,
phương pháp dạy và học, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học, hệ
thống trường lớp và hệ thống quản lý GD; thực hiện “Chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã
hội hoá”, đẩy mạnh phong trào tự học của nhân dân, thực hiện GD cho mọi người, cả
nước trở thành một xã hội học tập.
Phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội, tiến bộ khoa học
và công nghệ và củng cố an ninh quốc phòng, đồng thời phải thoả mãn nhu cầu học
tập và phát triển của mỗi người dân. Coi trọng nâng cao chất lượng, đảm bảo hợp lý
về cơ cấu trình độ ngành nghề, vùng miền, quy mô giáo dục đại trà và mũi nhọn.
Thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiến, nhà trường kết
hợp với gia đình và xã hội để giáo dục, rèn luyện học sinh, đào tạo gắn với sử dụng.
Chuyển đổi dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở- mô
hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các
bậc học, ngành học. Huy động nguồn nhân lực, vật lực, tài lực của xã hội tham gia
chăm lo sự nghiệp giáo dục. Phối hợp chặt chẽ giữa ngành giáo dục với các ban
ngành, các tổ chức chính trị- xã hội, để mở phát triển giáo dục, tạo điều kiện học
tập cho mọi thành viên trong xã hội. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám
sát các hoạt động giáo dục.


15
Tăng cường hợp tác quốc tế về GD&ĐT; tiếp cận chuẩn mực giáo dục tiên
tiến của thế giới phù hợp với yêu cầu phát triển của Việt Nam; tham gia đào tạo nhân

lực khu vực và thế giới. Có cơ chế phù hợp đối với các trường do nước ngoài đầu tư
hoặc kiên kết đào tạo.
2.1.2.2. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chủ trương công tác xã hội hoá giáo dục.
* Quan điểm của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về công tác xã hội hoá giáo dục:
Căn cứ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tây, căn cứ chiến lược phát triển
giáo dục 2001- 2010 của chính phủ và căn cứ Nghị quyết số 05/2005/NQ- CP của
Chính phủ về đẩy mạnh XHH các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể
thao.
Đa dạng hoá các hình thức học tập và loại hình nhà trường: Các lực lượng xã
hội và cá thể có thể tham gia vào quá trình giáo dục bằng cách tổ chức thành lập các
cơ sở giáo dục thuộc các thành phần kinh tế bên cạnh các cơ sở nhà nước như hệ
thống các trường bán công, dân lập, tư thục ở các cấp học từ Mầm non đến Đại học.
Đa dạng hoá các nguồn lực cho giáo dục: Đa dạng hoá các nguồn lực ở đây
hiểu đúng ở các khía cạnh: Nhân lực (con người)- Vật lực (cơ sở vật chất) - Tài chính
(nguồn tài chính). Trong giáo dục nếu khắc phục được nội dung này thì sẽ giải quyết
được mâu thuẫn giữa yêu cầu về số lượng và chất lượng ngày càng cao.
Đảng bộ tỉnh Hà Tây xác định phát triển giáo dục là nền tảng để kinh tế- xã
hội trong tỉnh đi lên. Do vậy, Tỉnh đẩy mạnh công tác XHHGD tạo điều kiện cơ hội
học tập cho mọi người. Tỉnh có những chính sách ưu tiên, khuyến khích các tổ chức,
cá nhân thành lập các trường dân lập, tư thục. Thành lập các trung tâm dạy nghề, tin
học ngoại ngữ, TTHTCĐ. Tăng cường đầu tư CSVC cho giáo dục, đảm bảo đủ phòng
học kiên cố, xoá các phòng học tạm, phát triển phòng thư viện, phòng bộ môn, phòng
thí nghiệm.
* Phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển công tác xã hội hoá giáo
dục trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá:
- Phương hướng, nhiệm vụ phát triển công tác xã hội hoá giáo dục.
Tiếp tục củng cố mạng lưới, phát triển quy mô giáo dục đào tạo có cơ cấu hợp
lý giữa các cơ sở công lập và ngoài công lập đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân;
khuyến khích phát triển các cơ sở giáo dục ngoài công lập. Chú trọng triển khai việc
thành lập các TTHTCĐ.

Đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất nhà trường theo hướng kiên cố hoá, chuẩn
hoá, hiện đại hoá, đảm bảo vững chắc yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục. Nâng
cao chất lượng phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập THCS, đáp ứng
nhu cầu học tập của nhân dân


16
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục theo tinh thần Chỉ thị 40- CT/TW của Ban Bí thư và Quyết định
số 09/2005/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ
Đổi mới và tăng cường công tác quản lý thanh tra giáo dục, khắc phục những
hạn chế, yếu kém, giữ gìn nề nếp, kỷ cương, xây dựng môi trường giáo dục lành
mạnh.Tiếp tục thực hiện đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục. Đẩy
mạnh xây dựng xã hội học tập khai thác mọi tiềm năng, huy động mọi nguồn lực,
thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển. Mở rộng mạng lưới các trung tâm học tập
cộng đồng, phát triển giáo dục từ xa.
Khẩn trương triển khai thực hiện Nghị quyết số 05/2005/NQ- CP, ngày
18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn
hoá và thể dục thể thao và Quyết định số 112/2005/QĐ- TTg ngày 18/4/2005 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập”.
- Mục tiêu phát triển công tác xã hội hoá giáo dục.
Các trường có đủ nhân viên y tế, nhân viên thí nghiệm và thư viện để chăm
sóc sức khoẻ cho học sinh và đáp ứng yêu cầu dạy và học, thực hiện đổi mới chương
trình, sách giáo khoa. Đến năm 2010 có 100% giáo viên Mầm non đạt chuẩn, trong
đó 30% vượt chuẩn, 90% giáo viên Tiểu học và 80% giáo viên THCS vượt chuẩn,
10% giáo viên THPT và giáo dục chuyên nghiệp vượt chuẩn. Phấn đấu tỷ lệ đảng
viên trong đội ngũ giáo viên từ 28% lên trên 32% vào năm 2010.
Tiến hành thực hiện đa dạng hoá các loại hình giáo dục. Đến năm 2010 mỗi
huyện, thị xã thành lập, chuyển đổi ở mỗi cấp học Tiểu học, THCS, THPT ít nhất một
trường dân lập, tư thục. Có đánh giá, rút kinh nghiệm và triển khai rộng.

Huy động các lực lượng trong xã hội đóng góp nhiều mặt cho công tác
XHHGD. Đến năm 2010, đầu tư CSVC để đạt mục tiêu chuẩn hoá các trường học:
xoá hết phòng học tạm, học nhờ, phòng học xuống cấp nghiêm trọng. Huy động 95%
trở lên số đối tượng phổ cập THCS vào THPT, BTTHPT, THCN và dạy nghề, 100%
số học sinh Tiểu học được học 2 buổi/ngày. Phấn đấu 30% số trường mầm non, 50%
số trường Tiểu học, 40% số trường THCS đạt chuẩn quốc gia, mỗi huyện,thị có ít
nhất 2 trường THPT đạt chuẩn quốc gia.
2.2. Sự chỉ đạo công tác xã hội hoá giáo dục của Đảng bộ tỉnh Hà Tây từ
năm 2001 đến năm 2008
2.2.1. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo xây dựng một xã hội học tập:
Quán triệt Nghị quyết ĐHĐBTQ lần thứ X của Đảng về “Chuyển dần mô hình
giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập” và tư tưởng
Hồ Chí Minh về học tập suốt đời, nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực,
đào tạo nhân tài, phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, nhất là trong bối cảnh nước
ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Đảng bộ tỉnh Hà Tây cùng


17
đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập. Có các chế độ chính sách hỗ trợ đối với học sinh,
sinh viên nghèo và các đối tượng chính sách xã hội được thực hiện đầy đủ. Giáo dục
ở vùng miền núi, vùng khó khăn, các trường dân tộc nội trú được quan tâm. Công tác
cử tuyển học sinh là người dân tộc ít người được thực hiện đúng theo quy trình.
Ngày 16/05/2001 HKH tỉnh thành lập và tiến hành Đại hội lần thứ nhất. Năm
2003 có 100% huyện, thị xã và 90% xã, phường, thị trấn trong Tỉnh thành lập HKH.
Năm 2005 tổ chức chi hội cơ sở, cơ bản đã phủ kín, trên địa bàn có 3.000 tổ chức
HKH với 30.000 hội viên tham gia ở các thôn, bản, dòng họ, cơ quan, xí nghiệp và
hội đồng hương trong ngoài tỉnh.
Bộ GD& ĐT tổ chức Hội nghị“Toàn dân hiến kế xây dựng GD&ĐT’ do các
cấp uỷ và chính quyền địa phương chủ trương. Thực hiện Nghị quyết 05/2005/NQ-
CP ngày 18/4/2005 của chính phủ “Về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục,

