Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

THAM LUẬN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG ĐẢNG VIÊN VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.56 KB, 18 trang )

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
THAM LUẬN HỌC PHẦN VĂN HĨA CHÍNH
TRỊ

Sinh viên: Nguyễn Thị Tường Vi
MSSV: 182010051 _ K03CTH

VĂN HĨA CHÍNH TRỊ TRONG ĐẢNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
HIỆN NAY
Văn hóa chính trị thời nào cũng có và ln vận động, thay đổi. Dù có
thăng trầm, thối bộ hay tiến bộ, thì dịng chảy văn minh chính trị vẫn
ln tồn tại, thậm chí trong nhiều thời kỳ cịn đóng vai trị là “dịng chảy”
chủ đạo, mang tính định hướng, dẫn dắt các “dòng chảy” khác. Từ khi ra
đời, sự vận động chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy rất rõ
tính tiếp biến của văn hóa chính trị, tuy có thăng, có trầm, nhưng căn bản
là ngày càng hoàn thiện, ngày càng tạo dựng được vị thế chính trị - xã hội
trong lịng nhân dân.
Dưới góc độ của một sinh viên chuyên ngành chính trị học, tơi xin được
trình bày một số luận điểm liên quan đến vấn đề trên với các nội dung như
sau:
1. Cơ sở hình thành và phát triển của văn hố chính trị Việt Nam
2. Bản chất, bản sắc văn hố chính trị Việt Nam từ truyền thống đến

hiện đại
3. Văn hóa chính trị trong Đảng hiện nay
4. Một số giải pháp cơ bản thời gian tới

Trong gần 35 năm lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, cùng với những
bước chuyển trong tư duy về đường lối phát triển kinh tế – xã hội, quan
điểm về công tác xây dựng Đảng cũng đã có những điểm bổ sung, phát
triển quan trọng. Trong đó, Đảng đặc biệt chú trọng xây dựng văn hóa


Đảng, xem đây là nền tảng, là sức mạnh nội sinh bảo đảm cho việc thực
hiện mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, đạo đức và tổ chức. Bối cảnh quốc tế và trong nước thời kỳ đổi mới
đã và đang đặt Đảng ta đứng trước những vấn đề khó khăn, phức tạp.
Khơng ít vấn đề lý luận và thực tiễn chưa đủ sáng tỏ; đổi mới và phát triển
1


đã làm xuất hiện những mối quan hệ lớn đòi hỏi Đảng phải nắm vững và
giải quyết...
***
1. Cơ sở hình thành và phát triển của văn hố chính trị Việt Nam
Thứ nhất, công cuộc xây dựng đất nước, sự gắn bó giữa con người với
thiên nhiên, với quê hương xứ sở và lịch sử đấu tranh chống thiên tai.
Đây là cơ sở chung của tình yêu đất nước đối với nhân dân của mọi quốc
gia - dân tộc; đồng thời cũng là cơ sở chung của văn hóa chính trị Việt
Nam truyền thống và hiện đại.
Việt Nam với vị trí địa lý và đặc điểm về địa hình, khí hậu, tài nguyên, sinh
thái, là một thiên nhiên nhiệt đới gió mùa phong phú, đa dạng, chứa đựng
nhiều tiềm năng to lớn nhưng cũng đặt ra khơng ít thách thức đối với con
người. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, con người vừa thích nghi,
vừa khai phá tài nguyên và mặt thuận lợi của thiên nhiên để mở mang
đồng ruộng, xóm làng, phát triển kinh tế nơng nghiệp trồng lúa nước kết
hợp với các nghề thủ công, chăn nuôi, đánh bắt, buôn bán... Mặt khác, con
người cũng phải liên kết lại trong cuộc đấu tranh khắc phục những trở ngại
của thiên nhiên, chống thiên tai... Từ rất sớm, nhân dân ta đã biết đắp đê
sông, đê biển để chống lũ lụt, bão tố; đào kênh, khơi mương, làm thủy lợi
để chống hạn hán, tưới tiêu cho đồng ruộng. Công cuộc xây dựng đất
nước, phát triển kinh tế, xã hội trong những đặc điểm của thiên nhiên Việt
Nam đã sớm tạo nên sự gắn bó cộng đồng, sự gắn bó với q hương, xứ

sở. Đó chính là cơ sở của tình yêu đất nước, của tình cảm và là cơ sở hình
thành, phát triển của văn hóa chính trị Việt Nam.
Thứ hai, lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
Tính đặc thù và đặc biệt của chống ngoại xâm trong lịch sử Việt Nam biểu
thị tập trung ở chỗ: Hiếm có dân tộc nào trên thế giới phải chống ngoại
xâm nhiều lần như Việt Nam. Kể từ kháng chiến chống Tần thế kỷ III TCN
2


đến kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ và các thế lực
ngoại xâm khác… trong hơn 23 thế kỷ, tính ra thời gian kháng chiến giữ
nước và đấu tranh chống đô hộ ngoại bang với những cuộc khởi nghĩa và
những cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, đã lên đến trên 12 thế kỷ.
Điều đáng lưu ý ở đây là độ dài thời gian, tần số xuất hiện, độ chênh lệch,
cường độ, số lượng các cuộc kháng chiến và khởi nghĩa, chiến tranh giải
phóng quá lớn so với các nước khác trên thế giới.
Do đó, con đường sống còn và chiến thắng của dân tộc Việt Nam là phải
biết huy động sức mạnh của toàn dân, của cả đất nước, sức mạnh vật chất
và tinh thần của toàn thể dân tộc. Lịch sử chống ngoại xâm với những đặc
điểm trên đã tác động sâu sắc đến toàn bộ tiến trình lịch sử và sự phát
triển của tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc, ý chí quật
cường bất khuất, niềm tự tơn dân tộc, văn hóa chính trị của dân tộc Việt
Nam.
Thứ ba, sự tiến triển của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử Việt
Nam.
Sự phát triển xã hội luôn luôn diễn ra trong sự tiến triển của các hình thái
kinh tế - xã hội. Trong quy luật vận động chung của xã hội lồi người, sự
tiến triển của các hình thái kinh tế - xã hội của mỗi nước mang những nét
đặc thù có ảnh hưởng đến sự phát triển văn hố, ý thức, trong đó có văn
hóa chính trị.

