Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Học thuyết đạo đức nho giáo và vận dụng nó vào việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức con người việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.86 KB, 12 trang )

Học thuyết đạo đức Nho giáovà vận dụng nó
vào việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức con
người Việt Nam hiện nay

Ngô Thị Mai

Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn
Luận văn ThS ngành: Triết học; Mã số: 60 22 80
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thanh Bình
Năm bảo vệ: 2010

Abstract: Trình bày những nội dung chủ yếu trong học thuyết đạo đức của Nho
giáo. Vận dụng những nhân tố và giá trị chủ yếu của học thuyết đạo đức của Nho
giáo vào việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay.

Keywords: Triết học phương Đông; Nho giáo; Đạo đức; Việt Nam

Content
1. Lý do chọn đề tài
Nho giáo nói chung, học thuyết đạo đức của Nho giáo nói riêng xuất hiện ở Trung
Quốc và đã có mặt ở Việt Nam hàng ngàn năm. Trong suốt quá trình hình thành và phát
triển của chế độ phong kiến Việt Nam, đặc biệt từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX, các
triều đại phong kiến Việt Nam đã sử dụng Nho giáo trong đó có học thuyết đạo đức của
Nho giáo làm hệ tư tưởng và công cụ để cai trị và quản lý xã hội, để giáo dục và đào tạo
ra những con người phù hợp với yêu cầu và mục đích của giai cấp phong kiến thống trị.
Là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội phong kiến, Nho giáo và học thuyết đạo
đức của Nho giáo đã ảnh hưởng đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã
hội và con người Việt Nam, đến quá trình hình thành, phát triển của xã hội và chế độ
phong kiến Việt Nam, đến việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức con người và xã hội Việt
Nam.
Với tính cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, một hình thái ý thức xã


hội, Việt Nam cũng như nhiều nước phương Đông chịu ảnh hưởng của Nho giáo, Nho
giáo nói chung và học thuyết đạo đức Nho giáo nói riêng không phải mất đi ngay khi cơ
sở kinh tế - xã hội của nó đã biến mất, mà nó còn tồn tại dai dẳng, lâu dài, tác động và có
vai trò nhất định đến xã hội nhất là trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đạo đức của
con người Việt Nam hiện nay. Vì vậy, một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp
bách là để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục
tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”và sự nghiệp xây dựng
con người mới Việt Nam - con người xã hội chủ nghĩa có tri thức và đạo đức, có lý tưởng
cách mạng và có lối sống cao đẹp, thì không thể không tính tới và giải quyết mối quan
hệ biện chứng giữa yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại; không thể không tiếp thu, kế
thừa những yếu tố, những giá trị tích cực và khắc phục, loại trừ những mặt tiêu cực và
mặt hạn chế trong học thuyết đạo đức của Nho giáo.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, bên cạnh những
thành tựu to lớn đã đạt được, thì mặt trái của nền kinh tế thị trường dù được định hướng
theo con đường xã hội chủ nghĩa và có sự quản lý của nhà nước đi chăng nữa cũng phần
nào ảnh hưởng tiêu cực tới nhiều giá trị đạo đức tốt đẹp như: Sự suy đồi về đạo đức gia
phong, các mối quan hệ giữa con người với con người trong gia đình và ngoài xã hội,
Điều đó không chỉ ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước mà còn cản trở
và gây ra những khó khăn trong quá trình thực hiện sự nghiệp xây dựng con người mới ở
Việt Nam. Có những hạn chế trên là do trong suốt một thời gian dài, chúng ta cũng như
trong suy nghĩ của nhiều người chỉ quan tâm, chú trọng đến kinh tế, đến phát triển kinh tế
mà coi nhẹ và ít quan tâm tới việc giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống (mà đạo
đức Nho giáo là cái cốt lõi của đạo đức truyền thống). Chính vì vậy, để thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và góp phần xây dựng và hoàn thiện đạo đức con
người mới Việt Nam, chúng ta cần quan tâm hơn nữa tới việc kế thừa và phát triển những
giá trị truyền thống đạo đức nói chung và đạo đức của Nho giáo nói riêng. Nhận thức rõ
vấn đề trên, chúng tôi cho rằng, việc nghiên cứu nội dung cùng những giá trị tích cực và
hạn chế trong học thuyết đạo đức của Nho giáo có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng
quan trọng.

