Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Tài liệu Báo cáo "Vườn quốc gia Tam Đảo, vai trò và tầm quan trọng đối với việc bảo tồn đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường của đồng bằng bắc bộ và Việt Nam" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 59 trang )










BÁO CÁO THAM LUẬN:

VƯỜN QUỐC GIA TAM ĐẢO, VAI TRÒ VÀ TẦM
QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI VIỆC BẢO TỒN ĐA DẠNG
SINH HỌC VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA ĐỒNG
BẰNG BẮC BỘ VÀ VIỆT NAM



TS. Trần Đình Nghĩa
Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội








Hà Nội, 9-2007
MỤC LỤC BÁO CÁO


I. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ VƯỜN QUỐC GIA TAM ĐẢO 2
I.1. Tam Đảo – địa danh nổi tiếng đối với nghiên cứu đa dạng sinh học 2
1.2. Quá trình hình thành, xây dựng và phát triển Vườn quốc gia Tam Đảo 3
1.3. Các hoạt động và thành tựu của VQG Tam Đảo 5
2. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VQG TAM ĐẢO 6
2.1. Vị trí địa lí: 6
2.2. Địa hình, địa mạo 8
2. 3. Địa chất 10
2.4. Khí hậu 13
2.5. Mạng lưới thủy văn 16
2.6. Phân vùng sinh thái VQG Tam Đảo 20
3. GIÁ TRỊ ĐA DẠNG SINH HỌC 21
3. 1. Đa dạng loài và giá trị bảo tồn 21
3.2. Thảm thực vật, các sinh cảnh của VQG Tam Đảo 33
4. VAI TRÒ VQG TAM ĐẢO ĐỐI VỚI BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ VÀ VIỆT NAM 40

4.1. Vườn Quốc gia Tam Đảo trong bối cảnh vùng đồng bằng và trung du
Bắc Bộ 40

4.2. Vai trò của VQG Tam Đảo đối với công tác bảo tồn đa dạng sinh học 41
4.3. Vai trò đối với môi trường 43
5. VÙNG DỰ ÁN TAM ĐẢO 2, HIỆN TRẠNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ VỀ BẢO
TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 47

5.1. Dự án Quy hoạch xây dựng khu Du lịch sinh thái Tam Đảo (Tam Đảo
2) và Tây Thiên 47

5.2. Hiện trạng đa dạng sinh học và môi trường. 49
5.3. Các nguy cơ đe dọa đa dạng sinh học và môi trường tiểm ẩn trong Dự

án xây dựng khu Du lịch sinh thái bền vững Tam Đảo 2 53

5.4. Du lịch sinh thái ở Vườn Quốc gia Tam Đảo 55


1
VƯỜN QUỐC GIA TAM ĐẢO, VAI TRÒ VÀ TẦM QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI
VIỆC BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA
ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ VÀ VIỆT NAM

I. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ VƯỜN QUỐC GIA TAM ĐẢO
I.1. Tam Đảo – địa danh nổi tiếng đối với nghiên cứu đa dạng sinh học
Khu nghỉ mát Tam Đảo (nay là thị trấn Tam Đảo, Tam Đảo 1) đã trải qua hơn
100 năm xây dựng và phát triển. Thời điểm được tính từ khi người Pháp khởi công xây
dựng con đường từ chân núi lên thị trấn vào năm 1904. Thời gian xây dựng con đường
này kéo dài tới 12 năm, hoàn thành vào năm 1916. Từ đó việc đi lại từ Hà Nội lên Tam
Đảo dễ dàng hơn, các hoạt động du lịch nghỉ dưỡng, thưởng ngoạn và khảo sát thiên
nhiên triển khai rầm rộ. Các hoạt động khảo sát thực vật học đã được tiến hành rất
sớm, ngay từ khi người Pháp phát hiện ra Tam Đảo, bằng chứng là Trà hoa vàng ở
Tam Đảo đã được phát hiện và công bố vào năm 1910. Các nhà lâm học, nông học,
các nhà nghiên cứu nghiệp dư người Pháp khác đã thu thập nhiều mẫu động, thực vật
cung cấp cho các viện nghiên cứu, các bảo tàng thiên nhiên ở Pháp cũng như nhiều
nước khác. Rất nhiều loài mới đã được phát hiện và sức thu hút của Tam Đảo ngày
càng tăng trong giới những người yêu thích thiên nhiên và khảo cứu vạn vật học chẳng
những ở Pháp, mà cả ở các nước khác. Tính đặc sắc của Tam Đảo còn ở chỗ là vùng
núi cao bị bao quanh bởi đồng bằng, giống như một hòn đảo, cách li với vùng núi cao
ở phía bắc Việt Nam nên tỉ lệ các loài đặc hữu cao, tồn tại cả các đặc hữu hẹp như Cá
cóc Tam Đảo. Tam Đảo được liệt vào một trong sáu địa danh nổi tiếng cho nghiên cứu
sinh học ở Việt Nam, lại ở gần Hà Nội, đi lại dễ dàng nên là địa điểm rất thuận tiện
cho các nghiên cứu giám sát môi trường dài kì.


Con số ba và tên gọi của hai khối núi hùng vĩ nhất vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ
Tên hai khối núi hùng vĩ nổi lên trên phần phía tây-bắc vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ đều
gắn liền với con số ba – Tam Đảo, Ba Vì. Đối với Ba Vì, một khối núi không dài lắm thì ba đỉnh cao
nhất: Đỉnh Vua (1296m), Tản Viên (1227m), Ngọc Hoa (1131m) là biểu tượng đã mang lại tên gọi cho
toàn bộ khối núi. Còn dẫy Tam Đảo dài gần 80km, nhiều đỉnh núi cao, đỉnh cao nhất 1590m lại nằm
trên mốc địa giới phân chia ba tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Thái Nguyên không dễ gì nhìn thấy từ
vùng đồng bằng, vậy mà vẫn mang tên Tam Đảo, tại sao vậy? Các cư dân cao tuổi ở Thôn Hai thị
trấn Tam Đảo, dòng họ của các cụ đã sống ở đây trên dưới một thế kỉ, đã lí giải bằng việc nêu ra hiện
tượng thiên nhiên đẹp, bình dị nhưng cũng rất nên thơ. Đó là hàng ngày vào lúc bình minh, khi
những tia nắng đầu tiên chiếu xuống đồng bằng, mây mù xuất hiện, bốc lên và kết thành biển mây
che phủ toàn bộ đồng bằng, khi ấy dứng trên đỉnh Ba Vì nhìn về Tam Đảo, trên biển mây trắng đục
nhìn thấy một khối núi sẫm mầu với ba đỉnh cao, đó là Rùng Rình (Phù Nghĩa, 1290m), Thạch Bàn
(1385m) và Thiên Thị (1300m). Còn từ Tam Đảo cũng nhìn thấy, về phía tây-nam ba đỉnh Tản Viên,
Ngọc Hoa và Đỉnh Vua sừng sững bên trên biển mây đó. Mặt trời lên cao, biển mây tan biến Tam
Đảo, Ba Vì như gần nhau lại, cả hai dãy núi gắn liền với cánh đồng, làng mạc xung quanh. Chiều tà
và hoàng hôn buông xuống, khi gió nồm nam thổi từ biển vào mang theo hơi nước, gặp hơi nóng bốc
lên từ đồng bằng cũng bị nâng lên rồi kết lại thành mây; Tam Đảo, Ba Vì lại bị tách xa nhau, ngăn
cách và chỉ nhìn thấy nhau qua biển mây đồng bằng. Vào mùa hè cảnh hoàng hôn ở Tam Đảo thì rất
đẹp, bầu trời nhiều mầu sắc và thay đổi cũng rất nhanh, nhất là khi nhìn về đồng bằng, nhìn sang Ba
Vì. Các cụ cũng còn nhớ nhiều câu thơ về cảnh sắc thiên nhiên của hai bờ Ba Vì – Tam Đảo.
Sưu tầm từ nhân dân, học hỏi từ di cảo của cụ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu chắc chắn sẽ mang lại nhiều điều bổ
ích để hiểu biết thêm về Tam Đảo và những tâm hồn gắn bó với vùng đất này.

2

Hình 1.1: Ba đỉnh núi làm nên Tam Đảo: Phù Nghĩa (Rùng Rình, 1290m), Thạch Bàn
(1385m), Thiên Thị (1300) nhìn từ phía thị trấn Tam Đảo (Nguồn ảnh:TĐN, 08.09.2007).

1.2. Quá trình hình thành, xây dựng và phát triển Vườn quốc gia Tam Đảo

Tam Đảo là một trong những khu rừng cấm quốc gia đầu tiên của Việt Nam,
được thành lập vào năm 1977, sau khi dất nước hoàn toàn giải phóng, sau đó được
nâng lên thành Vườn Quốc gia Tam Đảo vào năm 1996. Quá trinh hình thành, xây
dựng, phát triển của VQG được tóm lược như sau:
Ngày 24.1.1977 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 41/TTg về việc thành
lập khu rừng cấm Tam Đảo:
- Diện tích là 19.000 ha.
- Nằm trên địa phận của 3 tỉnh Vĩnh Phú, Bắc Thái và Tuyên Quang .
- Ranh giới khu rừng cấm Tam Đảo được xác lập từ độ cao 400 m (so với mực nước
biển) trở lên và giao cho Chi cục kiểm lâm 3 tỉnh Vĩnh Phú, Bắc Thái và Tuyên
Quang có trách nhiệm quản lý và bảo vệ khu rừng cấm Tam Đảo .
Còn diện tích rừng và đất rừng của núi Tam Đảo từ độ cao 400 m trở xuống vẫn
giao cho các lâm trường quốc doanh là Tam Đảo , Lập Thạch của tỉnh Vĩnh Phú ; Lâm
trường Sơn Dương của tỉnh Tuyên Quang và lâm trường Đại Từ của tỉnh Thái Nguyên
để tổ chức sản xuất và kinh doanh như trồng rừng và khai thác rừng .Chính vì vậy mà
rừng tự nhiên của núi Tam Đảo từ độ cao 400 m trở xuống cơ bản đã bị tàn phá hết
trong khoảng thời gian từ năm 1960 đến 1990.
Ngày 9.8.1986 Chủ tich hội đồng bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính phủ ) đã
ra quyết định số 194/CT về việc công nhận một hệ thống các khu rừng cấm của Việt
Nam, trong đó có khu rừng cấm Tam Đảo . Đồng thời giao trách nhiệm cho bộ Lâm
nghiệp (cũ) và UBND các tỉnh, thành phố có rừng cấm sớm điều tra, quy hoạch xây
dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật cho các khu rừng cấm để trình cấp có thẩm quyền
phê duyệt.

