Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Nội dung lý luận văn học cơ bản THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.61 KB, 9 trang )

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LÍ LUẬN VĂN HỌC THPT
A. Các phương diện nội dung và hình thức của văn bản văn học.
I. Các khái niệm của nội dung và hình thức trong văn bản văn học
1. Về nội dung: bao gồm các khái niệm đề tài, chủ đề, tư tưởng, cảm hứng nghệ thuật


Đề tài: lĩnh vực đời sống được nhà văn nhận thức, lựa chọn, khát quát, bình giá và thể hiện
trong văn bản



Chủ đề: Vấn đề cơ bản được nêu ra trong văn bản, thể hiện điều quan tâm cũng như chiều sâu
nhận thức của nhà văn đối với cuộc sống



Tư tưởng của nhà văn: Sự lí giải đối với chủ đề đã nêu lên, là nhận thức của tác giả muốn
trao đổi, nhắn gửi, đối thoại với người đọc.



Cảm hứng nghệ thuật: Nội dung tình cảm chủ đạo của văn bản, là những trạng thái tâm hồn,
cảm xúc được thể hiện trong văn bản

2. Về hình thức: Bao gồm các khái niệm ngôn từ, kết cấu và thể loại


Ngôn từ: yếu tố đầu tiên của văn bản văn học. Các chi tiết, sự việc, hình tượng, nhân vật...và
các thành tố khác được tạo nên nhờ lớp ngôn từ




Kết cấu: sự sắp xếp, tổ chức các thành tố của văn bản thành một đơn vị thống nhất, hồn
chỉnh, có ý nghĩa



Thể loại: những quy tắc tổ chức hình thức văn bản thích hợp với nội dung văn bản: hoặc có
chất thơ, chất tiểu thuyết, chất kịch

II- Ý nghĩa quan trọng của nội dung và hình thức văn bản văn học


Văn học có chức năng chủ yếu là nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, giao tiếp....nên người nghệ sĩ
cần phải suy nghĩ, trăn trở về cuộc sống, con người để tác động tích cực, nâng cao nhận thức,
phẩm chất, hồn thiện con người.



Hính thức của văn bản là để khởi gợi tính hiếu kì, tị mị của bạn đọc



Nếu chỉ chú trọng vào nội dung và hình thức văn bản văn học sẽ không trọn vẹn mà cần phải
có sự thống nhất giữa hai yếu tố ấy

B. Văn bản văn học

I- Tiêu chí chủ yêu của văn học



Văn bản văn học là những văn bản đi sâu phản ánh hiện thực khách quan và khám phá thế
giới tình cảm và tư tưởng, thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người



Được xây dựng bằng ngôn từ nghệ thuật, có hình tượng, có tính thẩm mĩ cao




Xây dựng theo một phương thức riêng, mỗi văn bản văn học đều thuộc về một thể loại nhất
định và theo những quy ước, cách thức của thế loại đó

II- Cấu trúc của văn bản văn học
1. Tầng ngôn từ- từ ngữ âm đến ngữ nghĩa: Bước đầu để đi vào chiều sâu của văn bản
2. Tầng hình tượng: được sáng tạo bởi những chi tiết, cốt truyện, nhân vật, hồn cảnh, tâm trạng
3. Tầng hàm nghĩa: Nghĩa ẩn kín, tiềm tàng của văn bản; cần đi qua các lớp đề tài, chủ đề, tư tưởng,
cảm hứng chủ đạo
III- Từ văn bản đến tác phẩm văn học


Văn bản văn học: các sáng tác của nhà văn, một hệ thống kí hiệu tồn tại khách quan vì chưa
thể tác động tới xã hội



Văn bản văn học trở thành tác phẩm văn học thông qua việc đọc và tiếp nhận những giá trị
tiềm ẩn trong văn học; từ đó làm thay đổi suy nghĩ, nhận thức, tình cảm của con người

