Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

77 Phướng hướng hoàn thiện công tác kiểm toán nội bộ trong các Ngân hàng thương Mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.69 KB, 34 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Hệ thống ngân hàng trong bất kỳ một nền kinh tế nào cũng luôn giữ vai
trò quan trọng trong quá trình ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Với tư cách
là một định chế tài chính trung gian, hệ thống ngân hàng không những chỉ
thực hiện tốt việc huy động, phân phối lại nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong
xã hội, thanh toán và cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho các tổ chức, cá
nhân mà còn thực hiện việc kiểm tra kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Tính hiệu quả trong hoạt động kinh tế, sự phồn thịnh hay suy thoái của
nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào chất lượng hoạch định và thực thi chính
sách tiền tệ một cách linh hoạt có hiệu quả và chất lượng hoạt động của hệ
thống ngân hàng. Để đánh giá được hiệu quả trong hoạt động kinh tế thì cách
tốt nhất là phải đánh giá được chất lượng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Việc lượng hoá chất lượng hoạt động của hệ thống ngân hàng lại chỉ có thể
được thực hiện thông qua công tác kiểm toán.
Trong giai đoạn hiện nay với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế
thế giới, những yêu cầu đòi hỏi về chất lượng của thông tin đặc biệt là thông
tin về kết quả hoạt động kinh doanh của các đơn vị trong nền kinh tế đã ngày
càng khẳng định vai trò của công tác kiểm toán nội bộ cũng là một trong
những hình thức của kiểm toán trong đó nó nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá hoạt
động của doanh nghiệp ở từng bộ phận, từng đơn vị.
Ở Việt Nam, hoạt động kiểm toán nói chung cũng bắt đầu được thực
hiện vào cuối những năm 80 và kiểm toán nội bộ được áp dụng thực hiện vào
đầu những năm 90-91. Sự phát triển mạnh mẽ của kiểm toán nói chung và
kiểm toán nội bộ nói riêng đã tác động lớn đến tính hiệu quả, xu hướng hoạt
động của các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế - mọi doanh nghiệp và đơn vị
kinh doanh trong đó có các NHTM đều phải điều chỉnh và hoàn thiện các hoạt
động của mình nhằm xây dựng tổ chức mình ngày càng mạnh mẽ hơn, tạo sự
tin cậy hơn trong công chúng để tăng sức cạnh tranh của mình trong nền kinh
1
tế. Hệ thống NHTM Việt Nam cũng thực hiện hoạt động KTNB xuất phát từ
chính nhu cầu của mình để tạo ra những động lực thúc đẩy phát triển.


Sau gần 10 năm hoạt động KTNB trong các NHTM đã đạt được nhiều
thành quả nhưng bên cạnh đó công tác KTNB cũng phát sinh nhiều vấn đề bất
cập như những sai phạm trong qui trình KTNB, qui tắc của KTNB, tổ chức...
Xuất phát từ những vấn đề này đã nảy sinh trong tôi ý tưởng nghiên cứu
đề tài “Phương hướng hoàn thiện công tác kiểm toán nội bộ trong các ngân
hàng thương mại”.
Nội dung đề tài bao gồm những phần sau:
Phần I: Những vấn đề lý luận về KTNB trong các NHTM Việt Nam
I. Bản chất, chức năng và nhiệm vụ của KTNB
II. Nội dung, hình thức của KTNB
III. Sự cần thiết phải KTNB trong các NHTM
Phần II: Thực trạng của hoạt động KTNB trong các NHTM ở Việt
Nam hiện nay và các ý kiến đề xuất
I. Thực trạng khó khăn
II. Ý kiến đề xuất
2
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KTNB TRONG CÁC
NHTM VIỆT NAM
I. BẢN CHẤT CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA KIỂM TOÁN NỘI BỘ
Trên thế giới thuật ngữ kiểm toán (KT) đã có từ lâu, từ khi xuất hiện nhu
cầu xác định tính trung thực độ tin cậy của thông tin trong BCTC, kế toán và
thực trạng tài sản của một chủ thể trong quan hệ kinh tế.
Ở Việt Nam thuật ngữ kinh tế mới chỉ xuất hiện từ những năm cuối của
thập kỷ 80 nhưng nó đã nhanh chóng trở nên rất quan trọng trong hoạt động
kinh tế và đặc biệt kể từ khi Việt Nam bước sang nền kinh tế thị trường.
Nếu như kế toán có nhiệm vụ tổ chức hệ thống thông tin phục vụ cho các
quyết định kinh tế của các đối tượng có liên quan thì kinh tế có trách nhiệm
thẩm tra đánh giá, đảm bảo và nâng cao độ tin cậy của các thông tin kinh tế.
Như vậy có thể hiểu một cách tổng quát: kiểm toán là việc kiểm tra, thẩm
định, đánh giá nhằm xem xét chất lượng hoạt động của một tổ chức, chất

