Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Nghi lễ Hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt và những vấn đề đặt ra hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (985.03 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





CHU THUỲ LINH





NGHI LỄ HẦU ĐỒNG TRONG TÍN NGƢỠNG
THỜ MẪU CỦA NGƢỜI VIỆT Ở ĐỒNG BẰNG
BẮC BỘ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY



Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành: Tôn giáo
Mã số: 60 22 90


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Đăng Sinh






HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN!

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy giáo, cô giáo
trong khoa Triết học - Trường Đại Học Khoa học Xã Hội và Nhân Văn,
ĐHQGHN, đã đào tạo, giúp đỡ em trong suốt thời gian học vừa qua và đã
tạo điều kiện cho em được thực hiện luận văn tốt nghiệp này.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy
PGS. TS Trần Đăng Sinh - Giáo viên hướng dẫn trực tiếp đã giúp em hoàn
thành luận văn tốt nghiệp một cách thuận lợi. Thầy đã luôn bên cạnh để
đóng góp, sửa chữa những thiếu sót, khuyết điểm em mắc phải và đề ra
hướng giải quyết tốt nhất từ khi em bắt đầu viết luận văn cho tới khi hoàn
thành.
Em cũng xin cảm ơn gia đình và các bạn trong tập thể lớp đã giúp
đỡ, động viên em trong suốt thời gian học tập và làm luận văn.
Luận chắc chắn sẽ không tránh khỏi hạn chế và thiếu sót, em rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô cùng toàn thể các bạn để
đề tài của em được bổ sung và phát triển hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5, năm 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ với đề tài “Nghi lễ Hầu đồng trong
tín ngưỡng Thờ Mẫu của Người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ ” là công trình
nghiên cứu của riêng cá nhân tôi và những kết quả nghiên cứu trong luận văn
này hoàn toàn trung thực.

Tháng 5 năm 2014

Tác giả luận văn

Chu Thùy Linh



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Mấy thập kỷ gần đây, trong xã hội Việt Nam, do chính sách đổi mới và
mở cửa, cùng với những tác động của đời sống kinh tế - xã hội, đã tạo nên sự
hồi sinh của nhiều hình thức tín ngưỡng và sự gia tăng phức tạp của các loại
hình sinh hoạt tín ngưỡng, làm cho bức tranh về tôn giáo tín ngưỡng ở nước ta
trở nên đa dạng với nhiều sắc thái và các chiều tác động khác nhau, trong đó
có tín ngưỡng thờ Mẫu.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian của người
Việt, phản ánh rõ nét đặc trưng văn hoá của cư dân nông nghiệp trồng lúa
nước. Với việc tôn thờ người phụ nữ, người mẹ, coi người mẹ là đấng sáng
tạo, bảo trợ cho sự tồn tại, phát triển của vạn vật, tín ngưỡng thờ Mẫu đã thể
hiện được đạo lý “uống nước nhớ nguồn” và truyền thống tôn trọng người
phụ nữ của người Việt Nam. Song đây cũng là một hiện tượng tín ngưỡng gây
nhiều tranh luận là mê tín hay không mê tín, là văn hoá hay phi văn hoá, là giá
trị hay phản giá trị,…cần được xem xét và nghiên cứu một cách khoa học.
Hầu đồng là một trong những nghi lễ quan trọng của tín ngưỡng thờ
Mẫu. Trong nhiều năm gần đây cùng với sự bùng phát mạnh mẽ của loại hình
tín ngưỡng dân gian này, nghi lễ Hầu đồng cũng đã thu hút được sự quan tâm
của nhiều nhà nghiên cứu. Nhiều tài liệu xuất bản đã đề cập đến hoạt động
này như một nghi lễ thực hành tôn giáo, một dạng thức của Saman, một sinh
hoạt văn hoá tâm linh,… Tuy nhiên nghi lễ Hầu đồng ở Việt Nam vẫn còn

gây nhiều tranh luận trong giới nghiên cứu về nguồn gốc và bản chất của nó.
Bên cạnh những giá trị tích cực, những nét đẹp văn hoá mà Hầu đồng đem lại
thì nghi lễ này cũng vấp phải sự phản đối của không ít người do nhiều nơi vẫn
còn khá phổ biến những hiện tượng lạm dụng nghi lễ này để phục vụ cho mục

2
đích cá nhân gây nên nhiều hậu quả xấu. Hầu đồng hiện đang được Viện Văn
hoá nghệ thuật Việt Nam đề nghị đưa vào danh sách đề cử Di sản văn hoá phi
vật thể, đề nghị này cũng đang gây nhiều tranh cãi với những ý kiến trái
ngược nhau.
Những sự thực đó đòi hỏi phải có những nghiên cứu sâu hơn nữa về
nghi lễ Hầu đồng nhằm phân định ở một mức độ có thể đâu là giá trị tích cực
cần phát huy, đâu là những hạn chế cần khắc phục của hiện tượng văn hoá tín
ngưỡng khá đặc biệt này, sẽ góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng và
phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà Đảng và nhân dân
ta đang tiến hành.
Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn trên, tác giả luận văn đã chọn đề tài
“Nghi lễ Hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng
Bắc Bộ và những vấn đề đặt ra hiện nay ” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu “nghi lễ Hầu đồng của người Việt” không phải là đề
tài mới mẻ, đã có nhiều học giả nghiên cứu, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác
nhau:
Một số công trình do G.S Ngô Đức Thịnh chủ biên như: “Đạo Mẫu ở
Việt Nam” (Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1996); “Đạo Mẫu và các hình
thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á” (Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2004); “Hát văn” (Nxb văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1992); “Tín
ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt nam” (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
2001); “Lên Đồng hành trình của thần linh và thân phận” (Nxb Trẻ, TP Hồ
Chí Minh, 2008),…Các tác phẩm này đã nghiên cứu một cách cơ bản và

tương đối toàn diện, hệ thống về Đạo Mẫu ở Việt Nam, bao gồm các khía
cạnh thần tích, truyền thuyết, điện thần, nghi lễ thờ cúng và lễ hội; điều tra và
trình bày các hiện tượng thờ Mẫu tiêu biểu ở Việt Nam. Ngoài ra còn nhiều