C. Đặc trưng thơ, truyện:

I. Loại và thể trong văn học được xác định như thế nào?
Trả lời:
Hình thức tổ chức tác phẩm văn học được xác định trong loại (loại hình, chủng loại) và thể (thể tài,
thể loại, kiểu, dạng). Loại là phương thức tồn tại chung; thể chỉ là sự hiện thực hoá của loại.
Phần lớn các ý kiến đều đồng ý rằng các tác phẩm văn học được chia làm ba loại lớn: Trữ tình (lấy
cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng của con người làm đối tượng thể hiện chủ yếu), tự sự (dùng lời kể, lời
miêu tả để xây dưng cốt truyện, khắc hoạ tính cách nhân vật, dựng lên những bức tranh về đời sống)
và kịch (thông qua lời thoại và hành động của các nhân vật mà tái hiện những xung đột xã hội). Mỗi
loại lại có thể gồm các thể riêng:
- Loại trữ tình có các thể: thơ ca, khúc ngâm,...
- Loại tự sự có các thể: truyện, kí, tuỳ bút,...
- Loại kịch có các thể: chính kịch, bi kịch, hài kịch,...
Bên cạnh đó cịn có một thể loại khác cũng thường gặp, đó là nghị luận.
II. Hãy nêu đặc trưng của thơ, các kiểu loại thơ và yêu cầu về đọc thơ.
* Đặc trưng của thơ
Thơ thường có vần, điệu; ngơn ngữ hàm súc, gợi cảm; thể hiện tình cảm, tâm hồn con người.
* Các kiểu loại thơ
- Phân loại thơ theo nội dung biểu hiện có: Thơ trữ tình, thơ tự sự, thơ trào phúng.
- Phân loại thơ theo cách thức tổ chức bài thơ có: Thơ cách luật (viết theo luật đã định trước), thơ tự
do (không theo luật), thơ văn xuôi (câu thơ gần như câu văn xi nhưng vẫn có nhịp điệu).
* Những yêu cầu về đọc thơ
- Cần biết rõ tên tác phẩm, tên tập thơ, tên tác giả, năm xuất bản, tìm hiểu những thơng tin liên quan
đến hoàn cảnh sáng tác bài thơ.
- Đọc kĩ bài thơ, cảm nhận ý thơ qua câu chữ, hình ảnh, nhịp điệu. Ý thơ ở đây là cảm xúc, suy nghĩ,
tâm trạng, những sự việc, sự vật,... Đồng cảm với nhà thơ, dùng liên tưởng, tưởng tượng, phân tích
khả năng biểu hiện của từng từ ngữ, chi tiết, vần điệu,... mới cảm nhận được ý thơ, thấu hiểu hình
tượng thơ, cái tơi trữ tình, nhân vật trữ tình.
- Từ những câu thơ dẹp, lời thơ lạ, ý thơ hay, từ hình tượng thơ, cái tơi trữ tình, nhân vật trữ tình, hãy
lùi xa ra và nhìn lại để lí giải, đánh giá toàn bài thơ cả về nội dung và nghệ thuật. Cần chỉ ra được
những nét độc đáo, sáng tạo trong hình thức biểu hiện; những đóng góp về nội dung tư tưởng.

III. Tóm lược đặc trưng của truyện, các kiểu loại truyện và yêu cầu về đọc truyện.
* Cùng với sự phát triển lịch sử của văn học, truyện cũng có những kiểu loại khác nhau.