lượng của các hồ sơ tài chính, kế toán.
Kiểm toán được định nghĩa theo cách chung nhất, như sau: Kiểm toán là
quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền thu thập và đánh giá các
bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị cụ thể
nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin
này với các chuẩn mực đã được thiết lập từ trước.
Có nhiều cách phân loại kiểm toán khác nhau. Nếu phân loại theo chủ
thể kiểm toán thì kiểm toán có thể gồm 3 loại là kiểm toán độc lập và kiểm
toán nội bộ.
KTNN là công việc là kiểm toán do cơ quan kiểm toán nhà nước tiến
hành để xem xét việc chấp hành các chính sách, luật lệ, chế độ của nhà nước
và sự đánh giá sự hữu hiệu, hiệu quả hoạt động tại các đơn vị sử dụng vốn và
3
kinh phí của nhà nước. Kiểm toán nhà nước có nhiệm vụ kiểm tra, xác nhận
việc chi tiêu đúng mục đích, đúng dự toán và có hiệu quả ngân quỹ của nhà
nước. Bên cạnh đó, KTNN còn có quyền góp ý và yêu cầu các đơn vị được
kiểm toán sửa chữa những sai phạm và kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý
các vi phạm, đề xuất với chủ nhà nước sửa đổi, cải tiến cơ chế quản lý tài
chính, kế toán cần thiết.
Kiểm toán độc lập là công việc kiểm toán do các kiểm toán viên độc lập
hành nghề trong các công ty kiểm toán hoặc trong các văn phòng kiểm toán
chuyên nghiệp tiến hành. Trên thế giới, kiểm toán độc lập là loại hoạt động
dịch vụ tư vấn dưới sự bảo hộ và thừa nhận của pháp luật. Ngày nay công
việc kiểm toán độc lập càng ngày càng được quản lý chặt chẽ bởi các hiệp hội
chuyên ngành về kiểm toán. Hoạt động chủ yếu của kiểm toán độc lập là kiểm
toán báo cáo tài chính và thực hiện kiểm toán theo yêu cầu của khách hàng
ngoài ra còn thực hiện các dịch vụ tư vấn về tài chính - kế toán thuế. Ở Việt
Nam trong những năm gần đây kiểm toán độc lập đã và đang phát triển mạnh
mẽ. Tính đến đầu năm 1998, trong lĩnh vực kiểm toán độc lập có 6 công ty
KTNN, 4 công ty kiểm toán 100% vốn nước ngoài, 2 công ty liên doanh và

một số công ty tư nhân.
KTNB là công việc kiểm toán do các kiểm toán viên nội bộ của đơn vị
viên hành theo yêu cầu của giám độc doanh nghiệp hoặc thủ trưởng đơn vị.
1. Bản chất của KTNB
Xuất phát từ quan điểm thuần tuý về kế toán nhằm phát hiện các sai sót,
gian lận, KTNB đã dần dần mở rộng phạm vi hoạt động trên tất cả các lĩnh
vực hoạt động của chính trị hay của doanh nghiệp và hướng hoạt động KTNB
vào việc cải thiện và nâng cao chất lượng hoạt động tăng cường sức mạnh cho
cơ chế kiểm soát nội bộ.
Lịch sử phát triển hoạt động kiểm toán ở các nước có nền kinh tế thị
trường cho thấy KTNB là một nghề nghiệp mới mẻ. Tuy lúc đầu KTNB mang
4
tính chất không chuyên, không tồn tại ở các doanh nghiệp hay được coi như
một phần kiểm toán độc lập nhưng về sau nó đã trở thành một nghề có tính
chuyên nghiệp.
KTNB là công cụ quản lý của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp để kiểm
soát, đánh giá, phân tích tình hình hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá và
điều chỉnh chiến lược kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất. KTNB cũng là
công cụ để phân tích đánh giá chất lượng của hệ thống kiểm toán và hệ thống
kiểm toán nội bộ.
Trong doanh nghiệp, KTNB là bộ phận chịu trách nhiệm xem xét lại một
cách định kỳ các biện pháp mà ban giám đốc và các nhà quản lý ở mọi cấp áp
dụng để quản lý và kiểm soát doanh nghiệp. Chức năng này được đảm nhiệm
bởi một bộ phận chịu sự điều hành của Ban giám đốc nhưng hoàn toàn độc
lập với tất cả các bộ phận khác.
Các mục tiêu chính của KTNB trong khuôn khổ xem xét định kỳ là kiểm
trra các thủ tục có đủ an toàn và các thông tin có trung thực, tin cậy hay
không, các nghiệp vụ có hợp thức, tổ chức hoạt động có hiệu quả, cơ cấu có
rõ ràng và thích hợp hay không.
Như vậy, từ doanh nghiệp cho thấy KTNB không chỉ giới hạn trong bộ