Trong thời cổ đại, Việt Nam không trải qua thời kỳ phát triển của chế độ
chiếm hữu nô lệ. Quan hệ nơ tỳ, tức chế độ nơ lệ gia trưởng có phát triển
trong mức độ nào đó, nhưng khơng bao giờ trở thành quan hệ chi phối,
thống trị của xã hội và nơ tỳ chưa bao giờ giữ vai trị lực lượng sản xuất
chủ yếu của xã hội.
Chế độ phong kiến Việt Nam cũng mang đặc điểm của chế độ phong kiến
phương Đông và khác với chế độ phong kiến phương Tây. Trong thời kỳ
phong kiến, ở Việt Nam khơng có thời kỳ tồn tại của chế độ lãnh địa với
quan hệ lãnh chúa - nông nô, không trải qua thời kỳ phân quyền cát cứ lâu
3


dài. Đặc điểm này cũng ảnh hưởng đến sự cố kết cộng đồng và sự phát
triển của tinh thần, ý thức dân tộc và văn hóa chính trị Việt Nam.
Thứ tư, sự thống nhất trong tính đa dạng của nền văn hoá dân tộc.
Những kết quả nghiên cứu khảo cổ học gần đây cho phép xác nhận trong
thời cổ đại, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay hình thành ba trung tâm văn
hoá - văn minh dẫn đến sự ra đời của ba nhà nước sơ khai: văn hố Đơng
Sơn với nước Văn Lang - Âu Lạc ở miền Bắc, văn hoá Sa Huỳnh với vương
quốc Champa cổ, văn hoá óc Eo với vương quốc Phù Nam. Trải qua nhiều
biến thiên lịch sử, ba dịng văn hố và lịch sử đó hịa nhập vào dịng chảy
chung của Việt Nam, lấy dịng văn hố Đơng Sơn với nước Văn Lang - Âu
Lạc làm dòng chủ lưu.
Việt Nam là một nước gồm nhiều thành phần tộc người mà ta quen gọi
chung là nhiều dân tộc, là một quốc gia đa tộc người với 54 dân tộc anh
em cùng chung sống, trong đó dân tộc Kinh (Việt) chiếm 87% dân số. Các
dân tộc thiểu số phần lớn sống ở vùng trung du và miền núi, cũng sống
xen kẽ với nhau. Mỗi dân tộc có vốn văn hố riêng, tạo nên những vùng
địa - tộc người rất phong phú, đa dạng. Nhưng do sự gắn bó lâu đời trong
một quốc gia thống nhất, do yêu cầu chống thiên tai, chống ngoại xâm và

do sự giao lưu, hội nhập văn hoá, cả cộng đồng dân tộc Việt Nam vẫn có
mẫu số chung của một nền văn hố thống nhất trong tính đa dạng, một ý
thức chung về vận mạng cộng đồng.
Việt Nam bao gồm nhiều vùng địa lý với những đặc điểm khác nhau về địa
hình, khí hậu, mơi trường, sinh thái. Những điều kiện tự nhiên đó kết hợp
với hồn cảnh lịch sử cụ thể, tạo nên những vùng địa - văn hoá khác nhau
cũng góp phần tăng thêm tính đa dạng của văn hố Việt Nam. Với vị trí
đầu mối giao thơng tự nhiên của Đông Nam Á, Việt Nam vừa nối liền với
đại lục vừa nhìn ra đại dương và hải đảo, một khu vực giao tiếp của nhiều
nền văn minh trên thế giới. Văn hoá Việt Nam qua giao lưu và tiếp biến, đã
tiếp nhận nhiều ảnh hưởng văn hoá bên ngồi làm phong phú văn hố dân
tộc, nhưng vẫn giữ bản sắc văn hố của mình. Đó là tính thích nghi, hội
nhập, tiếp biến và bản lĩnh của văn hoá Việt Nam.
4


Tinh thần yêu nước, ý thức về độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia là
một bộ phận tạo thành của văn hoá Việt Nam, vừa kết tinh những giá trị
tiêu biểu, vừa chi phối sự phát triển của nền văn hố dân tộc nói chung và
văn hóa chính trị Việt Nam nói riêng.
Thứ năm, q trình thống nhất quốc gia và hình thành sớm của dân tộc
Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam ra đời không chỉ trên cơ sở phân hóa xã hội, phân hóa
giai cấp, mà chủ yếu cịn do u cầu của lịch sử , đó là phải có một tổ
chức đứng ra để tập hợp lực lượng, để chỉ huy dân tộc xây dựng và quản lý
các cơng trình đê điều, thủy lợi và u cầu tự vệ chống ngoại xâm. Quá
trình hình thành, phát triển của nhà nước gắn liền với quá trình thống nhất
quốc gia.
Việc sử dụng quyền lực nhà nước ở thời kỳ dựng nước cũng không phải
chủ yếu là để thống trị giai cấp, mà chủ yếu là để cố kết dân tộc, tập hợp