y tế, văn hoá và thể dục thể thao” Tỉnh đã cụ thể hoá bằng nhiều chủ trương, nghị
quyết, biện pháp và hình thức đa dạng. Thực hiện Nghị quyết của HĐND miễn giảm
học phí cho các cháu mẫu giáo ở các trường mẫu giáo ở nông thôn, đồng thời hỗ trợ
đóng BHXH, BHYT, chi trả lương cho giáo viên ngoài biên chế theo trình độ đào
tạo, qui định diện tích đất trường học cho các ngành học, bậc học, hỗ trợ kinh phí đền
bù giải phóng mặt bằng và tăng cường CSVC trường học với cơ chế chính sách đổi
mới, phù hợp thể hiện rõ giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Thực hiện Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005-2010. Tỉnh Hà Tây
đã chủ trương xây dựng xã hội học tập, bước đầu gắn công tác khuyến học, khuyến
tài với xây dựng xã hội học tập, coi "Công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã
hội học tập” là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Vận động các hội viên và nhân
dân tham gia cuộc vận động “Gia đình hiếu học”, “Dòng họ hiếu học”.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh về phát huy vai trò của HKH Tỉnh, trong việc
phát triển sự nghiệp giáo dục. Tỉnh Hà Tây đã phát hành xổ số kiến thiết, đã bổ sung
cho quỹ khuyến học Tỉnh hơn 650 triệu và hỗ trợ 82 triệu đồng cho quỹ khuyến học ở
các huyện, thị xã. Đến cuối năm 2007, Hà Tây có 322 xã, phường, thị trấn có HKH
với tổng số quỹ của các cấp hiện có trên 4,5 tỷ đồng
Quy mô giáo dục không ngừng tăng lên, Hà Tây là tỉnh có số người đi học cao
trong toàn quốc. Hà Tây được đánh giá là tỉnh có trình độ dân trí cao chiếm 30% dân
số (khoảng 70 nghìn người) .
2.2.2. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo thực hiện đa dạng hoá các loại hình
giáo dục:
Năm 2002, UBND có Đề án “Năm giáo dục- đào tạo Hà Tây năm 2002”.
Tỉnh chỉ đạo xây dựng mỗi huyện, thị xã 1 trường Mầm non trọng điểm. Tiến hành
học ngày 2 buổi/ngày đối với các lớp 1, 2. UBND tỉnh có Quyết định thành lập


18
trường THPT bán công Mỹ Đức, thí điểm để chuẩn bị tách hệ thống bán công ra khỏi
trường công lập trong Tỉnh.

Thực hiện Nghị định số 53/2006/NĐ-CP ngày 25/5/2006 của Chính phủ về
chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập. Các
trường THPT mở trên 14 huyện, thị xã, nhiều huyện có 4 trường THPT, các thị xã
đều có THCS với các loại hình công lập, dân lập, tư thục.
Xác định xây dựng hệ thống trường chuẩn quốc gia là trục xuyên suốt, là
chuyển đổi cơ cấu các mặt giáo dục. Tỉnh Hà Tây chỉ đạo Sở GD&ĐT tăng cường
hướng dẫn các nhà trường thực hiện kế hoạch phát triển trường chuẩn Quốc gia ở các
ngành học, bậc học. Các huyện, thị xã đều mở các lớp học tình thương, tạo điều kiện
cho các em có hoàn cảnh khó khăn được học tập. Triệt để XMC trong độ tuổi 15-35.
TTGDTX, TTKTTH-HNDN đã làm tốt công tác XMC, mở lớp bổ túc văn hoá, học
nghề cấp THCS và THPT. Mỗi huyện, thị xã có một trường thí điểm dạy tin học.
Việc chăm lo đào tạo nghề trong các trường phổ thông đã được chú ý, nhất là việc
hướng nghiệp dạy nghề truyền thống địa phương.
Mỗi xã, phường, thị trấn có ít nhất 1 trường mầm non, 1 trường tiểu học, 1
trường THCS, mỗi huyện có ít nhất 3 trường THPT công lập, 1 TTGDTX, 1
TTKTTH HN, một số nơi đã có trường lớp công lập, bán công và dân lập, Tỉnh có
trường chuyên và các lớp bồi dưỡng năng khiếu đang được đầu tư để đào tạo nhân
tài.
Ngày 23/10/2006 Tỉnh uỷ có Nghị quyết 18/NQ-TU về lãnh đạo đẩy mạnh
công tác dạy nghề, giải quyết việc làm giai đoạn 2006-2010 và những năm tiếp theo.
UBND tỉnh ra chương trình thực hiện công tác dạy nghề, giải quyết việc làm giai
đoạn 2006-2010 và những năm tiếp theo. Mỗi năm có 35.000 đến 36.000 người được
học nghề ở các cấp độ.
Các trung tâm GDTX tỉnh và huyện, trung tâm ngoại ngữ- tin học và các
trường THCN trên địa bàn tỉnh đã có nhiều cố gắng đổi mới nội dung, phương thức
và loại hình đào tạo; chất lượng đào tạo được nâng lên rõ rệt, tạo sự hấp dẫn và thu
hút được người học hơn.
Kiện toàn các điều kiện chất lượng của các trường cao đẳng, đại học địa
phương liên kết và liên thông với các trường đại học, học viện của Trung ương đóng
tại địa phương và Hà Nội. Nhằm mở rộng quy mô đào tạo cán bộ có trình độ cao

đẳng, đại học, chú trọng đào tạo đại học cho tất cả các ngành kinh tế, văn hoá- xã hội
phục vụ yêu cầu tỉnh sát thủ đô.
Ngay từ năm học 2001-2002, Tỉnh đã chỉ đạo ngành GD- ĐT phối hợp với
HKH có kế hoạch xây dựng các TTHTCĐ. Tổ chức tham quan học tập ở tỉnh Thái
Bình và xây dựng đề án đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, tổ chức phát triển các
TTHTCĐ, hướng tới một xã hội học tập.