3
Thực hiện tinh thần quyết định trên, Bộ Lâm nghiệp đó giao nhiệm vụ cho viện
điều tra quy hoạch rừng phối hợp với UBND tỉnh và các cơ quan Lâm nghiệp của 3
tỉnh Vĩnh Phú, Bắc Thái và Tuyên Quang để lập dự án khả thi đầu tư xây dựng Vườn
quốc gia Tam Đảo . Công tác điều tra, khảo sát để có cơ sở xây dựng dự án khả thi đầu
tư cho Vườn quốc gia Tam Đảo được bắt đầu từ cuối năm 1990. và sau một số lần

trình bày tại hội đồng thẩm định quốc gia (có bổ sung) đến cuối năm 1995 dự án khả
thi xây dựng Vườn quốc gia Tam Đảo đã được hội đồng thẩm định quốc gia thông qua
và trình chính phủ xem xét phê duyệt.
Ngày 6.3.1996 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 136/TTg về việc phê duyệt
dự án khả thi đầu tư xây dựng Vườn quốc gia Tam Đảo trên cơ sở nâng cấp và mở
rộng rừng cấm quốc gia Tam Đảo được thành lập theo Quyết định số 41/TTg ngày 24
tháng 1 năm 1977 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó Vườn quốc gia Tam Đảo có
tổng diện tích tự nhiên là 36.883 ha và diện tích vùng đệm 15.515 ha.với các nhiệm
vụ chính sau đây:
− Bảo vệ nguyên vẹn các hệ sinh thái rừng trên núi Tam Đảo
− Bảo vệ nguồn gen các loài động, thực vật rừng quý hiếm. Đặc biệt là các loài động,
thực vật đặc hữu và cảnh quan thiên nhiên.
− Thực hiện công tác nghiên cứu, thực nghiệm khoa học và dịch vụ khoa học; tạo
môi trường tốt phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, du lịch và nghỉ mát.
− Tổ chức công tác tuyên truyền, giáo dục phổ cập cho nhân dân lòng yêu thiên nhiên
và ý thức bảo vệ rừng .
− Thực hiện vai trò giữ và điều tiết nước của khu vực đầu nguồn, góp phần cải thiện
môi sinh cho vùng đồng bằng, trung du bắc bộ và thủ đô Hà Nội .
− Tham gia tổ chức việc tham quan du lịch và nghỉ mát.
− Góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân trong vùng đệm
Vườn quốc gia Tam Đảo được chia thành 3 phân khu chức năng sau đây:
 Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt:
+ Diện tích 17.295 ha,
+ Ranh giới: Tính từ độ cao 400 m (so với mặt nước biển) trở lên;
+ Chức năng: bảo vệ nghiêm ngặt, cấm mọi tác động làm ảnh hưởng đến
động vật, thực vật rừng và cảnh quan thiên nhiên trong phân khu.
(Quy hoạch khu du lịch sinh thái Tam Đảo II nằm toàn bộ trong phân khu
này).
 Phân khu phục hồi sinh thái:
+ Diện tích là 17.286 ha;

+ Chức năng: bảo vệ được rừng hiện có; khoanh nuôi rừng nơi còn khả năng
tái sinh tự nhiên; trồng rừng mới nơi đất trống nhằm phục hồi diện tích
rừng đã bị phá hoại và bảo vệ phân khu bảo vệ nghiêm ngặt.
 Phân khu nghỉ mát, du lịch:

4
+ Diện tích: 2.302 ha (bao
gồm cả diện tích đất thị
trấn Tam Đảo )
+ Nằm ở sườn núi Tam Đảo
thuộc địa phận tỉnh Vĩnh
Phú (nay là Vĩnh Phúc),
bao quanh thị trấn Tam
Đảo.
+ Chức năng: Tạo điều kiện
thuân lợi để phát triển khu
du lịch sinh thái, thu hút
khách du lịch trong và
ngoài nước đến nghỉ ngơi và tìm hiểu thiên nhiên Việt Nam.
Hình 1.2: Trụ sở VQG Tam Đảo tại Km 13 xã
Hồ Sơn, Huyện Tam Đảo, Vĩnh Phúc
Ngày 15.5.1996, thực hiện quyết định số 136/TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ra quyết định số 601.TC-BNN về việc thành
lập Vườn quốc gia Tam Đảo trực thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn .
Vườn quốc gia Tam Đảo đã được thành lập từ đó và hoạt động theo các nhiệm vụ
được quy định tại quyết định số 136/TTg của Thủ tướng Chính phủ.
1.3. Các hoạt động và thành tựu của VQG Tam Đảo.
- Hoàn thiện bộ máy hành chính và các phòng ban, trung tâm chức năng:
+ Trụ sở VQG đặt tại: Km 13 xã Hồ Sơn huyện Tam Đảo tỉnh Vĩnh Phúc .
+ Hệ thống quản lý bảo vệ rừng gồm 17 trạm kiểm lâm bảo vệ rừng.

+ Trung tâm nghiên cứu và dịch vụ kỹ thuật .
+ Ban quản lý và dịch vụ du lịch .
- Đã trồng được hơn 4.500 ha rừng
- Khoanh nuôi hơn 10.000 ha.
- Đưa độ che phủ rừng từ 61% lên 83%.
- Phối kết hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương trong công tác bảo vệ và phát
triển vốn rừng, thực thi các quy chế VQG,….
- Giải quyết nhiều việc làm cho nhân dân địa phương.
- Hợp tác với nhiều tổ chức trong nướcvà quốc tế như: ĐH Lâm Nghiệp, ĐH Quốc
gia Hà Nội , ĐH Thái Nguyên , ĐH Queensland, VQG Bavarian ( CHLB Đức).
- Đồng tổ chức nhiều Hội thảo khoa học quốc gia có các Hiệp hội Khoa học quốc tế
tham dự như Hội thảo Quốc gia về Trà hoa vàng (2002, 2007),…
- Hiện nay đang triển khai Dự án quản lý Vườn quốc gia Tam Đảo và vùng đệm do
Cộng hoà Liên bang Đức tài trợ.
(Nguồn: Vườn Quốc gia Tam Đảo, 2007)
Tam Đảo vừa là tên của thị trấn du lịch (thị trấn Tam Đảo) duy nhất nằm trên
đỉnh của dãy núi cao dài tới 80km (dãy núi Tam Đảo), tên huyện (Huyện Tam Đảo)

5
đồng thời cũng là tên của vườn quốc gia (Vườn quốc gia Tam Đảo). Sự trùng tên của
các đơn vị lãnh thổ, đơn vị quản lí hành chính dễ gây ra những nhầm lẫn, có khi đáng
tiếc, trong hiểu biết cũng như khi đề cập tới các vấn đề của các đơn vị cùng mang tên
Tam Đảo.
Để dễ dàng cho việc cập nhật các thông tin về các điều kiện tự nhiên, giá trị và
vai trò của Vườn quốc gia Tam Đảo cũng như những hợp phần của nó đối với việc bảo
tồn đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường cần thiết phải làm sáng tỏ nội dung một số
khái niệm thường được nhắc tới trong thời gian gần đây như “Tam Đảo 1”, “Tam Đảo
2”, “Vùng Dự án Tam Đảo 2”, “Vùng Tam Đảo 2” hay thực tế “Tam Đảo 1”, “Tam
Đảo 2” là tên gọi cái gì?
Trước hết “Tam Đảo 1” và “Tam Đảo 2” là tên gọi hai vùng đất tương đối bằng

phẳng (có người gọi là thung lũng) trên dẫy núi Tam Đảo, có thể sử dụng để xây dựng
khu dân cư hoặc khu nghỉ mát (du lịch). Tam Đảo 1 là vùng được phát hiện đầu tiên và
người Pháp đã xây dựng ngay vào đầu thế kỉ trước thành Khu nghỉ mát, sau này được
gọi là Thị trấn Tam Đảo. Tam Đảo 2 được phát hiện muộn hơn, cách Khu nghỉ mát
đến 19km đường đi bộ (khoảng gần 11km đường chim bay) về phía tây-bắc nhưng lại
hấp dẫn hơn do diện tích rộng gấp ba lần, lại ở độ cao hơn tới 200m. Ý tưởng sử dụng
cho các hoạt động du lịch đã xuất hiện và thực thi từ trước năm 1954. Dựa vào các dấu
tích còn lại (các đường mòn xếp kè đá) thì hình thức hoạt động có lẽ là du lịch khảo
cứu và thưởng ngọan thiên nhiên (du lịch sinh thái). Do vậy ranh giới của “Tam Đảo
1”, “Tam Đảo 2” là ranh giới tự nhiên, rất xa nhau, không phải từ Đỉnh Rùng Rình trở
đi là bắt đầu Tam Đảo 2 như một số người lầm tưởng.
“Vùng Tam Đảo 2” là phần đất bằng phẳng được phát hiện muộn hơn (Tam Đảo
2) bao gồm cả phần đất ngập nước, thường xuyên hoặc tùng thời kì (Ao Dứa) và vùng
rừng cao hơn cho đến sát địa giới Vĩnh Phúc – Thái Nguyên, kéo dài về phía đông đến
quèn núi đi sang xã Ký Phú (huyện Đại Từ, Thái Nguyên). Vùng này được người dân
gọi là Rừng ma ao dứa.
“Vùng Dự án Tam Đảo 2” là một khái niệm có thể đã được hiểu theo nhiều cách.
Nếu chỉ là 300 hécta như các thông tin thường đề cập thì chỉ là vùng xây dựng thị trấn
du lịch và chỉ gồm phần giữa và phần phía tây của Rừng ma ao dứa kéo về phía bắc
cho đến địa giới tỉnh; như vậy diện tích làm đường từ Đạo Trù lên, đường bộ, đường
thoát hiểm, đường cáp treo,…từ Tam Đảo 2 về Tây Thiên và Tam Đảo 1 là chưa được
đề cập đến. Còn nếu bao gồm tất cả các hạng mục theo ý tưởng thiết kế Dự án thì diện
tích thực tế mà Dự án Tam Đảo 2 sử dụng sẽ tăng lên nhiều, đến vài ba lần.
2. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VQG TAM ĐẢO
2.1. Vị trí địa lí:
Vườn Quốc gia Tam Đảo nằm trong khoảng 21
o
21’ đến 21
o
42’ độ vĩ bắc, 105

o

23’ đến 105
o
44’ độ kinh đông.
Địa giới hành chính Vườn Quốc gia được giới hạn như sau:
- Phía bắc là đường quốc lộ 13A từ Thái Nguyên đi Tuyên Quang qua Đèo
Khế.