- Văn học dân gian có nhiều kiểu truyện: Thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện
ngụ ngơn.
- Văn học trung đại có loại truyện viết bằng chữ Hán và loại truyện viết bằng chữ Nôm (chia theo hình
thức văn tự).
- Trong văn học hiện đại, theo quy mô văn bản và dung lượng hiện thực, người ta phân ra truyện ngắn,
truyện vừa và truyện dài (tiểu thuyết).
+ Truyện ngắn thường ít nhân vật, sự kiện, nó hướng tới một vài mảnh nhỏ của cuộc sống, có thể kể
về cả cuộc đời hoặc một đoạn đời,... Nhưng trong phạm vi hẹp vẫn có thể đặt ra những vấn đề lớn lao,
thể hiện những tư tưởng nhân sinh sâu sắc. (Truyện ngắn là thể tự sự cỡ nhỏ, có cốt truyện, nhân vật,
không gian, thời gian, lời kể. Truyện ngắn được phép hư cấu tưởng tượng, khác với bản tin hay phóng
sự điều tra. Truyện ngắn thường là một "lát cắt" của cuộc đời, một "mảnh nhỏ" của tâm hồn nhân vật).
+ Khơng có sự phân biệt rạch rịi giữa truyện vừa và truyện dài (tiểu thuyết). Tiểu thuyết là một thể
loại tự sự cỡ lớn. Có nhiều loại tiểu thuyết: Tiểu thuyết phiêu lưu, tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết
khoa học viễn tưởng, tiểu thuyết sử thi ghi lại sự tích anh hùng - nhưng nhiều nhất là tiểu thuyết về
những số phận cá nhân trong cuộc đời thường: Một cuộc sống khơng thi vị hố với mọi yếu tố ngổn
ngang bề bộn, từ cao cả đến thấp hèn ti tiện. Nhân vật thường "nếm trải" bao nhiêu dằn vặt khổ đau
của cuộc đời. Với khả năng phán ánh đời sống một cách toàn vẹn, sinh động, đồng thời đi sâu khám
phá số phận cá nhân, sử dụng linh hoạt hư cấu, điển hình hố, tổng hợp thủ pháp của các thể loại văn
học, nghệ thuật khác, mang tính đa dạng về màu sắc thấm mĩ, tiểu thuyết được coi là "hình thái chủ
yếu của nghệ thuật ngơn từ" (Cô-gi-nốp).
* Yêu cầu khi đọc - hiểu truyện:
- Đọc truyện cần biết hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh sáng tác để lấy cơ sở cảm nhận đúng nội dung
truyện.

Xem thêm tại: />III. Kịch
Khái niệm

Kịch tái hiện những xung đột trong cuộc sống qua diễn tiến của cốt truyện kịch, qua lời thoại và hành
động của các nhân vật
Đặc trưng


Đối tượng phản ánh là những mâu thuẫn, xung đột trong đời sống xã hội và con người.



Loại hình tổng hợp của nhiều bộ môn, nhiều người (đạo diễn, diễn viên, hóa trang, ánh sáng,
đạo cụ, tác giả kịch bản,…)



Chỉ có kịch bản (vở kịch) mới thuộc thể loại văn học, đồng đẳng với truyện , kí, thơ.

Các kiểu loại kịch
Các kiểu loại kịch được phân loại dựa trên các tiêu chí:


Dựa vào tính truyền thống hay hiện đại: Kịch dân gian (chèo, tuồng, cải lương,…), kịch cổ
điển (trước TK XX), kịch hiện đại (từ TK XX),…



Dựa vào tính chất:





o

Bi kịch: Kịch phản ánh xung đột giữa những nhân vật cao thượng tốt đẹp với những
thế lực đen tối, độc đáo, sự thảm bại hay cái chết của nhân vật ấy gợi lên nỗi xót xa,
thương cảm. VD: Romeo và Juliet của Shakespear.

o

Hài kịch: Kịch khai thác những tình huống khơi hài, sự đối lập với vẻ ngồi đẹp đẽ
với cái bên trong xấu xa nhằm làm bật lên tiếng cười chế giễu mỉa mai. VD: Lão hà
tiện của Molière.

o

Chính kịch (xung đột trong cuộc sống): Kịch phản ánh mâu thuẫn, xung đột trong
cuộc sống hằng ngày với bi hài, vui buồn lẫn lộn. VD: Hồn Trương Ba da hàng
thịt của Lưu Quang Vũ.

