Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Hoàn thiện công tác kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng thươngmại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.05 KB, 25 trang )

Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
LỜI NÓI ĐẦU
Hệ thống ngân hàng trong bất kỳ một nền kinh tế nào cũng luôn giữ vai
trò quan trọng trong quá trình ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Với tư cách
là một định chế tài chính trung gian, hệ thống ngân hàng sẽ thực hiện việc lưu
chuyển tiền trong nền kinh tế linh hoạt và hiệu quả hơn thông qua việc huy
động, phân phối nguồn vốn trong xã hội. Sự vững mạnh của HTNH sẽ nói sự
vững mạnh của hệ thống tài chính của một quốc gia. Để đánh giá được hiệu
quả trong hoạt động kinh tế thì cách tốt nhất là phải đánh giá được chất lượng
hoạt động của hệ thống ngân hàng. Việc lượng hoá chất lượng hoạt động của
hệ thống ngân hàng lại chỉ có thể được thực hiện thông qua công tác kiểm
toán, trong đó kiểm toán nội bộ có vai trò rất quan trọng.
Ở Việt Nam, hoạt động kiểm toán mới được bắt đầu thực hiện vào cuối
những năm 80 và kiểm toán nội bộ được áp dụng thực hiện vào đầu những
năm 90-91 nhưng dã khẳng định được vai trò rất quan trọng của nó. Sau gần
10 năm hoạt động KTNB trong các NHTM đã đạt được nhiều thành quả
nhưng bên cạnh đó công tác KTNB cũng phát sinh nhiều vấn đề bất cập như
những sai phạm trong qui trình KTNB, qui tắc của KTNB, tổ chức
Xuất phát từ những vấn đề này đã nảy sinh trong tôi ý tưởng nghiên cứu
đề tài “ Hoàn thiện công tác kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng thương
mại”.
Nội dung đề tài bao gồm những phần sau:
Phần I: Những vấn đề lý luận về KTNB trong các NHTM Việt Nam
I. Bản chất, chức năng và nhiệm vụ của KTNB
II. Nội dung, hình thức của KTNB
III. Qui trình về trình tự KTNB
IV. Sự cần thiết phải KTNB trong các NHTM
Phần II: Thực trạng của hoạt động KTNB trong các NHTM ở Việt
Nam hiện nay và các ý kiến đề xuất
I. Thực trạng khó khăn
II. Ý kiến đề xuất


1
Chuyên đề kế toán trởng
PHN I: NHNG VN Lí LUN V KTNB TRONG CC
NHTM VIT NAM
I. BN CHT CHC NNG V NHIM V CA KIM TON NI B
Trờn th gii thut ng kim toỏn (KT) ó cú t lõu, t khi xut hin nhu
cu xỏc nh tớnh trung thc tin cy ca thụng tin trong BCTC, k toỏn v
thc trng ti sn ca mt ch th trong quan h kinh t.
Vit Nam thut ng kinh t mi ch xut hin t nhng nm cui ca
thp k 80 nhng nú ó nhanh chúng tr nờn rt quan trng trong hot ng
kinh t v c bit k t khi Vit Nam bc sang nn kinh t th trng.
Nu nh k toỏn cú nhim v t chc h thng thụng tin phc v cho cỏc
quyt nh kinh t ca cỏc i tng cú liờn quan thỡ kim toỏn cú trỏch
nhim thm tra ỏnh giỏ, m bo v nõng cao tin cy ca cỏc thụng tin
kinh t. Nh vy cú th hiu mt cỏch tng quỏt: kim toỏn l vic kim tra,
thm nh, ỏnh giỏ nhm xem xột cht lng hot ng ca mt t chc,
cht lng ca cỏc h s ti chớnh, k toỏn.
Kim toỏn c nh ngha theo cỏch chung nht, nh sau: Kim toỏn l
quỏ trỡnh cỏc chuyờn gia c lp v cú thm quyn thu thp v ỏnh giỏ cỏc
bng chng v cỏc thụng tin cú th nh lng c ca mt n v c th
nhm mc ớch xỏc nhn v bỏo cỏo v mc phự hp gia cỏc thụng tin
ny vi cỏc chun mc ó c thit lp t trc.
Cú nhiu cỏch phõn loi kim toỏn khỏc nhau. Nu phõn loi theo ch
th kim toỏn thỡ kim toỏn cú th gm 3 loi l kim toỏn c lp, kim toỏn
ni b, kim toỏn nh nc.
* Kim toỏn nh nc l t chc ca cỏc viờn chc nh nc thc hin
kim toỏn phc v mc ớch kim tra nn tI chớnh cụng.
Lnh vc kim toỏn ch yu l tin hnh kim ton ti chớnh v kim
toỏn tuõn th, ngoi ra kim toỏn nh nc cũn tin hnh kim toỏn nghip v
nhm ỏnh giỏ v nõng cao tớnh kinh t, tớnh hiu qu trong quỏ trỡnh qun lý,

s dng ngõn sỏch nh nc
2
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
* Kiểm toán độc lập là tổ chức của các kiểm toán viên chuyên nghiệp
hành nghề kiểm toán, kinh doanh ngành nghề dịch vụ kế toán và tư vấn dưới
sự bảo hộ và thừa nhận của pháp luật.
Hoạt động chủ yếu của kiểm toán độc lập là kiểm toán báo cáo tài chính
và thực hiện kiểm toán theo yêu cầu của khách hàng ngoài ra còn thực hiện
các dịch vụ tư vấn về tài chính - kế toán thuế. Ở Việt Nam, tính đến đầu năm
1998, trong lĩnh vực kiểm toán độc lập có 6 công ty KTNN, 4 công ty kiểm
toán 100% vốn nước ngoài, 2 công ty liên doanh và một số công ty tư nhân.
*Kiểm toán nội bộ là công việc kiểm toán do các kiểm toán viên không
chuyên n ghiệp thực hiện kiểm toán phục vụ mục đích kiểm tra nền tàI
chính quản trị nội bộ trong doanh nghiệp.
Lĩnh vực kiểm toán chủ yếu là tiến hành các cuộc kiểm toán nghiệp vụ
để đánh giá hiệu quả và hiệu năng của các nghiệp vụ cuả bộ phận, của đơn vị
được kiểm toán.
1. Bản chất của KTNB
Xuất phát từ quan điểm thuần tuý về kế toán nhằm phát hiện các sai sót,
gian lận, KTNB đã dần dần mở rộng phạm vi hoạt động trên tất cả các lĩnh
vực hoạt động của của doanh nghiệp và hướng hoạt động KTNB vào việc cải
thiện và nâng cao chất lượng hoạt động tăng cường sức mạnh cho cơ chế
kiểm soát nội bộ.
Lịch sử phát triển cho thấy KTNB là một nghề mới mẻ và không được
qui định bởi pháp luật, không mang tính bắt buộc. Tuy lúc đầu KTNB mang
tính chất không chuyên, không tồn tại ở các doanh nghiệp hay được coi như
một phần kiểm toán độc lập nhưng về sau nó đã trở thành một nghề có tính
chuyên nghiệp.
KTNB là công cụ quản lý của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp để kiểm
soát, đánh giá, phân tích tình hình hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá và