6
- Phía đông-bắc bởi đường ô tô giáp chân núi từ xã Quân Chu đến gặp quốc lộ
13A tại xã Phú Xuyên huyện Đại Từ.
- Phía nam bởi ranh giới các huyện Tam Đảo, Mê Linh thuộc Vĩnh Phúc; Phổ
Yên, Đại Từ thuộc Thái Nguyên.
- Phía tây-nam bởi đường ô tô phía trái sông Phó Đáy nối từ Đường 13A tại xã
Kháng Nhật, qua mỏ thiếc Sơn Dương, dọc theo chân Tam Đảo gặp sông Bà
Hanh tại xã Mỹ Khê bên hồ Đại Lải.



Hình 2.1: Bản đồ Vườn Quốc gia Tam Đảo và vị trí Tam Đảo 2


7
Hợp phần rất quan trọng của Vườn Quốc gia Tam Đảo được nhắc đến nhiều lần
trong báo cáo này là Tam Đảo 2 có vị trí địa lí nằm trong phạm vi các tọa độ sau:
21
o
31’ 04” đến 21
o

39’ 46” độ vĩ bắc,
105
o
35’ 41” đến 105
o
37’ 32” độ kinh đông
Tam Đảo 2 là vùng tương đối bằng phẳng, nằm giáp với đường đỉnh núi, về phía
Vĩnh Phúc, bên trên khu Tây Thiên, kéo dài về phía đông đến quèn núi đi sang xã Ký
Phú (Đại Từ, Thái Nguyên).
2.2. Địa hình, địa mạo
Vườn Quốc gia Tam Đảo chiếm giữ toàn bộ hệ núi Tam Đảo, có cấu tạo hình
khối đồ sộ, nằm ở phía bắc đồng bằng Bắc Bộ, chạy dài theo hướng tây-bắc – đông-
nam. Cả khối núi có đặc điểm chung là đỉnh nhọn, sườn rất dốc, độ chia cắt sâu và
dầy. Chiều dài khối núi gần 80km, có gần 20 đỉnh cao sàn sàn trên 1000m được nối
với nhau bằng đường dông núi sắc, nhọn. Đỉnh cao nhất là đỉnh Nord (1592m) là ranh
giới địa chính của ba tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang và Thái Nguyên. Chiều ngang biến
động trong khoảng 10-15km. Núi cao, bề ngang lại hẹp nên sườn núi rất dốc, bình
quân 25-35 độ, nhiều nơi trên 35 độ nên rất hiểm trở và khó đi lại.
Dựa vào độ cao, độ dốc, địa mạo có thể phân chia dãy núi Tam Đảo thành bốn
kiểu địa hình chính:
- Thung lũng giữa núi và đồng bằng ven sông suối: độ cao tuyệt đối <100m, độ dốc
cấp I (<7)
o
. Phân bố dưới chân núi và ven sông suối.
- Đồi cao trung bình: Độ cao tuyệt đối 100-400m. Độ dốc cấp II (8
o
– 15
o
) trở lên.
Phân bố xung quanh chân núi và tiấp giáp với đồng bằng.

- Núi thấp: Độ cao tuyệt đối 400 – 700m. Độ dốc trên cấp III (16
o
– 26
o
). Phân bố
giữa hai kiểu địa hình đồi cao và núi trung bình.
- Núi trung bình: Độ cao tuyệt đối >700m – 1590m. Độ dốc >cấp III. Phân bbố ở
phần trên của khối núi. Các đỉnh và đường dông đều sắc và nhọn.
Như vậy có thể nói địa hình Tam Đảo cao và khá đều (cao ở giữa và thấp dần về
hai đầu nhưng độ chênh không rõ), chạy dài gần 80km theo hướng tây-bắc – đông-nam
nên nó như một bức bình phong chắn gió mùa đông-bắc tràn về đồng bằng và trung du
Bắc Bộ, Vì vậy ảnh hưởng lớn đến chế độ khí hậu và thủy văn trong vùng.
(Nguồn: FIPI, 1992: Báo cáo Lập địa Khu Bảo tồn thiên nhiên Tam Đảo).
Nghiên cứu chi tiết vùng Tam Đảo 2, Đặng Văn Bào (2006) cho rằng khu vực
này có địa hình khá bằng phẳng dạng lòng chảo rộng khoảng 300 ha, ở độ cao 1100-
1150m. Vùng phía Bắc có địa hình khá dốc, cao từ 700-1350m, vùng phía Tây có độ
dốc thoải hơn phía Bắc, độ cao thay đổi từ 700-1100m, vùng phía Nam địa hình tương
đối dốc thay đổi từ 800-1100m và xuất hiện nhiều cliff (vách trượt của đứt gẫy kiến
tạo); vùng Đông – Nam có độ cao thay đổi từ 800-1200m. Tác giả đã chia địa hình
vùng Tam Đảo 2 thành 15 dạng và gộp vào 4 nhóm (xem bản đồ):
Địa hình bóc mòn trên đỉnh núi
1.Bề mặt đỉnh núi sót do bóc mòn, cao 1320 – 1400m

8
2.Bề mặt san bằng trên đỉnh núi, cao 1300 – 1375m
Địa hình bóc mòn nghiêng thoải trên sườn khối núi
3.Bề mặt san bằng trên sườn khối núi, cao 1200 – 1250m
4.Bề mặt san bằng trên sườn khối núi, cao 1150 – 1175m
5.Bề mặt san bằng trên sườn khối núi, cao 1075 – 1125m
6.Bề mặt san bằng trên sườn khối núi, cao 925 – 1025m

Địa hình sườn dốc
7.Sườn đổ lở, dốc trên 45
o
8.Sườn bóc mòn dốc trên 30
o
, nhạy cảm đổ lở đá
9.Sườn bóc mòn - xâm thực dốc 20 – 30
o
, nhạy cảm trượt lở đất
10.Sườn bóc mòn - xâm thực dốc 15 – 20
o
, nhạy cảm trượt lở đất
Địa hình thung lũng và trũng trên núi
11.Đáy trũng rửa trôi - tích tụ
12.Bề mặt rửa trôi - tích tụ rìa đáy trũng
13.Sườn rửa trôi - tích tụ nghiêng thoải rìa trũng
14.Đáy khe suối xâm thực - tích tụ thoải
15.Đáy khe suối xâm thực dốc
Vị trí cũng như tương quan diện tích các dạng địa hình này được thể hiện trên
bản đố của tác giả kèm theo dưới đây.

Hình 2.2: Bản đồ Địa mạo Khu vực Tam Đảo 2
(Nguồn: Trần Nghi 2006: Xác định cơ sở khoa học để đánh giá tác động môi trường
phục vụ Dự án xây dựng Khu Du lịch sinh thái bền vững Tam Đảo 2.)

9
2. 3. Địa chất
2.3.1.Cấu tạo địa chất:
Dãy núi Tam Đảo được cấu tạo từ đá phun trào axít tuổi Triat thuộc hệ tầng Tam
Đảo (T

2
td). Thành tạo phun trào này kéo dài theo phương Tây Bắc – Đông Nam với
chiều dài khoảng 80km, rộng khoảng 10km, có quan hệ kiến tạo với các thành tạo tuổi
Devon ở phía Bắc và Tây Nam. Các đá phun trào Tam Đảo bị xâm nhập phức hệ Núi
Điêng xuyên cắt.
Hệ tầng phun trào axit Tam Đảo bao gồm chủ yếu là đá riolit, riolit pocphia,
riodacit và tuf của chúng, bề dày tổng cộng khoảng 800m. Đá riolit chứa các ban tinh
fenspat và thạch anh cỡ nhỏ đến vừa, chiếm khoảng 5-10% khối lượng. Thành tạo
riolit Tam Đảo bị phân cắt bởi hệ thống khe nứt, tạo ra các khối kích thước khác nhau,
bị ép thành tấm, đôi chỗ thành phiến, dập vỡ mạnh. Lấp đầy các khe nứt trong đá là
các mạch thạch anh.
Liên quan đến động đất, theo tài liệu Nguyễn Đình Xuyên (2003), khu vực Tam
Đảo nằm trong vùng phát sinh động đất với Mmax=68, đã có lần xảy ra động đất có
chấn cấp I=VII.
(Nguồn: Đặng Trung Thuận 2006: Báo cáo đánh giá tác động môi trường sơ bộ
Dự án xây dựng khu du lịch sinh thái bền vũng Tam Đảo 2).

Theo tài liệu của Tổng cục Địa chất, tuổi tuyệt đối mẫu cục lấy ở khu nghỉ mát
Tam Đảo là 267 triệu năm, hơi cao hơn rionit ở dãy Phiabioc có tuổi từ 230 đến 240
triệu năm. Như vậy rionit Tam Đảo có tuỏi Triat giáp Nori.
Ở phần phía tây của vùng (mỏ thiếc), các thể xâm nhập granit kết hợp chặt chẽ
với rionit kết tinh khá cao (giống ở dãy núi pháo Đồng Hỷ) chỉ có các đá granit chứa
thiếc chắc chắn có tuổi trẻ hơn (ở cuối chân núi xuất hiện cuội kết thuộc trầm tích kỷ
Jura),
Trong quá trình phát sinh và phát triển của địa hình và lịch sử địa chất đã tạo nên
một số loại khoáng sản có nguồn gốc nội sinh như thiếc, vonfram. Hiện nay (1992) mỏ
này đang được khai thác. Diện tích mỏ lên đến hàng nghìn hecta, nằm ở phía bắc khu
bảo tồn.
Nhìn chung các lọai đá này rất cứng. Thành phần khoáng vật có nhiều thạch anh,
mouscovit khó bị phong hóa và hình thành các loại đất có thành phần cơ giới nhẹ, cấp

hạt thô, dễ bị xói mòn và rửa trôi, nhất là những nơi có độ dốc cao hơn 35
o
. Đất bị xói
mòn rất mạnh để trơ lại tầng đá gốc cứng rắn. Nếu vì một lí do nào đó làm lớp phủ
rừng bị phá hoại trên lập địa này, thì dù có đầu tư cao cũng khó phục hồi lại lớp phủ
rừng như xưa.
(Nguồn: FIPI, 1992: Báo cáo Lập địa Khu Bảo tồn thiên nhiên Tam Đảo).
Khu vực Tam Đảo 2 cấu tạo chủ yếu từ đá riolit có nhiều mạch thạch anh, bị ép
tấm và dập vỡ mạnh làm giảm độ gắn kết.
(Nguồn: Trần Nghi 2006: Xác định cơ sở khoa học để đánh giá tác động môi
trường phục vụ Dự án xây dựng Khu Du lịch sinh thái bền vững Tam Đảo 2).