Bên cạnh đó, ở Việt Nam trong nhiều năm trở lại đây, việc nghiên cứu, đánh giá
về Nho giáo nói chung, về học thuyết đạo đức của Nho giáo nói riêng tuy đã có nhiều
công trình nhưng trong mỗi công trình riêng biệt lại chưa được nghiên cứu một cách toàn
diện và có hệ thống và nhất là khá nhiều vấn đề, nội dung trong đó chưa được nhìn nhận,
đánh giá một cách đầy đủ và thật sự khách quan. Và hơn nữa, giữa những công trình
nghiên cứu ấy, vẫn còn tồn tại không ít quan điểm, đánh giá khác nhau, thậm chí đối lập
nhau, nhất là khi đề cập tới vấn đề đạo đức Nho giáo.
Tuy nhiên, để thực hiện và làm sáng tỏ mục đích và nhiệm vụ mà đề tài luận văn
chúng tôi đặt ra quả là một yêu cầu vượt quá khả năng, đòi hỏi phải có nhiều nỗ lực cao
và nhiều thời gian. Vì vậy, trong bản luận văn này, chúng tôi chỉ giới hạn ở việc tìm hiểu,
nghiên cứu những nội dung chủ yếu trong học thuyết đạo đức của Nho giáo và ảnh hưởng
của nó đối với việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức của con người Việt Nam hiện nay.
Từ cách đặt vấn đề trên, chúng tôi chọn vấn đề “Học thuyết đạo đức Nho giáo và vận
dụng nó vào việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay” làm đề
tài nghiên cứu trong luận văn Thạc sỹ Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
 Việt Nam, liên quan đến đề tài, từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu. Có thể khái quát một số kết quả nghiên cứu ở hai loại hình chủ yếu sau:
Loại hình thứ nhất: Là những công trình nghiên cứu về Nho giáo trong đó có học
thuyết đạo đức thông qua những tác phẩm kinh điển, sách vở của các nhà Nho. Tiêu biểu
cho loại hình này là các công trình nghiên cứu của Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim,
Quang Đạm, Đào Duy Anh.
Trước hết phải kể đến cuốn Khổng học đăng của Phan Bội Châu và Nho giáo của
Trần Trọng Kim. Trong hai cuốn sách này, thông qua việc nghiên cứu quá trình hình
thành, phát triển của Nho giáo hai ông đều nhìn nhận Nho giáo không chỉ chủ yếu là học
thuyết triết học, học thuyết chính trị - xã hội mà còn chủ yếu là học thuyết đạo đức. Đề
cập đến học thuyết đạo đức, hai tác giả này đều đặc biệt đề cao những yếu tố, nhân tố tích
cực của đạo đức Nho giáo, coi đạo đức Nho giáo có vai trò to lớn trong việc giáo dục,
hoàn thiện đạo đức con người và ổn định trật tự, kỷ cương của xã hội.
Trong cuốn Khổng giáo phê bình tiểu luận, xuất phát từ quan điểm nghiên cứu