lực lượng, chỉ huy dân tộc đánh giặc ngoại xâm và chống thiên tai xây
dựng đất nước. Đây là những nét độc đáo mang đậm tính nhân văn sâu
sắc của lịch sử chính trị Việt Nam. Nó hình thành quy luật cơ bản của
chính trị Việt Nam, của văn hóa chính trị Việt Nam - Đồn kết mang đậm
tính nhân văn.
Q trình thống nhất quốc gia và thống nhất dân tộc sớm tác động sâu
sắc đến sự phát triển của tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc, tạo nên
tinh thần đoàn kết dân tộc và sự cố kết cộng đồng mang tính dân tộc,
chưng cất nên đặc trưng của văn hóa Việt Nam nói chung và văn hóa
chính trị Việt Nam nói riêng.
2. Bản chất, bản sắc văn hố chính trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện
đại
Văn hố chính trị có ảnh hưởng to lớn tới phương thức và hiệu quả thực
hiện quyền lực chính trị. Văn hố chính trị có vai trị to lớn trong việc nâng
5


cao tính tích cực chính trị của cơng dân. Với tư cách là một phạm trù của
khoa học chính trị, văn hố chính trị có vai trị rất quan trọng trong hoạt
động chính trị nói chung. Tuy nhiên, văn hố chính trị là một vấn đề mới
đối với lý luận Mác-xít. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin chưa
đề cập trực tiếp nhiều đến khái niệm này, nhưng nội dung tư tưởng của
chủ nghĩa Mác-Lênin được xem là cơ sở cho việc khảo cứu khái niệm
này.
Văn hố chính trị là một khái niệm kép, nó được cấu thành từ hai khái
niệm “văn hố” và “chính trị”. Nhưng văn hố chính trị khơng phải là sự
cộng gộp giản đơn hai lĩnh vực này, mà đó là văn hóa đứng ở trong chính
trị hay chính trị có tính văn hố. Nó là sự thẩm thấu của văn hố vào
chính trị, là chính trị có tính văn hố.
Khái niệm “văn hố”, theo nghĩa hẹp của nó liên quan tới đời sống tinh

thần, lĩnh vực tinh thần của con người. Tinh thần nhân văn là tinh thần cốt
lõi của văn hóa tinh thần. Cịn chính trị là gì? Cũng có nhiều định nghĩa về
chính trị, song khả dĩ có thể vạch ra dấu hiệu nội hàm cơ bản của nó là
mối quan hệ giữa các giai cấp, các quốc gia, dân tộc, các lực lượng xã hội
nhằm giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
Như vậy, văn hố chính trị chính là tinh thần nhân văn trong xử lý các
quan hệ giữa các giai cấp, các quốc gia, dân tộc, các lực lượng xã hội
nhằm mục tiêu tiến bộ xã hội và giải phóng con người.
Yếu tố dân tộc làm nên bản chất và bản sắc của một nền văn hố chứ
khơng phải yếu tố giai cấp, cho nên văn hố chính trị Việt Nam là do văn
hoá dân tộc Việt Nam làm nên - là kết tinh của văn hoá dân tộc Việt Nam
theo chiều dài dựng nước và giữ nước. Ở quốc gia nào cũng thế, với nghĩa
chung nhất thì văn hố chính trị là một phương diện của văn hoá, một mặt
của văn hoá, một lĩnh vực biểu hiện của văn hố - lĩnh vực chính trị. Điều
đó có nghĩa là văn hố chính trị bao chứa tồn bộ những yếu tố của văn
hố nói chung được hình thành và phát triển trong lĩnh vực chính trị. Nếu
như văn hố là kết tinh tồn bộ giá trị tinh thần nhân văn của con người,
6


thì văn hố chính trị cũng là cái kết tinh toàn bộ giá trị tinh thần nhân văn
của một nền chính trị (cả thể chế chính trị và cả con người chính trị). Văn
hố chính trị Việt Nam, vì vậy, xun suốt cơ thể văn hố dân tộc Việt
Nam, nó hình thành cùng với lịch sử văn hố Việt Nam. Do đó, nó cũng
hình thành cùng với lịch sử dân tộc Việt Nam, đồng thời là một phương
diện của nền văn hố Việt Nam. Những gì hình thành nên văn hố chính trị
Việt Nam cũng sẽ tạo nên văn hố dân tộc Việt Nam.
Có thể nói, tồn bộ hệ thống giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam là
những thành tố tạo nên văn hố chính trị Việt Nam. Bản sắc văn hoá dân
tộc là cái lắng đọng sâu thấm nhất các giá trị truyền thống dân tộc. Còn