10
2.3.2. Vỏ phong hóa và lớp thổ nhưỡng
Trong phạm vi toàn bộ dãy núi Tam Đảo, các nhà Lâm học đã phân biệt 4 loại
đất và khái quát chúng trong bảng sau:
Bảng 2.1.: Đặc trưng các loại đất VQG Tam Đảo
Loại đất Diện tích Các đặc trưng Phân bố
1. Đất feralit
mùn vàng nhạt
trên núi trung
bình
8968 ha

17,1%
Phát triển trên đá mácma axit kết tinh
chua riolit, dacit, granit. Tầng đất rất
mỏng. Tầng mùn và thảm mục khá dày và
chỉ xuất hiện nơi có đọ dốc nhỏ. Nơi độ
dốc lớn tầng đất bị xói mòn trơ lại đá gốc.

Phân bố từ độ cao 700-
1600m. Chiếm hầu hết
các đỉnh của dãy Tam
Đảo
2. Đất feralit có
mùn vàng đỏ
trên núi thấp
9292 ha

17,8%
Phát triển trên đá kết tinh chua. Tầng đất
mỏng, thành phần cơ giới nhẹ, Tầng mùn
mỏng hoặc không còn vì bị xói mòn. Tầng
đá lộ đầu trên 75%.
Phân bố xung quanh
sườn Tam Đảo ở độ cao
400-700m
3. Đất feralit đỏ
vàng phát triển
trên vùng đồi
24641 ha

47,0%
Đất feralit điển hình vùng đồi, phát triển
trên nhiều loại đá mẹ khác nhau. Do lớp
thực bì bị mất nhưng độ dốc thấp nên
tầng đất có dày hơn hai loại đất trên. Đất
ít đá nổi đá lẫn. Thành phần cơ giới trung
bình đến nặng
Phân bố trên các đồi cao

và trung bình, cao 100-
400m xung quanh dãy núi
Tam Đảo
4. Đất phù sa
và bồi tụ sông
suối
9794 ha
18,1%
Đất phù sa và dốc tụ do sông suối và
sườn tích, mầu nâu đen, tầng dày. Thành
phần cơ giới trung bình, mầu mỡ, độ ẩm
cao. Đã được sử dụng để trồng lúa và
hoa màu.
Phân bố trong các thung
lũng hẹp giữa núi và ven
các sông suối lớn
(Nguồn: FIPI, 1992: Báo cáo Lập địa Khu Bảo tồn thiên nhiên Tam Đảo).
Sự hình thành vỏ phong hóa và lớp thổ nhưỡng ở khu vực Tam Đảo 2 đã được
các nhà khoa học ở ĐHKHTN chú ý sâu hơn. Theo đó Tam Đảo 2 nằm trong vùng khí
hậu nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh, có lượng mưa lớn, thảm thực vật dày, địa
hình cao và dốc, các đá phun trào axit hệ tầng Tam Đảo bị phong hóa, kết quả tạo
thành lớp vỏ phong hóa có độ dày 1-1,5m, được Đặng Mai (2006) chia thành 3 kiểu
vỏ:
- Kiểu vỏ Saprolit trên các sườn đồi độ dốc lớn (trên 30
o
), lộ đá gốc, lớp đất mỏng,
xen sạn sỏi thạch anh và mảnh vỡ vụn của đá phun trào.
- Kiều vỏ Sialit phát triển trên đai cao hơn 1000m, trên nền aluvi-deluvi nơi phát
triển rừng kín thường xanh hoặc trên những phần thấp của địa hình, nơi thường
xuyên ẩm ướt ở vùng lòng chảo khu trung tâm.

- Kiểu vỏ Ferosialit phát triển phổ biến trên các sườn có độ dốc vừa phải thuộc đai
cao dưới 1000m, trên nền đá phun trào axit tại các bề mặt san bằng, chủ yếu là ở
phần đỉnh các đồi phía tây vùng lòng chảo.
Các tác giả này cũng cho rằng các yếu tố đá gốc, khí hậu, địa hình và thảm thực
vật trong khu vực Tam Đảo 2 không thuận lợi cho sự tích lũy các secki oxit trong phẫu
diện đất và vỏ phong hóa. Do vậy, sialit hóa và ferosialit hóa là những quá trình địa
hóa đặc trưng trong sự hình thành đất và vỏ phong hóa vùng này. Đó cũng là lí do giải
thích vì sao trong vùng thiếu vắng những sản phẩm phong hóa chín muồi ở mức độ
cao.

11
Các loại đất được phân biệt gồm:
- Nhóm đất xám vàng có mùn phát triển trên VPH ferosialit
- Nhóm đất xám sẫm có mùn phát triển trên VPH Sialit
- Nhóm đất xám sẫm phát triển trên VPH saprolit
- Nhóm đất xám vàng phát triển trên sườn tích (deluvi)
- Nhóm đất xám sẫm phát triển trên sườn tích (deluvi)
- Nhóm đất dốc tụ ven đồi núi phát triển trên sườn tích (deluvi)
Và khuyến cáo rằng cần tiếp tục chú ý nghiên cứu các loại đất trên trầm tích
deluvi hỗn độn cuội, tảng khá phổ biến trong vùng nhằm tránh can thiệp vào địa hình
để đảm bảo phát triển du lịch bền vững.
(Nguồn: Trần Nghi 2006: Xác định cơ sở khoa học để đánh giá tác động môi
trường phục vụ Dự án xây dựng Khu Du lịch sinh thái bền vững Tam Đảo 2).
2.3.3. Tai biến địa chất
Từ những kết quả khảo sát về độ dốc địa hình ở khu Tam Đảo 2, đá gốc riolit bị
dập vỡ, nén ép nhiều, vỏ phong hóa phát triển nhưng chiều dày nhỏ, Chu Văn Ngợi
(2006) đã chia khu Tam Đảo 2 thành các vùng tai biến địa chất tiềm năng, bao gồm tai
biến trượt lở và ngập lụt. Đó là:
- Vùng có nguy cơ trượt lở cao ở các sườn núi dốc, chiếm diện tích đáng kể.
- Vùng có nguy cơ trượt lở trung bình ở các sườn đồi dốc thoải, phân bố hẹp hơn

- Vùng có nguy cơ trượt lở thấp gồm các bề mặt đỉnh, vai địa hình và trung tâm lòng
chảo, chiếm diện tích lớn nhất.
- Vùng có nguy cơ ngập lụt ở trung tâm lòng chảo (Dự án gọi là vùng đất ướt tiềm
năng). (Xem thêm trên bản đồ các dạng Địa hình sườn dốc, số kí hiệu 7, 8, 9, 10)
(Nguồn: Đặng Trung Thuận 2006: Báo cáo đánh giá tác động môi trường sơ bộ
Dự án xây dựng khu du lịch sinh thái bền vũng Tam Đảo 2).
Trần Nghi và nnk (2006) còn chú ý thêm ảnh hưởng của các hoạt động thực thi
Dự án (Xây dựng cơ sở hạ tầng như mở các tuyến đường, xây dựng các khu nhà
nghỉ, ) sẽ tác động trực tiếp đến môi trường tự nhiên, làm thay đổi một số điều kiện tự
nhiên: giảm độ che phủ, phá hủy cân bằng sườn, thu hẹp diện tích thấm nước bề mặt,
tăng diện tích bê tông hóa. Đã đề xuất thêm một vùng có nguy cơ tai biến tiềm năng
nữa là Vùng có nguy cơ bị lũ quét bao gồm các thung lũng suối Thác Lác (xã Đạo Trù)
và Suối Đông Thỏng (Các nhánh suối vùng đất ướt tiềm năng và hệ thống Suối Bòn
Bọt (Đông Thỏng 2) cùng đổ xuống Tây Thiên).
(Nguồn: Trần Nghi 2006: Xác định cơ sở khoa học để đánh giá tác động môi
trường phục vụ Dự án xây dựng Khu Du lịch sinh thái bền vững Tam Đảo 2).
Như vậy trong vùng Dự án Tam Đảo 2 đã ghi nhận tới 5 vùng có nguy cơ tai biến
địa chất có thể gây ra trượt lở, ngập lụt, lũ quét mà sự tác động vào vùng đất này đòi
hỏi một sự cẩn trọng rất cao.

12
2.4. Khí hậu
Dãy Tam Đảo là dãy núi lớn, bao gồm một vùng lãnh thổ rộng và có sự phân hóa
theo độ cao rất đa dạng, vì vậy khái quát hóa các đặc trưng khí hậu toàn vùng không
phải là vấn đề đơn giản. Các nhà lâm học (FIPI) dựa trên các số liệu khí tượng của
trạm Tam Đảo và các trạm xung quanh (Tuyên Quang, Vĩnh Yên, Đại Từ) để đưa ra
các nhận định khái quát cho toàn vùng như sau:
Thuộc chế độ khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa vùng cao. Dựa vào các số liệu quan
trắc bình quân nhiều năm của các đài khí tượng Đại Từ, Tuyên Quang, Vĩnh Yên, Tam
Đảo (thị trấn Tam Đảo) (Bảng 2.2)