Dựa vào ngôn ngữ diễn đạt: Kịch nói (lời thoại bằng ngơn ngữ đời thường), kịch thơ ( lời
thoại bằng thơ), ca kịch, kịch hát múa, kịch rối, kịch câm,…

Yêu cầu về đọc kịch bản văn học


Đọc kĩ lời giới thiệu, tiểu dẫn.



Tập trung, chú ý vào lời thoại của các nhân vật. (Để có thể xác định được các mối quan hệ và
hiểu rõ hơn về tính cách nhân vật).




Phân tích hành động kịch. (Phát hiện xung đột và phân tích tính chất bi, hài của xung đột đó).



Nêu rõ chủ đề tư tưởng, ý nghĩa xã hội của tác phẩm.

Nghị luận
Khái niệm
Văn nghị luận trình bày trực tiếp tư tưởng, quan điểm , tình cảm về những vấn đề mà xã hội quan tâm
bằng lí lẽ, chứng cứ có sức thuyết phục.
Đặc trưng


Dùng lí lẽ, phán đoán, chứng cứ để bàn về một vấn đề nào đó.



Tác động vào cả lí trí nhận thức và tâm hồn của người đọc giúp họ hiểu được vấn đề đang
được trình bày.

Các kiểu loại văn nghị luận


Dựa vào nội dung (đối tượng và vấn đề nghị luận): Nghị luận xã hội – chính trị (Chính luận),
nghị luận văn học (phê bình, nghiên cứu, bình giảng, phân tích,..).




Dựa vào thời đại: Nghị luận dân gian (tục ngữ), nghị luận trung đại (chiếu, hịch, cáo, thư
dụ…), nghị luận hiện đại (tun ngơn, lời kêu gọi, xã luận, phê bình…).

u cầu về đọc văn nghị luận


Tìm hiểu thơng tin về tác giả cũng như hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.



Hiểu và nắm bắt được luận điểm, luận cứ và lập luận của tác giả.




Đánh giá đúng hệ thống luận điểm.



Tìm hiểu phương pháp làm sáng tỏ luận điểm.



Phân tích nghệ thuật lập luận: cách nêu chứng cứ, sử dụng ngôn ngữ và tác dụng của chúng.



Nêu khái quát giá trị của tác phẩm nghị luận và rút ra những bài học sâu sắc.
E..Phong cách sáng tác của nhà văn


I. Khái niệm phong cách sáng tác:
Phong cách là nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây dựng hình thức nghệ thuật, đem lại cho tác phẩm
một tính chỉnh thể có thể cảm nhận được, một giọng điệu và một sắc thái thống nhất. (Từ điển thuật
ngữ văn học).
Phong cách sáng tác (phong cách nghệ thuật) là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn
định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cải nhìn độc đáo
trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc.
II. Đặc điểm của phong cách nghệ thuật:
1. Phong cách chính là con người nhà văn:
Nhà văn Pháp Buy phơng nói: “Phong cách ấy là con người”. Nó hình thành từ thế giới quan, nhân
sinh quan, chiều sâu và sự phong phú của tâm hồn, của vốn sống, sở thích, cá tính cũng như biệt tài
trong sử dụng cách hình thức, phương tiện nghệ thuật của nhà văn.
Ví du: Nguyễn Tuân là người nhìn đời bằng nhãn quan của cái tôi kiêu bạc, đầy tự hào, tự tin, tự
trọng, cùng với lòng ngưỡng mộ cái Đẹp trong đời. Nguyễn Tuân là người từng trải, đi nhiều, biết
rộng, sống phóng khống, thích tự do, thích thú với những cảm giác mãnh liệt trong cuộc sống…
Những yếu tố ấy trong con người nhà văn bộc lộ ra thành một phong cách nghệ thuật: Độc đáo, tài
hoa và uyên bác. Nét phong cách này khá nhất quán trong cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau cách
mạng tháng Tám.
Khác với Nguyễn Tuân, nhà văn Nam Cao thường viết về những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh. Từ cái sự
tầm thường quen thuộc trong đời sống hàng ngày của “Những truyện không muốn viết”, tác phẩm của
Nam Cao làm nổi bật vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn triết lý sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ
thuật. Tác phẩm của Nam Cao đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý tới hoạt động bên trong của
con người, coi đó là nguyên nhân của những hoạt động bên ngoài – Đây là phong cách rất độc đáo của
Nam Cao. Nhà văn luôn quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá “con
người trong con người”. Giọng điệu riêng, buồn thương, chua chát. Ơng có phong cách nghệ thuật
triết lý trữ tình sắc lạnh.
2. Phong cách sáng tác thể hiện cách nhìn của nhà văn trước cuộc đời
Phong cách nghệ thuật không đơn thuần chỉ là những nét lặp đi lặp lại thành quen thuộc của nhà văn.
Đó phải là sự lặp lại một cách hệ thống, thống nhất cách cảm nhận độc đáo về thế giới và hệ thống bút