3
các công trình khác cũng nghiên cứu về tín ngưỡng Mẫu như: “Các nữ thần
Việt Nam” của Đỗ Thị Hảo và Mai Thị Ngọc Chúc (Nxb Phụ nữ, Hà Nội,
1984); “Văn hoá Thánh Mẫu” của Đặng Văn Lung (Nxb Văn hoá – Thông
tin, Hà Nội, 2004); “Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam” của Nguyễn
Minh San (Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1994); “Góp phần tìm hiểu tín
ngưỡng dân gian ở Việt Nam ” do Nguyễn Đức Lữ chủ biên (Học viện chính
trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, 2000)…
Bên cạnh đó còn nhiều bài viết công bố trên các tạp chí: Nghiên cứu lý
luận, Triết học, Tôn giáo, Văn hoá dân gian, Văn học…cũng đã đề cập tới các
góc độ khác nhau về tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả kể trên đã tiếp
cận tín ngưỡng thờ Mẫu từ các góc độ khác nhau: văn hoá, lịch sử, tôn giáo,
nghệ thuật, Trong các nghiên cứu về Đạo Mẫu thì Hầu đồng cũng được đề
cập đến như là một trọng tâm của nghiên cứu, nhiều bài viết của các tác giả đã
phân tích và tiếp cân nghi lễ này ở nhiều góc độ khác nhau và cũng đã có
nhiều kết luận đáng chú ý: Lên đồng phần nào cũng đã đáp ứng được sự giải
toả căng thẳng của cuộc sống công nghiệp đang hằng ngày, hằng giờ đè nặng
lên mỗi con người thời hiện đại. Đến với Thờ Mẫu, đặc biệt trong nghi lễ Hầu
đồng với các trang phục đặc biệt của mình, con người đã được hoá thân, thăng
hoa trong vai các vị Thánh Thần có quyền năng tối thượng, việc lên đồng
mang lại một khoái cảm đặc biệt đối với người tham dự, có tác động giải toả
và thăng hoa. Tóm lại khảo sát về nghi lễ Hầu đồng, có rất nhiều các phát
biểu về loại hình văn hoá này. Có thể thấy các tác giả đã tiếp cận hiện tượng
này trên một số góc độ sau: tiếp cận từ góc độ thần tích của các vị thần, tiếp
cận từ góc độ nghi lễ, diễn xướng, điện thần, công dụng trị liệu của nghi lễ…

Từ đó cho thấy nghi lễ Hầu đồng đã được tìm hiểu dưới nhiều góc độ
khác nhau. Tuy nghiên việc nghiên cứu sâu hơn để thực sự hiểu về nguồn

4
gốc, bản chất của Hầu đồng là một vấn đề khó khăn, phức tạp, cần tiếp tục
được nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
+ Tìm hiểu về nghi lễ Hầu đồng của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ.
+ Đề xuất một số phương hướng và giải pháp trong việc phát huy
những giá trị tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của nghi lễ Hầu đồng.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Tìm hiểu khái niệm nghi lễ, nghi lễ Hầu đồng và các quan niệm khác
nhau về Hầu đồng.
+ Tìm hiểu về quá trình ra đời và phát triển của nghi lễ Hầu đồng trong
tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ.
+ Tìm hiểu thực trạng và những vấn đề đặt ra hiện nay đối với nghi lễ
Hầu đồng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Nghi lễ Hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng
bằng Bắc Bộ và những vấn đề đặt ra hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
Nghi lễ Hầu đồng của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ trong lịch sử và
hiện tại.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề tín ngưỡng,
tôn giáo, đồng thời sử dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, logic -

lịch sử, xem xét tôn giáo xuất phát từ nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo.

5
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn đóng góp một phần cho việc nghiên cứu nghi lễ Hầu đồng
trong tín ngưỡng Thờ Mẫu của người Việt để có thể hiểu thêm về nghi lễ,
đồng thời nhìn nhận nó một cách khách quan để có thể phát huy những giá trị
và hạn chế những mặt tiêu cực của nghi lễ Hầu đồng trong việc xây dựng nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 2 chương 4 tiết, cùng phần mở đầu, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo.
















6
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ NGHI LỄ HẦU ĐỒNG TRONG TÍN

NGƢỠNG THỜ MẪU CỦA NGƢỜI VIỆT Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

1.1. Quan niệm về nghi lễ Hầu đồng
1.1.1. Khái niệm nghi lễ, nghi lễ Hầu đồng
* Khái niệm nghi lễ
Nghi lễ thường được thể hiện qua sự ứng xử, giao tiếp trong xã hội,
trong tín ngưỡng, trong sinh hoạt tôn giáo thông qua đời sống tâm linh, mang
đậm sắc thái văn hoá dân tộc. Nghi lễ là một từ chung, mang ý nghĩa qua sự
tổ chức, thể hiện các khuôn mẫu giao tiếp đã được đặt ra của một hay nhiều
người đối với một hay nhiều người khác, và đối với một hay nhiều thần linh,
đấng cao cả siêu nhiên. Nghi lễ (rite gốc từ la tinh ritualis) gồm nhiều nghi
thức (rituals) hành lễ hợp lại.
Nghi là dáng, mẫu, nghi thức, nghi lễ, khuôn phép. Nghi cũng được
hiểu là mẫu mực, là tiêu chuẩn đo lường…
Lễ là phép tắc, khuân mẫu phải tuân theo khi thờ cúng tổ tiên, quỷ thần,
hoặc giao tế trong xã hội. Lúc đầu “Lễ” chỉ là cách thức cúng tế, về sau được
dùng rộng ra để chỉ những quy tắc được tập thể thừa nhận trong đời sống
cộng đồng như cưới xin, tang chế, giao tiếp… Lễ có giá trị đặc biệt với đạo
Nho, vì được coi như bắt nguồn từ trật tự của trời đất, từ “thiên lí” tức lẽ trời
gồm những quy tắc thiết yếu như “tam cương” (quân - sư - phụ), “ngũ
thường” (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) mà con người phải tuân theo. Đạo Nho quan
niệm “Hễ làm con khi cha mẹ còn sống phải phụng sự cho có lễ, khi cha mẹ
mãn phần phải chôn cất cho có lễ; rồi những khi cúng tế, cũng phải giữ đủ lễ
phép nghiêm trang” (người biết giữ lễ kính, tức là không ăn ở trái ngược) [7,
tr.17].

