Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Hãy trình bày sở lý luận thực tiễn mơ hình kinh tế thị trường định hướng XHCN nước ta Phân tích nhân tố (hay nguyên tắc) đảm bảo tính định hướng XHCN kinh tế thị trường Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 15 trang )

Đề tài 8: Hãy trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của mơ hình kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta. Phân tích những nhân tố (hay là những nguyên tắc) đảm bảo
tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở Việt nam (chú ý phân tích sâu
nhân tố hay là nguyên tắc bạn cho là quan trọng nhất).

1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
1.1 Cơ sở lý luận
Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: là mơ hình kinh tế tổng
qt của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; là nền kinh tế vận hành đầy
đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa; là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; nhằm
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; có sự điều tiết của
Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Về thực chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2 Cơ sở thực tiễn
Với khái niệm này, cần nhớ các ý chính sau:
Một là: Kinh tế thị trườngng định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một mơ
hình kinh tế thị trườngđặc thù của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Do đó, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam chứa đựng đầy đủ những đặc
trưng của một nền kinh tế thị trường đang trong quá trình cải biến cách mạng theo con
đường rút ngắn tiến lên chủ nghĩa xã hội. Xét về trình độ phát triển, nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam bao gồm nhiều cấp độ: Sản xuất hàng hóa nhỏ, kinh tế thị trường
sơ khai, kinh tế thị trường hiện đại đan xen. Xét về tính chất xã hội của kinh tế thị
trường là vừa có chủ nghĩa xã hội, vừa chưa có chủ nghĩa xã hội, tức là đang định
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.


Hai là: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vừa chứa


đựng những đặc điểm của kinh tế thị trường nói chung (tính phổ biến) vừa chứa đựng
những đặc điểm của định hướng xã hội chủ nghĩa (tính đặc thù).
Theo đó, đặc điểm của kinh tế thị trường thể hiện ở 08 điểm:
- Vận hành đầy đủ và đồng bộ theo các quy luật thị trường (quy luật giá trị, quy
luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ…).
- Có nhiều hình thức sở hữu: Sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở
hữu hỗn hợp…
- Chủ thể thị trường có tính độc lập: Theo đó, người sản xuất – kinh doanh có
quyền tự do kinh doanh, tự chủ trong việc ra quyết định sản xuất Tài liệu đang trong
q trình xin ý kiến góp ý để hồn thiện. Khơng phổ biến 147 cái gì? sản xuất như thế
nào? sản xuất cho ai? Họ lấy lợi nhuận làm mục tiêu của hoạt động kinh tế, tự gánh
vác rủi ro và tự chịu trách nhiệm trong sản xuất – kinh doanh. Còn người tiêu dùng
được chủ động lựa chọn hàng hóa, dịch vụ trên thị trường và được xem là “thượng
đế”, vì họ là người “bỏ phiếu” cho việc mở rộng hay thu hẹp việc sản xuất – kinh
doanh một mặt hàng, ngành hàng hay doanh nghiệp nào đó.
- Các chủ thể thị trường có địa vị bình đẳng về mặt pháp lý trong các giao dịch,
kinh doanh, được bảo hộ bởi hệ thống pháp luật đồng bộ.
- Thị trường giữ vai trò quyết định phân bổ các nguồn lực xã hội. Theo đó, các
yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất được lưu thông tự do trên thị trường sẽ được
phân phối vào những nơi sử dụng có hiệu quả kinh tế cao nhất. Muốn vậy các loại thị
trường phải được hình thành đồng bộ, vận hành trơi chảy theo tín hiệu của thị trường,
gồm: thị trường tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng và dịch vụ; thị trường tài chính (thị
trường vốn và thị trường tiền tệ); thị trường sức lao động; thị trường đất đai và bất
động sản; thị trường khoa học – cơng nghệ…
-Giá cả hàng hóa, dịch vụ hình thành tự do trên thị trường. Giá cả hàng hóa và
dịch vụ phụ thuộc vào hao phí lao động xã hội cần thiết và sự điều tiết của quan hệ
cung – cầu. Theo đó, tính cạnh tranh của nền kinh tế được đề cao, tạo động lực phát
triển, điều tiết và điều chỉnh các hoạt động kinh tế.