điều chỉnh chiến lược kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất.
Trong doanh nghiệp, KTNB là bộ phận chịu trách nhiệm xem xét lại một
cách định kỳ các biện pháp mà ban giám đốc và các nhà quản lý ở mọi cấp áp
dụng để quản lý và kiểm soát doanh nghiệp. Chức năng này được đảm nhiệm
3
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
bởi một bộ phận chịu sự điều hành của Ban giám đốc nhưng hoàn toàn độc
lập với tất cả các bộ phận khác.
Các mục tiêu chính của KTNB trong khuôn khổ xem xét định kỳ là kiểm
tra các thủ tục có đủ an toàn và các thông tin có trung thực, tin cậy hay không,
các nghiệp vụ có hợp thức, tổ chức hoạt động có hiệu quả, cơ cấu có rõ ràng
và thích hợp hay không.
Tóm lại KTNB là hoạt động cần thiết của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường, là nhu cầu cần thiết khách quan cho việc kiểm soát chất
lượng hoạt động và đảm bảo chất lượng thông tin kinh tế, tài chính của
BCTC, kiểm toán hoạt động và kiểm toán tính tuân thủ các qui định, các chế
độ hiện hành của nhà nước và của doanh nghiệp, Ở nước ta KTNB còn là
vấn đề khá phức tạp và còn mới mẻ. Vì vậy cần phải có sự thống nhất về nhận
thức và cách thức tiến hành, triển khai và thực hiện không những ở các doanh
nghiệp mà còn ở các tổ chức tài chính - tiền tệ (như ngân hàng), cơ quan quản
lý nhà nước
Việc quyết định thành lập bộ phận KTNB phải xuất phát từ sự tự
nguyện, từ yêu cầu thực tế của ban giám đốc. Các mục tiêu và chức năng của
KTNB vì thế mà thay đổi tuỳ theo yêu cầu cụ thể của ban giám đốc.
2. Chức năng của KTNB
Số liệu tài liệu kế toán, BTCT của doanh nghiệp là căn cứ pháp lý để
đánh giá tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình thực
hiện nghĩa vụ với nhà nước, với các bên liên quan với doanh nghiệp. Doanh
nghiệp phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính đầy đủ, trung thực, hợp
lý của các số liệu kế toán và các thông tin trong BCTC đã được công bố. Do

đó nhà nước yêu cầu các doanh nghiệp phải thường xuyên tổ chức KTNB
nhằm đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của các thông tin đó.
Để thực hiện yêu cầu KTNB có các chức năng cơ bản là kiểm tra, xác
nhận, đánh giá
Phạm vi kiểm tra, xác nhận và đánh giá của KTNB bao gồm:
- Độ tin cậy của thông tin tài chính - kế toán do kế toán tổng hợp xử lý
và trình bày.
4
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
- Tính tuân thủ luật pháp và các qui chế, các qui định của nhà nước, các
qui định của bản thân doanh nghiệp.
- Tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ.
- Tính hiệu quả của các hoạt động kinh tế và việc sử dụng các nguồn lực,
lựa chọn các phương án các quyết định kinh tế.
3. Nhiệm vụ của KTNB
Để làm đúng và trọn vẹn chức năng của mình, kiểm toán nội bộ có
nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất là kiểm tra và đánh giá tính phù hợp, tính hiệu lực và hiệu quả
của hệ thống KTNB trong đơn vị, trong doanh nghiệp.
Thứ hai là kiểm tra và xác nhận chất lượng, độ tin cậy của thông tin kinh
tế, tài chính, của báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị doanh nghiệp
trước khi trình ký duyệt và công bố.
Thứ ba là kiểm tra và đánh giá sự tuân thủ luật pháp chính sách, chế độ
tài chính, kế toán, chính sách, nghị quyết, quyết định của hội đồng quản trị,
của ban giám đốc doanh nghiệp.
Thứ tư là phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý, trong
bảo vệ tài sản của doanh nghiệp, đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến hoàn
thiện hệ thống quản lý, điều hành kinh doanh của doanh nghiệp.
Đây là những nhiệm vụ cơ bản nhất mà một cuộc KTNB cần phải hoàn
thành để đáp ứng yêu cầu về thông tin cho doanh nghiệp cũng như những

người quan tâm đến doanh nghiệp.

II. NỘI DUNG HÌNH THỨC KTNB
1. Nội dung công việc của KTNB
Để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình kiểm toán có 3 nội dung
công việc sau:
- Kiểm toán hoạt động
- Kiểm toán báo cáo tài chính
- Kiểm toán tuân thủ
5
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
Tuỳ yêu cầu của BGĐ và các bộ phận được kiểm toán cùng với năng lực,
hoàn cảnh điều kiện có thể thực hiện 3 nội dung công việc kiểm toán hay một
trong 3 công việc cuả hoạt động kiểm toán.
a) Kiểm toán hoạt động
Kiểm toán hoạt động đánh giá tính hiệu quả, tác dụng của 1 phương án
kinh doanh, 1 qui trình công nghệ hay một loại TSCĐ muốn đưa vào hoạt
động. Kiểm toán hoạt động sử dụng các kỹ năng khác nhau: kế toán, tài chính,
kinh tế, kỹ thuật và khoa học Kết thúc cuộc kiểm toàn thường lập một bản
giải trình đánh giá, kết luận gửi cho các cơ quan có thẩm quyền.
Nội dung chủ yếu của kiểm toán hoạt động gồm:
- Kiểm tra việc huy động, phân phối sử dụng một cách tiết kiệm và có
hiệu quả các nguồn lực (nhân lực, vật tư và tài sản, vốn, lợi thế kinh doanh )
của doanh nghiệp.
- Kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, phân phối
và sử dụng thu nhập, kết quả bảo toàn và phát triển vốn.
- Kiểm tra và đánh giá hiệu quả và hoạt động của các bộ phận chức năng
trong việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
b) Kiểm toán tuân thủ
Kiểm toán tuân thủ là kiểm toán thường do cấp trên kiểm tra các đơn vị

cấp dưới về việc chấp hành các qui định, qui chế.
Nội dung công việc kiểm toán tuân thủ
- Kiểm tra tính tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ tài chính, kế toán,
chế độ quản lý của nhà nước và tình hình chấp hành các chính sách, nghị
quyết, quyết định, qui chế của hội đồng quản trị, của ban giám đốc.
- Kiểm tra tính tuân thủ các qui định về nguyên tắc, qui trình nghiệp vụ,
thủ tục quản lý của toàn bộ cũng như của từng khâu công việc, của từng biện
pháp trong hệ thống kiểm soát nội bộ.
- Kiểm tra sự chấp hành các nguyên tắc, chính sách, các chuẩn mực kế
toán từ khâu lập chứng từ vận dụng hệ thống tài khoản, ghi sổ kế toán, tổng
hợp thông tin và trình bày báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị đến lưu
trữ tài liệu kế toán
6
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
c) Kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo kế toán quản trị nhằm kiểm
tra xác nhận các thông tin số liệu trên báo cáo tài chính được tập hợp có trung
thực và hợp lý không, có phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán
thông dụng đã được chấp nhận không,
Nội dung kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo kế toán quản trị gồm:
Thứ nhất là kiểm tra và xác nhận tính kịp thời, đầy đủ, khách quan, tính
tin cậy của báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị trước khi được duyệt và
công bố.
Thứ hai là kiểm tra và đánh giá các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán
quản trị đưa ra những kiến nghị và tư vấn cần thiết cho hoạt động sản xuất
kinh doanh nhằm bảo đảm sự hợp lý và hiệu quả.
2. Các hình thức kiểm toán nội bộ
Hoạt động KTNB có thể tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuỳ
từng điều kiện hoàn cảnh và trong từng khoảng thời gian không gian cụ thể
cần và có thể vận dụng các hình thức kiểm toán một cách thật linh hoạt sao
cho có hiệu quả. Trên thực tế trong công tác KTNB người ta sử dụng các hình