pháp nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận ấy.
Cho nên, không phải bất kỳ nhà văn nào cũng có phong cách, tạo được phong cách. Phong cách
thường được tạo nên bởi một cây bút sâu sắc trên nhiều phương diện: thế giới quan, nhân sinh quan,
vốn sống, kinh nghiệm… tài năng về nghệ thuật và có bản lĩnh.


Cái nét riêng (ở cách cảm nhận độc đáo về thế giới và hệ thống bút pháp nghệ thuật phù hợp với cách
cảm nhận) ấy thể hiện nổi bật, có giả trị và khá nhắt quán trong hầu hết các tác phẩm của họ, lặp đi
lặp lại làm cho người đọc nhận ra sự khác biệt với tác phẩm của các nhà văn khác.
Chẳng hạn, giữa Nguyễn Công Hoan và Nam Cao, Xuân Diệu và Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân và
Nguyễn Minh Châu…
3. Nghệ thuật là lĩnh vực của cải độc đáo. Phong cách là nét riêng không trùng lặp.
Sự thật có thể là một, nhưng cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của nhà văn phải có màu sắc khác nhau
và độc đáo. L. Tơnxtơi nói: “Khi ta đọc hoặc quan sát một tác phẩm văn học nghệ thuật của một tác
giả mới, thì câu hỏi chủ yếu nảy ra trong lòng chúng ta bao giờ cũng là như sau: Nào, anh ta là con
người thế nào đây nhỉ? Anh ta có gì khác với tất cả những người mà tơi đã biết, và anh ta có thể nói
cho tơi thêm một điều gì mới mẻ về việc vần phải nhìn cuộc sống của chúng ta như thế nào?”
(L.Tơnxtơi tồn tập).
Ví dụ: Cùng thể hiện khả năng trào phúng, hai nhà văn cùng thời Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng
Phụng vẫn tạo được những phong cách khác nhau:
+ Nguyễn Công Hoan cười nhẹ nhàng, thâm thúy bằng cách dựng lên những tình huống trớ trêu,
nghịch lý (kiểu Kép Tư Bền, Người ngựa, ngựa người…).
+ Vũ Trọng Phụng cười chua chát, sâu cay, quyết liệt, như muốn ném thẳng lời nguyền rủa vào mặt
người ta (kiểu số Đỏ).
+ Nam Cao lại có giọng điệu buồn thương, chua chát, đơi khi lại lạnh lùng tưởng như vơ tình.
4. Phong cách nghệ thuật là sự ổn định, nhất quán
Ví dụ: Nguyễn Tuân, trải qua hai thời kỳ sáng tác, có những chuyển biến về tư tưởng sáng tác khá rõ
nét, nhưng vẫn giữ một phong cách độc đáo, tài hoa, uyên bác. Có khác:
+ Trước cách mạng, ông ưa viết theo cách ngông, nổi loạn chống lại cái tầm thường, phàm tục ở đời.
Cái Đẹp nhiều khi phóng túng.