bản sắc văn hố chính trị Việt Nam là cái lắng đọng sâu thấm nhất các giá
trị truyền thống trong khía cạnh, lĩnh vực hoạt động chính trị của dân tộc
Việt Nam trong cả tư duy chính trị và hành vi chính trị.
Vì thế, các thành tố hình thành văn hố chính trị Việt Nam khơng chỉ là
các điều kiện thiên nhiên, mơi trường sinh thái, mà cịn là điều kiện xã hội,
môi trường xã hội Việt Nam. Những yếu tố quan trọng hình thành văn hố
chính trị Việt Nam cịn phải là tâm lý, tính cách con người Việt Nam thể
hiện trong lao động, học tập, chiến đấu, trong xây dựng một quốc gia
thống nhất, độc lập, tự lực, tự cường, một nền chính trị nhân văn. Đó cũng
chính là thiên hướng phát triển con người và phát triển dân tộc; là năng
lực và trình độ hoạt động chính trị của nhân dân ta qua các thời kỳ lịch sử;
là những tư chất, tính khí, năng khiếu, tài năng kinh bang tế thế của
những cá nhân xuất chúng trong suốt lịch sử dựng nước và giữ nước, trong
xây dựng và kiến thiết xã hội trong các thời kỳ lịch sử. Đồng thời đó là sự
vận dụng thời cơ, xử lý tình huống, lợi dụng xu thế phát triển của chính trị
quốc gia và quốc tế, vận hội, thời thế của thời cuộc và thời đại. Đó, tuy
chưa đầy đủ, nhưng là những điều cơ bản nhất khi bàn về sức sống mãnh
liệt của văn hóa chính trị Việt Nam.
Tất cả những yếu tố vơ cùng phong phú, đa hình, đa dạng có tính tổng
hợp đó đã hình thành nên diện mạo và bản chất văn hố Việt Nam nói
chung, những gía trị văn hố chính trị đặc sắc của Việt Nam nói riêng. Văn
7


hố chính trị Việt Nam gắn liền với lịch sử cách mạng Việt Nam. Hơn nữa,
bản chất của văn hoá chính trị Việt Nam được kết tinh từ lịch sử đấu tranh
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, là đấu tranh và phấn đấu
thực hiện những ước mơ, khát vọng của con người Việt Nam. Lịch sử đó đã
hình thành nên những giá trị văn hố chính trị truyền thống Việt Nam.
Truyền thống không để lại cho hiện đại những cơng trình văn hóa vật chất

đồ sộ, bởi vì dân tộc ta phải dồn sức liên tục chống giặc ngoại xâm và
chống thiên tai, nhưng truyền thống đã để lại cho hiện đại, cho thế hệ
hôm nay và mai sau cả một kho tàng văn hóa tinh thần đồ sộ, một văn
hóa chính trị Việt Nam đặc sắc. Đó là:
1. Một nền chính trị nhân văn, thương dân, dân là gốc;
2. Tư tưởng chính trị đấu tranh cho độc lập và chủ quyền quốc gia, tự

do, tự lực, tự cường;
3. Tinh thần tự hào dân tộc, tự tơn nền văn hiến quốc gia, trọng trí tuệ,
quy tụ người hiền;
4. Một nền chính trị đạo lý, tơn trọng chính nghĩa, bảo vệ cơng lý;
5. Vừa đề cao đức trị vừa đề cao pháp trị; hình thành tư tưởng về một

nền chính trị pháp quyền;
6. Tư tưởng và hành vi chính trị khoan dung, độ lượng, vị tha;
7. Hịa hợp, hữu nghị, hợp tác vì sự phát triển và tiến bộ.
Tất cả những giá trị, phẩm chất và năng lực đó hợp thành một nền chính
trị nhân đạo, nhân văn, tất cả vì con người. Đó chính là bản chất của văn
hố chính trị Việt Nam. Đó là những giá trị nền tảng và cũng chính là trình
độ, là sức sống có cội nguồn, gốc rễ vững bền và là sức mạnh thúc đẩy sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam hiện nay.
Xây dựng văn hoá chính trị Việt Nam hiện nay thực chất là phát huy tinh
thần nhân văn lên tầm cao mới tiên tiến và hiện đại, mà trước hết ở việc
xác định mục tiêu, lý tưởng chính trị. Một nền chính trị dù trình độ tổ chức
cao, cơng nghệ hồn hảo, nhưng mục tiêu phi nhân đạo thì nền chính trị
đó khơng thể là chính trị văn hố.
Cũng như các sáng tạo văn hóa khác, văn hóa chính trị cũng chịu những
tác động khách quan và chịu sự chi phối bởi những đặc trưng chung của
8



văn hóa. Một đặc điểm quan trọng của văn hóa chính trị là cùng với những
yếu tố nội sinh ln có những yếu tố ngoại lai, nhưng được tiếp biến và có
sức sống trong văn hóa bản địa hoặc những giá trị văn hóa bản địa bị biến
đổi dưới tác động của chúng, được gọi là yếu tố ngoại sinh. Văn hóa chính
trị Việt Nam khơng nằm ngồi những quy luật chung này của nhân loại.
Cùng với những yếu tố nội sinh, văn hóa chính trị Việt Nam cịn chịu ảnh
hưởng từ những từ tư tưởng chính trị, các học thuyết ngoại lai... Tuy nhiên,
một đặc điểm rất nổi bật trong văn hóa chính trị Việt Nam là những tư
tưởng và học thuyết ngoại lai chỉ có sức sống khi nhập thân vào dân tộc,
hòa đồng với những tư tưởng, đạo lý chính trị bản địa, tuy khơng được
hình thức hóa bằng các học thuyết, chủ nghĩa nhưng ln là cốt lõi cho bệ
đỡ tư tưởng chính trị. Thậm chí, nó cịn là nhân tố chi phối buộc các học
thuyết và hệ tư tưởng ngoại lai phải thay hình đổi dạng để phù hợp với đặc
điểm dân tộc. Đó là chủ nghĩa yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc và truyền
thống nhân ái, hòa đồng.
Mặt khác, trải qua một thời gian dài, thích nghi, biến đổi, Phật giáo, Khổng
giáo, Đạo giáo và các giá trị văn hóa tiếp nhận khác cũng đã trở thành
một bộ phận của văn hóa Việt Nam.
Bước vào thời kỳ hiện đại, Đảng ta khẳng định để xây dựng nền văn hóa
chính trị Việt Nam tiên tiến, hiện đại cần kế thừa các giá trị văn hóa chính
trị truyền thống tốt đẹp được kết tinh qua hàng nghìn năm dựng nước và
giữ nước, kế thừa các giá trị văn hóa chính trị tinh hoa của các nước trên
thế giới, trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Mục tiêu cách mạng của Đảng Cộng sản không chỉ dừng lại ở việc giành
và nắm chính quyền, mà là bằng chính quyền đó sẽ xây dựng thành công
một nước Việt Nam giàu mạnh với một xã hội dân chủ, công bằng và văn
minh, nhân dân được sống trong ấm no và hạnh phúc. Lý tưởng đó phù
hợp với nguyện vọng của tuyệt đại bộ phận dân tộc. Vì vậy, vị trí lãnh đạo,
cầm quyền của Đảng là phù hợp với quy luật vận động của lịch sử Việt