Là nền kinh tế mở (cả bên trong và bên ngồi); thị trường dân tộc thơng suốt, gắn với
thị trường quốc tế.
- Chính phủ quản lý vĩ mơ nền kinh tế nhằm khắc phục những khuyết tật của thị
trường. Chính phủ thực hiện quản lý các cân đối vĩ mô, sử dụng các công cụ: kế hoạch
định hướng (chiến lược), hệ thống luật pháp, chính sách, các địn bẩy kinh tế mà không
can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ba là: Tính hiện đại và hội nhập quốc tế của nền kinh tế thị trƣờng định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta thể hiện ở chỗ Việt Nam kế thừa có chọn lọc những thành
tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn của
những năm đổi mới, đồng thời có hệ thống pháp luật, các cơ chế, chính sách; các yếu
tố thị trường, các loại thị trường; vai trò chức năng của nhà nước, của thị trường phù
hợp với thông lệ, nguyên tắc, chuẩn mực phổ biến của quốc tế và phù hợp với tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Bốn là: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước
đóng vai trị định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; sử dụng các cơng cụ
chính sách và nguồn lực nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản
xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện phát triển xã hội. Thị trường đóng vai
trị chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động
lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Ta có thể kết luận rằng, Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam vừa bao hàm các đặc trưng vốn có của kinh tế thị trường nói chung, vừa có đặc
trưng riêng của Việt Nam. Đây là kiểu mơ hình kinh tế thị trường phù hợp với đặc
trưng lịch sử, trình độ phát triển, hồn cảnh chính trị - xã hội của Việt Nam.
2. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở VN
Có 3 lý do để lý giải tính tất yếu khách quan của việc phát triển KTTT định hướng
XHCN.



Thứ nhất, phải nhấn mạnh rằng : Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là
phù hợp với tính quy luật phát triển khách quan.
Chúng ta thấy rằng, KTTT bản chất là giai đoạn phát triển cao của Kinh tế hàng
hóa, hay nói cách khác, KTHH phát triển đến một trình độ nhất định, tất yếu sẽ chuyển
sang KTTT ; nó là quy luật phát triển tất yếu khách quan, nằm ngoài với suy nghĩ chủ
quan của con người. Cũng giống như sâu kén phát triển tới một thời điểm sẽ lột xác
thành bướm ngài.
Nhìn lại lịch sử, Việt nam chúng ta vốn đã hình thành nền kinh tế hàng hóa từ
lâu, cuối thời Phong kiến rồi sang thời Pháp thuộc và giai đoạn kháng chiến chống Mỹ,
nền kinh tế hàng hóa từng bước phát triển. Do vậy, chúng ta có nền tảng kinh tế hàng
hóa.
Hơn nữa, chúng ta sẵn có các điều kiện thúc đẩy, phát triển Kinh tế hàng hóa
(như : thị trường cung – cầu, thị trường lao động, vị trí địa lý, tài ngun…).
Rõ ràng, Vừa có nền tảng KTHH, vừa có điều kiện thuận lợi để phát triển KTHH nên
do đó, việc hình thành KTTT sẽ là vấn đề tất yếu khách quan.
Tuy nhiên, nhiều người sẽ đặt câu hỏi, phát triển KTTT là tất yếu, nhưng tại
sao lại là KTTT đ/h XHCN mà không phaỉ là các kiểu KTTT khác ?
(Thế thì) Chúng ta lưu ý rằng, KTTT trong mỗi hình thái Kinh tế xã hội cụ thể,
phải chịu sự chi phối của các quan hệ sản xuất thống trị. Nói một cách đơn giản, nó sẽ
phát triển theo các định hướng của Nhà nước thống trị. Trong lịch sử, đã sớm có kiểu
mơ hình KTTT TBCN, nó được coi là cơng cụ, phương tiện phát triển kinh tế của các
nước tư bản, đảm bảo quyền lợi cho bộ phận giai cấp thống trị là giai cấp tư sản.
Còn, Việt Nam đang theo định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nhà nước của
dân, do dân và vì dân : với hệ tiêu chí « dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh », dĩ nhiên, sự lựa chọn mơ hình KTTT định hướng XHCN là phù hợp với xu thế
của thời đại và đặc điểm phát triển của dân tộc.
Mặc khác, xét về tiến trình phát triển, lồi người sẽ tuần tự phát triển từ : CSNT
– CHNL – PK – TBCN – XHCN (giai đoạn đầu của XHCS). Việt Nam quá độ lên