rằng, để nhận chân Nho giáo, học thuyết đạo đức của Nho giáo cần phải có thái độ khách
quan, toàn diện, khoa học, Đào Duy Anh - tác giả của cuốn sách đã phản đối thái độ của
một số trí thức Trung Quốc và Việt Nam lúc bấy giờ là coi Khổng học chỉ là vô dụng, là
di hại, không phù hợp với thời đại khoa học và dân chủ. Và hơn nữa, từ lập trường mác -
xít, ông đã nghiên cứu, mổ xẻ, tổng hợp những nội dung cơ bản của Nho giáo nói chung
và đạo đức Nho giáo nói riêng để từ đó đi đến kết luận rằng, Nho giáo “Dẫu nó không
thích hợp nữa ở đời nay, mà công dụng nó, sự nghiệp nó, vẫn trọn vẹn trong lịch sử,
không ai có thể chối cãi hay xoá bỏ đi được” [1, tr.150].
Nhìn chung, những cuốn sách trên đây là những công trình nghiên cứu cần thiết
cần thiết cho những ai quan tâm và nghiên cứu Nho giáo, đạo đức Nho giáo. Song, cũng
do lập trường quan điểm, thái độ và mục đích nghiên cứu Nho giáo ít nhiều có sự khác
nhau ở mỗi một tác giả, cho nên, những tư tưởng, phạm trù đạo đức của Nho giáo chưa
được trình bày và phân tích một cách toàn diện và có hệ thống, một số nhận định và đánh
giá về đạo đức Nho giáo chưa thật khách quan, toàn diện, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên
cứu.
Loại hình nghiên cứu thứ hai: Là những nghiên cứu về ảnh hưởng và vai trò của
Nho giáo nói chung, đạo đức Nho giáo nói riêng trong đời sống đạo đức của con người
Việt Nam. So với loại hình nghiên cứu thứ nhất thì loại hình nghiên cứu thứ hai lại thu
hút và được quan tâm ở nhiều tác giả, nhiều nhà nghiên cứu, trong đó phải kể đến một số
công trình, bài viết đáng ghi nhận của một số tác giả: Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Vũ
Khiêu, Trần Văn Giàu, Nguyễn Tài Thư, Trần Ngọc Vượng, Phan Huy Lê, Trần Quốc
Vượng, Hà Văn Tấn, Lê Văn Quán, Nguyễn Đức Sự, Lê Sỹ Thắng, Phan Ngọc, Phan Đại
Doãn, Trần Nguyên Việt, Nguyễn Kim Sơn, Nguyễn Thanh Bình, Lê Thị Lan, Nguyễn
Văn Hồng, …
Trong những công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã từ những mệnh đề, tư
tưởng, phạm trù đạo đức cơ bản của đạo đức Nho giáo để nghiên cứu, đánh giá ảnh
hưởng của nó trong các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và con người Việt Nam
trong lịch sử và hiện nay như: Chủ nghĩa yêu nước, chính trị - xã hội, hệ tư tưởng, pháp
luật, giáo dục - khoa cử, Có thể đề cập tới một số công trình nghiên cứu tiêu biểu ở loại
hình thứ hai này như sau:

Trong cuốn Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, từ việc trình
bày lịch sử hình thành, phát triển cùng những nội dung, tư tưởng cơ bản của Nho giáo,
giáo sư Cao Xuân Huy đã viết rằng: “Nho giáo là hình thái ý thức của giai cấp thống trị
trong xã hội phong kiến ở Trung Quốc và ở Việt Nam”. Đối với học thuyết đạo đức của
Nho giáo thì theo tác giả “Ngũ luân, ngũ thường, hay tam cương, ngũ thường là những
cái tuyệt đối”, “là hằng tồn, phổ biến” [35, tr.203].
Trong Nho giáo xưa và nay, tác giả Quang Đạm cho rằng, Nho giáo, đạo đức của
Nho giáo có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Việc tìm ra giá trị tích cực và mặt hạn chế,
tiêu cực của Nho giáo, đạo đức của Nho giáo là cần thiết nhưng không phải là để “thay
thế sự phê phán bằng sự phê phán”, mà để “Nhìn rõ và loại trừ tận gốc một cách khách
quan và khoa học những hậu quả cụ thể của nó trong cuộc sống xã hội chúng ta ngày
nay”; cũng không phải để “truy tặng, khen thưởng” nó, mà là để “giữ gìn và phát huy
nhằm thúc đẩy sự nghiệp chúng ta tiến lên”.
Tác giả Phan Ngọc trong Bản sắc văn hoá Việt Nam, thì từ việc đề cập đến những
vấn đề cơ bản của Nho giáo, Nho học và Đạo giáo đã đi đến khẳng định rằng, Nho giáo
và nhất là học thuyết đạo đức của Nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hoá truyền
thống Việt Nam cũng như trong đời sống hiện thực của con người Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu trên, liên quan đến đề tài luận văn còn có
nhiều đề tài nghiên cứu, luận án, luận văn, các bài viết trên nhiều tạp chí như:
Quan niệm của Nho giáo về giáo dục con người của TS. Nguyễn Thị Nga và TS.
Hồ Trọng Hoài (xuất bản năm 2003). Mục đích của cuốn sách là trình bày những nội
dung chủ yếu trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo (mà theo chúng tôi, nội dung giáo
dục của Nho giáo là tư tưởng đạo đức) và vai trò của nó đối với việc giáo dục con người
trong xã hội phong kiến ở Việt Nam và Trung Quốc. Từ đó, tác giả chỉ ra những yếu tố
trong học thuyết ấy mà chúng ta có thể kế thừa, phát triển và vận dụng trong việc giáo
dục đạo đức truyền thống cũng như trong việc xây dựng con người Việt Nam thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đề tài cấp Bộ năm 2002 - 2003 của khoa Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh: Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và xu hướng biến động do PGS, TS. Nguyễn Thế Kiệt