Nam không chỉ trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc mà trong cả
thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước.
9


Văn hố chính trị làm cho sự tác động của chính trị đến đời sống xã hội
giống như sức mạnh nội sinh của văn hố. Đó là loại sức mạnh không dựa
vào quyền lực hay ép buộc là chủ yếu, mà chủ yếu là được tạo dựng từ sự
đồng thuận xã hội thơng qua cảm hố, khơi dậy tinh thần sáng tạo, ý thức
tự giác của các tầng lớp nhân dân./.
3. Văn hóa chính trị trong Đảng hiện nay
Văn hóa có rất nhiều khái niệm, định nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, có
những điểm tương đồng, nhất quán cơ bản là: văn hóa là cái đẹp, là giá trị
được tích lũy từ hoạt động lao động của con người, hướng tới sự hồn
thiện.
Văn hóa trong Đảng cũng bao hàm các giá trị hướng đến cái đẹp, hướng
đến sự hoàn thiện, nhất là trong hoạt động của từng đảng viên và tổ chức
đảng. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi ra đời và trong suốt 90
năm qua, những nét văn hóa chính trị đặc trưng được thể hiện ở chỗ vừa
có sự kế thừa, sàng lọc, mang tính tiếp biến của văn hóa chính trị các thời
kỳ, vừa có sự kết tinh của những giá trị văn hóa, khoa học chính trị tiên
tiến của thời đại. Bài viết đề cập đến một số góc nhìn về văn hóa chính trị
cụ thể:
Một là tính thẩm mỹ, nghĩa là phù hợp với phạm trù “cái đẹp”, thỏa mãn
nhu cầu giải trí, tinh thần. Nếu xét sinh hoạt đảng dưới giác độ văn hóa
chứa đựng yếu tố thẩm mỹ thì đó là thẩm mỹ chính trị. Bản Tun ngơn
độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo là một trong những biểu hiện
sinh động về văn hóa chính trị dưới giác độ thẩm mỹ. Nó đẹp vì tính đại
chúng (dễ nhớ, dễ hiểu, dễ làm theo) của ngơn từ, vì tính nhân bản (hướng
tới đời sống tốt đẹp của người lao động) của nội dung, và là sản phẩm trí

tuệ của một nhân cách lớn, được ngưỡng mộ (chứng minh bằng sự tôn
vinh của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc UNESCO).
Hai là tính tích tụ giá trị theo dòng thời gian. Những giá trị văn hóa được
lưu giữ từ đời này qua đời khác. Theo thời gian, cái đẹp sẽ tự lọc bỏ những
10


yếu tố “phản văn hóa”. Các cơng trình hàng ngàn năm khi được tu sửa cần
theo nguyên tắc bảo tồn tối đa mới có giá trị. Thời gian là thước đo, là thử
thách của những giá trị lao động và giao tiếp của con người. Khách du lịch
đến quốc gia nào cũng đều rất chú ý thăm quan các di tích lịch sử, văn
hóa bởi ở đó tích tụ văn hóa đặc trưng nhất cho thấy đặc điểm văn hóa,
con người trong từng giai đoạn, của từng dân tộc. Nhìn chung, văn hóa
chính trị của Đảng được thể hiện đậm nét thơng qua các giá trị văn hóa cả
vật thể và phi vật thể, trong các di tích lịch sử  - văn hóa, các bảo tàng lịch
sử... trên cả nước.
Ba là tính tiếp biến văn hóa. Tiếp biến là sự ổn định nhưng có phát triển,
sàng lọc và có bổ trợ, tiếp nhận và có truyền bá giá trị văn hóa nhân loại.
Tiếp biến cũng là phạm trù động, nghĩa là ln có sự vận dụng và cải
cách. Đây cũng chính là sự vận động trong đời sống chính trị của Đảng ta.
Tính tiếp biến hướng tới sự hồn thiện của con người - chủ thể các giá trị
văn hóa, thể hiện ngay trong cộng đồng, địa phương, nội bộ các sắc tộc và
có tính quốc tế. Hiện tượng lan tỏa quốc tế về văn hóa có từ lâu, trong đó
có văn hóa chính trị, văn hóa đảng phái.
Bốn là tiếp cận văn hóa đảng từ giác độ khoa học chính trị. Nghiên cứu
văn hóa chính trị phải thể hiện qua thuộc tính của các khái niệm căn bản
của đời sống chính trị. Văn hóa trong Đảng biểu hiện thơng qua hoạt động
của Đảng, của các tổ chức, của đảng viên, phải lấy tiêu chí dân chủ, tiến
bộ xã hội, sự hài lòng, ủng hộ của người dân để đánh giá. Đảng Cộng sản
Việt Nam cũng không ngoại lệ và cần soi chiếu qua các phạm trù “vì dân”,