CNXH bỏ qua TBCN, Cho nên việc, bỏ qua giai đoạn phát triển KTTT Tư bản chủ
nghĩa là hoàn toàn phù hợp với đặc điểm tình hình ở Việt Nam, các bạn nhé.
Lý do thứ hai, (về mặt kinh tế), KTTT định hướng XHCN có tính ưu việt trong
thúc đẩy kinh tế.
Kinh tế thị trường là một thành tựu phát triển văn minh của nhân loại trong sản xuất và
trao đổi sản phẩm. Phát triển KTTT có nhiều ưu việt như : 
+ Dưới tác động của quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh; sẽ phân bổ nguồn
lực hiệu quả.
Ví dụ như, sinh viên đi học xa, có nhu cầu thuê nhà trọ. Quy luật cung cầu, sẽ thúc đẩy
việc hình thành những người sở hữu đất xây nhà trọ cho sinh viên th, mà khơng cần
nhà nước phải ra chính sách kêu gọi. Quy luật cạnh tranh sẽ hình thành giá th nhà
trung bình có thể chấp nhận được của xã hội.
+ Ưu việt thứ hai của KTTT là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
nhanh và hiệu quả cao. Kích thích tiến bộ kỹ thuật - cơng nghệ, nâng cao năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm.
Đơn cử như sản xuất điện thoại chẳng hạn, tác động của cơ chế thị trường, các nhà sản
xuất điện thoại phải luôn cải tiến mẫu mã, đổi mới kỹ thuật công nghệ, nâng cao năng
suất, chất lượng sản phẩm để cạnh tranh với các đối thủ khác.
Ngoài ra, nếu so sánh nền Kinh tế Bao cấp trước kia với nền KTTT hiện nay
thấy rằng, trong KTTT chất lượng hàng hóa tốt, số lượng hàng hóa rất đa dạng, phong
phú hơn rất nhiều, chính là tác động tích cực từ quy luật cạnh tranh, cung cầu mang
lại.
Kinh tế thị trường có rất nhiều ưu việt và là công cụ, phương tiện để thúc đẩy lực
lượng sản xuất, thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, KTTT luôn tiềm ẩn những khuyết tật và thất bại của trường (như
độc quyền, ô nhiễm môi trường, cạnh tranh khơng lành mạnh, hàng giả, hàng nhái…)
nên cần có sự can thiệp của nhà nước.


Lý do thứ ba, (về mặt xã hội) của việc phát triển KTTT định hướng XHCN là

mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân mong muốn một xã hội dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Sự khác biệt cơ bản giữa nhà nước Việt Nam với các nhà nước TBCN là nhà
nước chúng ta được hình thành từ cuộc cách mạng vô sản, cuộc cách mạng đó là do
nhân dân thực hiện. Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Còn
cuộc cách mạng tư sản của các nước TBCN là do giai cấp TS thực hiện và Nhà nước
TBCN đảm bảo quyền lợi thiết thực cho giai cấp tư sản là giai cấp thống trị
Với đặc điểm bản chất nhà nước này, chúng ta khơng thể lựa chọn mơ hình kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa, chỉ có thể lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa mới phù hợp với ý chí và nguyện vọng của đông đảo nhân dân
lao động về một xã hội dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Có thể xem phát triển KTTT định hướng XHCN là bước đi quan trọng và tất yếu của
sự phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, là bước quá độ để đi lên CNXH.
3. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN
3.1 Về mục tiêu
Tính định hướng XHCN trong phát triển kinh tế - xã hội quy định phát triển
kinh tế thị trường ở nước ta nhằm “xây dựng một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”.
Không thể làm cho “dân giàu, nước mạnh” nếu khơng có tăng trưởng kinh tế trên
cơ sở đẩy mạnh CNH, HĐH. Khơng thể có tăng trưởng kinh tế nếu khơng phát triển và
quản lý có hiệu quả nền kinh tế thị trường. Chỉ có sức mạnh của nền kinh tế thị trường
hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần mới là cơ sở kinh tế của sự phát
triển theo định hướng XHCN.
3.2 Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế
Sở hữu là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất và tái sản
xuất




hội.


Mục đích của chủ sở hữu là thực hiện lợi ích từ đối tượng sở hữu.
Sở

hữu

bao

gồm

nội

dung

kinh

tế



nội

dung

pháp

lý:


+ Nội dung kinh tế: Sở hữu là cơ sở, là điều kiện sản xuất.
+ Nội dung pháp lý: Sở hữu quy định mang tính chất pháp luật về quyền hạn,
nghĩa

vụ

của

chủ

thể

sở

hữu.