thức sau:
a) Kiểm toán toàn diện và kiểm toán đặc biệt
Kiểm toán toàn diện nhằm vào toàn bộ hoạt động kinh doanh, hoạt động
kế toán với mục đích xem xét sự chính xác của tài liệu, số liệu kế toán, đồng
thời tìm hiểu xem các tài liệu này đã phản ánh trung thực của tình hình hoạt
động của cơ quan, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp chưa.
Trái lại, kiểm toán đặc biệt (hay kiểm toán chuyên đề) tập trung vào số
nghiệp vụ nhất định, ví dụ như kiểm toán ngân quỹ, kiểm toán hoạt động bán
hàng, kiểm toán chi phí, lợi nhuận,
Tuy nhiên để phân biệt giữa 2 loại kiểm toán này cũng không đơn giản,
vì đôi khi 1 cuộc kiểm toán đặc biệt chỉ nhìn vào một vấn đề xem công ty có
chia lãi đúng qui định không, cũng đòi hỏi phải thực hiện một cuộc kiểm toán
hầu như toàn diện mới có đủ yếu tố để xác định.
Do đó, tiêu chuẩn phân biệt hai loại kiểm toán này nằm ở chỗ bao gồm
nhiều hay ít nghiệp vụ phải kiểm toán. Nếu cuộc kiểm toán chỉ nhằm vào một
đối tượng, một vấn đề nào đó được xác định rõ thì đó là kiểm toán đặc biệt.
7
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
Trái lại, nếu cuộc kiểm toán bao quát nhiều vấn đề nhằm vào nhiều mục đích
thì đó là kiểm toán toàn diện.
b) Kiểm toán thường xuyên và kiểm toán định kỳ
Kiểm toán thường xuyên là thực hiện việc thẩm tra, xem xét liên tục,
hàng tuần, hàng tháng trong suốt năm. Hình thức này có thể giúp cho việc
phát hiện mau chóng kịp thời các sai sót, nhờ đó hạn chế ngăn chặn được các
tác hại, có tính chất phòng ngừa rất hiệu quả.
Kiểm toán định kỳ chỉ nhằm theo dõi tình hình qua các báo cáo tài chính
kế toán hàng tháng, thàng quý hay cả năm, nghiên cứu đánh giá bảng cân đối
kế toán giữa năm hay cuối năm để đưa ra những nhận xét kết luận, đánh giá
công việc kinh doanh của doanh nghiệp.
Do khoảng cách về thời gian kiểm toán cách nhau khá xa nên nhiều khi

không mang lại kết quả mong muốn về các sai sót, tiêu cực (nếu có) đã gây ra
những hậu quả khó có thể khắc phục.
c) Kiểm toán phòng ngừa và kiểm toán sau hoạt động
Kiểm toán phòng ngừa là loại hình kiểm toán bao gồm những biện pháp
phòng ngừa được áp dụng trước hay ngay sau khi một nghiệp vụ kế toán phát
sinh nhằm bảo đảm cho bộ máy kế toán hoạt động chuẩn xác và hợp thức, loại
trừ các sai phạm trước hay ngay khi chúng xuất hiện.
Kiểm toán sau hoạt động chỉ nhằm xem xét, khảo sát để xác định xem
các sổ kế toán có trung thực chính xác không, đồng thời phát giác các vi
phạm, gian lận nếu có.
Hai hình thức này mặc dù có sự khác nhau nhưng vẫn có sự hỗ trợ nhau
rất hữu hiệu. Một mặt, chính nhờ các kinh nghiệm, các kết luận được rút từ
những cuộc kiểm toán sau hoạt động mà các chuyên gia mới xây dựng, thiết
lập các biện pháp phòng ngừa cho công tác kiểm toán phòng ngừa. Mặt khác,
việc ban hành các biện pháp phòng ngừa không chỉ đơn thuần đưa ra các chỉ
thị, các qui định mà còn phải có những sự kiểm toán theo dõi sự tuân thủ,
chấp hành nữa, đó là một dạng kiểm toán sau hoạt động đầu tiên.
3. Đối tượng của KTNB
Đối tượng của công tác kiểm toán là xem xét đánh giá sự hợp thức của
các số liệu, tài liệu kế toán. Để có thể đạt đến mục đích này công việc phải
8
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
làm là xác định các sổ kế toán, các số liệu kế toán được kiểm tra không chứa
đựng một sai lầm hay gian lận nào.
Do đó đối tượng của kiểm toán là loại trừ các sai lầm và gian lận
Sai lầm và gian lận là các khiếm khuyết, các vi phạm đối với nguyên tắc
và luật lệ kế toán đã được qui định. Sự khác biệt giữa sai lầm và gian lận nằm
trong yếu tố ý đồ.
Sai lầm là sự vi phạm do bất cẩn, vô ý hay kém cỏi mà người thực hiện
hoàn toàn không có.

Gian lận là một sự vi phạm do cố tình mà người thực hiện có ý đồ phạm
pháp rõ rệt.
Trên thực tế kiểm toán viên nhiều khi khó phân biệt xem sự vi phạm nào
là sai lầm và sự vi phạm nào là gian lận. Xác định một trường hợp vi phạm là
có ý đồ hay không có ý đồ hoàn toàn không đơn giản.
Các dạng sai lầm thường gặp là do thiếu sót, do định khoản sai, nhầm
lẫn về ghi sổ và chuyển khoản sổ, nhầm lẫn do trùng lắp, sai lầm bù trừ nhau,
sai lầm về nguyên tắc.
Các hình thức gian lận thường gặp là gian lận tiền bạc và tài sản tạo
dựng tình huống.
III. QUI TRÌNH VỀ TRÌNH TỰ KTNB
Quy trình về trình tự KTNB trong một doanh nghiệp bao gồm các bước
sau:
1) Lập kế hoạch và lựa chọn phương pháp kiểm toán
Công việc chủ yếu ở bước này bao gồm
Thứ nhất là lập chương trình kế hoạch, xác định mục tiêu, nội dung,
phạm vi và thời gian tiến hành KTNB.
Thứ hai là xác định qui mô cuộc kiểm toán, phương pháp, cách thức tiến
hành kiểm toán, biện pháp tổ chức thực hiện, tổ chức lực lượng kiểm toán
(bao gồm cả KTV trong ngoài doanh nghiệp và các nhân viên chuyên môn
cần huy động).
2) Công tác chuẩn bị kiểm toán
9
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
Sau khi thực hiện song bước 1 kiểm toán tiến hành thực hiện bước 2
gồm các công việc sau:
- Nghiên cứu các văn bản, tài liệu liên quan đến tình hình hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, nhiệm vụ kế hoạch hoặc các điều kiện, biện pháp,
các chính sách, qui định của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh sẽ kiểm toán.
Sơ bộ đánh giá về điều kiện và môi trường hoạt động kinh doanh ảnh hưởng