phận kế toán và tài chính của doanh nghiệp, chính vì vậy đã xuất hiện kiểm
toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ cùng với khái niệm kiểm toán báo cáo tài
chính .
Tóm lại KTNB là hoạt động cần thiết của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường, là nhu cầu cần thiết khách quan cho việc kiểm soát chất
lượng hoạt động và đảm bảo chất lượng thông tin kinh tế, tài chính của
BCTC, kiểm toán hoạt động và kiểm toán tính tuân thủ các qui định, các chế
độ hiện hành của nhà nước và của doanh nghiệp,...Trên thực tế KTNB đã hình
thành và phát triển khá mạnh ở nhiều quốc giá trên thế giới. Nhưng ở nước ta
KTNB còn là vấn đề khá phức tạp và còn mới mẻ. Vì vậy cần phải có sự
5
thống nhất về nhận thức và cách thức tiến hành, triển khai và thực hiện không
những ở các doanh nghiệp mà còn ở các tổ chức tài chính - tiền tệ (như ngân
hàng), cơ quan quản lý nhà nước...
Ở các nước trên thế giới, thông lệ KTNB không được qui định bởi pháp
luật. Nói một cách khác, không có qui định nào bắt buộc một công ty nhà
nước hay tư nhân phải có KTNB. Việc quyết định thành lập bộ phận KTNB
phải xuất phát từ sự tự nguyện, từ yêu cầu thực tế của ban giám đốc. Các mục
tiêu và chức năng của KTNB vì thế mà thay đổi tuỳ theo yêu cầu cụ thể của
ban giám đốc.
2. Chức năng của KTNB
Số liệu tài liệu kế toán, BTCT của doanh nghiệp là căn cứ pháp lý để
đánh giá tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình thực
hiện nghĩa vụ với nhà nước, với các bên liên quan với doanh nghiệp. Doanh
nghiệp phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính đầy đủ, trung thực, hợp
lý của các số liệu kế toán và các thông tin trong BCTC đã được công bố. Do
đó nhà nước yêu cầu các doanh nghiệp phải thường xuyên tổ chức KTNB
nhằm đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của các thông tin đó.
Để thực hiện yêu cầu KTNB có 3 chức năng cơ bản là kiểm tra, xác
nhận và đánh giá.

Phạm vi kiểm tra, xác nhận và đánh giá của KTNB bao gồm:
Thứ nhất là độ tin cậy của thông tin tài chính - kế toán do kế toán tổng
hợp xử lý và trình bày.
Thứ hai là tính tuân thủ luật pháp và các qui chế, các qui định của nhà
nước, các qui định của bản thân doanh nghiệp.
Thứ ba là tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Thứ tư là tính hiệu quả của các hoạt động kinh tế và việc sử dụng các
nguồn lực, lựa chọn các phương án các quyết định kinh tế.
6
3. Nhiệm vụ của KTNB
Để làm đúng và trọn vẹn chức năng của mình, kiểm toán nội bộ có
nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất là kiểm tra và đánh giá tính phù hợp, tính hiệu lực và hiệu quả
của hệ thống KTNB trong đơn vị, trong doanh nghiệp.
Thứ hai là kiểm tra và xác nhận chất lượng, độ tin cậy của thông tin kinh
tế, tài chính, của báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị doanh nghiệp
trước khi trình ký duyệt và công bố.
Thứ ba là kiểm tra và đánh giá sự tuân thủ luật pháp chính sách, chế độ
tài chính, kế toán, chính sách, nghị quyết, quyết định của hội đồng quản trị,
của ban giám đốc doanh nghiệp.
Thứ tư là phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý, trong
bảo vệ tài sản của doanh nghiệp, đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến hoàn
thiện hệ thống quản lý, điều hành kinh doanh của doanh nghiệp.
Đây là những nhiệm vụ cơ bản nhất mà một cuộc KTNB cần phải hoàn
thành để đáp ứng yêu cầu về thông tin cho doanh nghiệp cũng như những
người quan tâm đến doanh nghiệp.
II. NỘI DUNG HÌNH THỨC KTNB
1. Nội dung công việc của KTNB
Để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình kiểm toán có 3 nội dung
công việc sau:

Một là kiểm toán hoạt động
Hai là kiểm toán báo cáo tài chính
Ba là kiểm toán tuân thủ
7
Tuỳ yêu cầu của BGĐ và các bộ phận được kiểm toán cùng với năng lực,
hoàn cảnh điều kiện có thể thực hiện 3 nội dung công việc kiểm toán hay một
trong 3 công việc cuả hoạt động kiểm toán.
a) Kiểm toán hoạt động
Kiểm toán hoạt động đánh giá tính hiệu quả, tác dụng của 1 phương án
kinh doanh, 1 qui trình công nghệ hay một loại TSCĐ muốn đưa vào hoạt
động. Kiểm toán hoạt động sử dụng các kỹ năng khác nhau: kế toán, tài chính,
kinh tế, kỹ thuật và khoa học... Kết thúc cuộc kiểm toàn thường lập một bản
giải trình đánh giá, kết luận các mặt tốt, xấu gửi cho các cơ quan có thẩm
quyền.
Nội dung chủ yếu của kiểm toán hoạt động gồm:
Thứ nhất là kiểm tra việc huy động, phân phối sử dụng một cách tiết
kiệm và có hiệu quả các nguồn lực (nhân lực, vật tư và tài sản, vốn, lợi thế
kinh doanh...) của doanh nghiệp.
Thứ hai là kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh,
phân phối và sử dụng thu nhập, kết quả bảo toàn và phát triển vốn.
Thứ ba là kiểm tra và đánh giá hiệu quả và hoạt động của các bộ phận
chức năng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
b) Kiểm toán tuân thủ
Kiểm toán tuân thủ là thường do cấp trên kiểm tra các đơn vị cấp dưới về
việc cháp hành các qui định, qui chế.
Nội dung công việc kiểm toán tuân thủ
Thứ nhất là việc kiểm tra tính tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ tài
chính, kế toán, chế độ quản lý của nhà nước và tình hình chấp hành các chính
sách, nghị quyết, quyết định, qui chế của hội đồng quản trị, của ban giám đốc.
8

Thứ hai là kiểm tra tính tuân thủ các qui định về nguyên tắc, qui trình
nghiệp vụ, thủ tục quản lý của toàn bộ cũng như của từng khâu công việc, của
từng biện pháp trong hệ thống kiểm soát nội bộ.
Thứ ba là kiểm tra sự chấp hành các nguyên tắc, chính sách, các chuẩn
mực kế toán từ khâu lập chứng từ vận dụng hệ thống tài khoản, ghi sổ kế
toán, tổng hợp thông tin và trình bày báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản
trị đến lưu trữ tài liệu kế toán...
c) Kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo kế toán quản trị nhằm kiểm tra
xác nhận các thông tin số liệu trên báo cáo tài chính được tập hợp có trung
thực và hợp lý không, có phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán
thông dụng đã được chấp nhận không,...
Nội dung công việc của kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo kế toán
quản trị gồm:
Thứ nhất là kiểm tra và xác nhận tính kịp thời, đầy đủ, khách quan, tính
tin cậy của báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị trước khi giám đốc ký
duyệt và công bố.
Thứ hai là kiểm tra và đánh giá các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán
quản trị được ra những kiến nghị và tư vấn cần thiết cho hoạt động sản xuất
kinh doanh nhằm bảo đảm sụ hợp lý và hiệu quả.
2. Các hình thức kiểm toán nội bộ
Hoạt động KTNB có thể tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau. Mỗi
hình thức kiểm toán đem lại những kết quả nhất định và thoả mãn những yêu
ầu khác nhau. Tuỳ từng điều kiện hoàn cảnh và trong từng khoảng thời gian
không gian cụ thể cần và có thể vận dụng các hình thức kiểm toán một cách
thật linh hoạt sao cho có hiệu quả. Trên thực tế trong công tác KTNB người ta
sử dụng các hình thức sau:
a) Thứ nhất là kiểm toán toàn diện và kiểm toán đặc biệt
9
Kiểm toán toàn diện nhằm vào toàn bộ hoạt động kinh doanh, hoạt động
kế toán với mục đích xem xét sự chính xác của tài liệu, số liệu kế toán, đồng