“vì nước”, “trung thành với dân tộc”, “vì lợi ích của nhân dân, lợi ích của
dân tộc”...
Trong thực tiễn xã hội, nhóm lợi ích tồn tại theo các cộng đồng, các lực
lượng khác nhau, có nhóm theo tiêu chí giới (đàn ơng và đàn bà), theo thế
hệ (lớp già và lớp trẻ), theo nghề nghiệp, tầng lớp (như nơng dân, cơng
nhân, trí thức...) và theo ý thức hệ, nhất là ý thức giai cấp. Nhóm lợi ích
muốn bảo vệ lợi ích của nhóm, thì trước hết ngồi sự phải vượt trội về kinh
tế, cịn phải sử dụng lợi thế chính trị bằng nhiều cách khác nhau, trong đó
11


có giải pháp trực tiếp tham gia vào bộ máy quyền lực (cơng quyền, nhà
nước). Khi đó pháp luật sẽ hình thành theo hướng có sự chi phối của nhóm
lợi ích do các đảng có người đại diện. Vì vậy, mục đích trực tiếp trong xã
hội của các đảng chính trị là giành và sử dụng quyền lực nhà nước của
nhóm lợi ích giai cấp. Các đảng chính trị đều giống nhau ở bản chất là đại
diện cho lợi ích gia cấp nhất định; nhưng khác nhau ở chỗ nhóm lợi ích giai
cấp có đồng hành phụng sự dân tộc, đất nước hay khơng, đồng hành
nhiều hay ít, đồng hành bằng chủ trương, chiến lược, giải pháp nào mà
thôi. Câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi trả lời phỏng vấn các nhà báo
nước ngoài, ngày 21-1-1946: “... Nếu cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân
tộc Việt Nam...” là lối nói ẩn dụ chính trị rất hay về văn chương, rất sâu
sắc về đạo đức chính trị, phản ánh động cơ, phương hướng, lương tâm
chính trị của một đảng viên mà ngày nay Điều lệ Đảng khẳng định: Đảng
đại biểu cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động, của
dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ, người sáng lập Đảng
nên đó cũng là mong muốn của Người về Đảng, mong muốn của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, cũng khơng vì thế mà khơng thừa nhận
tính lợi ích của một đảng. Lợi ích của một đảng chính trị càng đi cùng với
lợi ích của dân tộc bao nhiêu thì tính văn hóa của đảng đó càng cao bấy

nhiêu.
Nghiên cứu về đảng chính trị ở Việt Nam, trước hết thuộc về khoa học
chính trị và ln cần có những khái niệm căn bản. Nghiên cứu “văn hóa
trong đảng” là nghiên cứu các khái niệm, cần, kiệm, liêm, chính (của đảng
viên)..., nghiên cứu mặt tích cực, tiến bộ, cái giá trị, như tính tiên phong
của Đảng, tính gương mẫu (của đảng viên), sự trung thành (của đảng viên
với Đảng và của Đảng với lý tưởng, đường lối đã vạch ra).... Những khái
niệm phản ánh sự đối lập, như “lười nhác” trái với “cần”; “lãng phí” trái với
“kiệm”, “luồn cúi” trái với “chính”... chính là việc đi ngược văn hóa trong
đảng. Bức tranh tổng quát về sự phát triển của Đảng ta và những đặc sắc
văn hóa trong đảng có thể khái quát như sau: Đảng Cộng sản Việt Nam từ
khi ra đời đã theo đuổi mục tiêu lấy lợi ích của đại đa số những người lao
động, lợi ích dân tộc, lấy mục tiêu độc lập, hùng cường, thịnh vượng của
12


dân tộc... làm tiêu chí xây dựng và trưởng thành. Đảng ta đã trải qua
khơng ít gian khó, trải qua các hình thái khác nhau về đấu tranh và xây
dựng, khác biệt và thống nhất cao, cam go và thử thách... để có được
những giá trị văn hóa tốt đẹp (trong Đảng và các đảng viên) như ngày
hôm nay, được thể hiện trên nhiều mặt.
Thứ nhất, là tính “nhất quán chính trị”, đó là nhất qn từ xây dựng thể
chế, xây dựng tổ chức, xây dựng đội ngũ... và bao trùm lên tất cả là yếu tố
văn hóa bởi sự nhất quán này phản ánh và đáp ứng xu thế tiến bộ của con
người và của thời đại.
Thứ hai, là tính “nhạy bén chính trị”. Tính nhạy bén thể hiện ngay từ
những ngày đầu thành lập và giữ vai trò lãnh đạo của Đảng, đó là sự sáng
suốt trong dẫn dắt đất nước đi qua từng giai đoạn, từ chiến tranh đến
thống nhất đất nước, là những quyết sách đổi mới kinh tế - xã hội trong
hịa bình, những ứng biến trong quan hệ quốc tế...