19
2.2.3. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo công tác xây dựng cơ sở vật chất:
Thực hiện chủ trương của Chính phủ về chương trình kiên cố hoá trường học,
Sở GD&ĐT đã chỉ đạo tăng cường CSVC trường học giai đoạn 2005-2010 để nhằm
phòng học tạm, phòng học cũ đã xuống cấp. Năm 2003, Chính phủ chủ trương về
phát hành công trái, nhằm tăng cường đầu tư để nâng cao CSVC cho các trường học
từng bước thực hiện CNH- HĐH các cơ sở giáo dục Tỉnh ưu tiên tài chính và tạo điều
kiện cho các trường trọng điểm để đạt chuẩn cao hơn, xây dựng trường chuyên hiện
đại, xây dựng thêm nhà tập đa năng cho 10 trường đảm bảo 35% các trường có thư
viện, phòng thí nghiệm, phòng bộ môn, đưa tin học vào tất cả các trường trong Tỉnh.
Trên cơ sở đề nghị của các huyện, thị xã và sở địa chính, UBND tỉnh đã phê
duyệt cấp gần 100 ha đất cho các trường học để xây dựng các trường học tạo điều
kiện để trong năm giáo dục tỉnh Hà Tây được công nhận 40 trường Tiểu học và 9
trường THCS đạt chuẩn.
Thực hiện Chỉ Thị 14/2001/CT-TTG về nêu rõ tầm quan trọng của CSVC- kỹ
thuật và đồ dùng học tập. Do đó tất cả các trường PHTH, THCN, các cơ sở đào tạo
trong toàn tỉnh đều có tương đối đầy đủ máy vi tính, thư viện, thiết bị thí nghiệp, thực
hành.
Hàng năm nguồn kinh phí do dân đóng góp đạt gần 30% so với ngân sách nhà
nước cho cho sự nghiệp giáo dục trong toàn tỉnh. Toàn ngành đã được đầu tư xây
dựng bằng nhiều nguồn vốn, Trung ương, địa phương, nhân dân. Toàn tỉnh không
còn tình trạng lớp học 3 ca, phòng học tre nứa lá, số phòng học kiên cố ngày càng

tăng, nhiều xã đã có cả trường tiểu học và THCS cao tầng. CSVC trường học ngày
càng phát triển.
ĐHĐBTQ lần thứ IX của ĐCSVN chỉ rõ: GD&ĐT phải thực hiện “Chuẩn
hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Năm 2004, 100% các trường thuộc Sở GD&ĐT tỉnh,
đại học, cao đẳng, THCN, THDN, PTTH được bưu điện tỉnh triển khai nối mạng
intenet, thực hiện yêu cầu “Chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá” của Bộ GD & ĐT.
Nhằm phát triển giáo dục trong toàn Tỉnh, hỗ trợ những vùng khó khăn. Tỉnh
chỉ đạo xây dựng trường dân tộc nội trú. Năm học 2007- 2008, Tỉnh vận động các
ban ngành, nhân dân ủng hộ xây dựng nhà cho giáo viên miền núi, vùng sâu, vùng xa
được trên 200 triệu, xây được 6 nhà công vụ, nâng lên tổng số là 18 nhà
Tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền quản lý và sử dụng đất đai, tài sản cho các
trường học. Thực hiện Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ
“về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường”.
2.2.4. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo chăm lo đời sống giáo viên:
Ngày 16/04/2001 UBND tỉnh có quyết định số 445 QĐ/UB, về việc trợ cấp
thêm hàng tháng cho giáo viên dân lập, ở 9 xã miền núi, 3 xã ở bãi giữa sông Hồng


20
và các xã nghèo. Đầu năm 2003, UBND tỉnh đã ký quyết định cho giáo viên mầm
non được mua bảo hiểm xã hội. Điều chỉnh mức lương của giáo viên diện hợp đồng
lên mức 210.000/tháng.
Ngày 15/06/2004 Bộ Chính trị (Khoá IX) có Chỉ Thị 40-CT/TW, về nâng cao
chất lượng đội ngũ giáo viên. Để thực hiện chủ trương trên,Tỉnh có Chỉ Thị 70-
CT/TU ngày 15/09/2004 về “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý”, là khâu then chốt để nâng cao chất lượng GD- ĐT phục vụ sự nghiệp
CNH- HĐH đất nước.
Ngày 10/11/2004 UBND tỉnh có công văn số 4803/CV-UB gửi các cấp về việc
xây dựng đề án, kế hoạch thực hiện các văn bản trên. Ngày 10/5/2005 Ban chỉ đạo đã