đến các mặt hoạt động của doanh nghiệp.
- Xem xét các báo cáo, tài liệu, hồ sơ kiểm toán trước đó, kể cả các tài
liệu bên ngoài doanh nghiệp có liên quan đến cuộc kiểm toán; tóm tắt thông
tin cần phải kiểm tra trong quá trình kiểm toán sắp tới, thu thập và chuẩn bị
các mẫu, các chương trình, các chỉ dẫn cho cuộc kiểm toán sẽ được tiến hành.
3) Thực hiện việc kiểm toán
Các nhiệm vụ trong bước này gồm:
Thu thập và đánh giá đầy đủ các bằng chứng cần thiết có liên quan kể cả
các chứng cứ bên ngoài doanh nghiệp.
Xem xét, đánh giá việc thực hiện các chính sách, qui định trong thực tế
hoạt động của doanh nghiệp.
Đánh giá khả năng sai sót nhầm lẫn, gian lận đối với từng loại nghiệp vụ,
từng hoạt động kinh tế, đánh giá tính trọng yếu và rủi ro trong các nghiệp vụ
phát sinh từ nội bộ doanh nghiệp .
Phân tích, khảo sát các khoản mục chính, khảo sát, bổ xung các chi tiết,
xem xét các sự kiện tiếp sau, đang kết quả cuộc kiểm toán.
Các bước tiến hành thực hiện cuộc kiểm toán phải theo đúng qui trình
của một cuộc kiểm toán và phải được ghi nhận trên tài liệu hồ sơ kiểm toán .
4. Kết thúc cuộc kiểm toán
Khi kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên nội bộ phải lập báo cáo kiểm
toán. Trong báo cáo kiểm toán phải trình bày đầy đủ các nội dung và kết quả
kiểm toán theo mục tiêu, yêu cầu đã đề ra,….,đề xuất các kiến nghị và biện
pháp xử lý các sai sót, gian lận, các vi phạm, nêu các giải pháp cần thiết để
nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý kinh doanh của doanh nghiệp.
10
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
Phúc tra kết quả kiểm toán là công việc tiếp sau cuộc kiểm toán nhằm
kiểm tra lại việc triển khai thực hiện những kiến nghị, những đề nghị xử lý và
những giải pháp đã nêu trong báo cáo kiểm toán ở các bộ phận quản lý, điều
hành kinh doanh của doanh nghiệp.

IV. SỰ CẦN THIẾT PHẢI KTNB Ở CÁC NHTM
1. Đặc trưng hoạt động của các NHTM
Theo quan điểm chung trên thế giới thì ngân hàng là một loại hình
doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Theo pháp lệnh
ngân hàng Việt Nam NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ là hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn
trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán.
Tóm lại, NHTM cũng giống như các doanh nghiệp khác ở chỗ nó cũng
có một hệ thống cơ cấu tổ chức và mục tiêu hoạt động cao nhất cũng vẫn là
lợi nhuận là việc đa dạng hoá vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp và NHTM.
Có thể khẳng định rằng, đặc trưng quan trọng nhất trong hoạt động của
các NHTM có thể là mang tính rủi ro cao, rủi ro mang tính qui luật như rủi ro
tín dụng, hối đoái Tính rủi ro cao mang tính qui luật trong hoạt động của
các NHTM xuất phát từ nhiều nguyên nhân.
- Do các NHTM hoạt động dựa trên cơ sở thu hút tiền của khách hàng
(dưới hình thức nhận tiền gửi, huy động bằng KP, kỳ phiếu và đi vay ) , với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư và các nghiệp
vụ thanh toán.
Như vậy NHTM tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình chủ yếu
bằng nguồn vốn tín dụng huy động của khách hàng. Nếu như NHTM không
thu hồi được số nợ mà họ đã cho vay hoặc đầu tư cũng gặp phải rủi ro thì
không những họ bị mất nguồn vốn tự có của bản thân mà còn có nguy cơ
không thể hoàn trả được số tiền đã huy động của khách hàng. Điều này dẫn
đến sự phá sản của ngân hàng và đây là rủi ro lớn nhất của NHTM.
- Do NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, nó khác với các
doanh nghiệp bình thường ở chỗ NHTM hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực
tiền tệ, tín dụng, thanh toán mà tiền tệ luôn luôn gắn liền với rủi ro, rủi ro về
11
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng

sự biến động giá trị của đồng tiền. Do đó mà hoạt động của NHTM cũng gắn
liền với rủi ro.
- Hoạt động của NHTM gắn liền với một mảng trong nền KTQD nếu
như trình độ pháp lý và khả năng điều hành của các cấp lãnh đạo chỉ cần có
một chút sơ xuất là có thể gây ra thiệt hại lớn cho nền kinh tế rất dễ dẫn đến
tình trạng phá sản lan truyền giữa các NHTM trong nền kinh tế.
- Rủi ro có thể đến với bất kỳ một ngân hàng nào nếu như nó không có
sức cạnh tranh trên thị trường, không tìm cho mình một chỗ đứng vững chắc
trên thị trường.
Rủi ro mang tính chủ quan của con người cũng làm ảnh hưởng không
nhỏ đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Rủi ro đó có thể là do:
Một là, trình độ quản lý, khả năng điều hành của các cấp lãnh đạo
không có tính chuyên môn. Bên cạnh đó có một số khác trong khi quản lý
điều hành còn thể hiện tính quan liêu, thiếu sâu sát, buông lỏng quản lý. Từ
đó dẫn đến hàng loạt trường hợp các phòng tín dụng, kế toán thực hiện nghiệp
vụ không đúng quy định của NHNN. Tất cả những sai sót đó nhìn bề ngoài
tuy không nghiêm trọng nhưng chúng có thể đưa đến những ruỉ ro khó lường
đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Hai là, phẩm chất cán bộ ngân hàng. Cán bộ ngân hàng cần có tính
trách nhiệm rất cao trong công tác quản lý tài sản, tài chính. Đội ngũ cán bộ
ngân hàng phải trong sạch, vững mạnh.
Ba là, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào quả lý. Hiện
nay, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý còn chưa cao nên
công tác quản trị điều hành của các cấp lãnh đạo ngân hàng đối với các chi
nhánh trực thuộc chưa được nhanh chóng và nhạy bén. Điều này có thể đem
đến rủi ro mất các cơ hội kinh doanh của ngân hàng.
Bốn là, chất lượng công tác kiểm soát nội bộ ở các NHTM, công việc
này còn mang nặng tính hình thức, chiếu lệ, thực hiện không đều đặn, thiếu
thường xuyên và thiếu năng động. Do đó kết quả mang lại thường chỉ để sửa
sai sót, rút kinh nghiệm cho giai đoạn tiếp sau nhiều hơn là ngăn chặn kịp thời