Bảng 2.2.: Số liệu khí tượng của các trạm trong vùng
Tên yếu tố Trạm
Tuyên Quang
Trạm
Vĩnh Yên
Trạm
Đại Từ
Trạm
Tam Đảo
Nhiệt độ trung bình năm (
o
C) 22,9 23,7 22,9 18,0
Nhiệt độ tối cao trung bình 41,4 41,5 41,3 33,1
Nhiệt độ tối thấp trung bình 0,4 3,2 3,0 -0,2
Lượng mưa trung bình năm (mm) 1641,4 1603,5 1906,2 2630,9
Số ngày có mưa trong năm 143,5 142,5 193,4 193,7
Lượng mưa tối đa / ngày 350 284,0 352,9 295,5
Độ ẩm trung bình (%) 84 81 82 87
Độ ẩm cực tiểu (%) 15,0 14,0 16,0 6,0
Lượng bốc hơi nước (mm) 760,3 1040,1 985,5 561,5
Có thể nói rằng trạm Tuyên Quang và Vĩnh Yên đặc trưng cho khí hậu sườn
phía tây, trạm Đại Từ đặc trưng cho khí hậu sườn phía đông; tram Tam Đảo ở độ cao
gần 900m trên mực nước biển đặc trưng cho khí hậu trên cao của khu bảo tồn.
- Sườn tây có vũ lượng trên 1600mm/năm, vào loại trung bình. Sườn đông có vũ
lượng trên 1900mm/năm, vào loại nhiều; Đó là sườn đón được gió mang hơi ẩm
thổi từ biển vao. Trên đỉnh còn có lượng mưa trên 2600mm/năm, vào loại mưa rất
nhiều vì ngoài lượng mưa giống như vùng thấp nó còn được hưởng lượng nước do
mưa địa hình mang lại.
- Tổng lượng mưa trong mùa hè và thu rất cao (>90% tổng lượng mưa năm), mùa
mưa kéo dài hơn 7 tháng (suốt từ tháng 4 đến tháng 10).Về mùa đông và xuân,

lượng mưa không đáng kể, chỉ chiếm dưới 10% lượng mưa năm.
- Số ngày mưa khá nhiều, sườn tây trên 140 ngày/năm, sườn đông và vùng đỉnh trên
190 ngày/năm.
- Cường độ mưa rất lớn, có nhiều trận mưa trên 350mm/ngày.
- Tần suất xuất hiện những trận mưa to và rất to trong mùa mưa trên 20%, tập trung
vào các tháng 6, 7, 8, 9; cao nhất là các tháng 8 và 9 (đỉnh mưa đều nằm trong
tháng 8), xói mòn và những trận lũ lớn đều xảy ra vào những thời gian này.
- Hàng năm có trên 60 ngày dông tại trạm và một trận bão đi qua với tốc độ gió trên
cấp 8. Vì thế khi xây dựng các công trình trong vùng đều có hệ thống chống sét và
gió giật cẩn thận, điển hình là cột phát sóng truyền hình trên đỉnh Tam Đảo.

13
- Do điều kiện địa hình, địa mạo đã chi phối mạnh mẽ đặc điểm khí hậu trong vùng
nên nhiệt độ vùng thấp biến động từ 22,9
o
C đến 23,7
o
C, tháng lạnh nhất trên 15
o
C
(tháng 1), tháng nóng nhất trên 28
o
C (tháng 7). Riêng vùng đỉnh có nền nhiệt độ
thấp hơn cả, bình quân 18
o
C, lạnh nhất là 10,8
o
C (tháng 1), nóng nhất 23
o
C (tháng

7). Vùng thấp số giờ nắng đều trên 1600 giờ/năm, lượng bức xạ dồi dào; Riêng
Tam Đảo chỉ có 1200 giờ/năm vì thường có mây che phủ trong mùa xuân – hè.
- Đầu mùa đông thường có dạng thời tiết khô hanh, cộng với gió mùa đông - bắc
mạnh làm cho lượng bốc hơi tăng. Sang xuân có mưa phùn (vùng thấp có 20
ngày/năm, vùng cao số ngày mưa phùn lên đến trên 46 ngày) làm giảm đáng kể
lượng bốc hơi. Lượng bốc hơi, vì vậy, có sự khác biệt rõ rệt giữa vùng thấp (xấp xỉ
1000mm/năm) và vùng cao (Tam Đảo chỉ có 560mm/năm).
- Độ ẩm bình quân vùng thấp >80%, vùng cao >87%. Mùa mưa, nhất là khi có thời
tiết mưa phùn độ ẩm lên tới trên 90%, nhưng mùa khô chỉ còn 70-75%, cá biệt có
ngày chỉ 6%, vì vậy thời tiết rất khô hanh, dễ gây ra cháy rừng.
(Nguồn: FIPI, 1992: Báo cáo Lập địa Khu Bảo tồn thiên nhiên Tam Đảo).
Đặng Trung Thuận và cộng sự (2006) cho rằng Tam Đảo nói riêng, cũng như
Vĩnh Phúc nói chung nằm trong khu vực khí hậu gió mùa chí tuyến, có mùa đông lạnh,
khô. Dựa vào chuỗi số liệu các đặc trưng khí hậu giai đoạn 1975-2004 tại trạm khí
tượng Tam Đảo đã nêu ra các nhận định như sau:
Nhiệt độ không khí: Bình quân nhiều năm khoảng 18,3
o
C, nhiệt độ không khí
trung bình cao nhất nhiều năm là 21,4
o
C. nhiệt độ không khí trung bình thấp nhất
nhiều năm là 16,4
o
C. Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối là 33,4
o
C, nhiệt độ thấp nhất tuyệt
đối là 0
o
C. Chênh lệch nhiệt độ ngày đêm khá lớn, khoảng 10-15
o

C.
Lượng mưa năm: Trung bình nhiều năm là 2355mm, cao hơn nhiều so với lượng
mưa bình quân cả nước (1960mm/năm) và của tỉnh Vĩnh Phúc (1500-1800mm/năm).
Lượng mưa ngày lớn nhất đạt 318,6mm. Bình quân hàng năm có khoảng 203 ngày
mưa, tập trung chủ yếu trong tháng 6. Mùa mưa ở Tam Đảo kéo dài hơn so với các nơi
khác của tình Vĩnh Phúc (5 tháng). Mỗi năm xuất hiện bình quân 60 ngày có dông.
Một vài năm còn xuất hiện hiện tượng mưa đá.
Độ ẩm: Độ ẩm tương đối bình quân nhiều năm là 87,7%; độ ẩm tương đối trung
bình thấp nhất bình quân nhiều năm là 76,2%; độ ẩm tương đối thấp nhất tuyệt đối là
6%. Độ ẩm tuyệt đối trung bình là 19,1%.
Sương mù: Hàng năm bình quân có 118 ngày có hiện tượng sương mù.
Tổng lượng mây: Trung bình nhiều năm bằng 8.
Số giờ nắng: Một năm bình quân có 1212 giờ.
Tổng lượng bốc hơi: Bình quân nhiều năm là 512mm, là khá thấp so với bình
quân bốc hơi toàn quốc.
Tốc độ gió: Bình quân là 3,0m/s; tốc độ gió cực đại đến 30m/s.
Nhìn chung các đặc trưng khí hậu Tam Đảo 2 tương tự khu Tam Đảo 1. Sự khác
nhau chút ít về nền nhiệt độ và độ ẩm là do mức cao địa hình gây nên.
(Nguồn: Đặng Trung Thuận 2006: Báo cáo đánh giá tác động môi trường sơ bộ
Dự án xây dựng khu du lịch sinh thái bền vũng Tam Đảo 2).

14
Trong khi đó Trần Nghi (2006) quan tâm đến tính địa đới của khí hậu Tam Đảo
và cho rằng Khí hậu khu vực Tam Đảo 2 thuộc loại khí hậu nhiệt đới gió mùa núi cao
với nhiều đặc điểm mang tính nhiệt đới và một số đặc thù không mang tính nhiệt đới.
Những đặc trưng khí hậu chủ yếu thể hiện tính nhiệt đới bao gồm:
- Về bức xạ thiên văn: Độ cao mặt trời khá lớn và thời gian chiếu sáng khá đồng đều
trong năm.
- Về hoàn lưu khí quyển: Trong mùa hè thịnh hành không khí nhiệt đới xích đạo, còn
về mùa đông chịu sự chi phối của không khí nhiệt đới và không khí cực đới biến

tính sâu sắc trên đới vĩ độ thấp.
- Về nhiệt độ: Biên độ ngày của nhiệt độ khá lớn và khá đồng đều trong năm.
Những đặc trưng khí hậu chủ yếu thể hiện tính phi nhiệt đới gồm:
- Về bức xạ: Lượng bức xạ tổng cộng năm cũng như cán cân bức xạ không đạt tiêu
chuẩn nhiệt đới.
- Về cơ chế hoàn lưu: Hàng năm chịu ảnh hưởng khoảng 25-30 đợt front lạnh, trong
đó nhiều đợt tương tự hàn triều ở các vĩ độ trung bình.
- Về nhiệt độ: Tổng nhiệt độ trung bình năm, nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất và
biên độ năm của nhiệt độ (chênh lệch về nhiệt độ trung bình giữa tháng nóng nhất
và tháng lạnh nhất) đều không đạt tiêu chuẩn nhiệt đới.
(Nguồn: Trần Nghi 2006: Xác định cơ sở khoa học để đánh giá tác động môi
trường phục vụ Dự án xây dựng Khu Du lịch sinh thái bền vững Tam Đảo 2).

Nguyễn Khanh Vân (2000) nghiên cứu khí hậu theo cách tiếp cận khác, Tiếp cận
Sinh khí hậu (Bioclimat), dựa trên các đặc trưng về chế độ nhiệt, chế độ mưa (mùa
mưa và lượng mưa) và thời gian khô hạn trong năm. Thời gian khô được tính bằng
tháng, đó là thời gian mà lượng mưa trung bình của tháng, tính bằng mm, nhỏ hơn hay
bằng hai lần nhiệt độ trung bình tháng đó, tính bằng
o
C (R≤2t). Thời gian này được xác
định trên biểu đồ sinh khí hậu khi đường lượng mưa (R) giao nhau với đường hai lần
nhiệt độ trung bình tháng (2t); khoảng thời gian mà đường lượng mưa (R) ở phía dưới
đường hai lần nhiệt độ trung bình (2t) là thời kì khô trong năm, còn khi ở dưới đường
(một lần) nhiệt độ trung bình (t) là thời kì hạn. Cách tiếp cận này thường được áp dụng
rộng rãi trong Nông học, Lâm học và khoa học môi trường vì thời kì khô hạn là thời kì
cây cỏ (sinh vật nói chung) dễ bị tổn thương do cân bằng nước trong thiên nhiên lệch
về phía lượng bốc hơi trên bề mặt đất và cây cỏ lớn hơn lượng nước mưa nhận được từ
khí quyển, do vậy phụ thuộc rất nhiều vào lượng nước dự trữ trong môi trường. Theo
đó Tam Đảo được xếp vào kiểu II*.1.a. Sinh khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa đông
lạnh, mưa mùa hè, không có tháng nào khô với các đặc trưng như sau (Bảng 2.3):

Ngay trên biểu đồ sinh khí hậu đã thể hiện một số thông tin cần thiết như:
- Số năm của chuỗi số liệu (38 năm đối với nhiệt độ, 39 năm đối với lượng mưa)

15
- Độ cao của trạm khí tượng so với mực nước
biển (897m a.s.l.)