xây dựng Đề án số 467 về xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục tỉnh Hà Tây.
Năm 2002, đã tổ chức học tập, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước và quản
lý giáo dục cho 210 cán bộ quản lý giáo dục các cấp. Tỉnh tích cực cử cán bộ, giáo
viên học lý luận chính trị và quản lý nhà nước. Ngày 15/10/2006 UNBD tỉnh đã có
QĐ số 1716/QĐ-UBND về quyết định mức lương theo ngạch bậc và mức hỗ trợ của
ngân sách đối với giáo viên mầm non bán công. Tổ chức tốt chu kỳ bồi dưỡng thường
xuyên, phổ cập tin học cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên văn phòng, đặc biệt
chú trọng khả năng ứng dụng công nghệ thông tin và truy cập thông tin trên Internet
phục vụ cho công tác.
2.2.5. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạọ xây dựng môi trường giáo dục lành
mạnh, chất lượng giáo dục toàn diện, kết hợp tốt Nhà trường- Gia đình- Xã hội:
Tạo ra môi trường giáo dục từ gia đình đến xã hội cho học sinh. Phát huy cộng
đồng trách nhiệm, các lực lượng xã hội, các ngành trong Tỉnh đã có nhiều hình thức
phối hợp. Hội nghị toàn dân hiến kế cho xây dựng GD&ĐT do các cấp uỷ và chính
quyền địa phương chủ trì. Ngành giáo dục đã coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng
đạo đức cho học sinh. Tổ chức tốt các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Chất lượng giáo
dục pháp luật, giáo dục thể chất, giáo dục môi trường, giáo dục an toàn giao thông,
giáo dục phòng chống ma tuý, được thực hiện đầy đủ, có hiệu quả trong các cấp
học
Ngành giáo dục chủ động xây dựng cơ sở dữ liệu cho phần mềm quản lý chất
lượng dạy- học đồng thời tổ chức xây dựng ngân hàng để phục vụ kiểm tra, khảo sát
chất lượng học sinh. Ban hành quy định tạm thời về đánh giá chất lượng công tác thư
viện trường học, công tác thiết bị giáo dục và công tác phòng bộ môn theo tiêu chuẩn
quản lý chất lượng.
Ngày 28/12/2000 Bộ chính trị (khoá VIII) Chỉ Thị số 61- CT/TW về phổ cập
giáo dục THCS. Để thực hiện Chỉ Thị, Tỉnh có Chỉ Thị 06-CT/TU ngày 10/04/2001
về phổ cập giáo dục THCS. Tháng 7/2001, Sở GD& ĐT có Đề án nâng cao chất



21
lượng phổ cập THCS. Đến năm 2004 có 100% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn (là thứ
3/61 tỉnh, thành phố hoàn thành phổ cập THCS).
Thực hiện Chỉ thị 23/2006/CT-TTG ngày 12/7/2006 của Thủ tướng chính phủ
về tăng cường công tác y tế trong các trường học, vận động hơn 60% học sinh tham
gia bảo hiểm y tế. Ngành GD&ĐT kết hợp cùng bảo hiểm xã hội, ngành y tế tổ chức
tốt việc khám chữa bệnh và công tác y tế cho học sinh. Ngày 22/8/2007 UBND tỉnh
có kế hoạch số 519-KH-UB về “Nâng cao chất lượng GD&ĐT đến năm 2010 và
những năm tiếp theo
2.2.6. Đảng bộ tỉnh Hà Tây tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý
của chính quyền đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo:
Để triển khai thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 13 tháng 4 năm 2007 của
Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học,
khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, từng bước xây dựng và phát triển mô hình giáo
dục mở - mô hình xã hội học tập theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X,
Thủ tướng Chính phủ chỉ thị tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với GD&ĐT.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục Hà Tây là đổi mới
công tác kiểm tra, khảo sát, đánh giá chất lượng các loại giáo dục theo chuẩn, yêu cầu
phản ánh đúng chất lượng giáo dục. Đã có sự phối hợp công tác thường xuyên giữa
các ngành GD&ĐT và các ngành, các cấp để triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị
của toàn ngành.
Để đảm bảo giải quyết các vấn đề nảy sinh trong ngành, hoạt động thanh tra
giáo dục của Sở GD&ĐT được tăng cường và đổi mới phương thức tổ chức các cuộc
thanh tra và kiểm tra. Phòng Thanh tra đã chủ động, tích cực phối hợp với các phòng
ban của Sở và cử những thanh tra viên kiêm nhiệm có năng lực chuyên môn vững
vàng cùng tham gia các đợt thanh tra ở các cơ sở.
Phát triển đảng viên trong sinh viên cũng được quan tâm, 5 năm qua có hơn 40
học sinh, sinh viên được kết nạp đảng. Năm 2001, không còn tình trạng trường học
không có đảng viên, tất cả các trường học đều có chi bộ đảng. Năm học 2004-2005 tỷ
lệ Đảng viên chiếm 32,1%. Năm học 2007-2008 tỷ lệ Đảng viên chiếm 35,8%.