các sai sót, rủi ro sắp xảy ra.
12
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
Còn nhiều vấn đề có thể dẫn đến rủi ro cho hoạt động của các NHTM
có thể xuất phát từ phía khách hàng, có thể là từ phía ngân hàng và cũng có
thể là do khách quan (khủng hoảng tài chính khu vực, động đất, lạm phát ),
có thể còn xuất phát từ các chính sách của Nhà nước
Tóm lại, có thể nói, ngân hàng là nghề của rủi ro. Điều đó có nghĩa là
các loại rủi ro luôn luôn bao vây, rình rập ngân hàng.Khi có bất kỳ một sai
sót, sơ hở nào chúng cũng có thể xuất hiện để làm cho hoạt động của ngân
hàng sa sút và phát sản.
2. Sự cần thiết phải KTNB trong các NHTM
Xuất phát từ đặc trưng trong hoạt động của các NHTM là mang tính rủi
ro cao đã buộc các NHTM trong bất cứ một môi trường, chế độ xã hội nào
cũng đều phải biết cách định dạng được các rủi ro và chế ngự sự xuất hiện của
chúng thì các NHTM mới có thể tồn tại được.
Trước yêu cầu đó, KTNB đã được áp dụng vào hoạt động của các ngân
hàng. Mặc dù là một nước chậm phát triển, ngành ngân hàng Việt Nam ra đời
muộn hơn rất nhiều so với các nước trên thế giới nhưng các NHTM Việt Nam
cũng không thể nằm ngoài tính qui luật nói trên đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay hoạt động của các ngân hàng trong môi trường cạnh tranh thì việc tổ chức
công tác kiểm toán nội bộ thực sự là vấn đề bức thiết.
KTNB giúp cho các NHTM công khai các báo cáo tài chính, thông tin
có giá trị xác thực tạo điều kiện củng cố niềm tin, uy tín, sức mạnh tăng ưu
thế cạnh tranh trên thị trường. Đây chính là một trong số các mục tiêu của các
NHTM.
Thêm vào đó, hiện nay phần lớn các NHTM ở Việt Nam thường có các
chi nhánh và các đơn vị thành viên thực hiện hạch toán độc lập hay các đơn vị
sự nghiệp. Như vậy trong một NHTM các hệ thống báo cáo tài chính được
xây dựng từ những nghiệp vụ phát sinh ở các cơ sở trực tiếp giao dịch. Do

vậy khi tổng hợp quyết toán toàn NHTM thì cần thiết phải thẩm tra, xem xét,
đánh giá cho đúng chuẩn mực từng nghiệp vụ phát sinh, từng loại báo cáo tài
chính. Để thẩm tra, xem xét, đánh giá các báo cáo tài chính từ cơ sở cho phù
hợp với các loại chuẩn mực thì cần thiết phải có đội ngũ KTVNB tiến hành
13
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
kiểm toán và ký xác nhận vào từng loại báo cáo trước khi tập hợp toàn ngân
hàng.
Nói tóm lại, KTNB trở nên hết sức cần thiết đối với các NHTM. Nó tạo
điều kiện cho các NHTM luôn có ý thức tự hoàn thiện các hoạt động của
mình, nâng cao và củng cố niềm tin, uy tín của ngân hàng trên thị trường, là
điều kiện vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại của các NHTM. Do dó, các
NHTM không những phải làm tốt công tác KTNB mà còn biến nó trở thành
một công cụ cạnh tranh của mình trên thị trường.
3. Các loại KTNB trong ngân hàng
KTNB trong ngân hàng được chia thành các loại khác nhau dựa vào các
giai đoạn phát sinh, thực hiện và kết thúc nghiệp vụ ngân hàng và mỗi loại lại
có tác dụng cụ thể khác nhau.
- Kiểm toán giai đoạn 1 : còn gọi là kiểm toán trước. Trong cuộc kiểm
toán giai đoạn này nhờ vào sự thành thạo về các qui định, qui chế kiểm toán
viên nội bộ có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý của hồ sơ, chứng từ
trước khi nghiệp vụ được thực hiện.
- Kiểm toán giai đoạn 2 : còn gọi là kiểm toán trong của quy trình thực
hiện. Giai đoạn này các kiểm toán viên lựa chọn cách thức, phương pháp
kiểm toán áp dụng thích hợp phụ thuộc vào từng nghiệp vụ và từng loại rủi ro
khác nhau.
Tác dụng của kiểm toán giai đoạn này là giám sát quá trình thực hiện,
hạn chế khả năng xảy ra lệch lạc, sai sót như thực hiện không đúng trình tự
nghiệp vụ qui định, sai sót về thủ tục hoặc sai sót về số tiền nhằm ngăn chặn
kịp thời những thiệt hại về sau.

- Kiểm toán giai đoạn 3 : còn gọi là kiểm toán sau. Loại kiểm toán này
được thực hiện khi nghiệp vụ đã hoàn thành. Kiểm toán sau ngoài việc kiểm
tra lại hồ sơ chứng từ nghiệp vụ, rà soát lại tính hợp lý, hợp lệ của nghiệp vụ
ở 2 giai đoạn trước, còn có tác dụng phát hiện ra những hiện tượng bất thường
trong những nghiệp vụ đã hoàn thành.
Như vậy sự an toàn trong kinh doanh tiền tệ - tín dụng của các NHTM
phần lớn là dựa vào công tác kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ. Vì vậy
nâng cao chất lượng kiểm toán nội bộ của các NHTM là rất cần thiết.
14
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
4. Nội dung công tác KTNB trong hệ thống NHTM ở Việt Nam
Nội dung công tác KTNB trong các NHTM ở Việt Nam thể hiện những
nội dung cơ bản của KTNB nhưng nó được chi tiết và cụ thể ở các lĩnh vực
chủ yếu sau đây :
Thứ nhất là kiểm toán về chấp hành các qui định của hội đồng quản trị
về các chế độ liên quan đến hoạt động của đơn vị, các qui định, chính sách
của ngành, của Nhà nước.
Thứ hai, là kiểm toán về các nghiệp vụ kinh doanh như nghiệp vụ kinh
doanh tín dụng, nghiệp vụ hối đoái, dịch vụ thanh toán, nghiệp vụ bảo lãnh
kiểm toán các báo cáo tài chính hàng quý, hàng năm.
KTNB thực hiện càng sát với thực tế các thông tin thu được từ báo cáo
kiểm toán càng có độ tin cậy cao. Do đó càng có ý nghĩa đối với chính doanh
nghiệp và các chủ thể liên quan.
Thông thường kiểm toán nội bộ trong các NHTM sẽ tiến hành kiểm
toán các báo cáo tài chính sau :
Bảng cân đối tài sản, Báo cáo thu chi tiền tệ, Báo cáo kết quả kinh
doanh, Báo cáo các khoản cho vay, bảo lãnh và mở thư tín dụng nhập hàng trả
chậm.
Để có thể thực hiện tốt công tác KTNB nhằm bảo đảm an toàn cho hoạt
động của mình, các NHTM phải ban hành các qui định về KTNB và tổ chức