7
Lễ tức là một trật tự xã hội, kỷ cương trong xã hội mà dân chúng phải
tuần theo. Khổng Tử, người đầu tiên sáng lập ra đạo Nho ở thời Xuân Thu
(551 - 479 TCN) nói: “Muốn dẫn dắt dân chúng nhà cầm quyền phải dùng

đức hạnh; muốn trị dân nhà cầm quyền phải dùng lễ tiết, thì chẳng những dân
biết hổ ngươi, họ lại còn cảm hoá mà trở nên tốt lành” [7, tr.15].
Lễ chế (phép tắc về việc lễ) gắn liền với nghi lễ (nghi thức về việc lễ),
hợp với điều nghĩa để hoà nhập với xung quanh. Lễ cũng gắn liền với Nhạc.
Trong xã hội, Lễ phân biệt trên dưới, ngăn cản những gì quá đáng,
thiên về lí trí, nên cần có Nhạc kèm theo để điều hoà tình cảm tạo nên sự hoà
nhập tương thân. Đối với cả Lễ và Nhạc điều cơ bản là phải xuất phát từ đức
nhân bên trong. Khổng Tử thường nói: “Người ta mà chẳng có lòng nhân, thì
làm sao mà thi hành lễ tiết? Người ta mà chẳng có lòng nhân, làm sao mà
dùng âm nhạc?” [7, tr.33].
Trong tôn giáo lễ được hiểu là các hoạt động chủ chốt trong đời sống
tín ngưỡng của người có đạo, gắn liền với Phật, với Chúa, với các tín đồ như
Tăng Ni với Phật Tử, giáo sỹ với giáo dân.
Lễ trong tôn giáo được coi là thiêng liêng nên được coi là Phật lễ,
Thánh lễ.
Lễ trong lễ hội dân gian các làng xã là hệ thống các hành vi, động tác
nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con người đối với thần linh, phản ánh
những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ
chưa có.
Như vậy, nghi lễ có nghĩa là hành vi (hoặc hệ thống hành vi) của cá
nhân hoặc tập thể tuân theo một quy tắc nhất định, lặp đi lặp lại thuộc một sơ
đồ có sẵn (về sau có thể tuỳ thời gian điều chỉnh cho thích hợp hơn với tâm lý
lớp người sau), nhằm đạt tới một mục đích tín ngưỡng tôn thờ một thế lực
siêu nhiên nào đó. Nghi lễ thường được thể chế hoá (có thể thành văn bản có

8
thể không). Nghi lễ tôn giáo nguyên thuỷ thường gắn liền với huyền thoại,
mang nhiều dấu ấn về hoạt động sinh hoạt người thời xưa như chèo đò, leo
cây, săn bắn bằng cung nỏ, hú gọi, đốt lửa… Nhiều nghi lễ gắn với việc thay
đổi trạng thái của cá nhân hay tập thể (sinh đẻ, cưới xin, làm nhà…). Sau này

nghi lễ tôn giáo ngày càng được sử dụng nhiều hình thức văn hoá nghệ thuật
như múa hát, ca nhạc, sắc phục, nhịp điệu, ánh sáng đèn nến… để hỗ trợ hiệu
quả hoặc tăng sức cuốn hút.
Tóm lại nghi lễ có nghĩa là lề lối, phép tắc trong việc lễ. Nghi lễ có ý
nghĩa rất rộng, bao trùm hành vi, thái độ, tín ngưỡng, văn hoá ngôn ngữ,
phong cách của con người và xã hội. Trong nghĩa hẹp thì nghi lễ là nghi thức
hành lễ tụng niệm mang tính tín ngưỡng thờ phụng của một tôn giáo.
* Khái niệm nghi lễ Hầu đồng
Hầu đồng (Lên đồng, Hầu bóng) là một nghi lễ quan trọng trong tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Khác với nhiều hình thức tín ngưỡng tôn
giáo khác, tín ngưỡng thờ Mẫu không hướng con người vào thế giới sau khi
chết, mà là một thế giới hiện tại, trần tục với mong ước sức khoẻ, tài lộc.
Trong tâm thức của người dân để đạt tới ước vọng trần tục ấy thì điểm tựa lại
là thế giới siêu nhiên với các thần linh, các cuộc hành trình của thần linh từ
cõi hư vô trở về tái sinh trên thân xác của các ông Đồng – bà Đồng trong nghi
lễ Lên đồng.
Hầu đồng là một nghi lễ chính trong tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần và
thờ Mẫu Liễu ở đồng bằng Bắc Bộ. Thực hiện nghi lễ Hầu đồng thờ hai vị
Thánh này của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ cũng chia thành hai: dòng
Thánh Cha, tức thờ Đức Thánh Trần, Vua Cha Bát Hải và dòng Đồng Cốt thờ
Thánh Mẫu. Các đệ tử của dòng thờ Đức Thánh Trần và Vua Cha Bát Hải
được gọi là Thanh đồng, “Thanh” ở đây nguyên là “thanh tiên đồng tử” tức

9
tiên đồng. Chữ “Thanh” nghĩa là màu xanh, chỉ thanh thiếu nhi trẻ tuổi, nhiều
người còn hiểu Thanh đồng có nghĩa là thanh trừ tà ma quỷ quái.
Từ “Đồng” trong “Hầu đồng” có nghĩa là trẻ con. Con người khi sinh ra
thường bị cuộc sống nhân tạo chi phối, kìm hãm khả năng tiếp cận với sự ẩn
tàng của thiên nhiên, vũ trụ. Và, chỉ trong khi lên đồng, bằng xuất thần, để trở
về với tâm hồn trẻ thơ mang bản chất trong trắng, hồn nhiên con người mới

tạm thời gạt bỏ được những sự ràng buộc nhân tạo đó. Người ta tin rằng, có
như vậy mới đồng cảm được với thần linh, hoà hợp được với thiên nhiên, vũ
trụ và mới biết được sự dạy bảo của đấng thiêng liêng.
“Đồng” còn có nghĩa là cùng. Con người bằng xuất thần đẩy linh hồn ra
khỏi xác thân nhằm tìm lấy một tâm hồn đồng điệu trong hệ tứ phủ vạn linh,
để vị thần đó mượn xác thân con đồng mà tiếp cận với chúng sinh, tín đồ.
“Đồng” còn có một nghĩa khác là tiểu đồng, hoặc tiên đồng hầu hạ bên
cạnh các vị đại Tiên, Thánh, nhận sự ủy thác nhờ cậy của chúng sinh những
nguyện cầu về quốc thái dân an, về những khó khăn trong đời sống trần gian,
mong được Thánh thần giải thoát.
Như vậy ta thấy ở đây từ “Đồng” dùng để chỉ đối tượng là trẻ em. Từ
“Cốt” có nghĩa là Bà cốt, là thuật ngữ biến âm từ bà cô tí (cô gái nhỏ) được
người nước ngoài gọi là “bacoti” rồi chuyển sang thành Bà cốt, từ “Cốt” còn
được hiểu là xương cốt, thân xác của người trần và Thần linh sẽ mượn thân
xác ấy mà nhập vào.
Ở Việt Nam trong những năm gần đây vẫn còn hiện tượng Đồng kê
(hiện tượng cầu cơ trong Đạo giáo - Đạo Cao Đài), trong nghi thức này cũng
có hai người cầm cơ gọi là Đồng tử (thường dùng con trai còn trinh nguyên,
cũng có khi là con gái còn trinh nguyên). Theo quan niệm của Đạo giáo sự
trinh nguyên mang tính tự nhiên, tính trong sạch, thích hợp cho Thần dựa.