* Tiểu kết chương 2: Tỉnh tiến hành ĐHGD, Đại hội khuyến học lần thứ hai.
Kiện toàn HĐGD, HKH các cấp. Các hội này hoạt động rất hiệu quả, giúp các cấp uỷ
Đảng, chính quyền địa phương định hướng phát triển giáo dục.
Việc đa dạng hoá các loại hình giáo dục có bước phát triển.Toàn tỉnh; Mầm
non có 363 trường trong đó công lập 18 trường, dân lập là 324 trường, bán công 25
trường.Tiểu học có 360 trường trong đó công lập là 349 trường, dân lập 1 trường.
THCS có 339 trường công lập. THPT có 63 trường, trong đó có 50 trường công lập, 4
trường dân lập, 9 trường bán công, 1 trường dân lập nội trú Ba Vì. Có 14 TTGDTX,
có 9 TTKTTH- HN, có 40 TTHTCĐ.


22
Chất lượng giáo dục mũi nhọn, giáo dục toàn diện của học sinh có tiến bộ. Các
trường được dạy đủ các môn theo quy định, dạy đúng chương trình. Ngành giáo dục
đã coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cho học sinh. Đội ngũ cán bộ quản
lý và giáo viên được tăng cường. Chất lượng đội ngũ giáo viên ngày càng được nâng
cao, tỷ lệ giáo viên là đảng viên tăng. Tuy nhiên, mức lương trả cho giáo viên hợp
đồng còn thấp, chế độ chính sách đối với giáo viên mầm non ngoài công lập còn chưa
đảm bảo. Đội ngũ giáo viên vừa thừa vừa thiếu, thừa giáo viên dạy môn văn hoá,
thiếu giáo viên dạy môn năng khiếu.
CSVC, trang thiết bị tiếp tục được đầu tư, trường, lớp học ngày càng khang
trang hơn, theo hướng chuẩn hoá. Hàng năm chương trình kiên cố hoá trường học
được thực hiện, xây thêm các phòng học mới, góp phần khắc phục khó khăn trong
các cơ sở giáo dục. Mua sắm trang thiết bị dạy học từ nguồn ngân sách Nhà nước,
cung cấp đủ sách giáo khoa cho giáo viên. Thực hiện chương trình bồi dưỡng cho
giáo viên hàng năm đạt kết quả tốt. Các trường chuẩn quốc gia ở tất cả các cấp được
quan tâm đầu tư công tác xây dựng. Tuy nhiên, nhiều trường CSVC còn thiếu và yếu,
nhất là các trường Mầm non, Tiểu học, tình trạng thiếu phòng thí nghiệm, phòng học
bộ môn và phòng tập đa năng ở THCS và THPT.


Chƣơng III
KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH
HÀ TÂY LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC
TỪ NĂM 1996 ĐÊN NĂM 2008
3.1. Kết quả Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo công tác xã hội hoá giáo dục
từ năm 1996 đến năm 2008
3.1.1. Thành tựu và nguyên nhân đạt được trong công tác lãnh đạo xã hội
hoá giáo dục của Đảng bộ tỉnh Hà Tây.
* Thành tựu đạt được:
Kết quả đó đã được thể hiện:
Thứ nhất: Tỉnh tiến hành Đại hội giáo dục, Đại hội khuyến học lần thứ hai.
Kiện toàn Hội đồng giáo dục, Hội khuyến học các cấp. Đến nay, Tỉnh đã tiến hành
thành công ĐHGD cấp cơ sở lần ba với 100% xã, phường tổ chức, ĐHGD cấp huyện
và Tỉnh lần 2 với tỷ lệ 100% số huyện, thị tham gia. Chỉ tiêu PCGDTH đúng độ tuổi,
phổ cập giáo dục THCS đều hoàn thành sớm so với cả nước. Tỷ lệ người đi học so
với số dân 30% (tăng gần 2% so với năm 2000).
Thứ hai: Thực hiện chủ trương đa dạng hoá các loại hình học tập, “xây dựng
xã hội học tập” của Đảng: mạng lưới trường học phát triển rộng khắp trong toàn Tỉnh
dưới hình thức trường công lập, dân lập, tư thục, các trường dạy nghề, trung tâm học


23
tập cộng đồng, các trung tâm giáo dục, giáo dục trên các phương tiện thông tin đại
chúng đã đáp ứng được nhu cầu học tập của nhân dân.
Thứ ba: Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý đã đáp ứng yêu cầu phát triển
nhanh của sự nghiệp GD&ĐT. Tỷ lệ đảng viên là giáo viên chiếm khoảng 30%. Chất
lượng giáo dục ngày càng được nâng cao, học sinh khá giỏi tăng, nhiều em đạt giải
quốc gia, có em đạt giải quốc tế. Là một trong 10 tỉnh có nhiều em đỗ cao đẳng, đại
học. Giáo dục toàn diện cho học sinh đạt kết quả cao. Phục vụ chương trình đổi mới
giáo dục bằng việc đầu tư cho công tác đào tạo, đầu tư, thiết bị trường học chiếm