Thứ ba, là tính đồng hành cùng dân tộc qua sự lắng nghe, tiếp thu phản
biện, năng lực giải trình của Đảng mà biểu hiện cụ thể là phẩm chất “tự
chỉ trích” nghĩa là dũng cảm thừa nhận những sai lầm, thậm chí sai lầm về
chủ trương. Đây đang là một trong những yếu tố văn hóa rất được chú
trọng trong Đảng hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh, một
Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng - đây thực sự
là một cảnh báo chính trị văn minh. Hiện nay, việc thẳng thắn chỉ ra
những khiếm khuyết bằng những khái niệm cốt lõi: “thối hóa”, “biến
chất”, “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến” về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống; ... đã cho thấy sự chuyển biến quan trọng về nhận thức.
Một đảng chính trị đạo đức, văn minh phải là một đảng mạnh về tổ chức,
có cơ sở triết lý theo đuổi, có khả năng dẫn dắt một dân tộc  - quốc gia
phát triển bền vững, có tín nhiệm, tạo được sự hài lòng và đồng thuận với
nhân dân và củng cố vị thế dân tộc trên trường quốc tế. Từ quan điểm
chứa đựng yếu tố văn hóa nói về Đảng Cộng sản Việt Nam “Đảng ta là đạo
đức, là văn minh” thì thấy các thuộc tính trong quan niệm về đảng văn
13


minh cũng chính là những tiêu chí hồn thiện của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm đường lối xây dựng Đảng và lãnh đạo đất nước chính là
thực hiện sứ mệnh chính trị (sứ mệnh cầm quyền) và sự tự hoàn thiện của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhận thức những vấn đề đặt ra hiện nay cần
phải giải quyết thì có nhiều nhưng có thể nêu một số nhóm vấn đề có tính
căn bản, xun suốt trong q trình lãnh đạo của Đảng ta.
Xem xét yếu tố văn hóa chính trị trong Đảng từ góc độ lãnh đạo, cầm
quyền cho thấy:
Vấn đề thứ nhất, văn hóa chính trị của Đảng thể hiện ở sự lãnh đạo của
Đảng thông qua Nhà nước, ở việc huy động được sức mạnh toàn dân trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Trong lý luận về hình thái kinh

tế - xã hội, V.I.Lênin đã chỉ ra, xã hội mới thay thế được xã hội cũ bằng
chính năng suất lao động nó đạt được. Có nghĩa là với vị thế một đảng
cầm quyền, lực lượng chính trị dẫn dắt xã hội, sứ mệnh lãnh đạo của Đảng
là phải xây dựng một nền kinh tế có năng suất lao động ngày càng cao để
bảo đảm tính hơn hẳn của chế độ, đó chính là vấn đề văn hóa chính trị căn
bản của Đảng giữ trọng trách cầm quyền.
Vấn đề thứ hai là trong mục tiêu bảo vệ chủ quyền quốc gia. Hiện nay đã
và đang có lúc, có nơi, có nhà nước đặt vấn đề lợi ích dân tộc một cách
quá mức đã tạo ra sự xung đột lợi ích. Họ đã bỏ qua các nguyên tắc, các
quy định của luật pháp quốc tế bằng nhiều cách thức. Có thể nói, chủ
quyền quốc gia là lợi ích tiền đề trong các lợi ích của một dân tộc. Đảng ta
luôn quán triệt và thực hiện nguyên tắc bảo vệ chủ quyền quốc gia và
toàn vẹn lãnh thổ theo công pháp quốc tế, và đây là cách hành xử văn
minh.
Vấn đề thứ ba, đào tạo nhân tài và tạo môi trường cho nhân tài thể hiện.
Nhân tài là ai, làm thế nào để xác định người tài, đó là việc của khoa học
và quản lý đất nước mà bất kỳ đảng lãnh đạo nào, nhất là các đảng cầm
quyền phải xác định được. Quan điểm về vị trí của nhân tài trong xã hội
cũng phải được khẳng định bởi nhân tài quyết định sự phát triển của xã
14


hội về mặt cơ hội, thúc đẩy và dẫn dắt. V.I.Lênin khẳng định, khơng có
lãnh tụ, thì khơng có phong trào. Lãnh tụ là người tích tụ các yếu tố tài
năng, uy tín gương mẫu (khơng bó hẹp khái niệm lãnh tụ trong hoạt động
chính trị mà trong mọi lĩnh vực). Hiện trạng đất nước cho thấy, không chỉ
chúng ta thiếu nhân tài, mà cịn vì chưa có cơ chế sử dụng người tài một
cách hiệu quả. Không thể chỉ lấy bằng cấp, học vị, hay bình xét để xác
định nhân tài, mà giá trị kinh tế - xã hội của sản phẩm họ làm ra, sự đóng
góp của họ vào sự phát triển của đất nước mới là tiêu chí để đánh giá

nhân tài. Muốn có nhân tài phải xây dựng một mơi trường văn hóa, nhân
văn trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội và đó chính là mơi
trường văn hóa chính trị quan trọng, là nền tảng bền vững, xây dựng niềm
tin của quần chúng nhân dân vào Đảng.
Xem xét yếu tố văn hóa trong Đảng từ góc độ biểu hiện, hành vi của đảng
viên và các tổ chức của Đảng thời gian qua cho thấy có một số vấn đề nổi
cộm trong một bộ phận cán bộ, đảng viên:
Vấn đề thứ nhất là hiện tượng “thờ ơ chính trị”, đó là thái độ, tâm lý bỏ
mặc việc xây dựng đảng cho Đảng, cho cấp trên, cho người khác, chỉ lo để
bản thân.
Vấn đề thứ hai là vi phạm các tiêu chí “cần, kiệm, liêm, chính”. Từng cá
nhân đảng viên phải thể hiện tính cơng minh, chính trực, sự minh bạch
trong từng hoạt động chính trị, trong lao động sản xuất và sinh hoạt hằng
ngày. “Cần, kiệm, liêm, chính” khơng phải chỉ là những biểu hiện bên
ngồi, mà cịn bắt đầu từ tự nhận thức bản thân từ bên trong. Một đảng
viên có nhận thức đúng đắn không thể chây lười, vi phạm chữ “cần”,
khơng thể lãng phí để phạm vào chữ “kiệm”, họ phải có trách nhiệm, tự
kiềm chế để rèn bản thân theo chữ “liêm”. Tham nhũng là gốc của mọi
“khuyết tật” chính trị khác trong đạo đức chính trị của đảng viên. Mà đạo
đức luôn đồng hành, tỷ lệ thuận với văn hóa. Người kém đạo đức khơng
thể là người có văn hóa. Trong rèn luyện bản thân đối với đảng viên, chữ
nào cũng quan trọng trong các tiêu chí cần, kiệm, liêm, chính nhưng chữ