10
Tuy nhiên hiện nay, các Thanh đồng không còn là trẻ con trinh nguyên nữa
mà là người đã có gia đình, hay đã thành niên mà chưa có vợ hoặc chồng.
Từ thuật ngữ Thanh đồng và Đồng cốt có thể hiểu Hầu đồng là một
dạng nghi lễ được thực hành bởi những chủ thể, cá nhân có tố chất ngây thơ,
trong sáng, thuần khiết, thanh sạch. Thời kỳ đầu Hầu đồng chỉ được thực hiện
bởi những người nhỏ tuổi, về sau đối tượng này được mở rộng cả ở những
người trưởng thành nhưng phải có “căn đồng”.
Tuy nhiên ở đây còn thuật ngữ nữa là “Hầu bóng”, vậy “bóng” có nghĩa

là gì? Theo tác giả Ngô Đức Thịnh thì “bóng” chỉ vị Thần linh nào đó chiếu
nhập cái bóng (hồn) của mình vào ông Đồng hay bà Đồng và ông bà Đồng
này chỉ là người hầu hạ cái bóng của Thần linh ấy [37, tr 50]. Trên thực tế thì
khi ông Đồng hay bà Đồng đã trùm tấm khăn phủ diện đỏ lên người, cung văn
thỉnh mời thần linh và ông bà Đồng giơ tay ra hiệu ngôi vị Thánh nào giáng
về thì lúc đó với bộ trang phục của vị Thánh ấy, các Đồng trong con mắt
những người xung quanh cũng như trong tâm tưởng, ảo tưởng của chính chủ
thể, họ không còn là những người phàm nữa mà đã là thần linh hay chí ít họ
cũng được đồng nhất với thần linh. Chi tiết này cho thấy nếu coi Hầu bóng là
để chỉ các con đồng hầu hạ cái bóng của thần linh là không thoả đáng, nhưng
nếu xét từ góc độ các con nhang đệ tử, cung văn ngồi dự và thực thi các hoạt
động như hát ngợi ca công tích Thánh Thần, dâng tiền, dâng lễ, tung hô, tán
thưởng, dâng rượu, dâng trà cho Thánh khi nhập vào Đồng và bản thân các
Đồng kiêm luôn việc thực hành, biểu diễn vũ đạo để mua vui cho Thần linh
thì hoàn toàn có thể coi là hầu hạ Thánh.
Trong khu vực Phủ Dày (Nam Định) có một địa điểm gọi là Phủ Bóng,
trước đây nó được gọi là “cây đa Đền Bóng” hay “Nguyệt Du Cung”. Tương
truyền ở đây có một cây đa cổ thụ và dưới gốc có điện thờ nhỏ. Về sau cây đa
mất đi, dân trong vùng xây một điện thờ khang trang, sau bị chiến tranh huỷ

11
hoại, mới đây được xây lại. Theo dân gian trong vùng đây là nơi Liễu Hạnh
đến ngắm trăng (Nguyệt Du Cung), có ý kiến cho đây là nơi bà bay lên trời,
có ý kiến cho là nơi bà về thăm thân phụ. Vậy tại sao lại gọi là cây đa bóng?
Điều này có thể lý giải đó là do cây đa ngả bóng bên phần mộ Mẫu, hoặc mộ
phụ thân của Mẫu; hay đây là nơi có bóng dáng quần tiên, bóng dáng Mẫu.
Thần điện dưới gốc đa đương nhiên là Thần cây (mô típ phổ biến ở nhiều địa
phương: thần cây đa, ma cây gạo) là một tín ngưỡng cổ xưa và sau này khi
xuất hiện hình tượng Mẫu thì nó trở thành tín ngưỡng Mẫu. Ở đây có sự lồng
ghép vào nhau của hai mô típ Thần cây và Nữ thần. Chữ bóng chỉ thần ngự

trên cây thành chỉ Mẫu, và hầu bóng sau bị từ Hán thay thế thành Hầu đồng.
Đồng bóng là một thuật ngữ song ngữ. Đến đây chúng ta thấy “bóng” cũng có
nghĩa như “hầu”, hầu bóng và hầu đồng cùng có nghĩa như nhau.
Theo quan niệm dân gian, một cuộc Hầu đồng được gọi là một vấn hầu
hay một canh hầu. Trong một canh hầu ở người Việt Bắc Bộ có rất nhiều vị
Thần giáng về “nhập” vào người ngồi đồng. Lúc đó chủ thể là người ngồi
đồng chỉ là lấy thân xác mình làm cái cốt (xác) cho Thần linh nhập vào để
giáng trần. Mỗi lần một vị Thánh giáng, làm việc Thánh và thăng (ra đi) được
gọi là một ghế đồng. Ghế ở đây được hiểu là con đồng, là nơi để Thần linh
“ngự” vào (nhập vào). Điều này có thể hiểu là xuất phát từ cách nói lịch sự,
kính cần với Thánh (bề trên) người Việt dùng tiếng Hán “ngự”. Ngự có hai
nghĩa: ngự - ngồi và từ đây dẫn đến cách gọi một lần Thánh giáng xuống/
nhập xuống người con đồng là một “ghế” đồng (cái để ngồi gọi là ghế); mặt
khác ngự còn có nghĩa là ngự trị (chiếm giữ hết tinh thần) như cách nói “hình
ảnh ai đó luôn ngự trị trong đầu” thì đây là cách để các Đồng tự thôi miên
chính mình (tự ám thị mình đồng nhất với Thánh thần). Như vậy, vấn đề là ai
ám thị tốt thì vào vai rất đạt (được coi là Thánh nhập), ai ám thị kém thì vào
vai không đạt (gọi là đồng lì, đồng đá). Tuy nhiên để có thể tự ám thị được

12
bản thân, đòi hỏi các Đồng phải có một quá trình tập luyện và luôn cần sự hỗ
trợ của các Đồng thấy. Trong câu khấn của các Hầu dâng khi Thánh về
thường có câu “Hôm nay ngày…chúng con bắc ghế Quan/Chầu ngồi, bắc
ngôi Quan/Chầu ngự…” xét từ khía cạnh này có nghĩa là thân thể con Đồng
lúc ấy chỉ đóng vai trò là cái giá hay là cái ghế để Thần linh mượn thân xác ấy
mà ngự vào đó thôi, còn phần bên trong, phần tinh thần là thuộc về Thánh
thần. Cái ghế đó cũng để cho nhiều vị Thánh ngự chứ không chỉ một vị, vì thế
khác với hiện tượng lên đồng trong Saman giáo, mỗi lần lên đồng, một căn
Đồng có thể lên rất nhiều giá Đồng, có người lên tới 36 giá, thay tới 36 lần
trang phục và thể hiện đầy đủ tính cách của các vị Thánh đó.