Hình 2.3: Biểu đồ sinh khí hậu thị
trấn Tam Đảo
- Nhiệt độ trung bình năm
o
C (18,0)
- Lượng mưa trung bình năm mm (2631)
- Nhiệt độ tối cao tuyệt đối
o
C (33,1)
- Nhiệt độ tối cao trung bình tháng nóng nhất
o
C (`26,2)
- Biên độ nhiệt độ ngày trung bình năm
o
C (5,0)
- Nhiệt độ tối thấp trung bình tháng lạnh nhất
o
C (9,0)
- Nhiệt độ tối thấp tuyệt đối
o
C (0,2)
- Thời kì nhiệt độ tối thấp trung bình tháng
xuống dưới 15

o
C (tháng 11- tháng 3, phần có
gạch chéo trên thanh ngang phía trên)
- Thời kì có nhiệt độ tối thấp tuyệt đối xuống
dưới 5
o
C (tháng 11- tháng 3, phần tô đen trên
thanh ngang ở dưới)
(Nguồn: Nguyễn Khanh Vân, 2000: Các
biểu đồ sinh khí hậu Việt Nam)
Bảng 2.3: Số liệu khí tượng thị trấn Tam Đảo
034. Tam Đảo II*.1.a. 21
o
27’ v.b. 105
o
38’ k.đ.
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Năm
T 10,8 12,2 15,1 18,6 21,6 23,0 23,1 22,6 21,6 19,0 15,7 12,7 18,0
R 38,5 45,3 70,5 152,0 239,8 351,5 465,4 524,6 370,7 238,0 93,8 40,8 2630,9
∆T 4,6 4,5 4,3 4,8 5,6 5,2 5,3 4,9 4,9 5,1 5,3 5,4 5,0
U 88 91 91 91 88 88 88 89 86 83 82 84 87
S 2,2 1,7 1,8 2,7 4,8 4,0 4,8 3,9 4,5 4,3 3,8 3,5 3,5

2.5. Mạng lưới thủy văn
Trong khu vực có hai hệ thống sông chính, đó là sông Phó Đáy ở phía tây (Tuyên
Quang, Vĩnh Phúc) và sông Công ở phía đông (Thái Nguyên). Đường phân thủy rõ rệt
nhất của hai hệ thống sông này là đường dông nối các đỉnh núi suốt từ Mỹ Khê ở cực
nam đến Đèo Khế ở điểm cực bắc.
Mạng lưới sông suối hai sườn Tam Đảo dồn xuống hai hệ thống sông này có
dạng chân rết khá dày đặc và ngắn, có cấu trúc dốc và hẹp lòng từ đỉnh xuống chân

núi. Từ chân núi trở đi sông lại có dạng uốn khúc phức tạp trên mặt cánh đồng khá
bằng phẳng, tương ứng với dạng địa hình đã tạo ra nó.

16
Mật độ sông suối khá dày (trên 2km/km
2
), các suối có thung lũng hẹp, đáy nhiều
ghềnh thác, độ dốc lớn, khả năng điều tiết nước kém, chúng là kết quả của quá trình
xâm thực.
Do đặc điểm khí hậu mưa lớn, mùa mưa dài, lượng bốc hơi ít (ở đỉnh Tam Đảo)
nên cán cân nước dư thừa. Đó là nguyên nhân làm cho các dòng chảy từ đỉnh Tam Đảo
xuống có nước quanh năm.
Nhưng chế độ thủy văn lại chia thành hai mùa khá rõ rệt: mùa lũ và mùa cạn.
Mùa lũ trùng với mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng 10), mùa cạn từ tháng 11 đến tháng 3
năm sau. Lũ lớn thường xảy ra vào tháng 8, lũ thường tập trung nhanh và rút cũng
nhanh. Sự phân phối dòng chảy rất không đều giữa hai mùa (xem bảng)
Bảng 2.4: Sự phân phối dòng chảy theo mùa của hai hệ thống sông

Tên sông

Tên trạm
Diện tích
lưu vực
(km
2
)
Lưu lượng
bình quân
(m
3

/s)
Tổng lưu
lượng bình
quân năm
(tỷ m
3
)
Tổng lưu
lượng mùa
lũ (tỷ m
3
)
Tổng lưu
lượng mùa
cạn (tỷ m
3
)
Phó Đáy Quảng Cư 1190 26,3 0,83 0,63 0,20
Công Tân Cương 571 14,3 0,45 0,35 0,10

Như vậy lưu vực sông Phó Đáy lớn hơn sông Công và tổng lượng nước chảy
cũng lớn hơn sông Công. Độ chênh lệch lượng nước chảy mùa lũ và mùa cạn cũng rất
lớn. Mô đun dòng chảy các mùa cũng thay đổi rất đáng kể (bảng)
Bảng 2.5.: Mô đun dòng chảy hai hệ thống sông Phó Đáy và sông Công

Tên sông

Tên trạm
Mô đun dòng
chảy trung bình

(l/s/km
2
)
Mô đun cực đại
(l/s/km
2
)
Mô đun cực tiểu
(l/s/km
2
)
Phó Đáy Quảng Cư 40 318 2 - 3
Công Tân Cương 50 918 4 - 5

Lưu lượng dòng chảy lớn nhất tuyệt đối là 331m
3
/s, so với lưu lượng nhỏ nhất
tuyệt đối 3,7m
3
/s thì lớn gấp 90 lần.
Độ đục lớn nhất 541g/m
3
, gấp 100 lần độ đục nhỏ nhất.
Lượng bùn cát lơ lửng 3,2kg/s với tổng lượng bùn cát là 101.000T/năm
Môđun xâm thực trên sông Phó Đáy tới 84,8T/km
2
.
Dòng chảy mùa cạn do không có mưa to nên nguồn nước cung cấp cho sông
hoàn toàn là do nước ngầm (phụ thuộc vào lớp vỏ phong hóa địa chất và lượng mưa
phùn mùa đông). Cả hai sông đều có dòng chảy rất nhỏ. Như vậy khả năng cung cấp

nước cho mùa đông là rất hạn chế.
Các dòng sông suối trong vùng không có khả năng vận chuyển thủy, chỉ có thể
dùng làm nguồn thủy điện nhỏ cho từng gia đình dưới chân núi.

17
Trong vùng cũng có những hồ chứa cỡ lớn như Hồ Núi Cốc, Hồ Đại Lải, các hồ
cỡ trung bình hoặc nhỏ như Hồ Xạ Hương, Khôi kỳ, Phú Xuyên, Linh Lai, Hồ
Sơn,…Đó là nguồn dự trữ nước khá phong phú phục vụ nhu cầu dân sinh và sản xuất
của nhân dân trong vùng.
(Nguồn: FIPI, 1992, 1995: Báo cáo Lập địa Khu Bảo tồn thiên nhiên Tam
Đảo+Luận chứng khả thi xây dựng VQG Tam Đảo).

Mạng lưới thủy văn khu vực Tam Đảo 2 đã được Nguyễn Thanh Sơn (2006)
nghiên cứu khá kỹ lưỡng. Theo tác giả này phía tây-nam dãy núi Tam Đảo có sông
Phó Đáy. Các suối bắt nguồn từ khu vực Tam Đảo 2 đều tập trung đổ vào sông Phó
Đáy. Tam Đảo 2 là đầu nguồn của các suối Thác Lác, Bến Tắn và Đông Thỏng, bắt
nguồn từ độ cao 1000m – 1400m chảy qua nhiều khu vực có độ dốc lớn.Các nhánh
suối được nuôi dưỡng bằng nguồn nước mưa và cả nước ngầm. Các suối chính chảy
theo hướng đông-bắc – tây-nam, hoặc hướng đông – tây và bắc – nam.
Với tổng diện tích lưu vực 5,739 km
2
, các suối khu vực Tam Đảo 2 có tổng
chiều dài các dòng chảy thường xuyên khoảng 8,6 km. Mật độ lưới sông trung bình
của Tam Đảo 2 là 1,5km/km
2
. Các suối có những đặc điểm chính như sau:
Suối Thác Lác (chảy về xã Đạo Trù) có tổng chiều dài tất cả các nhánh khoảng
3,6km. Nhánh chính dài 1,03km, nước chảy theo hướng đông-tây thường xuyên quanh
năm. Các nhánh phụ đổ vào nhánh chính có tổng chiều dài trên 2,5km là các dòng
chảy tạm thời, dòng chảy duy trì trong 6-7 tháng vào mùa mưa. Các suối này có độ

dốc lớn, tốc độ dòng chảy mạnh. Lòng suối hẹp từ 1-3m ở thượng nguồn và mở rộng
đến 5-7m phía hạ lưu. Khoảng 0,6km đoạn đầu nguồn, sông chính chảy qua các vách
đá, có độ dốc rất lớn, tạo nên nhiều thác nhỏ. Phía hạ lưu (khoảng 0,4km) lòng sông
thoải dần. Đáy sông nhiều nơi trơ đá gốc. Vật liệu đáy bao gồm cát, sỏi và đá nhỏ, rất
nhiều tinh thể thạch anh vỡ vụn đường kính khác nhau. Suối chảy trong thung lũng với
thảm thực vật là rừng tạp, chủ yếu là rừng vầu. Hai bờ ít bị xói lở, về mùa lũ nước tràn
lên hai thành bờ. Vách bờ phía hạ lưu , nơi thấp nhất có độ cao khoảng 0,5m. Cảnh
quan của suối Thác Lác khá đẹp, có thể tạo đường bộ hành ven suối, phục vụ du khách
thưởng ngoạn cảnh rừng và các thác nước.
Suối Bến Tắm chảy theo hướng đông-bắc – tây-nam có chiều dài tất cả các
nhánh là 4,1km, trong đó lòng chính là 1,02km. Nhánh chính có nước chảy thường
xuyên. Các nhánh phụ chỉ có nước vào mùa mưa. Trên lòng chính, trong khu vực Tam
Đảo 2 có 6 thác nước có chiều cao từ 20 – 40 m, cảnh quan đẹp, kỳ vỹ. Lòng suối hẹp,
thẳng, chảy trên đá gốc. Dưới chân thác là các vực sâu (có độ sâu khoảng 3m), vách đá
dựng đứng.
Thảm thực vật là rừng gỗ tạp, chủ yếu là rừng tre nứa. Vật liệu đáy gồm mảnh
vụn riolit và thạch anh. Nhiều mạch nước ngầm phát lộ từ các khe nứt. Chất lượng
nước ngầm tốt, có thể sử dụng trực tiếp cho sinh hoạt.