15


“chính” lại có tác động tới mọi “ngõ ngách” phẩm chất của con người nói
chung và của đảng viên nói riêng.
4. Một số giải pháp cơ bản thời gian tới
Thứ nhất, để lãnh đạo đất nước, huy động được sức mạnh tồn dân trong

cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời bảo vệ chủ quyền
quốc gia, cần xác định hiện trạng xã hội, kinh tế, văn hóa tương ứng với
trình độ phát triển, từ đó vạch ra lộ trình, bước đi với từng thang bậc phát
triển phù hợp. Trong thời điểm hiện nay, cần tập trung đẩy nhanh xã hội
hóa, nhất là xã hội hóa dịch vụ công bởi thực tế cho thấy, trong mọi lĩnh
vực, từ sản xuất, kinh doanh, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, nghiên cứu
khoa học..., thì những nơi được trao quyền tự chủ đều có hiệu quả hoạt
động cao khi họ tự chọn cho mình bộ máy quản trị, tự tổ chức các hoạt
động kinh tế - xã hội theo quy định pháp luật; xây dựng chính phủ kiến tạo
làm minh bạch trách nhiệm công quyền, nhất là trong xây dựng hành lang
chính sách; thúc đẩy các hoạt động kinh tế - xã hội tạo nguồn lực cho đầu
tư phát triển và bảo đảm phúc lợi xã hội. Đồng thời, có sự đầu tư thích
đáng, có chính sách đối ngoại phù hợp, gìn giữ hịa bình, ổn định, bảo vệ
chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.
Thứ hai, cần kết hợp đồng bộ giữa định chế chính trị, quy chế pháp lý, cơ
chế thực hiện đối với người đứng đầu của tổ chức. Xây dựng cơ sở chính
trị, cơ chế pháp lý và phát huy dân chủ chắc chắn sẽ tạo ra người đứng
đầu thực sự là đầu tàu của mọi phong trào. Ở nước ta, định chế chính trị
chính là các nghị quyết, quy định của Đảng liên quan đến người đứng đầu.
Pháp luật đã có nhiều quy định về nhiệm vụ, quyền hạn người đứng đầu
nhưng trách nhiệm hành chính vốn là bản chất của điều hành tổ chức
cơng thì vẫn chưa phát huy được. Dường như vẫn có sự quan ngại khi áp
dụng các chế tài mạnh về hành chính, cụ thể là rất ít quy định về mức độ,
hành vi khiến người đứng đầu phải mất chức, giáng chức, giảm bậc thu
nhập. Luật pháp Việt Nam quy định cơng vụ khơng bó hẹp trong cơ quan
hành pháp (như đa số các nước), công vụ thể hiện ở nơi nào có sử dụng
cơng chức và viên chức. Nghĩa là chế tài hành chính đối với cơng chức
16



đứng đầu áp dụng không chỉ trong cơ quan hành chính, mà cịn trong các
cơ quan đảng, bộ máy nhà nước và một số đoàn thể nhân dân. Do vậy,
xây dựng môi trường xã hội trong sạch trên cơ sở một nền quản trị xã hội
hiệu quả, có sự thống nhất, phối hợp giữa chủ trương chính trị, quy định
pháp lý, giải pháp thực hiện và lựa chọn con người là giải pháp quan
trọng.
Thứ ba, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị, đề cao yếu tố
văn hóa đạo đức trong các cấp, các ngành, các lĩnh vực, xây dựng môi
trường làm việc, môi trường kinh doanh,... lành mạnh; đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ vừa có tài, vừa có đức; tăng cường kiểm tra, giám sát trong
Đảng, bảo đảm từng đảng viên, từng tổ chức đảng luôn kiên định với chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sáng tạo; ln trung
thành, gắn bó với nhân dân; coi trọng đồn kết thống nhất trong Đảng,
luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành “cần, kiệm, liêm,
chính”, thực hiện tốt Quy định về những điều đảng viên không được làm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chương trình thái học Việt Nam, “Giáo Trình Lý Luận Văn Hóa Và Đường

Lối Văn Hóa Của Đảng Cộng Sản Việt Nam” (Dùng Cho Hệ Lý Luận Chính
Trị Cao Cấp), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2003
2. TS Phạm Ngọc Trung “Giáo trình lý luận văn hóa”, Nhà xuất bản chính trị
quốc gia, 2012.
3. TS Vũ Thị Như Hoa, “giáo trình hệ thống chính trị Việt Nam” (Dành cho
chương trình đại học chính trị)
4. Hiến pháp Nước Cộng hịa XHCN Việt Nam năm 2013 (được Quốc Hội

thơng qua ngày 28/11/2013 tại kỳ họp thứ 6, Quốc Hội khóa XIII)
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Website Đảng cộng sản Việt Nam



7.

Website Thành phố Hồ Chí Minh />
8. Website Thành Đồn Tp. Hồ Chí Minh


17


18



×