làm chủ nhiệm đề tài đã tập trung bàn về vai trò của đạo đức trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, về thực trạng và xu hưóng biến động
của đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị, từ đó đưa ra những phương hướng và những
giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính
trị ở Việt Nam theo yêu cầu về đạo đức của đội ngũ này hiện nay.
Với bài viết Bước đầu tìm hiểu Bác Hồ với học thuyết của Nho giáo, tác giả Lê
Văn Quán đã đưa ra những dẫn chứng để chứng minh học thuyết Nho gia đã ảnh hưởng
đến tư tưởng và lối sống của Bác Hồ như thế nào. Theo tác giả, Bác đã khẳng định cần
phải kế thừa, phát huy những điểm tích cực của Nho gia và nhấn mạnh giáo dục cần phải
kết hợp giữa học với hành, người cách mạng cần phải hội đủ cả 5 điều: trí - tín - nhân -
dũng - liêm. Và tác giả cũng chỉ ra rằng, trên thực tế, Bác đã kết hợp nhuần nhuyễn yếu
tố đạo đức Nho giáo với đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc: nhân, nghĩa, trí, tín,
dũng, trung, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Cũng theo tác giả, Hồ Chí Minh là người rất am hiểu Nho giáo và vận dụng một
cách tài tình những tinh hoa của Nho giáo vào điều kiện cách mạng nước ta, nhất là
Người đã vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo Nho giáo trong đó có học thuyết đạo
đức của Nho giáo vào việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Hay như tác giả Nguyễn Văn Hồng với bài viết ảnh hưởng của văn hoá Khổng
giáo Trung Hoa qua sự tiếp nhận chọn lọc sáng tạo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh. Qua phân tích, tác giả đã đi đến khẳng định, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề
giáo dục đạo đức, Người đã chọn lọc những tinh hoa từ những chuẩn mực đạo đức Nho
giáo và vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam…
Ngoài ra, nghiên cứu về Nho giáo và đạo đức Nho giáo, còn có nhiều tác giả khác
như tác giả Phan Văn Hoàng với bài viết Chủ tịch Hồ Chí Minh với những yếu tố tích cực
của Nho giáo. Tác giả Nguyễn Thanh Bình với bài viết: Nho giáo với vấn đề phát triển
kinh tế và hoàn thiện con người (Tạp chí Giáo dục lý luận, số 5, năm 2000). Hay bài viết
Những điểm tương đồng và dị biệt trong học thuyết tính người của Nho giáo của tác giả
Nguyễn Thanh Bình (Tạp chí Triết học, số 9 (136) tháng 9/2002). Luận văn Thạc sỹ của
Phan Minh Nhật với đề tài: Tìm hiểu tư tưởng Nhân - Lễ và mối quan hệ giữa Nhân và Lễ
trong tác phẩm Luận ngữ.

Nhìn chung, các công trình trên đã nghiên cứu khá nhiều nội dung, nhiều phương
diện trong học thuyết đạo đức của Nho giáo và ảnh hưởng, vai trò của nó đối với xã hội
và con người Việt Nam trong lịch sử và hiện nay. Tuy nhiên, việc nghiên cứu và đánh giá
những nội dung trong học thuyết đạo đức của Nho giáo và nhất là ảnh hưởng của nó đến
đời sống đạo đức của con người Việt Nam hiện nay chưa được nghiên cứu một cách có
hệ thống và đánh giá một cách khách quan, toàn diện. Vì vậy, với khuôn khổ của một
luận văn Thạc sỹ khoa học Triết học, chúng tôi thấy cần phải trình bày một cách có hệ
thống và làm sáng tỏ một số nội dung chủ yếu của học thuyết đạo đức của Nho giáo và
đồng thời, vận dụng những nội dung chủ yếu của học thuyết đạo đức của Nho giáo vào
việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích: Xuất phát từ lý do chọn đề tài, từ tình hình nghiên cứu liên quan đến
đề tài thì, mục đích chủ yếu của đề tài là, thông qua việc trình bày một cách có hệ thống
những nội dung cùng những nhân tố giá trị chủ yếu trong học thuyết đạo đức của Nho
giáo để vận dụng vào việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài tập trung giải quyết các
nhiệm vụ sau:
+ Trình bày những nội dung chủ yếu trong học thuyết đạo đức của Nho giáo.
+ Vận dụng những nhân tố và giá trị chủ yếu của học thuyết đạo đức của Nho giáo
vào việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
* Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về con
người và xã hội, về đạo đức.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin và kết hợp với một số phương
pháp nghiên cứu khác: logic-lịch sử, phân tích-tổng hợp, so sánh.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: Học thuyết đạo đức của Nho giáo.
* Phạm vi: Nghiên cứu những tác phẩm kinh điển của Nho giáovà các tác phẩm