kiểm toán toàn bộ hoạt động từng thời kỳ, từng lĩnh vực từ đó đánh giá một
cách độc lập và chính xác kết quả hoạt động kinh doanh và thực trạng tài
chính của mình.
15
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
PHẦN II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KTNB TRONG CÁC
NHTM VÀ NHỮNG Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
I. THỰC TRẠNG, KHÓ KHĂN TRONG CÔNG TÁC KTNB Ở CÁC NHTM
Trong những năm gần đây, hệ thống các tổ chức tín dụng không ngừng
lớn mạnh cả về lượng cũng như chất. Tính đến ngày 31 tháng 3 năm 1999 cả
nước có 6 ngân hàng quốc doanh, 51 NHTM cổ phần, 25 chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh với nước ngoài, 13 công ty tài chính và
công ty cho thuê tài chính, 996 quỹ tín dụng nhân dân. Hệ thống mạng lưới
ngân hàng quốc doanh cũng không ngừng phát triển, mở rộng đến mọi vùng
của đất nước. Sự lớn mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung và
của hệ thống ngân hàng nói riêng đã góp phần quan trọng trong việc phát triển
kinh tế xã hội. Cùng với sự lớn mạnh đó, KTNB cũng đi vào hoạt động và trở
thành một bộ phận quan trọng trong các NHTM.
1. Thực trạng của công tác KTNB trong các NHTM
Công tác KTNB mới được áp dụng trong các doanh nghiệp nói chung và
các ngân hàng nói riêng vài năm trở lại đây nên những số liệu tổng kết về
công tác này rất hạn chế và mang tính chất chung chung bởi công tác này
chưa được tổng kết trên phạm vi rộng. Nhưng KTNB đã nhanh chóng thể hiện
tính hiệu quả trong công tác kiểm tra, xác nhận giúp cho các ngân hàng có
được những thông tin chính xác về tình hình hoạt động của mình.
Trước hết, cần đề cập đến mô hình tổ chức công tác KTNB trong các
NHTM hiện nay.
Đối với các NHTM lớn, hoạt động trên địa bàn rộng, mức độ các hoạt
động gửi tiền, rút tiền, cho vay, thanh toán nhiều, phát sinh nhiều nghiệp vụ
và các nghiệp vụ cũng phức tạp hơn. Do đó khối lượng công tác kế toán trong

các NHTM này thường là rất lớn nên thường có một bộ phận được tách riêng
ra làm công tác kiểm toán nội bộ. Số người trong bộ phận kiểm toán nội bộ
phụ thuộc qui mô của mỗi NHTM.
16
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
Đối với các NHTM nhỏ hoặc là các chi nhánh NHTM hoạt động trên địa
bàn hẹp cũng có một bộ phận được tách riêng ra làm công tác KTNB - bộ
phận này thường thường là trực thuộc giám đốc (Ban giám đốc).
Các kiểm toán viên nội bộ ngân hàng thực chất là cán bộ công nhân viên
(thường là kế toán viên) được đơn vị cử đi đào tạo ngắn hạn rồi quay trở lại
làm nhiệm vụ với tư cách là KTVNB.
Bộ phận KTNB hoạt động do yêu cầu của giám đốc ngân hàng, hoặc của
chủ tịch hội đồng quản trị ngân hàng đó. Thông thường, KTNB thực hiện theo
định kỳ tháng hoặc năm.
Thứ hai, về quá trình tổ chức thực hiện công tác KTNB ở cácNHTM.
Khi có yêu cầu KTNB, bộ phận KTNB tiến hành đúng theo các bước của một
cuộc KTNB nói chung. Tuy nhiên do trình độ hạn chế nên việc lập kế hoạch
còn nhiều thiếu sót nhiều khi không đầy đủ, công tác chuẩn bị kiểm toán còn
sơ sài, do đó việc thực hiện kế hoạch có hiệu quả không cao.
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng KTNB cũngđã có tác dụng lớn trong
công tác hỗ trợ cho các bộ phận khác như bộ phận kế toán, bộ phận kiểm soát,
kiểm kê ngân quỹ. Có thể đưa ra một số tác dụng cụ thể sau:
Một là, xuất phát từ đặc điểm hoạt động của NHTM đó là NHTM
thường đã giành riêng một lượng tiền lớn và những chứng từ có giá để đảm
bảo khả năng thanh toán. Lượng tiền này vừa được dùng làm dự trữ, vừa được
dùng để điều chuyển, thanh toán. Phần lớn tài sản của ngân hàng là tiền mặt
và các giấy tờ có thể giao dịch được. Do tính chất của tài sản nắm giữ mà một
ngân hàng rất dễ bị tổn thương khi có gian lận và sai sót đặc biệt là tính chất
chuyển đổi cao của tiền mặt, séc và các chứng từ có giá khác. Việc thực hiện
KTNB đã giúp cho các NHTM tìm ra những sai sót này và sửa chữa, hoàn

thiện chúng đúng lúc, tránh được các sai sót gian lận kéo theo từ vấn đề đó.
Hai là, do NHTM thường tham gia vào các giao dịch lớn, với số lượng
tiền tệ rất lớn, các nghiệp vụ phát sinh nhiều, việc nhầm lẫn trong quá trình
hạch toán là khó tránh khỏi. Hầu hết các trường hợp kế toán có thể phát hiện
ra nhưng khi thực hiện công tác KTNB tạo điều kiện giúp cho việc rà soát của
các nhân viên kế toán nhanh hơn.
17
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
Ba là, các NHTM thường tổ chức hoạt động kinh doanh với một mạng
lưới các chi nhánh, các phòng giao dịch trải rộng theo các khu vực hành
chính. Vì vậy, việc phân cấp quản lý điều hành kinh doanh, chỉ tiêu tài chính
là điều tất yếu. Bên cạnh đó là sự phân tán về hoạt động hạch toán kế toán,
hoạt động kiểm tra, kiểm soát. Nếu như cứ tiếp tục tiến hành duy trì chế độ
quyết toán các báo cáo tài chính như hiện nay là các đơn vị cơ sở lập các báo
cáo trên cơ sở các nghiệp vụ phát sinh từ cơ sở và gửi báo cáo lên trung tâm
điều hành kiểm tra xem xét sơ bộ sau đó tập hợp toàn bộ hệ thống NHTM.
Như vậy rõ ràng cách làm này không đảm bảo tính chính xác cao mà thông
thường thì các đơn vị lập báo cáo có thể là cố ý dấu để những khoản có lợi
cho đơn vị họ hay những điều không tốt có hại đến tình hình tài chính, tình
hình phân phối kết quả thu nhập của đơn vị mình. Mặt khác, cũng có thể có
những khoản sai sót mà tự bản thân đơn vị cơ sở không thể phát hiện ra khi
lập baó cáo quyết toán.
Việc thực hiện KTNB sẽ giúp các ngân hàng kiểm tra ngay tính trung
thực hợp lý về các thông tin mà chi nhánh chuẩn bị trình lên trung tâm. Do đó
khi tập hợp toàn ngành hệ thống NHTM thì bộ phận KTVNB của trung tâm
cần xác định lại những thông tin đó một lần nữa với các dữ liệu đã thu thập
được. Chính vì vậy mà khi tiến hành kiểm toán trong toàn bộ hệ thống
NHTM, các NHTM sẽ tránh được khối lượng công việc dồn dập và tiết kiệm
được thời gian, kết quả kiểm tra và xác nhận có độ chính xác cao hơn và rút
ngắn được các thủ tục.