Kinh tế thị thường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm:
+

Kinh

tế

nhà

nước

+ Kinh tế tư nhân
Kinh tế thị thường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam củng cố và phát triển thành
phần kinh tế Việt Nam theo chế độ công hữu và sở hữu tư nhân.

3.3 Đặc trưng về quan hệ quản lý kinh tế và vai trò của nhà nước
a) Khái niệm quản lý nhà nước về kinh tế:
- Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức, bằng pháp luật và
thông qua hệ thống các chính sách với các cơng cụ quản lý kinh tế lên nền kinh tế
nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế đất nước, trên cơ sở sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực trong và ngoài nước trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Quản lý nhà nước về kinh tế là một dạng quản lý xã hội của Nhà nước. Nó rất
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhưng cũng rất phức tạp.
Nhà nước quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân trên tất cả các ngành kinh tế, các lãnh
thổ kinh tế, các thành phần kinh tế và các chủ thể kinh tế hoạt động trong toàn bộ nền
kinh tế.
- Nhà nước quản lý tồn bộ nền kinh tế quốc dân khơng chỉ trên phạm vi quốc
gia mà còn cả một số hoạt động kinh tế đối ngoại diễn ra ở nước ngoài, như các doanh
nghiệp có vốn đầu tư ở nước ngồi, các hàng hóa xuất nhập khẩu từ nước ngồi, thẩm
định các công nghệ thiết bị nhập khẩu.
- Quản lý nhà nước về kinh tế là quản lý ở tầm vĩ mơ, giải quyết những quan hệ
vĩ mơ có liên quan đến tồn bộ nền kinh tế quốc dân, trong đó kinh tế nhà nước đóng
vai trị chủ đạo. Nhà nước không can thiệp, không giải quyết những vấn đề quản lý sản


xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường (cá
nhân, doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế...).
- Trong quản lý nhà nước về kinh tế, Nhà nước sử dụng hệ thống các công cụ
cần thiết để thực hiện chức năng quản lý của mình như cơng cụ định hướng (kế hoạch,
quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế ...), công cụ kinh tế, tài chính tiền tệ (chính
sách đầu tư, thuế, chi tiêu ngân sách, hệ thống ngân hàng, lãi suất, tín dụng...), công cụ
pháp lý (pháp luật, các văn bản pháp quy...), các công cụ tổ chức và giáo dục...
b) Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam là sự cần thiết khách quan, vì những lý do sau đây:
1. Nhà nước phải khắc phục những hạn chế của kinh tế thị trường, nhằm bảo
đảm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra.
Sự điều tiết của thị trường đối với sự phát triển kinh tế thật kỳ diệu nhưng vẫn có
những hạn chế vốn có của nó. Thị trường khơng phải là nơi có thể đạt được sự hài hịa
trong việc phân phối thu nhập xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội, phát triển
kinh tế - xã hội hài hòa giữa các vùng... Đồng thời, kinh tế thị trường cũng không thể
khắc phục những nhược điểm, mặt trái vốn có của nó.
Những điều này cản trở việc thực hiện những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Cho nên trong quá trình vận hành nền kinh tế, sự quản
lý nhà nước đối với kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là cần thiết để khắc
phục những hạn chế, bổ sung chỗ hổng của sự điều tiết của thị trường, đảm bảo mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
2. Bằng các chính sách, pháp luật và sức mạnh kinh tế của mình, Nhà nước giải
quyết những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế phổ biến, thường xuyên trong nền kinh tế
quốc dân
Trong quá trình hoạt động kinh tế, con người có mối quan hệ với nhau. Lợi ích
kinh tế là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ đó. Trong nền kinh tế thị trường, mọi đối


tác đều hướng tới lợi ích kinh tế riêng của mình và xảy ra sự tranh giành về lợi ích,
phát sinh những mâu thuẫn về lợi ích.
Những mâu thuẫn này có tính phổ biến, thường xun vì liên quan đến quyền
lợi cá nhân, đến sự ổn định kinh tế - xã hội. Chỉ có Nhà nước mới có thể giải quyết
được các mâu thuẫn đó và điều hịa lợi ích của các bên liên quan.
3. Xuất phát từ tính khó khăn, phức tạp của việc làm kinh tế
Làm kinh tế, nhất là làm giàu phải có ít nhất các điều kiện: ý chí làm giàu, tri thức làm
giàu, phương tiện sản xuất kinh doanh và môi trường kinh doanh. Không phải cơng
dân nào cũng có đủ các điều kiện trên để tiến hành làm kinh tế. Sự can thiệp của nhà
nước là rất cần thiết trong việc hỗ trợ công dân có những điều kiện cần thiết để làm