khác của các nhà Nho đề cập đến học thuyết đạo đức của Nho giáo.
6.  nghĩa của luận văn
Trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản trong học thuyết đạo đức
của Nho giáo và bước đầu chỉ ra ý nghĩa và sự vận dụng những nội dung chủ yếu của học
thuyết đạo đức của Nho giáo vào việc xây dung và hoàn thiện đạo đức con người Việt
Nam hiện nay.
Ngoài ra, luận văn còn có thể làm tài liệu học tập, giảng dạy về Nho giáo và tư
tưởng đạo đức của Nho giáo, về lịch sử triết học phương Đông, lịch sử đạo đức học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 2 chương, 8 tiết.
Chương 1: Những nội dung chủ yếu trong học thuyết đạo đức của Nho giáo.
Chương 2: Vai trò và sự vận dụng học thuyết đạo đức của Nho giáo với việc xây
dựng và hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay.

References
1. Đào Duy Anh (1938), Khổng giáo phê bình tiểu luận, Nxb. Quan hải Tùng thư,
Huế.
2. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Ph. Ăngghen (1997), “Gửi I-ô-dép B lốc ở Khuê-ních-x-bua”, C. Mác, Ph. Ăngghen,
Toàn tập, tập 37, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.639-645.
4. Ph. Ăngghen (1998), “Ăngghen gửi Pi-ốt La-Vrô-vích La-vrốp ở Luân đôn”, C.
Mác, Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 34, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.236-244.
5. Nguyễn Thanh Bình (2000), “Nho giáo với vấn đề phát triển kinh tế và hoàn thiện
con người”, Giáo dục lý luận, (5), tr.35-38.
6. Nguyễn Thanh Bình (2000), “Đôi điều suy nghĩ về đối tượng và nội dung giáo dục,
giáo hóa của Nho giáo”, Giáo dục lý luận, (10), tr.50 - 54.
7. Nguyễn Thanh Bình (2002), “Những điểm tương đồng và dị biệt trong học thuyết
“Tính người” của Nho giáo”, Triết học, (9), tr.37-42.
8. Phan Văn Các (1991), “Việc nghiên cứu Khổng Tử và Nho giáo ở Trung Quốc

trong thập kỷ 80”, Triết học, (1), tr.61-65.
9. Phan Văn Các (1994), “Giới Nho học quốc tế đang quan tâm những gì”, Triết học,
(1), tr.63-64.
10. Trương Bá Cần (biên soạn - 1991), Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo, Nxb.
Tp. Hồ Chí Minh.
11. Phạm Như Cương (chủ biên - 1978), Về vấn đề xây dựng con người mới, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
12. Phan Bội Châu (1998), Khổng học đăng, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
13. Doãn Chính (1997), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
14. Nguyễn Trọng Chuẩn (2000), Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách
mạng mới, Văn hoá Việt Nam, xã hội và con người, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
15. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Một số vấn đề về triết học - con người - xã hội, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
16. Phan Đại Doãn (1998), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
17. Nguyễn Đăng Duy (1998), Nho giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb. Hà Nội.
18. Dương Văn Duyên (2003), Đạo đức mác - xít với việc giáo dục đạo đức sinh viên ở
nước ta hiện nay, Học thuyết Mác với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đại học - Trung Dung (1950) (Đoàn Trung Còn dịch), Nxb. Trí Đức Tòng thơ, Sài
Gòn.
20. Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp ha
̀
nh
Trung ương khoá VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Trần Văn Đoàn (2003), Giải phẫu khủng hoảng đạo đức trong quá trình hiện đại
hoá, Trở lại với con người, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
26. Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ 19 - đến
Cách mạng tháng Tám, tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
27. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
28. Phạm Minh Hạc (2000), Giáo dục nhân cách, đạo tạo nhân lực, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
29. Phan Văn Hoà (1994), “Chủ tịch Hồ Chí Minh với những yếu tố tích cực của Nho
giáo”, Nghiên cứu lịch sử, (4), tr.1-7.
30. Kiều Thu Hoạch (1993), “Hồ Chí Minh với di sản Văn hoá”, Nghiên cứu văn hoá
nghệ thuật, (4), tr.54-58.
31. Dương Hồng - Vương Thành Trung - Nhiệm Đại Viện - Lưu Phong (Chú dịch -
2006), Tứ thư, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.
32. Nguyễn Văn Hồng (1998), “nh hưởng của văn hoá Khổng giáo Trung Hoa qua sự
tiếp nhận chọn lọc, sáng tạo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh”, Nghiên cứu
Trung Quốc, (3), tr.32-39.
33. Mai Trung Hậu (1995), “Chữ Hán và Nho giáo đâu có phải là truyền thống văn hoá
của dân tộc Việt Nam”, Thông tin lý luận, (2), tr.41-43.
34. Nguyễn Duy Hinh (1986), “Hệ tư tưởng Lê”, Nghiên cứu lịch sử, (6), tr.42-52.
35. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng triết học phương Đông gợi những điểm nhìn tham
chiếu, Nxb. Văn học, Hà Nội.
36. Trần Đình Hượu (1997), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.
37. Trần Đình Hượu (2001), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội.
38. Chu Hy (1998), Tứ thư tập chú (Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải), Nxb. Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.