Như vậy, Hầu đồng là một nghi lễ chính trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Đó
là nghi lễ nhập hồn nhiều lần của các vị thần linh Tam phủ, Tứ phủ vào thân
xác các ông Đồng, bà Đồng, là sự tái hiện hình ảnh các vị Thánh, nhằm phán
truyền, chữa bệnh, ban phúc lộc cho các tín đồ Đạo Mẫu. Trong Hầu đồng,
mỗi lần một vị thần linh nhập hồn (giáng đồng), rồi làm việc quan (tức thời
gian thực hiện các nghi lễ, nhảy múa, ban lộc, phán truyền) và xuất hồn
(thăng đồng) được gọi là một giá đồng. Trong nghi lễ lên đồng, có tất cả 36
giá đồng, nhưng thường trong một buổi hầu đồng không thể lên hết được tất
cả các giá.
1.1.2. Các quan niệm khác nhau về nghi lễ Hầu đồng
Hầu đồng cổ xưa ở Việt Nam như thế nào, hầu như không có tài liệu
nào phản ánh, tài liệu sớm nhất mà chúng ta có được hiện nay là “Thượng
Kinh Ký Sự” của Hải Thượng Lãn Ông, song cũng chỉ được đề cập thoáng
qua với cái tên “tiệc hát”. Đó là chưa kể đến sự nhạy cảm của hiện tượng này
khiến các nghiên cứu công phu về nó càng trở nên ít ỏi, vì vậy mà việc hiểu
tường tận về Hầu đồng lại càng trở nên khó khăn. Tuy nhiên căn cứ vào nhiều

13
tài liệu đã công bố và xuất bản, cho thấy có các khuynh hướng chủ yếu nhận
định về Hầu đồng như sau:
* Hầu đồng – nghi lễ chính trong tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần và
Thánh Mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ.
Trong hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam hiện vẫn tồn tại khá
nhiều các dòng tôn giáo khác nhau: dòng thờ Phật, thờ Khổng Tử, Lão Tử,
Hồi giáo, Thiên Chúa giáo… Bên cạnh đó là một loạt những tín ngưỡng dân
gian: thờ Thành Hoàng làng, thờ tổ tiên, thờ linh thần, linh vật (thần tự nhiên),
còn có cả một dòng nữa đó là dòng thờ Thánh. Mặc dù dòng thờ Thánh của
người Việt chưa hề tạo thành một cấu trúc hoàn chỉnh với các tiêu chí như
giáo lý, giáo sĩ, tín đồ… nhưng có thể nói trong tâm thức dân gian người Việt,
thờ Thánh luôn được đặt ngang hàng với thờ Phật, chỉ với hai thế lực Phật –

Thánh có tác động nhiều nhất đến đời sống tinh thần, tâm linh của người Việt.
Trong đó Phật giải quyết những thắc mắc của đời người sau khi viên tịch, còn
Thánh giải quyết việc đời người khi còn sống. Lẽ sống - chết cũng là hai vấn
đề mà người Việt luôn quan tâm.
Tín ngưỡng thờ Thánh không rõ xuất phát từ căn nguyên nào, từ Thánh
không rõ có từ khi nào, song trong mục “Có một Đạo Thánh ở Việt Nam”, tác
giả Vũ Ngọc Khánh có nhận định: “Đạo Thánh tự hình thành”. Thánh của
người Việt cùng là các Thần linh nằm trong hệ thống Thần linh nói chung,
nhưng lại là những thần linh cá biệt, đặc biệt. Giải thích về hiện tượng này có
ý kiến cho rằng Thần là có quyền năng vô bờ bến, còn Thánh là sự tích hợp
của hai yếu tố Thần và trí tuệ. Khi xem xét lai lịch các Thánh ở đồng bằng
Bắc Bộ cho thấy có một số đặc điểm sau:
Nguồn gốc: thường là những vị nhân thần sinh thời có tư cách đạo đức
tốt, có những công lao hiển hách với đất nước, dân tộc (Trần Quốc Tuấn); là
những Thiên thần nhưng đều đã giáng trần, đã sống cuộc đời trần tục (cũng

14
lấy vợ/chồng là người trần) hiển linh nhiều lần giúp dân, giúp nước (Liễu
Hạnh).
Mô típ Thánh của người Việt bao giờ cũng là những nhân vật có tài
năng đặc biệt, có phép thuật, có thể chữa bệnh, bắt tà, cứu dân (Trần Quốc
Tuấn), tài trị thuỷ (Tản Viên); phù cho việc buôn bán giỏi giang (Chử Đồng
Tử, Mẫu Liễu).
Khi đã là Thánh, họ có phép thuật và trở nên bất tử. Sự bất tử đó thể
hiện bằng việc thường xuyên hiện hữu giữa đời thường dưới hình thức giáng
linh, giáng trần để có thể thấu suốt, giải quyết mọi việc trần gian.
Thực tế cho thấy trong vô số các Thần linh đất Việt chỉ có một số nhân
vật được chọn làm Thánh và được dân gian cũng như triều đình phong Thánh:
Thánh Tản Viên, Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Thánh Trần, Thánh Chử Đạo Tổ,
Thánh Gióng… đây cũng là điều đặc biệt. Trong số các vị Thánh này chỉ có

hai vị Thánh Trần và Thánh Mẫu Liễu Hạnh là có vị trí sâu đậm hơn trong
tâm tưởng dân gian. Việc ốp đồng, nhập đồng ở đồng bằng Bắc Bộ xưa cũng
như nay chỉ tập trung xung quanh thần điện của hai vị Thánh này.
Việc tổ chức Hầu đồng dường như cũng tập trung nhiều nhất ở những
địa điểm di tích lịch sử thờ hai vị Thánh này. Với tư cách là nơi phát tích hai
dòng Đồng: Thanh Đồng và Đồng Cốt, khu vực đồng bằng Bắc Bộ giống như
cái nôi của Hầu đồng. “Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, câu ca dân gian
như nhắc nhở các đệ tử của tín ngưỡng này về nghĩa vụ của mình. Tháng 3 và
tháng 8 âm lịch cũng là hai thời điểm mà Hầu đồng diễn ra mạnh nhất ở đồng
bằng Bắc Bộ. Theo thông lệ ai trở thành tín đồ của tín ngưỡng này đều phải
trải qua nghi thức gia đồng trình lính để trở thành tín đồ, sau đó mới có thể
thực hành nghi lễ do bản thân mình làm chủ thể. Người trực tiếp thụ lễ cho
con nhang cũng phải là một Đồng Thầy và người Đồng Thầy này cũng phải
làm lễ lên đồng để Thánh giáng, nhập về thụ lễ, công nhận cho con nhang.