2,2% - 3,87% ngân sách chi thường xuyên cho giáo dục, cơ bản đáp ứng đổi mới
phương pháp giảng dạy.
Thứ tư: Các ban ngành trong Tỉnh đã phối hợp với nhau để thực hiện giáo dục
toàn diện đạt kết quả tốt. Tuỳ theo chức năng và nhiệm vụ cụ thể mà mỗi cấp, mỗi
ngành, các tổ chức chính trị và các đoàn thể quần chúng đều phối hợp cùng ngành
GD&ĐT tham gia giáo dục toàn diện cho học sinh.
* Nguyên nhân của những thành tựu:
Một là: Đảng bộ có đường lối giáo dục- đào tạo đúng đắn và nhân dân tỉnh Hà
Tây đã tích cực thực hiện chính sách đổi mới, trực tiếp là chính sách trong giáo dục-
đào tạo. Trong những năm qua Tỉnh đã có những Đề án, Nghị quyết quan trọng được
ban hành, bước đầu nâng cao chất lượng công tác XHHGD.
Hai là: Truyền thống hiếu học của nhân dân tỉnh Hà Tây được phát huy, nhu
cầu học tập của nhân dân trong tỉnh không ngừng được tăng lên. Nhân dân đóng góp
rất nhiều công sức, tiền của xây dựng trường lớp và chăm lo sự nghiệp giáo dục.
Ba là: Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và số đông học sinh, sinh
viên có nhiều cố gắng rất lớn Các cấp uỷ, đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân
nhận thức rõ hơn về công tác XHHGD đối với sự nghiệp giáo dục, đã khắc phục
nhiều khó khăn, tích cực tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng bộ và
nhân dân giao cho nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác XHHGD.
Bốn là: Những thành quả phát triển kinh tế, ổn định chính trị, nâng cao đời
sống nhân dân qua những năm qua đã tạo điều kiện cho công tác XHHGD được xã
hội quan tâm.
3.1.2. Những hạn chế trong công tác xã hội hoá giáo dục của tỉnh Hà Tây.
* Những hạn chế:
Thứ nhất: Tốc độ XHHGD còn chậm so với tiềm năng và chỉ tiêu của Đảng bộ
Tỉnh; mức độ phát triển XHHGD không đồng đều giữa các vùng miền có điều kiện
kinh tế- xã hội khác nhau như giữa thành thị và nông thôn, miền núi. Nhận thức của
các cấp uỷ, chính quyền ở một số địa phương trong Tỉnh chưa đầy đủ chỉ dừng ở mặt
nhận thức, chưa rộng và chưa toàn diện, vẫn coi việc dạy- học, giáo dục học sinh chỉ
là nhiệm vụ của nhà trường. Sự kết hợp 3 môi trường “Gia đình- Nhà trường- Xã hội”



24
còn nhiều hạn chế. Công tác quản lý còn nhiều bất cập, thiếu sót, chậm đổi mới: Một
bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên chậm đổi mới về tư duy giáo dục, buông lỏng trong
quản lý. Giáo dục chậm đổi mới so với kinh tế.
Thứ hai: Trong lĩnh vực giáo dục của Tỉnh, các cơ sở công lập chiếm tỷ trọng
lớn, về cơ bản vẫn áp dụng cơ chế quản lý như các cơ quan hành chính nên không
còn phát huy được tính năng động, tự chủ và trách nhiệm. các cơ sở ngoài công lập.
Còn nặng tính bao cấp trong giáo dục, việc đa dạng hoá các loại hình trường lớp còn
chậm. Hệ thống trường dân lập, tư thục còn quá mỏng.
Thứ ba: Việc đổi mới phương pháp dạy và học còn chậm, đội ngũ giáo viên
thiếu cục bộ. Đội ngũ cán bộ phụ tá thí nghiệm trong các nhà trường còn thiếu và hầu
hết chưa đủ tiêu chuẩn nghiệp vụ. Chưa làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng
cho cán bộ, giáo viên. Chất lượng một bộ phận giáo viên không đáp ứng được yêu
cầu đổi mới
Thứ tư: Việc đầu tư cho giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu “Quốc sách hàng
đầu”, nhất là trong công cuộc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo tinh thần
Nghị quyết số 40/2000/QH của Quốc hội khoá X.
* Nguyên nhân của những hạn chế:
Một là: Nguyên nhân của những hạn chế trên trước hết là do nhận thức của
các cấp, các ngành, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân còn chưa đầy đủ, xem xã
hội hoá chỉ là biện pháp huy động sự đóng góp của nhân dân trong điều kiện ngân
sách còn hạn hẹp. Tư tưởng và thói quen bao cấp vẫn còn khá nặng nề, tính chủ động,
tính sáng tạo của các cấp, các ngành trong chỉ đạo còn nhiều bất cập. Sự phối hợp
hoạt động của HĐGD và HKH các cấp có lúc, có nơi còn chồng chéo, chưa phân rõ
chức năng, nhiệm vụ của mỗi bên.
Hai là: Trong chính sách xã hội hoá, chưa quy định rành mạch về sở hữu của
các cơ sở ngoài công lập (bán công- dân lập), chưa phân định rõ sự khác biệt về tính
chất và cơ chế hoạt động giữa các hình thức tổ chức có bản chất vì lợi nhuận và các