39. Vũ Khiêu (1990), Nho giáo xưa và nay, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
40. Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và đạo đức, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
41. Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
42. Vũ Khiêu (chủ biên - 2000), Văn hóa Việt Nam xã hội và con người, Nxb. Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
43. Phạm Văn Khoái (2004), Khổng Phu Tử và Luận ngữ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
44. Trần Hậu Kiêm (chủ biên - 1993), Các dạng đạo đức xã hội, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
45. Trần Hậu Kiêm (chủ biên - 1996), Giáo trình Đạo đức học, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
46. Trần Trọng Kim (1992), Nho giáo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
47. Trần Trọng Kim (2001), Đại cương triết học Trung Hoa, Nxb. Văn hoá -Thông tin,
Hà Nội.
48. Trần Trọng Kim (2008), Nho giáo, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
49. Nguyễn Hiến Lê (1992), Đại cương triết học Trung Quốc, tập 1, Nxb. Thành phố
Hồ Chí Minh.
50. Nguyễn Hiến Lê (1992), Đại cương triết học Trung Quốc, tập 2, Nxb. Thành phố
Hồ Chí Minh.
51. Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi (1992), Tuân tử, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
52. Phan Huy Lê và Vũ Minh Giang (chủ biên - 1994), Các giá trị truyền thống và con
người Việt Nam hiện nay, tập 1, Nxb. Hà Nội.
53. Phan Huy Lê và Vũ Minh Giang (chủ biên - 1994), Các giá trị truyền thống và con
người Việt Nam hiện nay, tập 2, Nxb. Hà Nội.
54. Nguyễn Hiến Lê (2006), Khổng Tử, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
55. Nhị Lê (2004), “Kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt
Nam”, Cộng sản, (17), tr.25-28.
56. Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

57. V.I.Lênin (1971), Toàn tập, tâ
̣
p 18, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
58. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tâ
̣
p 26, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
59. V.I.Lênin (1980), Toàn tập , tâ
̣
p 27, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
60. C. Mác - Ph. Ăngghen (1962), Tuyển tập, tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
61. C. Mác - Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. C. Mác - Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Hồ Chí Minh về đạo đức (1993), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tâ
̣
p 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tâ
̣
p 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tâ
̣
p 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tâ
̣
p 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tâ
̣
p 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Nguyễn Thị Nga - Hồ Trọng Hoài (2003), Quan niệm của Nho giáo về giáo dục

con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Trương Hữu Quýnh (chủ biên - 1990), Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
72. Mạnh Tử (Thượng Mạnh Tử) (1950), (Đoàn Trung Còn dịch), Nxb. Trí Đức Tòng
thơ, Sài Gòn.
73. Mạnh Tử (Phần Hạ) (1996), (Đoàn Trung Còn dịch), Nxb. Thuận Hóa, Huế.
74. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2002), Ngữ văn Hán Nôm, tập 1, Tứ thư, Nxb. Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
75. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2002), Ngữ văn Hán Nôm, tập 1, Ngũ kinh, Nxb. Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
76. Lã Trấn Vũ (1964), Lịch sử các học thuyết chính trị Trung Quốc (Trần Văn Tấn
dịch), Nxb. Sự thật, Hà Nội.
77. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên - 2002), Giáo trình lịch sử Triết học, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
78. Trần Ngọc Vương (1996), Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
79. Nguyễn Bình Yên (2002), nh hưởng của tư tưởng Phong kiến đối với con người
Việt Nam hiện nay, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.


×