Bốn là, việc thực hiện công tác kiểm toán nội bộ giúp các ngân hàng
thúc đẩy, hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động kiểm soát nội bộ. Bằng
các chức năng kiểm tra, đánh giá và xác nhận KTNB sẽ hỗ trợ cho hoạt động
kiểm soát, làm giảm nhẹ công tác thanh tra từ bên ngoài.
Năm là, các NHTM thực hiện công tác KTNB tốt sẽ tạo điều kiện nâng
cao uy tín của mình, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Điều này có thể
được nhìn nhận thông qua khối lượng tiền gửi tăng nhanh, quy mô tín dụng
lớn và tăng trưởng liên tục.
Trong các năm gần đây, lượng vốn huy động qua hệ thống ngân hàng
tăng nhanh, bình quân khoảng 25-30%/năm. Nếu như năm 1997, lượng vốn
huy động qua hệ thống ngân hàng tăng 31,6% so với năm 1996 thì đến năm
18
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
1998, tốc độ huy động tuy tăng chậm lại nhưng vẫn đạt 25% so với năm 1997.
Qui mô tín dụng của ngân hàng cũng mở rông so với năm 1996; năm 1997
tăng 27,1%; năm 1998 tăng 25%; năm 1999 tăng 19%. Kết quả này có thể
khẳng định rằng, KTNB cũng đóng góp một phần quan trọng.
Ngoài ra, KTNB còn giúp cho các NHTM rất nhiều trong công tác chuẩn
bị phòng ngừa rủi ro, trích lập dự phòng tổn thất,
Nói tóm lại, thực hiện công tác KTNB giúp cho ngân hàng định dạng
được một số rủi ro từ đó có khả năng giúp ngân hàng chống đỡ tránh khỏi
những rủi ro đó, nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng. Từ
đây có thể nói rằng hoạt động KTNB trong các NHTM không những tăng
cường hiệu quả hoạt động của ngân hàng đó mà còn tạo ra sự ổn định và tính
hiệu quả của toàn ngành ngân hàng.
2) Những khó khăn trong công tác KTNB ở các NHTM
Hoạt động KTNB trong các NHTM ở Việt nam hiện nay còn gặp rất
nhiều khó khăn, xuất phát từ các nguyên nhân sau:
Trình độ chuyên môn của KTVNB. Nước ta lại chưa có trường đại học
nào đào tạo chính qui về chuyên ngành kiểm toán. Do đó hầu hết các KTVNB

trong các ngân hàng đều được hình thành từ các cán bộ nhân viên trong ngành
ngân hàng sau khi được ngân hàng cử đi đào tạo một thời gian. Chính vì thế
họ không phải là những người am hiểu tường tận về lĩnh vực kiểm toán. Do
đó trình độ chuyên môn của họ không cao. Điều này tác động trực tiếp đến
chất lượng. đến tính hiệu quả của công tác kiểm toán nội bộ.
Có thể nói đây là một trong số những vướng mắc lớn của chúng ta trong
lĩnh vực kiểm toán nói chung và kiểm toán nội bộ nói riêng.
Sự phát triển mạnh mẽ của KTNB trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi mỗi
đơn vị nói chung và mỗi ngân hàng phải có một hệ thống các văn bản làm căn
cứ pháp lý cho hoạt động này. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xây dựng hệ thống
các văn bản qui định về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
bộ phận KTNB mà mỗi ngân hàng phải thực hiện là hết sức khó khăn. Bởi vì
hệ thống các văn bản này có ý nghĩa quan trọng đối với bộ phận KTNB giúp
cho các KTVNB có căn cứ pháp lý và định hướng trong khi thực hiện nhiệm
19
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
vụ, thể hiện mức độ quan tâm khác nhau đối với lĩnh vực KTNB ở một ngân
hàng là một nhân tố quyết định chất lượng của hoạt động KTNB.
Do xuất phát từ trình độ chuyên môn của các KTVNB còn hạn chế và
thiếu những căn cứ pháp lý cho công tác kiểm toán nội bộ làm cho quá trình
thực hiện hoạt động này diễn ra chậm chạp, gặp phải nhiều khó khăn đặc biệt
trong công tác lập kế hoạch kiểm toán và lựa chọn phương pháp kiểm toán.
Và khi đã lập được kế hoạch rồi nhưng công tác chuẩn bị lại không hoàn thiện
nhiều khi còn làm sai lệch kế hoạch đã vạch ra.
Hoạt động KTNB còn gặp phải nhiều khó khăn là do tính chất hoạt động
trong các NHTM. Cụ thể là:
- Do khối lượng giao dịch ở các NHTM là rất lớn, khối lượng tiền tệ
cũng lớn nên hiện nay hầu hết các NHTM đều phải có hệ thống máy vi tính
trợ giúp. Trước đây, nói chung các nghiệp vụ đều có chứng từ gốc để chứng
minh và hầu hết các kết quả của quá trình xử lý là rõ ràng đối với người sử

dụng và đối với các kiểm toán viên. Với khối lượng công việc ngày một lớn
hơn của dữ kiện và sự phức tạp hơn về hoạt động thì điều này không còn thực
tế nữa. Sự phát triển của hệ thống xử lý dữ kiện điện tử trên thực tế đã nâng
cao rất nhiều năng lực kiểm soát của ngân hàng và ngược lại, điều này đang
làm nảy sinh nhiều loại rủi ro khác xuất phát từ lỗi của máy tính và gian lận
của máy tính gây nên. Bởi vì, ở đầu vào, các nghiệp vụ kinh tế có thể được
nhập trực tiếp vào máy tính thông qua thiết bị đầu cuối và những bút toán này
có thể không dựa trên các chứng từ gốc.
- Do công tác KTNB ở Việt Nam mới được áp dụng không lâu nên vì thế
mà những khó khăn trong hoạt động này là không thể tránh khỏi. Điều này
đòi hỏi chính mỗi Ngân hàng phải nhận thức được và nhanh chóng tìm cách
khắc phục để cho công tác kiểm toán nội bộ không những hoàn chỉnh mà còn
trở thành một công cụ đắc lực thúc đẩy sự tăng trưởng của chính Ngân hàng
đó.
II. NHỮNG PHƯƠNG PHÁP VÀ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC KTNB Ở CÁC NHTM
1. Một số giải pháp
20
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
Xuất phát từ thực trạng và khó khăn trên, các NHTM phải tự nghiên
cứu và tìm ra những giải pháp phù hợp với điều kiện cụ thể của mình nhằm
làm cho tổ chức mình ngày càng lớn mạnh lên trong thị trường cạnh tranh.
Trên thực tế nhiều năm gần đây các Ngân hàng cũng đã từng thực hiện
một số giải pháp và đã đạt được một số hiệu quả:
Một là, giải pháp mang tính thiết thực nhất phải là những giải pháp có
thể tác động đến trình độ chuyên môn của các KTNB. Do đó cần có các giải
pháp nâng cao trình độ chuyên môn của các KTNB. Để làm được điều này thì
các NHTM cần phải liên tục cho các KTNB tham dự các khoá học tập huấn
về kiểm toán, dần dần nâng cao sự hiểu biết, sự chuyên sâu của đội ngũ
KTNB. Ngoài cách thức cho các cán bộ Ngân hàng trong ngành đi học về lĩnh