+ Cịn sau cách mạng: ông ưa viết theo cách tự tin, tự hào, tự trọng về tài năng và bản lĩnh của mình.
Cái Đẹp vẫn được đặt trong tư thế thử thách gai góc nhưng bình dị, chân thực hơn.
5. Phong cách nghệ thuật biếu hiện rất phong phủ, đa dạng, Điều này tùy thuộc vào tài năng, sở
trường của mỗi nhà văn.
Phong cách sáng tác có thể biểu hiện ở việc chọn đề tài. Có nhà văn chỉ thích đề tài nơng thơn; có
người lại ưa và chỉ chọn đề tài thành thị; có người thích những hiện thực mang tính chất nhẹ nhàng,
giản dị, thâm trầm; cũng có người lại thích khai thác những chuyện dữ dội, đau đớn, ám ảnh mãnh liệt
đối với con người…).
Phong cách sáng tác có thể biểu hiện ở việc chọn thể loại. mỗi nhà văn chỉ viết thành công nhất ở một
thể loại, thể loại ấy chính là phong cách của họ.
Phong cách sáng tác có thể biểu hiện ở sự vận dụng ngơn ngữ. Có nhà văn ưa dừng thứ văn nhẹ
nhàng, êm đềm, sâu lắng, nhưng có người lại ln tỉnh táo, sắc lạnh đến tàn nhẫn; có người ưa lối nói
dí dỏm mà thâm thúy, người lại thích lối nói sắc sảo, dữ dội, sâu cay…


Phong cách sáng tác có thể biểu hiện ở giọng điệu. Có nhà văn thường tạo nên một giọng điệu tâm
tình, ngọt ngào, ân nghĩa; trong khi người khác lại thành công với giọng điệu thấm đẫm chất triết
luận…
Phong cách sáng tác có thể biểu hiện ở cách xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm. Kiểu nhân vật
chân dung – Nguyễn Tuân; kiểu nhân vật tâm lý – Nam Cao; kiểu nhân vật cảm giác – Thạch Lam,
kiểu nhân vật đấu tranh – Nguyễn Minh Châu (trong sáng tác sau năm 1975), kiểu nhân vật CON –
NGƯỜI – Nguyễn Huy Thiệp…
6. Phong cách nghệ thuật là nét riêng, đậm tính cá thể, nhưng phải có liên hệ mật thiết với hệ
thắng chung các phong cách của một thời đại văn học.
Ví dụ: Phong cách của các nhà thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên… trước cách mạng tháng
Tám đều nằm trong phong cách lãng mạn của trào lưu Thơ mới lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945.
Đồng thời, phong cách nghệ thuật chỉ có giá trị khi nó thực sự cống hiến cho sự tồn tại và phát triển
phong phủ, đa dạng của văn học dân tộc nói chung.
7. Phong cách sáng tác chịu ảnh hưởng của những phương diện tinh thần khác nhau như tâm lý,
khí chất, cá tính của người sáng tác. Đồng thời, nó cũng mang dấu ấn của dân tộc và thời đại.

Mỗi một thời đại lịch sử và thời đại văn học tương ứng có thể tạo ra những phong cách sáng tác mang
đặc trưng riêng:
+ Chẳng hạn phong cách Hồ Xuân Hương trong thời Trung đại còn nặng nề ý thức hệ phong kiến, văn
học chịu ảnh hưởng sâu sắc của quan điểm phi ngã;
+ Phong cách Nguyễn Tuân trong thời Pháp thuộc, phát triển một khuynh hướng văn học – văn học
lãng mạn, bộc lộ đầy đủ, sâu sắc cái tơi nghệ sĩ tài hoa, phóng khống…
“Mỗi nhà văn chân chính bước lên văn đàn, về thực chất, là sự cất tiếng bằng nghệ thuật
của một giá trị nhân văn nào đó được chưng cất từ những trải nghiệm sâu sắc trong trường
đời”. Bằng những hiểu biết về văn học, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.
“Các nhà văn, nhà thơ nhân đạo lớn thường gửi vào sáng tác một cách nhìn sâu sắc về
con người, cách nhìn này hướng đến đời sống nội tâm và cảm xúc”. Bằng việc phân tích
một vài tác phẩm trung đại và hiện đại đã học, anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên.
H. Giá trị văn học và tiếp nhận văn học