18

Hình 2.4: Bản đồ thủy văn khu vực Tam Đảo 2.
(Nguồn: Trần Nghi 2006: Xác định cơ sở khoa học để đánh giá tác động môi
trường phục vụ Dự án xây dựng Khu Du lịch sinh thái bền vững Tam Đảo 2)

Suối Đồng Thỏng trong khu Dự án gồm hai hợp phần chính. Hợp phần thứ nhất
gồm các nhánh suối ở lưu vực Đồng Thỏng 1 (Vùng đất ướt tiềm năng trong khu Dự
án), hợp phần thứ hai là hệ thống các suối ở lưu vực Đông Thỏng 2 (nằm sát phía đông
và nam vùng đất ướt tiềm năng). (Ở độ cao thấp hơn chúng hợp lại và đổ vào suối
chảy qua khu di tích Tây Thiên)

Đồng Thỏng 1 bắt nguồn từ khu trung tâm, có cao độ khoảng 1150m từ vùng đất
ướt tiềm năng, chảy theo hướng bắc-nam. Nhánh này có tổng chiều dài là 2,2km.
Theo địa hình phần đầu nguồn (tính từ đầu nguồn đến thác nước Tam Đảo 2)
chảy qua vùng đất có độ dốc bé (<8
o
). Phần thủy vực này nằm hẳn trong khu du lịch
sinh thái được quy hoạch và được xem là nguồn nước chính phục vụ cho các nhu cầu
về nước ở đây.
Phần tiếp theo kể từ thác Tam Đảo 2 có độ cao 1000m đổ về bình độ 700 - ranh
giới phía nam của khu vực nghiên cứu, đoạn suối có chiều dài khoảng 550m, lòng suối
dốc vượt qua 3 ngọn thác dốc đứng có chiều dài từ 30-40m. Độ đốc bình quancuar
đoạn suối này là 54,5%, nước chảy xiết. Có thể khai thác đoạn suối này để đặt các
trạm thủy điện nhỏ phục vụ cho các trại sinh thái và vườn thực vật trong khu du lịch.

19
Đông Thỏng 2 bắt nguồn từ phía đông-nam khu vực dự án, có hai nhánh chính.
Nhánh dài nhất bắt nguồn từ độ cao 1150m, từ trên sống núi Tam Đảo, giáp với
Thái Nguyên đổ về xuôi theo hướng đông-bắc – tây-nam. Tổng chiều dài nhánh suối
này với các phụ lưu của nó lên tới 3,486km. Nhánh còn lại có chiều dài 472m. Có tất
cả 7 thác nước , độ cao thác từ 5-10m.
Đoạn suối chảy theo hướng đông-tây, sát ranh giới phía nam khu vực dự án có
tên gọi là suối Bòn Bọt. Đoạn này có lượng nước chảy khá dồi dào, dốc, lòng suối
nhiều đá tảng. Suối rộng từ 10-20m, có nhiều chỗ tích nước tự nhiên, sâu từ 0,5-1,5m.
Chất lượng nước rất tốt, có thể sử dụng cho sinh hoạt.
Nguồn nước ngầm trong lưu vực Đông Thỏng 2 khá dồi dào, là nguồn nuôi
dưỡng suối trong thời gian không có mưa. Khả năng khai thác nguồn nước này chỉ có
thể bằng cách xây dựng các trạm bơm và các bể trung chuyển nước để phục vụ khu du
lịch.
(Nguồn: Đặng Trung Thuận 2006: Báo cáo đánh giá tác động môi trường sơ bộ
Dự án xây dựng khu du lịch sinh thái bền vũng Tam Đảo 2).

2.6. Phân vùng sinh thái VQG Tam Đảo
Qua công tác khảo sát và đánh giá điều kiện tự nhiên, các nhà lâm học (FIPI,
1992) phân chia khu bảo tồn thiên nhiên Tam Đảo thành bốn vùng sinh thái khác nhau.
Bảng 2.6: Các vùng sinh thái VQG Tam Đảo
Các tiêu chí Vùng 1.
Vùng núi cao
trung bình Tam
Đảo (Vùng đỉnh)
Vùng 2.
Vùng núi thấp
và đồi cao sườn
tây Tam Đảo
Vùng 3.
Vùng núi thấp
và đồi cao sườn
đông Tam Đảo
Vùng 4.
Thung lũng và
đồng bằng chân
Tam Đảo
Khí hậu
Nhiệt độ trung
bình/ năm (
o
C)
Nhiệt độ trung
bình tháng lạnh
nhất
Lượng mưa bình
quân/năm

Số ngày mưa
/năm
Số tháng khô

15-19


10-14

> 2500mm

>190

không

20-24


15-19

1500-2000mm

> 140

3-4

20-24


15-19


2000-2500mm

>190

3

20-24


15-19

1500-2000mm

140-190

3-4
Địa hình
Núi cao trung
bình 700-1700m.
Độ dốc* cấp V
Đồi cao và núi
thấp >100 đến
700m. Độ dốc
cấp III-IV
Đồi cao và núi
thấp >100 đến
700m. Độ dốc
cấp IV
Thung lũng và

đồng bằng ven
sông < 100m. Độ
dốc cấp I
Địa chất
Rionit cứng rắn
khó phong hóa
Nhóm đá axit
cứng, khó phong
hóa
Nhóm đá axit
cứng, khó phong
hóa
Sản phẩm xung
tích bồi tụ cấp
hạt mịn
Thổ nhưỡng
Đất feralit màu
vàng nhạt trên
núi, tầng đất rất
mỏng, đá lộ
>75%
Đất feralit vàng
đỏ hay đỏ vàng,
tầng đất mỏng
đến trung bình,
thị nhẹ.
Đất feralit vàng
đỏ hay đỏ vàng,
tầng đất mỏng
đến trung bình,

thị nhẹ - trung
Đất dốc tụ hoặc
phù sa, thịt trung
binhg, giàu dinh
dưỡng

20
bình.
Thảm thực vật
Rừng lá rộng
thường xanh -
Rừng lùn đỉnh
núi
Rừng kín lá rộng
thường xanh
vùng đồi và núi
thấp
Rừng kín lá rộng
thường xanh
vùng đồi và núi
thấp
Lúa và cây màu
– cây lâu năm
Động vật
Đăc trưng khu hệ
động vật vùng
núi cao phía bắc
với các loài quý
hiếm: voọc mũi
hếch, cá cóc

Tam Đảo, các
loài chim quý
Đặc trưng cho hệ
động vật phía
bắc. Các loài quý
hiếm bị săn bắn
nhiều, hiện nay
không thấy xuất
hiện
Đặc trưng cho hệ
động vật phía
bắc. Các loài quý
hiếm bị săn bắn
nhiều, hiện nay
không thấy xuất
hiện
Chủ yếu là vật
nuôi trong gia
đình (gia súc, gia
cầm)
Ảnh hưởng xã
hội, con người
Rừng cũng bị
con người tác
động song còn ở
mức độ nhẹ,
không có dân ở
Rừng đã bị tác
động nặng nề,
khai thác, làm

rẫy nhưng chưa
có dân ở trong
vùng
Rừng đã bị tác
động nặng nề,
khai thác, làm
rẫy nhưng chưa
có dân ở trong
vùng
Là nơi định cư
của nhân dân
trong vùng, toàn
bộ đất đai đã
được khai phá
làm ruộng.
*Các cấp độ dốc: I (Bằng phẳng, <7
o
), II (Sườn thoải, 8
o
– 15
o
), III (Sườn dốc,
16
o
– 25
o
), IV (Rất dốc, 26
o
– 35
o

), V (Dốc hiểm, >35
o
)
Những đặc điểm rất đặc trưng của từng vùng sinh thái trong khu bảo tồn là cơ sở
cho công việc phân vùng chức năng của phương án quy hoạch khu bảo tồn thiên nhiên
Tam Đảo sau này
(Nguồn: FIPI, 1992: Báo cáo Lập địa Khu Bảo tồn thiên nhiên Tam Đảo).

3. GIÁ TRỊ ĐA DẠNG SINH HỌC
Đa dạng sinh học là giá trị to lớn đã đưa Tam Đảo thành một trong các địa danh
nổi tiếng được cả thế giới biết đến trong nghiên cứu sinh học.
3. 1. Đa dạng loài và giá trị bảo tồn
Khu hệ động thực vật Vườn Quốc gia Tam Đảo rất giàu loài và có sức cuốn hút
mạnh mẽ đối với các nhà nghiên cứu trong nước cũng như quốc tế. Rất nhiều nghiên
cứu về động thực vật Tam Đảo đã được tiến hành từ đầu thế kỷ 20, cho đến nay vẫn
được lại đi lặp lại liên tục, nhiều loài mới vẫn còn được phát hiện.
3.1.1.Đa dạng động vật có xương sống:
Lưỡng cư là nhóm động vật đặc sắc đối với Vườn quốc gia Tam Đảo. Loài động
vật đặc hữu hẹp, chỉ của Tam Đảo là loài Sa dông (Cá cóc Tam Đảo) đã được phát
hiện từ năm 1934, là biểu trưng được thể hiện trên logo của Vườn Quốc gia Tam Đảo.
Trong phạm vi dãy núi Tam Đảo Cá cóc sống chủ yếu trong các suối nhỏ trong vùng
rừng tự nhiên ở sườn tây, suốt từ Xã Kháng Nhật (Sơn Dương, Tuyên Quang) đến xã
Hồ Sơn, Thị trấn Tam Đảo, ở độ cao từ 500m trở lên tới 1200m. Vùng trũng ở Tam
Đảo 2 cũng gặp loài này. Phần lớn các loài khác gặp được chủ yếu ở vùng thấp dưới
900m. Số lượng loài Lưỡng cư được ghi nhận tại Vườn Quốc gia Tam Đảo ngày càng
tăng. Khi lập Dự án khả thi xây dựng VQG Tam Đảo (1992-1995) mới chỉ biết đến 19
loài thuộc 7 họ, 2 bộ; 1993 Nguyễn Văn Sáng đã phát hiện tới 27 loài, và hiện nay đã