thời tìm hiểu xem các tài liệu này đã phản ánh trung thực của tình hình hoạt
động của cơ quan, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp chưa.
Trái lại, kiểm toán đặc biệt (hay kiểm toán chuyên đề) tập trung vào số
nghiệp vụ nhất định, ví dụ như kiểm toán ngân quỹ, kiểm toán hoạt động bán
hàng, kiểm toán chi phí, lợi nhuận,...
Tuy nhiên để phân biệt giữa 2 loại kiểm toán này cũng không đơn giản,
vì đôi khi 1 cuộc kiểm toán đặc biệt chỉ nhìn vào một vấn đề xem công ty có
chia lãi đúng qui định không, cũng đòi hỏi phải thực hiện một cuộc kiểm toán
hầu như toàn diện mới có đủ yếu tố để xác định.
Do đó, tiêu chuẩn phân biệt hai loại kiểm toán này nằm ở chỗ bao gồm
nhiều hay ít nghiệp vụ phải kiểm toán. Nếu cuộc kiểm toán chỉ nhằm vào một
đối tượng, một vấn đề nào đó được xác định rõ thì đó là kiểm toán đặc biệt.
Trái lại, nếu cuộc kiểm toán bao quát nhiều vấn đề nhằm vào nhiều mục đích
thì đó là kiểm toán toàn diện.
b) Kiểm toán thường xuyên và kiểm toán định kỳ
Kiểm toán thường xuyên là thực hiện các việc thẩm tra, xem xét liên tục,
hàng tuần, hàng tháng trong suốt năm. Hình thức này tỏ ra khá hữu hiệu vì có
thể giúp cho việc phát hiện mau chóng kịp thời các sai sót, nhờ đó hạn chế
ngăn chặn được các tác hại. Nhờ đó thực hiện thường xuyên, các cuộc kiểm
toán này có tác dụng ngăn chặn, phòng ngừa rất hiệu quả.
Kiểm toán định kỳ chỉ nhằm theo dõi tình hình qua các báo cáo tài chính
kế toán hàng tháng, thàng quý hay cả năm nghiên cứu đánh giá bảng cân đối
kế toán giữa năm hay cuối năm để đưa ra những nhận xét kết luận, đánh giá
công việc kinh doanh của doanh nghiệp.
10
Do khoảng cách về thời gian kiểm toán cách nhau khá xa nên nhiều khi
không mang lại kết quả mong muốn về các sai trái, tiêu cực (nếu có) đã gây ra
những hậu quả khó có thể khắc phục.
c) Kiểm toán phòng ngừa và kiểm toán sau hoạt động
Kiểm toán phòng ngừa là loại hình kiểm toán bao gồm những biện pháp

phòng ngừa được áp dụng trước hay ngay sau khi một nghiệp vụ kế toán phát
sinh nhằm bảo đảm cho bộ máy kế toán hoạt động chuẩn xác và hợp thức, loại
trừ các sai phạm trước hay ngay khi chúng xuất hiện.
Kiểm toán sau hoạt động chỉ nhằm xem xét khảo sát để xác định xem các
sổ kế toán có trung thực chính xác không, đồng thời phát giác các vi phạm,
gian lận nếu có.
Công việc kiểm toán sau hoạt động thực hiện khác các công việc kế toán
đã được thực hiện xong một thời gian khá lâu các nghiệp vụ đã được ghi vào
sổ kế toán tổng hợp và lên báo cáo tài chính.
Hai hình thức này mặc dù có sự khác nhau nhưng vẫn có sự hỗ trợ nhau
rất hữu hiệu. Một mặt, chính nhờ các kinh nghiệm, các kết luận được rút từ
những cuộc kiểm toán sau hoạt động mà các chuyên gia mới xây dựng, thiết
lập các biện pháp phòng ngừa cho công tác kiểm toán phòng ngừa. Mặt khác,
việc ban hành các biện pháp phòng ngừa không chỉ đơn thuần đưa ra các chỉ
thị, các qui định mà còn phải có những sự kiểm toán theo dõi sự tuân thủ,
chấp hành nữa, đó là một dạng kiểm toán sau hoạt động đầu tiên.
3. Đối tượng của KTNB
Cũng như kiểm toán nói chung, KTNB cũng có đối tượng là các sai lầm
và gian lận.
Đối tượng của công tác kiểm toán là xem xét đánh giá sự đánh giá hợp
thức của các số liệu, tài liệu kế toán. Để có thể đạt đến mục đích này công
11
việc phải làm là xác định các sổ kế toán, các số liệu kế toán được kiểm tra
không chứa đựng một sai lầm hay gian lận nào.
Do đó đối tượng của kiểm toán là loại trừ các sai lầm và gian lận
Sai lầm và gian lận là các khiếm khuyết, các vi phạm đối với nguyên tắc
và luật lệ kế toán đã được qui định. Sự khác biệt giữa sai lầm và gian lận nằm
trong yếu tố ý đồ.
Sai lầm là sự vi phạm do bất cẩn, vô ý hay kém cỏi mà người thực hiện
hoàn toàn không có.