15
Trong suốt cuộc đời thực hành tín ngưỡng của con nhang đệ tử thì việc thực
hành tín ngưỡng duy nhất đó là tổ chức những cuộc Hầu đồng.
Trong các di tích thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh và Đức Thánh Trần thì
nghi lễ Hầu đồng vẫn là nghi lễ phổ biến nhất. Vì vậy có thể coi Hầu đồng là
nghi lễ chính thức thờ hai vị Thánh này nói riêng và tín ngưỡng Tứ phủ nói
chung xét từ góc độ văn hoá. Mặc dù có sự tồn tại hai dòng Đồng gắn với hai
nhân vật Thánh Trần và Thánh Mẫu, trên thực tế việc Hầu đồng xưa kia có
tách bạch thành hai nghi thức khác nhau hay không cũng không thấy các tài
liệu ghi chép kỹ. Nhiều tài liệu phản ánh Hầu đồng hiện nay chỉ hầu hết nói
về Hầu đồng thờ Mẫu. Hầu đồng trong dòng Thanh đồng khác với Hầu đồng
trong tín ngưỡng Mẫu bởi việc Hầu đồng của các Thanh đồng chỉ nhằm hai
mục đích đó là chữa bệnh và trừ tà.
* Hầu đồng là hiện tượng nhập hồn của nhiều thần linh
Đây là quan niệm phổ biến trong tâm thức dân gian, chính xác hơn đây

là quan niệm của chính những tín đồ thuộc cả hai dòng Thanh đồng và Đồng
cốt. Với niềm tin tôn giáo của mình, họ không đủ nhận thức để giải thích hiện
tượng đặc biệt này và đều cho rằng khi các ông, bà Đồng lên đồng, là lúc thần
linh nhập vào, vì vậy những hoạt động của các Đồng lúc đó là hoạt động của
Thần linh. Từ quan niệm này nên khi tham gia một buổi Hầu đồng (trong lúc
diễn ra nghi lễ) thì dù là trong vai trò Đồng lính (đồng mới) con nhang dự
hầu, hay thậm chí là vợ, chồng của con Đồng thì bất cứ người nào cũng có
thái độ ứng xử với con Đồng như ứng xử với Thần linh.
Quan niệm này cũng chi phối cả các nhà nghiên cứu. Năm 1959
Maurice Durand xuất bản tài liệu bằng tiếng Pháp về lên đồng ở Việt Nam,
tuy chưa đưa ra được nhận định một cách rõ ràng nhưng qua những gì ông
viết chúng ta thấy ông nghiêng về giới thuyết lên đồng có mối liên hệ với
Saman giáo: Nghi lễ này dường như gắn chặt với nghi lễ đối với Thánh Mẫu

16
từ xa xưa và các buổi hầu đồng gắn với đạo Saman hẳn là rất phong phú. Về
sau khi nghiên cứu về Đạo Mẫu trở nên phổ biến hơn thì quan niệm này cũng
được thể hiện đậm nét ở nhiều học giả đi sau khi phát biểu về nghi lễ Hầu
đồng: “Hầu đồng hay Hầu bóng là hiện tượng nhập hồn nhiều lần của nhiều vị
thần linh. Trong đó, mỗi lần một vị thần linh nhập hồn (ốp đồng, giáng đồng),
rồi làm việc quan (tức thời gian thực hiện các nghi lễ nhảy múa, ban lộc, phán
truyền) và xuất hồn (thăng đồng) được gọi là một giá đồng” [37, tr. 49]. Chịu
tác động từ những quan niệm dân gian và những công trình nghiên cứu trong
nước mà các học giả nước ngoài khi nghiên cứu về hiện tượng này cho dù
dưới góc độ nào cũng đều cho rằng Hầu đồng thuộc thể loại tín ngưỡng nhập
hồn. Năm 2004 Viện nghiên cứu văn hoá xuất bản cuốn “Đạo Mẫu và các
hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á", ngoại trừ
phần viết về Đạo Mẫu thì trong cuốn sách nghi lễ lên đồng nghiễm nhiên
được hiểu, được xếp vào một trong những dạng thức của Saman.
Hầu đồng của người Việt gần với hình thức Saman giáo của nhiều dân

tộc trên thế giới. Tuy nhiên chúng ta cần phân biệt hầu đồng với Saman giáo
không phải là một. Hầu đồng của người Việt chỉ ít nhiều mang tính chất
Saman giáo, vì hiện tượng xuất thần của Saman gồm hai cách, hoặc thần linh
nhập vào người thầy pháp (hay vào trống của thầy), hoặc ngược lại, hồn thầy
pháp chu du lên xứ sở thần linh, còn Hầu đồng là nghi lễ nhập hồn của các vị
Thánh Tứ phủ vào thân xác các ông Đồng, bà Đồng.
* Hầu đồng là hiện tượng tâm lý học tôn giáo
Có thể nói đây cũng là một cách tiếp cận mới gần đây về Hầu đồng ở
Việt Nam. Một trong những nhà nghiên cứu văn hoá, tôn giáo sớm có quan
điểm này là PGS. Nguyễn Duy Hinh. Theo ông thì “lên đồng là một hiện
tượng cổ xưa về sau được các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau hấp thụ, phát
triển thành một bộ phận cấu thành các tín ngưỡng tôn giáo như thờ cúng tổ

17
tiên, Đạo giáo, Shaman giáo” [16, tr.872]. Từ quan điểm này cho thấy Hầu
đồng ở Việt Nam và Hầu đồng trong Saman giáo là hai dạng thức đã biến đổi
của của Hầu đồng cổ sơ. Vậy Hầu đồng cổ sơ là gì? diện mạo? bản chất của
nó như thế nào cho đến nay vẫn không có nhiều tài liệu cung cấp. Theo sự lý
giải của Nguyễn Duy Hinh thì “lên đồng cổ sơ có nguồn gốc từ một dạng cổ
tục có tên gọi là Thi công hí (Sư công hí) là một dạng nghi lễ tế tự vong hồn
người chết từ thời cổ đại, trong đó có vai trò của Sư công (pháp sư, vũ sư
chuyên biểu diễn trong tế tự (hí) và lấy cháu của người chết làm Đồng (người
thần dựa, người cho hồn nhập vào). Về sau cổ tục này chấm dứt vào thời
Xuân Thu - Chiến Quốc (thế kỷ VIII – III Tr. CN) và chỉ còn lưu lại trong dân
gian các dân tộc ít người với những tên gọi như: Tiên bà (nữ); Tiên công
(nam) và Tiên Đồng (trẻ em). Những hiện tượng này rất phổ biến trong dân
gian Trung Quốc và tuỳ theo mỗi địa phương mà được gọi dưới nhiều tên
khác nhau: Đồng kê (cầu cơ bằng trẻ em); Mê Đồng Tử (trẻ em hôn mê); Vũ
Tiên Đồng (trẻ em múa võ trong khi bị mê man)… Tóm lại những cổ thuật
này đều có một số đặc điểm như sau:

Đồng là đối tượng trung gian giữa thần và người (người thần dựa)
Khi lên đồng, chủ thể (Đồng) ở vào trạng thái tâm sinh lý rối loạn hốt
hoảng một cách thần bí, có thể gọi đó là trạng thái xuất thần, mê man mất tri
giác.
Để có thể rơi vào trạng thái mê man mất tri giác trong lúc lên đồng, các
Đồng đều có sự trợ giúp của các sư công dưới các hình thức thôi miên, múa
biểu diễn…
Từ những lập luận này mà Nguyễn Duy Hinh cho rằng khi lên đồng,
con Đồng ở vào trạng thái tâm sinh lý đặc biệt mà chỉ có thể dựa vào lý thuyết
của phân tâm học mới có thể giúp chúng ta hiểu được bản chất của lên đồng.
Cuối cùng ông kết luận: “Hiện tượng lên đồng là một hiện tượng bệnh lý xuất

18
phát từ tiềm thức” đó là “hiện tượng bất bình thường của con người bình
thường trong trạng thái ý thức không kiểm soát được hành vi (hành vi, ngôn
ngữ do tiềm thức điều khiển). Cơ chế đó chỉ có ở một số người đặc biệt mà
người ta gọi là căn Đồng” [16, tr. 871].
Trở lại thuật ngữ về từ “lên” trong lên đồng mà Nguyễn Duy Hinh cho
rằng: thuật ngữ “lên” nếu được hiểu như quá trình phát dẫn, đi lên, bộc lộ ra
bên ngoài của cảm xúc, giống như khi ta nói “lên cơn sốt”, “lên cơn điên”,
“lên cơn ghen” thì lên đồng là hiện tượng phân tâm học thuộc lĩnh vực mà
S.M.Freud nghiên cứu và như vậy thì “không có trong/ngoài, không có
Đồng/Thần, tất cả diễn ra trong tiềm thức của chủ thể (Đồng) và thể hiện ra
bên ngoài. Đó là hiện tượng tiềm ẩn trong tiềm thức lúc nào đó đột nhiên lên,
tức xuất hiện” [16, tr.874]. Nếu hiểu như vậy thì lên đồng xưa kia ở đồng
bằng Bắc Bộ không phải là sự đột nhập của các yếu tố bên ngoài vào (Thần
nhập) mà là một trạng thái tâm sinh lý đặc biệt xuất phát từ bên trong ra, và
chỉ có thông qua bộ môn phân tâm học của Freud mới giúp chúng ta hiểu
được những cái gì thuộc về tâm lý học tầng sâu (tâm lý học tiềm thức, ý thức).
Từ lập luận này có thể hiểu khi chủ thể (Đồng) bắt đầu “lên đồng” là lúc đột

khởi trạng thái tâm lý đặc biệt xuất phát từ tiềm thức, đây là trạng thái mà
Nguyễn Duy Hinh cho rằng đó là: “Hiện tượng bất bình thường trong trạng
thái ý thức không kiểm soát được hành vi”. Cơ chế sẽ dễ dàng hơn ở một số
người đặc biệt (người có biểu hiện tâm, sinh lý khác bình thường; người nhạy
cảm mà dân gian gọi một cách đơn giản là người có căn Đồng, hoặc người
không rõ ràng giới tính). Như vậy lên đồng ở những cá thể này, có thể là sự
xuất hiện, đột khởi trạng thái ý thức không bình thường ở những cá nhân có
những cơ chế tâm sinh lý đặc biệt. Điều đáng lưu ý ở đây là khi lên đồng ,
nhiều Đồng ở vào trạng thái đặc biệt của tâm lý và ý thức mà năng lượng từ
vô thức được bột phát trỗi dậy và phát huy được một số tính năng/công năng,

19
nhờ đó họ có khả năng làm được những việc phi thường: xiên lình, rạch lưỡi,
tiên tri…
*Hầu đồng là hiện tượng tà giáo
Không giống như các hiện tượng tôn giáo, tín ngưỡng khác ở Việt
Nam, Hầu đồng là hiện tượng tín ngưỡng dân gian khá nhạy cảm từ xưa cũng
như nay. Có thể nói số phận của Hầu đồng cũng lao đao không kém tình hình
của Saman giáo dưới thời Nga Sa Hoàng. Do tính chất khó lý giải của Hầu
đồng mà trong một thời gian rất dài Hầu đồng bị coi là hiện tượng mê tín dị
đoan và bị đặt ra ngoài lề hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng dân tộc. Hầu như các
thể chế chính trị, các chính thống giáo (Phật, Nho) rất ngại khi nhắc đến hiện
tượng này, thậm chí nhiều lúc, nhiều nơi và nhiều giai đoạn Hầu đồng còn bị
coi như một hiện tượng tà giáo.
Điển hình về quan niệm này cũng như giới báo chí mà mở đầu công
khai công kích Hầu đồng là những tờ báo xuất bản những năm khi Pháp sang
đô hộ Việt Nam. Song song với việc thiết lập nền đô hộ, chế độ thực dân cũng
đào tạo được một đội ngũ trí thức mới (trí thức Tây học) và những người này
đã sáng lập nên một loại hình văn hoá, nghệ thuật mới chưa từng có trong xã
hội Việt Nam trước đó là thể loại báo, tạp chí. Nhiều tờ báo tạp chí lúc bấy

giờ còn được duy trì mãi đến những năm trước cách mạng tháng tám như
Nam Phong, Đông Dương tạp chí, Tri Tân… Trong số những tờ báo tạp chí
đó thì Nam Phong là một trong những tạp chí phản ánh khá nhiều về phong
hoá Việt Nam đương thời. Qua những số tạp chí còn lưu giữ đến ngày nay thì
lác đác đây đó tục Hầu đồng cũng được đề cập đến, song không phải là những
chuyên luận nghiên cứu như ngày nay mà chỉ là những mục điểm các lễ thức
hay các đoạn viết mang tính chất phê bình về hủ tục nước Nam. Hầu đồng
cùng phong thuỷ, bốc phệ nằm trong số phận ấy, nó được đề cập đến như là
những điển hình về dị tục, hay trò mê tín.