I. Giá trị văn học


Giá trị văn học là sản phẩm kết tinh từ văn học, đáp ứng những nhu cầu khác nhau của cuộc
sống con người, tác động sâu sắc tới con người và cuộc sống. Ba giá trị cơ bản của văn học
gồm: Giá trị nhận thức, giá trị giáo dục và giá trị thẩm mĩ.



1. Giá trị nhận thức




- Cơ sở của giá trị nhận thức:



+ Tác phẩm văn học là kết quả của quá trình nhà văn khám phá, lí giải hiện thực đời sống,
chuyển hóa vào nội dung tác phẩm, đáp ứng nhu cầu nhận thức của người đọc.



+ Mỗi người chỉ sống trong khoảng thời gian nhất định, ở những không gian nhất định với
những quan hệ nhất định. Văn học có khả năng phá vỡ giới hạn tồn tại trong thời gian, không
gian thực tế của mỗi cá nhân, đem lại khả năng sống cuộc sống của nhiều người, nhiều thời,
nhiều nơi.




+ Giá trị nhận thức là khả năng của văn học có thể đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống,
muốn hiểu biết cuộc sống và chính bản thân, từ đó tác động hiệu quả vào cuộc sống.



- Nội dung:



+ Quá trình nhận thức cuộc sống của văn học: Nhận thức nhiều mặt của cuộc sống với những
thời gian, không gian khác nhau (quá khứ, hiện tại, tương lai của vùng đất, các dân tộc, phong
tục, tập quán...).




+ Quá trình tự nhận thức của văn học: Người đọc hiểu được bản chất của con người (mục
đích tồn tại, tư tưởng, khát vọng, sức mạnh...), từ đó hiểu chính bản thân.



2. Giá trị giáo dục



- Cơ sở của giá trị giáo dục:



+ Ngồi nhu cầu hiểu biết, con người cịn có nhu cầu hướng thiện, khao khát cuộc sống tốt
lành, chan hịa tình u thương.



+ Nhà văn ln bộc lộ tư tưởng - tình cảm, nhận xét, đánh giá của mình trong tác phẩm. Điều
đó tác động và có khả năng giáo dục người đọc.



+ Giá trị nhận thức là tiền đề của giá trị giáo dục, giá trị giáo dục làm sâu sắc thêm giá trị
nhận thức.




- Nội dung:



+ Văn học đem đến cho con người những bài học quý giá về lẽ sống.



+ Văn học hình thành giúp con người biết yêu, ghét đúng đắn, làm cho tâm hồn con người trở
nên lành mạnh, trong sáng, cao thượng hơn.



+ Đặc trưng giáo dục của văn học là con đường cảm xúc tới nhận thức, tự giáo dục (khác với
pháp luật, đạo đức...). Văn học cảm hóa con người bằng hình tượng, bằng cái thật, cái đúng,
cái đẹp nên nó giáo dục một cách tự giác, thấm sâu, lâu bền. Văn học góp phần hồn thiện
bản thân con người, hướng con người tới những hành động cụ thể, thiết thực.



3. Giá trị thẩm mĩ



- Cơ sở của giá trị thẩm mĩ:



+ Con người có nhu cầu hưởng thụ, thưởng thức cái đẹp.