kinh tế
4. Xuất phát bản chất giai cấp của nhà nước, hài hịa lợi ích của các tầng lớp
dân cư.
Nhà nước XHCN Việt Nam đại diện cho lợi ích của dân tộc và nhân dân lao
động. Nhà nước của ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân; mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội do Nhà nước ta xác định là nhằm đem lại lợi ích vật chất và tinh thần cho
nhân dân. Tuy vậy, trong nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với nước ngồi, khơng
phải lúc nào lợi ích kinh tế của các bên cũng ln ln được thống nhất. Vì vậy, xuất
hiện xu hướng vừa hợp tác vừa đấu tranh trong quá trình hoạt động kinh tế trên các
mặt quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối.
Trong cuộc đấu tranh trên mặt trận kinh tế, Nhà nước ta phải thể hiện bản chất
giai cấp của mình để bảo vệ lợi ích của dân tộc và của nhân dân. Chỉ có Nhà nước mới
có thể làm được điều đó.
3.4: Đặc trưng về quan hệ phân phối thu nhập
a) Khái niệm:
- Quan hệ phân phối, các hình thức thu nhập là hình thức thực hiện về mặt kinh
tế của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
- Phân phối thu nhập có ảnh hưởng lớn đến sản xuất. C.Mac đã từng nói tới vai
trị phân phối trực tiếp các yếu tố cho quá trình sản xuất. Sự phân phối các nguồn lực


thơng suất sẽ đảm bảo q trình tái sản xuất được tiến hành liên tục. Phân phối thu
nhập quyết định sự tác động của chủ thể yếu tố sản xuất thông qua phân phối thu nhập
các chủ thể yếu tố sản xuất có được để mua hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường.
Công cụ thực hiện phân phối thu nhập trong nền kinh tế thi trường là cung và cầu và
giá cả trên thị trường. Phân phối thu nhập đảm bảo thực hiện sử dụng các quyền sở
hữu về kinh tế các chủ thể yếu tố sản xuất góp phần vào việc tăng cường sở hữu.
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, thực hiện nhiều
hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối thu nhập theo lao động là chủ
yếu. Mỗi chế độ xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do

quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định.
b) Quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở VN:
Mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam là sự dung hợp biện chứng giữa “cái
chung” và “cái riêng”. Cái chung là nền kinh tế bị chi phối bởi các quy luật thị trường,
cái riêng là được quyết định bởi những đặc trưng của CNXH, sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. “Đó là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị
trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất
của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
=> Như vậy, quan hệ phân phối nằm trong sự thống nhất hữu cơ của 3 mặt quan
hệ sản xuất, phù hợp với mơ hình kinh tế thị trường ở Việt Nam. Các mặt này có quan
hệ biện chứng với nhau, nên hồn thiện quan hệ phân phối cần phải đồng bộ với hoàn
thiện các mặt cịn lại. Nhận thức như vậy là hồn tồn phù hợp với nguyên lý Mác Lê-nin. Phân phối là phạm trù kinh tế chính trị cơ bản, phản ánh quan hệ xã hội trong
việc phân chia các nguồn lực, của cải xã hội. Phân phối là một mặt cơ bản của quan hệ
sản xuất. Đồng thời, phân phối là một khâu quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã
hội, gồm sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Sự thống nhất, liên thông các khâu
bảo đảm cho q trình tái sản xuất xã hội diễn ra khơng ngừng và liên tục.
ĐỌC THÊM: Dưới tác động của các quy luật thị trường, việc phân phối phù
hợp các nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có vai trị quan trọng trong việc nâng


cao hiệu quả, tạo ra nhiều của cải, đáp ứng nhu cầu cá nhân và xã hội. “Thị trường
đóng vai trị quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy
động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt
động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém”. Mỗi chủ thể phát
huy năng lực sáng tạo, tìm kiếm cơ hội, tận dụng tối ưu nguồn lực trên cơ sở tuân thủ
đúng các quy luật thị trường, như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh
tranh, ... Sự đóng góp các nguồn lực, như trí tuệ, vốn, tư liệu sản xuất, tài sản, ... vào
sản xuất, kinh doanh sẽ được nhận những mức thu nhập tương xứng. Do đó, mức đóng
góp các nguồn lực là một trong những căn cứ quan trọng trong việc thực hiện phân

phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
c) Định hướng tương lai:
Tiếp tục hoàn thiện quan hệ phân phối
1. Hoàn thiện quan hệ phân phối phải đồng bộ với quan hệ sản xuất
- Phân phối bảo đảm sự hài hịa lợi ích giữa các cá nhân và nhóm xã hội trong
nền kinh tế thị trường, bảo đảm cho quá trình tái sản xuất xã hội và tái sản xuất sức lao
động diễn ra liên tục. Hoàn thiện quan hệ phân phối theo hướng bảo đảm công bằng và
tạo động lực cho phát triển.
- Hệ thống công cụ đồng bộ và hiệu lực cao bảo đảm quan hệ phân phối và phân
phối lại diễn ra một cách minh bạch, lành mạnh, góp phần tạo động lực thúc đẩy phát
triển. Cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ và thống nhất, bảo
đảm các chủ thể kinh tế tự do sáng tạo và tạo việc làm theo đúng năng lực của mình;
có quyền hưởng thụ những thu nhập chính đáng từ tài sản, của cải và trí tuệ của mình,
có quyền huy động các nguồn lực hay phát huy các cơ hội phát triển phục vụ lợi ích
của từng cá nhân và xã hội.
=> Như vậy, hoàn thiện quan hệ phân phối sẽ góp phần hồn thiện quan hệ sản
xuất trong mơ hình nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong những thập
niên tới. Ngược lại, quan hệ sản xuất mới, tiến bộ phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất, địi hỏi các mặt của chúng phải hồn thiện tương xứng.
2. Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trong phân phối


- Cần phải thực thi những chế tài mạnh, truy cứu trách nhiệm cá nhân vi phạm và
người đứng đầu trong việc phân phối và sử dụng sai mục đích các nguồn lực, gây mất
hiệu quả hay thất thoát nguồn lực cơng quốc gia như tình trạng tham nhũng, các nhóm
lợi ích lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chi phối nguồn lực công (vốn, tài sản, đất đai,
tài nguyên quốc gia, dự án đầu tư...) nhằm trục lợi riêng. Đây là một trong những nguy
cơ lớn, gây ra sự lệch lạc phân phối thu nhập và nguồn lực phát triển xã hội. Đảng và
Nhà nước thể hiện quyết tâm cao trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
=> Tăng cường các chế tài xử lý tham nhũng, “lợi ích nhóm” trong việc phân phối thu

nhập, nguồn lực, đặc biệt nguồn lực cơng, góp phần củng cố lịng tin của nhân dân,
làm lành mạnh hóa mơi trường hành chính nhà nước, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã
hội.
3. Thực hiện phân phối công bằng gắn với bảo đảm an sinh xã hội trong quá trình
phát triển.
Việt Nam tiếp tục củng cố hệ thống an sinh xã hội nhằm nâng cao phúc lợi và bảo vệ
các cộng đồng dân cư, đặc biệt nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương. Hành động thiết thực
là hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, đa dạng
hóa các hình thức cứu trợ xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống dịch vụ công thiết yếu cần
được phát triển đầy đủ nhằm bảo đảm cho mọi thành viên xã hội được tiếp cận và thụ
hưởng như giáo dục, y tế, dịch vụ kết cấu hạ tầng, ... Đẩy mạnh hoạt động giảm nghèo
bằng những cơ chế mới thích hợp và thu hút nhiều cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức
trong và ngoài nước tham gia hỗ trợ nguồn lực cho công tác giảm nghèo, để người
nghèo nâng cao năng lực, tự vươn lên, thích ứng với cơ chế thị trường và tìm việc làm,
tạo thu nhập bền vững.
4. Thực hiện phân phối hợp lý đối với các cơ hội phát triển trong nền kinh tế thị
trường
- Những cá nhân, doanh nghiệp có đủ năng lực và nguồn lực được làm giàu hợp pháp
để tối ưu hóa lợi ích cá nhân. Đó chính là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Lợi ích
của mỗi người, của tồn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là
động lực trực tiếp.