20
Điều đó cho thấy ngay từ nửa đầu thế kỷ XX, khi mà luồng văn minh
Âu Tây, cụ thể là văn hoá Pháp đã tràn vào Việt Nam, đã tác động rất nhiều
đến cách nghĩ và lối tư duy của xã hội đương thời. Đây là lần thứ hai trong
lịch sử văn hoá dân tộc phải đương đầu với cuộc hội nhập văn hoá lớn, nhiều
trí thức yêu nước thời gian này đã khảo cứu về phong tục nước Nam như dấy
lên tinh thần dân tộc trước làn sóng văn hoá Âu Tây ồ ạt xâm nhập. Hầu đồng
cũng được kể đến song thái độ nhìn nhận lại hoàn toàn coi đó là một hủ tục, tà
giáo cần phải dẹp bỏ. Quan niệm này về sau vẫn còn phổ biến trong giới báo
chí nói chung. Có thể hiều nguồn cơn của “sự ngược đãi” này, một phần do
tính bí hiểm của Hầu đồng, mặt khác là do ở hệ thống tín ngưỡng này là tín
ngưỡng dân gian không có giáo lý, giáo hội nên khó nắm bắt và khó kiểm
soát, chưa kể trong lễ thức Hầu đồng thì tính thực dụng lại nổi lên như một
thế ứng xử với thần linh. Tuy nhiên trải quan bao thăng trầm và sóng gió, hình
thức nghi lễ này vẫn tồn tại một cách khá dẻo dai, tất yếu phải có những lý do
tồn tại tự thân của nó, phần khác cũng hết sức quan trọng đó là Hầu đồng lại
tồn tại trên nền tảng của tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần, Thánh Mẫu ở Việt
Nam.
1.2. Cơ sở hình thành và tồn tại của nghi lễ Hầu đồng trong tín
ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt ở đồng bằng Bắc Bộ

1.2.1. Hầu đồng là nghi lễ truyền thống, có từ lâu đời
Không rõ Hầu đồng xuất hiện trong đời sống dân gian từ khi nào, chưa
có một tài liệu cụ thể nào nói về nguồn gốc và xuất xứ của nghi lễ Hầu đồng.
Tuy nhiên trong dân gian truyền thuyết cũng như ký ức còn đọng lại ở một số
già làng về sinh hoạt cúng lễ tự phát trong các luỹ tre xanh. Đây là hình thức
dân gian từ cánh học trò, trẻ mục đồng đã chơi đùa, hành động tinh nghịch
trong những khi nhàn rỗi, đó là trò phụ đồng chổi, phụ đồng ếch,…Và tuy các
trò chơi này bán tín bán nghi, nhưng ít ra cũng để lại trong họ những ấn

21
tượng, đôi lúc họ muốn được thể hiện, hoặc được trông thấy, xem nữa bởi sự
bốc đồng như có siêu nhiên nhập vào tạo sự lạ lẫm mà bình thường không
thấy.
Lớp trẻ nhàn rỗi này không cần khăn chầu áo ngự, có lúc chăn trâu mặc
quần áo bình thường và chỉ cần chiếc khăn, mảnh vải phủ đầu là có thể
khoanh chân nhắm mắt nghe bạn bè kiều thỉnh nôm na (không cần có đàn
nhạc chầu) với nén nhang cắm trước mặt và tay cầm chiếc chổi, ấy vậy mà
khi nghe đọc bài cùng với âm thanh gõ vào chén bát lập tức bốc đồng. Một
vài đoạn trong phụ đồng chổi như sau:
Phụ đồng chổi
Thôi lổi mà lên
Ba bề bốn bên
Đồng lên cho chóng
Dù là cửa đóng
Dù là then cài
Cách sông cách ao,
Đồng vào cho được…
Thế là con đồng lắc lư đầu rồi tung khăn vùng dậy, cầm chổi quét tứ
tung, lại nhảy cả xuống ruộng, xuống vũng sâu để quét làm cho bản thân
không giữ được mình khiến người ướt át và chỉ khi hết cơn thăng đồng mới

nằm vật ra hoặc tỉnh lại.
Người nhập đồng lấy chổi quét một cách vô cảm, hình như mọi việc
làm do “Thần chổi” sai khiến. Hiện tượng này không phải bởi tự người ngồi
đồng nghĩ ra để tự hành hạ mình trước số đông bạn bè có nam có nữ. Sự ngây
ngất này là nhập đồng một cách đơn giản khiến hệ thần kinh mất chức năng
chủ đạo.

22
Phụ đồng ếch cũng do bạn bè tổ chức, người ngồi đồng được phủ khăn
lên đầu rồi nghe bạn hát chầu:
Ếch ộp mày ở trong hang
Đêm khuya thanh vắng nhảy toang ra đồng.
Gặp chú thần đồng…
Nghe bài hát cùng khói hương khiến con đồng lắc lư, quay đảo rồi tiếp
tục hất khăn ra, hai tay chống nạnh, hai chân khuỳnh nhảy như ếch nhảy, đến
khi thăng nằm vật ra…
Lại còn đánh đồng thiếp, hình thức này là đỉnh cao của phụ đồng dân
gian cũng có từ lâu đời. Đây là trường hợp người hầu phải chết thiếp đi do tác
động khách quan (chết giả) để xuất hồn đi tìm gặp tổ tiên ở các vùng trời
khác.
Nghi lễ Hầu đồng còn đặc biệt ở chỗ đó là không chỉ là riêng nghi lễ
của người Việt mà còn ở một số dân tộc khác như Then của người Tày, Mỡi
của người Mường, Lễ cấp sắc của người Dao, Một của người Thái,…
Then là tín ngưỡng của cộng đồng người Tày, thầy Then là người thuộc
các bài cúng về đưa ma, cúng cầu an, cầu tự… Thầy Then có thể xuất hồn đi
huy động binh mã về làm việc khi cúng lễ, thêm vào là lời ca, âm nhạc nên có
sức cuốn hút. Trong Then còn chứa đựng tín ngưỡng Saman giáo, một đạo
giáo có từ thời bộ lạc xa xưa, có cả sự xuất hồn, nhập hồn.
Người Tày Đăm ở Nghĩa Lộ quan niệm tổ tiên khi chết phải vất vả vượt
qua ba tầng Trời mới đến Mường Trời của tổ tiên. Đây cũng là con đường về

với cội nguồn do vậy con cháu nếu có đức độ sẽ được tổ tiên phù hộ để sau
này được lớn cành xanh lá. Bài Then của quan quân Then tiễn đưa linh hồn
người chết về Mường Trời gọi là Thống Đẳm. Bài Then diễn tả con đường
trần thế phải gian khổ mới đến Mường Trời thứ ba tốt đẹp, vinh quang làm
cho người ốm yên tâm lên cõi Mường Trời thứ ba. Người sống như con cháu

×