Gian lận là một sự vi phạm do cố tình mà người thực hiện có ý đồ phạm
pháp rõ rệt.
Trên thực tế kiểm toán viên nhiều khi khó phân biệt xem sự vi phạm nào
là sai lầm và sự vi phạm nào là gian lận. Xác định một trường hợp vi phạm là
có ý đồ hay không có ý đồ hoàn toàn không đơn giản.
Các dạng sai lầm thường gặp là do thiếu sót, do định khoản sai, nhầm
lẫn về ghi sổ và chuyển khoản sổ, nhầm lẫn do trùng lắp, sai lầm bù trừ nhau,
sai lầm về nguyên tắc.
Các hình thức gian lận thường gặp là gian lận tiền bạc và tài sản tạo
dựng tình huống.
III. QUI TRÌNH VỀ TRÌNH TỰ KIỂM TOÁN NỘI BỘ
Quy trình về trình tự KTNB trong một doanh nghiệp bao gồm các bước
sau:
1) Lập kế hoạch và lựa chọn phương pháp kiểm toán
Công việc chủ yếu ở bước này bao gồm
Thứ nhất là lập chương trình kế hoạch, xác định mục tiêu, nội dung,
phạm vi và thời gian tiến hành KTNB.
12
Thứ hai là xác định qui mô cuộc kiểm toán, phương pháp, cách thức tiến
hành kiểm toán, biện pháp tổ chức thực hiện, tổ chức lực lượng kiểm toán
(bao gồm cả KTV trong ngoài doanh nghiệp và các nhân viên chuyên môn
cần huy động).
2) Công tác chuẩn bị kiểm toán
Sau khi thực hiện song bước 1 kiểm toán tiến hành thực hiện bước 2
gồm các công việc sau:
Thứ nhất là nghiên cứu các văn bản, tài liệu liên quan đến tình hình hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, nhiệm vụ kế hoạch hoặc các điều kiện,
biện pháp, các chính sách, qui định của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh sẽ
kiểm toán. Sơ bộ đánh giá về điều kiện và môi trường hoạt động kinh doanh
ảnh hưởng đến các mặt hoạt động của doanh nghiệp.

Thứ hai là xem xét các báo cáo, tài liệu, hồ sơ kiểm toán trước đó, kể cả
các tài liệu bên ngoài doanh nghiệp có liên quan đến cuộc kiểm toán; tóm tắt
thông tin cần phải kiểm tra trong quá trình kiểm toán sắp tới, thu thập và
chuẩn bị các mẫu, các chương trình, các chỉ dẫn cho cuộc kiểm toán sẽ được
tiến hành.
3) Thực hiện việc kiểm toán
Các nhiệm vụ trong bước này gồm:
Một là phải xem xét, thu thập và đánh giá đầy đủ các bằng chứng cần
thiết có liên quan kể cả các chứng cứ bên ngoài doanh nghiệp.
Hai là xem xét, đánh giá việc thực hiện các chính sách, qui định trong
thực tế hoạt động của doanh nghiệp.
Ba là đánh giá khả năng sai sót nhầm lẫn, gian lận đối với từng loại
nghiệp vụ, từng hoạt động kinh tế, đánh giá tính trọng yếu và rủi ro trong các
nghiệp vụ phát sinh từ nội bộ doanh nghiệp .
13

×