- Trong nền kinh tế thị trường, phân phối cần phải tuân thủ những quy luật vốn có của
thị trường, như cạnh tranh, giá cả, cung - cầu, tối ưu hóa lợi nhuận, ... Nhờ vào khả
năng phân tích và dự báo các thông tin thị trường, đưa ra các quyết định lựa chọn và
đầu tư phù hợp, huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả trong hoạt động, ... để tối ưu
hóa lợi ích riêng. Như vậy, các chủ thể có thể làm giàu hợp pháp, phù hợp với quy luật
thị trường.
5. Hồn thiện chính sách tiền lương, tiền cơng

- Tiền lương, tiền cơng là loại hình thu nhập cơ bản nhất của cán bộ, công chức, viên
chức và người lao động. Nguồn thu nhập này bảo đảm một phần cho trang trải chi phí
sinh hoạt hằng ngày và phần cịn lại cho dự phịng, tích lũy cho cuộc sống.
- Đảng và Nhà nước cần phải quan tâm việc hồn thiện chính sách tiền lương, tiền
cơng như một trong những yêu cầu hoàn thiện quan hệ phân phối thu nhập trong xã
hội, phù hợp với cơ chế thị trường.
Kết luận: Việc hoàn thiện quan hệ phân phối phải thực hiện đồng bộ với hồn thiện
các mặt cịn lại của quan hệ sản xuất, bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát
triển, phù hợp với cơ chế thị trường, định hướng tới nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp nhằm đạt mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
3.5 Về quan hệ giữa gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
- Theo C. Mác, tăng trưởng kinh tế và cơng bằng xã hội có quan hệ biện chứng với
nhau. Việc giải quyết mối quan hệ này ở nước ta đã đạt được các kết quả như: mọi
người đều có cơ hội như nhau trong tiếp cận nguồn lực sản xuất, tăng trưởng kinh tế đã
gắn với phân phối thu nhập công bằng và bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội. Vấn đề đặt
ra hiện nay là tăng trưởng kinh tế đang đối mặt với sự lãng phí nguồn lực, kém hiệu
quả; đặt mục tiêu cơng bằng giữa các chủ thể kinh tế, nhưng “sân chơi” chưa phẳng,
nguyên tắc phân phối công bằng nhưng việc thực hiện gặp khơng ít trở ngại.
- Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là hai mặt của một quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, có quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện vật
chất để thực hiện công bằng xã hội. Không có tăng trưởng kinh tế thì cũng khơng có


của cải để thực hiện công bằng xã hội về phân phối, tăng thêm thu nhập, cải thiện phúc
lợi và giảm nghèo. Ngược lại, công bằng xã hội tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Ví dụ, khi việc tiếp cận các nguồn lực sản xuất của các chủ thể là cơng bằng
thì tự nó sẽ tạo ra động lực để thu hút và phát huy hiệu quả mọi nguồn lực thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
- Thực tiễn Một số kết quả chủ yếu trong giải quyết mối quan hệ giữa phát triển

kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam những năm qua:
 Thứ nhất, giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với văn hóa đã thu
được nhiều kết quả quan trọng.
 Thứ hai, trong những năm qua, thực hiện mục tiêu giảm bất bình đẳng.
 Thứ ba, để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững.
 Thứ tư, những nỗ lực trong tạo việc làm ở Việt Nam trong thời gian qua.
 Thứ năm, trong thời gian qua, Việt Nam đã có những nỗ lực rất mạnh mẽ trong
việc đảm bảo bình đẳng giới.
 Thứ sáu, phát triển con người được Việt Nam đặc biệt chú trọng thông qua giáo
dục và đào tạo với việc xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
-Vấn đề đặt ra trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng
xã hội ở nước ta hiện nay:
 Tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về phát triển
kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong điều kiện mới.
 Tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng.
 Quan tâm, giải quyết tốt những mâu thuẫn trong quá trình phát triển, như: thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế phát triển chưa cao,
nguồn lực còn hạn chế; tăng trưởng kinh tế với xây dựng văn hóa, thực hiện
tiến bộ và cơng bằng xã hội.
 Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy sự phát triển.
 Xây dựng, củng cố, phát huy thiết chế xã hội các cấp trong việc gắn kết phát
triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.


- Chính quyền các cấp đầu tư đúng mức cho lĩnh vực quản lý, phát triển xã hội,tương
ứng với mức tăng trưởng kinh tế. Tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để
nâng cao khả năng dự báo về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và định hướng
phát triển; xây dựng con người Việt Nam tồn diện, thấm nhuần tinh thần dân tộc,
nhân văn, góp phần phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội và bảo vệ

vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

/>


×