21
lên tới 57 loài thuộc 8 họ, 3 bộ (Lê Vũ Khôi 2006). Điều này có thể hứa hẹn rằng vẫn

còn khả năng phát hiện thêm các loài mới thuộc nhóm động vật này, nhất là ở các sinh
cảnh trên độ cao như vùng Ao Dứa (Tam Đảo 2), vùng này thực ra vẫn còn rất ít được
quan tâm.
Vùng Tam Đảo 2, theo các số liệu của Lê Vũ Khôi (2006) thì;
- Tam Đảo 2 có các đại diện thuộc cả 3 bộ Ếch nhái: không chân, có đuôi và không
/đuôi. Có 7/8 họ có mặt ở Tam Đảo.
- Tỷ lệ số loài của một số họ có ở Tam Đảo 2 so với số loài trong toàn vùng như sau:
họ Cá cóc (Salamandridae) 1/1 loài, họ Ếch giun (Ichthyophidae) 1/1 loài, họ Ếch
nhái (Ranidae) có 12/20 loài, họ Ếch cây (Rhacophoridae) có 7/15, họ Cóc bùn
(Megophryidae) có 7/10 loài, họ Nhái bén (Hylidae) có 3/3 loài và họ Cóc
(Bufonidae) có 1 / 2 loài. (tổng cộng của 5 họ trên là 30/50 loài = 60% số loài của
các (5) họ trên).
- Hai loài đặc hữu hẹp cho Tam Đảo là Cá cóc bụng hoa (Cá cóc Tam Đảo,
Paramesotriton deloustali) và Ếch giun (Ichthyophis bananicus) đều có ở Tam Đảo
2. Ngoài ra còn có 6 loài đặc hữu rộng cho Việt Nam. Như vậy tổng số các loài đặc
hữu là 8.
- Cả 8 loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam có ở VQG Tam Đảo thì đều
gặp ở Tam Đảo 2; trong đó E (1), V (1), R (3), và T (3).
(Nguồn: Lê Vũ Khôi 2006: Khu hệ Lưỡng cư, đánh giá những giá trị bảo tồn tại
Khu vực Tam Đảo 2 )











Bò sát: Nhóm động vật này rất được quan tâm trong công tác bảo tồn vì Rùa là
một trong số các động vật là nạn nhân của nạn buôn bản động vật hoang dã qua biên
giới. Tính đa dạng các loài bò sát VQG Tam Đảo đứng vào loại thứ hai trong các động
vật có xương sống của Vườn, hiện nay đã phát hiện còn tồn tại tới 124 loài thuộc 16
họ, 2 bộ. Con số này cũng cao hơn so với khi mới thành lập Vườn (1995), khi ấy chỉ
biết được 46 loài thuộc 13 họ, 2 bộ. Sự tăng số lượng này chắc chắn là do mức độ
nghiên cứu sâu hơn và sự duy trì của các sinh cảnh sống đặc trưng của chúng trong
VQG. Trong số các loài thống kê được có đến 3 loài đặc hữu, 23 loài quý hiếm có tên
trong sách đỏ Việt Nam (E (1), V (7), T (9), R (6)), và 12 loài được ghi trong Danh lục
đỏ IUCN.
Hình 3.1. Cá cóc Tam Đảo (Paramesotriton
deloustali)
Nguồn ảnh: VQG Tam Đảo
Hình 3.2. Rùa sa nhân (Pyxidea môuhti)
Nguồn ảnh: Trần Ninh (2006)

22
Khu vực Tam Đảo 2, chỉ chiếm khoảng chưa đến 1% (0,813%) tổng diện tích của
toàn bộ VQG Tam Đảo, 1,7346% diên tích vùng bảo vệ nghêm ngặt
(320/17295=1,7346%) nhưng ở đây chứa đựng được số loài Bò sát chiếm tới 83/124
(66,93%) tổng số loài Bò sát ở VQG, 11/16 họ (68,75%). Số loài quý hiếm và có giá
trị bảo tồn cũng rất cao: 3/3 loài đặc hữu VN, 8/24 loài có tên trong sách đỏ Việt Nam
(E (0/1), V (2/7), T (2/9), R (4/6)); 6/12 loài ghi trong Danh lục đỏ IUCN.
(Nguồn: Lê Vũ Khôi 2006: Khu hệ Bò sát, đánh giá những giá trị bảo tồn tại Khu
vực Tam Đảo 2)

Chim: Chim là nhóm đa dạng nhất trong các động vật có xương sống ỏ VQG,
hiện nay đã phát hiện được 186 loài thuộc 45 họ, 17 bộ (Lê Vũ Khôi, 2006). Các họ
nhiều loài nhất là họ Khướu (Tamaliidae), họ Chích chòe (Turdidae), họ Chim chích
(Sylviidae), họ Chào mào (Pycnonoidae). Nhưng đáng chú ý nhất là họ Gà lôi

(Phasianidae), họ này có đến 5 lòai được ghi nhận tại Tam Đảo, trong đó có những loài
quý và đẹp như Gà lôi trắng (Lophura nychthemera), Gà tiền (Polyplecton
bicalcaratum). Sự hiểu biết về tính đa dạng các loài chim Tam Đảo cũng tăng dần theo
các hoạt động nghiên cứu bảo tồn tại VQG. Căn cứ vào Dự án khả thi xây dựng VQG,
lúc đó mới chỉ ghi nhận được 158 loài thuộc 43 họ, 15 bộ với 7 loài có giá trị bảo tồn,
thì hiện nay đã lên tới 186 loài, 45 họ, 17 bộ và 8 loài có giá trị bảo tồn ở các cấp trạng
thái khác nhau (E (2), V (2), R (1), T (3)). Ở vùng Dự án Tam Đảo 2 đã ghi nhận được
135 loài, 38 giống, 13 bộ đạt 72,58% số loài, 84,44% số họ và 76,47% số bộ so với
toàn bộ VQG Tam Đảo. Số loài quý hiếm có tên trong sách đỏ Việt Nam cũng rất cao
(7/8=87.5%) so với toàn VQG. Cụ thể là E (2/2), V (2/2), R (1/1), T (2/3). Các loài có
giá trị bảo tồn được ghi nhận là:
Gà lôi trắng (Trĩ
bạc, Lophura
nychthemera, E), Gà
tiền (Polyplecton
bicalcaratum, E), Dù dì
phương đông (Ketupa
zeulanensis, T), Cú
hoang cổ (Otus
bakkimoena, V), Niệc
hung (Pyilolaemus
tickelli, T), Ác là (Pica
pica, V), Chim khách
(Kitta formosae, R).
(Nguồn: Lê Vũ
Khôi, 2006: Tính đặc
hữu địa-động vật, đánh
giá những giá trị bảo
tồn tại Khu vực Tam
Đảo 2)


Hình 3.3.: Gà lôi trắng
Lophura nychthemera
Nguồn: GS Võ Quý
Hình 3.4: Voọc đen má trắng
Trachypithecus francoisi
Nguồn: GS Võ Quý

23
Thú: Thú là nhóm động vật được quan tâm nhiều nhất trong công tác bảo tồn ở
nước ta cũng như trên thế giới, đã hình thành nhiều khu bảo tồn loài cho nhóm động
vật này. Đây là nhóm động vật bị tổn thương mạnh nhất do các tác động của con người
vào môi trường. Những nghiên cứu giám sát sự phát triển của nhóm động vật này đã
được đặc biệt chú ý ở VQG Tam Đảo. Kết quả mới nhất của những nghiên cứu theo
hướng này cho biết hiện nay ở VQG Tam Đảo đang sinh sống 77 loài thuộc 24 họ và 8
bộ (Nguyễn Xuân Đăng và cs, 9/2006), theo đó bộ Dơi (Chiroptera) có số loài cao nhất
(25 loài), tiếp đến là các bộ Gặm nhấm (Rodentia) – 18 loài, Khỉ hầu (Primates) – 5
loài, Guốc chẵn (Artiodactyla) – 5 loài, Ăn sâu bọ
(Insectivora) – 2 loài; Nhiều răng (Scandentia) và Tê tê (Pholidota) - mỗi bộ 1
loài. Các số liệu này lại cũng nhiều hơn so với nhiều tác giả trước như Dự án khả thi
(1995, với 58 loài, 21 họ, 7 bộ), Cao Văn Sung (1998 với 67 loài), Trần Ninh (2005
với 70 loài, 25 họ, 8 bộ), Lê Vũ Khôi (2006 với 72 loái, 25 họ, 7 bộ); mặc dù đã đưa ra
khỏi danh sách một số loài bị coi làkhông còn tồn tại ở VQG như Vượn đen tuyền
(Nomascus concolor), Voọc mũi hếch (Rhinopithecus avunculus), Hổ (Panthera
tigris), Báo hoa mai (Panthera pardus),
Báo gấm (Pardofelis nebulosa), Sói đỏ
(Cuon alpinus), Cầy mực (Artictis
binturong) và Rái cá thường (Lutra
lutra) (Nguyến Xuân Đặng, 9/2006).
Đặc biệt lí thú là các tác giả đã thực

hiên các tuyến khảo sát thực địa trên 6
vùng khác nhau của VQG, trong đó có
2 điểm trực tiếp nằm trong vùng Dự án
Tam Đảo 2 là tuyến thượng nguồn suối
Tây Thiên-Ao Dứa-đỉnh Thạch Bàn
(thuộc xã Đạo Trù và Đại Đình) và
thượng nguồn Ngòi Lạnh (Dốc Cáp)
thuộc xã Đạo Trù.
Các loài thú đặc sắc ở VQG Tam Đảo là Voọc đen má trắng (Trachypithecus
francoisi), Báo lửa (Catopuma temminskii), Nai (Cervus unicolor), Cheo cheo
(Tragulus javanicus),…
Tại Khu vực Tam Đảo 2, những thông tin của Lê Vũ Khôi (2006) về thú cho biết:
Hình 3.5. Nai (Cervus unicolor)
Nguồn: GS Võ Quý
- Khu vưc Tam Đảo 2, có 38 loài thuộc 23 họ, 7 bộ, chiếm 46,9% khu hệ thú VQG
Tam Đảo. Trong đó, ở khu vực dự định xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch và dịch vụ
sinh thái Tam Đảo 2 (50ha) chỉ tìm thấy 25 loài thú nhỏ và 1 loài Cu li (Tỉ lệ
26/70=37,1%).
- Trong 38 loài thú được ghi nhận ở Tam Đảo 2, có 13 loài nguy cấp cần ưu tiên bảo
vệ. (Nếu so sánh con số này với 23 loài thú có giá trị bảo tồn của toàn bộ VQG thì
tỉ lệ không nhỏ, 13/23=56,5% (!)).
(Nguồn: Trần Nghi 2006: Xác định cơ sở khoa học để đánh giá tác động môi
trường phục vụ Dự án xây dựng Khu Du lịch sinh thái bền vững Tam Đảo 2).

24

×