hoạt động, hình thức hoạt động không vì lợi nhuận trong lĩnh vực giáo dục.
Ba là: Ngành giáo dục chưa làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Bên cạnh đó, công tác giáo dục- đào
tạo chưa kết hợp chặt chẽ với lao động sản xuất, nhà trường chưa gắn với gia đình và
xã hội. Ngành GD&ĐT còn chậm đổi mới cả về tư duy và phương thức quản lý.
Công tác thanh tra giáo dục hiệu quả chưa cao. Năng lực quản lý của cán bộ giáo dục
các cấp chưa được chú trọng thực sự.
Bốn là: Việc đầu kinh phí cho giáo dục để thực hiện xây dựng cơ bản cũng
như các chương trình mục tiêu còn ít. Chưa đáp ứng được nhu cầu xây dựng CSVC
trang thiết bị trường học.


25
Năm là: Công tác quản lý còn bất cập cả trong định hướng phát triển, quy
hoạch và chỉ đạo thực hiện. Cơ chế chính sách còn nhiều mặt chưa cụ thể, rõ ràng,
thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các
lực lượng xã hội chưa được tổ chức và phối hợp tốt để chủ động tích cực tham gia
vào quá trình xã hội hoá.
3.2. Kinh nghiệm và kiến nghị rút ra từ quá trình Đảng bộ Hà Tây lãnh
đạo công tác xã hội hoá giáo dục từ năm 1996 đến năm 2008
3.2.1. Một số kinh nghiệm về công tác xã hội hoá giáo dục của tỉnh Hà Tây
từ năm 1996 dến năm 2008
- Từ những thành công và hạn chế của công tác XHHGD của tỉnh Hà Tây tròn
những năm 1996-2008, có thể rút ra những kinh nghiệm sau đây:
Một là: Thường xuyên quán triệt nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò “Giáo
dục là quốc sách hàng đầu”.Đảng bộ tỉnh đã xây dựng chiến lược phát triển nguồn
nhân lực gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ trương coi giáo dục là quốc sách hàng đầu
được tuyên truyền sâu rộng trong các ban ngành, đoàn thể, nhân dân. Nâng cao nhận
thức của cộng đồng, mỗi dòng họ, mỗi gia đình về vị trí, vai trò của giáo dục- đào tạo

với sự phát triển của đất nước, đối với tương lai mỗi người ngày càng rõ hơn.
Tỉnh xác định công tác XHHGD không chỉ là một giải pháp tình thế trong khi
Nhà nước chưa đủ sức đầu tư đầy đủ cho GD& ĐT, mà là một giải pháp chiến lược
trong suốt giai đoạn lịch sử xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa với đặc thù là trong xã hội có nhiều thành phần kinh tế, có thu nhập khác
nhau nhưng cần được đảm bảo mức công bằng tương đối trong hưởng thụ các quyền
lợi về GD& ĐT. Xây dựng phong trào “Cả nước trở thành một xã hội học tập” gắn
chặt chẽ với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”.
Hai là: Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm và chủ trương XHHGD
của Đảng vào thực tiễn của Tỉnh, có bước đi thích hợp với điều kiện của từng địa
phương. Các cấp uỷ Đảng, HĐND, UBND đề ra các văn bản chỉ đạo, xây dựng các
chương trình, đề án phát triển GD&ĐT. Trong các hội nghị giao ban thường kỳ của
các cấp uỷ Đảng, chính quyền đã đưa công tác XHHGD vào chương trình hội nghị.
Công tác kiểm tra, đánh giá việc thực hiện sự lãnh đạo của các chi bộ Đảng đối với
GD&ĐT là tiêu chí đánh giá xếp hạng chi bộ đảng và đảng viên hàng năm. Các
HĐGD đã xây dựng quy chế hoạt động, phân công trách nhiệm cho từng thành viên,
xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động phù hợp với thực tiễn của địa phương,
tham mưu cho HĐGD ra các quyết định cụ thể về GD&ĐT.
Những chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây đưa ra, phải trên cơ sở quan điểm
của Đảng, tuy nhiên nó phải được vận dụng sáng tạo vào tình hình cụ thể của địa
phương.

×