vực kiểm toán, các NHTM lớn có đủ khả năng và điều kiện nên mời hẳn một
chuyên gia về kiểm toán thực hiện và chịu trách nhiệm về công tác kiểm toán
trong cơ quan mình thêm vào đó là đưa các chuyên gia này đi học thêm về
lĩnh vực Ngân hàng.
Hai là, để cho công tác KTNB đạt được hiệu quả cao, trước hết các
NHTM phải tự xác định cụ thể hơn các chuẩn mực mà mình cần phải thực
hiện và những chuẩn mực mà Nhà nước yêu cầu. Từ các chuẩn mực này, các
KTNB sẽ có phương hướng rõ ràng trong quá trình thực hiện, tránh được tình
trạng chuẩn mực không cụ thể, không rõ ràng làm cho các KTNB Bộ không
thể có căn cứ để đối chiếu.
Ba là, việc định ra căn cứ pháp lý, phân định rõ ràng chức năng nhiệm
vụ, quyền hạn của các KTNB trong các NHTM cũng là những yếu tố tác động
đến tính hiệu quả của công tác KTNB. Ngân hàng nào làm tốt công tác này
chứng tỏ Ngân hàng đó quan tâm đến sự hiện diện của KTNB và từ đó các
KTNB có động lực làm việc tốt hơn và nó được khẳng định bằng chất lượng
của hoạt động KTNB. Do đó các Ngân hàng nên thực hiện tốt công tác này.
Bốn là, để tăng cường và đảm bảo hiệu quả hoạt động KTNB cần phải
có sự trợ giúp đầy đủ và đúng lúc của chính các nhà quản lý cấp cao cũng như
sự hợp tác toàn diện của các bộ phận và cá nhân trong đơn vị. Sự trợ giúp và
hợp tác này có thể thể hiện ở chỗ các nhà quản lý các cá nhân và các bộ phận
thực hiện tốt các nhiệm vụ và các yêu cầu mà CTVNB đề ra. Cùng với các
21
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
CTVNB tiến hành thu thập giúp các tài liệu, trình các tài liệu mà CTVNB
cần.
Năm là, ngoài việc xác định rõ các chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ
của CTVNB, của bộ phận KTNB, các NHTM phải ban hành các qui định về
kiểm toán nội bộ và tổ chức kiểm toán toàn bộ hoạt động từng thời kỳ, từng
lĩnh vực nhằm đánh giá một cách độc lập và chính xác kết quả hoạt động kinh
doanh và thực trạng tài chính của mình.

Sáu là, do những khó khăn trong việc tìm ra những sai sót và gian lận ở
các NHTM thực hiện các nghiệp vụ trên hệ thống máy vi tính nên để có thể
giải quyết được những khó khăn này đòi hỏi các KTVNB phải có trình độ cao
về máy vi tính , có tinh thông trong các nghiệp vụ kinh tế. Vì vậy các NHTM
phải tuyển những nhân viên có trình độ cao về máy vi tính và liên tục mở lớp
tập luyện để cập nhật các thông tin về máy.
Và giải pháp mang tính tổng quát nhất đó là các NHTM phải luôn luôn
quan tâm đến công tác KTNB về việc bố trí kiểm toán hợp lý, sử dụng kỹ
thuật kiểm toán phù hợp. Đó là yếu tố làm tăng tính hiệu quả và chất lượng
của công tác KTNB, chất lượng cũng là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát
triển của Ngân hàng.
Nói tóm lại, các giải pháp mà mỗi Ngân hàng thực hiện đều mang tính
đặc thù, tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động của từng Ngân hàng. Nhưng tất cả
đều nhằm mục tiêu hoàn thiện công tác kiểm toán nội bộ, sử dụng nó như một
công cụ đòn bẩy để tăng cường sự an toàn cho hoạt động của các ngân hàng.
Đó là những biện pháp mang tính chủ quan mà nỗi ngân hàng có thể sử dụng
trong từng điều kiện hoàn chỉnh.
2. Ý kiến đề xuất.
Chất lượng của công tác KTNB trong các NHTM không những phụ
thuộc vào mức độ quan tâm của các NH mà còn do môi trường, chính sách xã
hội của Nhà nước. Do đó những ý kiến đề xuất được nhìn từ 2 góc độ, đối
với các NHTM và đối với Nhà nước.
a) Ý kiến đề xuất đối với các NHTM :
Ngoài việc thực hiện các giải pháp trên, các NHTM trong thời gian tới
cần phải tiếp tục chú ý hơn, quan tâm hơn đến công tác KTNB, đặc biệt là đến
22
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
các KTVNB. Không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn cho các KTVNB
bằng nhiều cách khác nhau, đưa cho các KTVNB tiếp xúc với nhiều tình
huống có thể xảy ra. Ngoài ra các NHTM nên thường xuyên mời các chuyên

gia trong lĩnh vực kiểm toán đến nói chuyện để nâng cao kinh nghiệm cho các
KTVNB của cơ quan. Thêm vào đó là các NHTM cần quan tâm đến lợi ích ,
đến nhu cầu của các KTVNB , tạo động lực cho đội ngũ này hăng say làm
việc.
b) Ý kiến đề xuất đối với Nhà nước
Một là, mặc dù công tác KTNB xuất phát từ nhu cầu cụ thể từng đơn vị
kinh tế nói chung và của từng ngân hàng nói riêng nhưng trong điều kiện hiện
nay, do sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động này cùng với trình độ hạn chế
của các NHTM trong việc đưa ra các qui chế pháp lý,các văn bản về pháp lý
cho công tác hoạt động của chính đơn vị mình nên đề nghị Nhà nước có chính
sách hỗ trợ, giúp đỡ các ngân hàng trong công tác này. Đó là Nhà nước nên
đưa ra một khung pháp lý về KTNB để các đơn vị tiện sử dụng từ đó áp dụng
vào đơn vị mình và có cơ sở để xây dựng các qui chế pháp lý cho đơn vị. Đây
chính là việc Nhà nước tạo ra môi trường hoạt động cho các đơn vị nói chung
và các ngân hàng nói riêng.
Hai là, xuất phát từ trình độ chung về kiểm toán ở Việt Nam là thấp,
nước ta lại chưa có nhiều trung tâm chính quy, chính thức đào tạo các kiểm
toán viên nên đề nghị Nhà nước sớm giao cho trung tâm kiểm toán trách
nhiệm đào tạo ,kinh phí để mở rộng hơn nữa qui mô đào tạo.
Ba là, Nhà nước nên sớm có các biện pháp để giúp các doanh nghiệp
nói chung và các ngân hàng nói riêng giải quyết các vướng mắc hiện tại , tạo
điều kiện cho công tác kiểm toán ngày càng được hoàn chỉnh.
23
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
KẾT LUẬN
Có thể khẳng định rằng KTNB là nhu cầu hoạt động tất yếu của mỗi
doanh nghiệp nói chung và của mỗi NHTM nói riêng. Điều này ngày càng
được khẳng định rõ nét đối với các nước vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị
trường như ở nước ta hiện nay. Yêu cầu ngày càng cao đối với chất lượng các
thông tin đặc biệt là thông tin về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của

một đơn vị trong nền kinh tế là động lực cho sự phát triển của kiểm toán nội bộ.
Mặc dù KTNB mới được áp dụng ở Việt Nam gần 10 năm nhưng nó đã
đóng góp một vai trò quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng, giúp các
ngân hàng bảo đảm được sự an toàn trong hoạt động của mình - một nghề của
rủi ro
Bên cạnh những vai trò đó, quy trình thực hiện công tác KTNB cũng
nảy sinh không ít những vấn đề bức xúc.
Trong bài vết này, với giới hạn về trình độ cùng với sự hạn chế về qui
mô tôi chỉ mới đề cập được vài nét cơ bản về "Công tác KTNB trong các
NHTM". Lĩnh vực này vẫn còn có nhiều vấn đề bất cập đang tồn tại và tiếp
tục phát sinh mà khuôn khổ đề tài này chưa nghiên cứu tới và đòi hỏi chúng ta
tiếp tục bàn luận thêm nữa để bổ xung và hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhận xét và góp ý của các giảng viên về
bàI viết này.
24
Chuyªn ®Ò kÕ to¸n trëng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Sách Kiểm toán nội bộ.
2/Tạp chí kiểm toán
3/Tạp chí kế toán
4/ Tạp chí ngân hàng
25

×