+ Thế giới hiện thực đã có sẵn vẻ đẹp nhưng khơng phải ai cũng có thể nhận biết và cảm thụ.
Nhà văn đã đưa cái đẹp vào tác phẩm, giúp người đọc vừa cảm nhận được cái đẹp cuộc đời
vừa cảm nhận được cái đẹp của tác phẩm.



+ Giá trị thẩm mĩ là khả năng văn học có thể đem đến cho con người những rung động trước
cái đẹp (cái đẹp cuộc sống và cái đẹp của chính tác phẩm).



- Nội dung:



+ Văn học đem đến cho con người những vẻ đẹp mn hình, mn vẻ của cuộc đời (thiên
nhiên, đất nước, cuộc đời, lịch sử...).



+ Văn học đi sâu miêu tả vẻ đẹp con người (ngoại hình, nội tâm, tư tưởng, tình cảm, những
hành động, lời nói...).



+ Văn học có thể phát hiện ra vẻ đẹp của những vật rất nhỏ bé, bình thường và cả vẻ đẹp đồ
sộ, kì vĩ.





+ Hình thức đẹp của tác phẩm (kết cấu, ngơn ngữ...) cũng chính là một nội dung quan trọng
của giá trị thẩm mĩ.



II. Tiếp nhận văn học



1. Tiếp nhận đời sống văn học



Tiếp nhận văn học là quá trình người đọc hịa mình vào tác phẩm, rung động, đắm chìm trong
thế giới nghệ thuật được dựng lên bằng ngôn từ, thưởng thức cái hay, cái đẹp. Bằng trí tưởng
tượng, kinh nghiệm sống, vốn văn hóa và tâm hồn, người đọc khám phá ý nghĩa của từng câu
chữ, cảm nhận sức sống của từng hình ảnh, hình tượng, nhân vật... làm cho tác phẩm từ một
văn bản khô khan biến thành một thế giới sống động, đầy sức cuốn hút.



- Tiếp nhận văn học là hoạt động của cảm giác, tâm trí người đọc nhằm biến văn bản thành
thế giới nghệ thuật trong tâm trí mình.




- Phân biệt tiếp nhận và đọc: Tiếp nhận rộng hơn đọc vì tiếp nhận có thể bằng truyền miệng
hoặc bằng kênh thính giác (nghe).



2. Tính chất tiếp nhận văn học



Tiếp nhận văn học là quá trình giao tiếp giữa tác giả và người tiếp nhận, người nói, người
nghe, người viết và người đọc, người bày tỏ và người chia sẻ cảm thơng. Vì vậy, gặp gỡ, đồng
điệu hồn tồn là điều khó. Điều này thể hiện ở hai tính chất cơ bản sau:



+ Tính chất cá thể hóa tính chủ động, tích cực của người tiếp nhận các yếu tố thuộc về cá
nhân có vai trị quan trọng: Năng lực, thị hiếu, sở thích, lứa tuổi, trình độ học vấn, kinh
nghiệm sống...



+ Tính khuynh hướng trong tư tưởng, tình cảm, trong thị hiếu thẩm mĩ làm tăng sức sống cho
tác phẩm.



3. Các cấp độ tiếp nhận văn học




+ Khi cảm thụ chỉ tập trung vào nội dung cụ thể, nội dung trực tiếp của tác phẩm. Đây chính
là cách tiếp nhất đơn giản nhưng khá phổ biến.



+ Khi cảm thụ qua nội dung trực tiếp để thấy được nội dung, tư tưởng của tác phẩm.



+ Khi cảm thụ chú ý đến cả nội dung và hình thức để thấy được cả giá trị tư tưởng và giá trị
nghệ thuật của tác phẩm.



- Để tiếp nhận văn học có hiệu quả thực sự, người tiếp nhận cần:



+ Nâng cao trình độ.



+ Tích lũy kinh nghiệm.



+ Trân trọng tác phẩm, tìm cách tìm hiểu tác phẩm một cách khách quan, trọn vẹn.




- Tiếp nhận một cách chủ động, tích cực, sáng tạo, hướng tới cái hay, cái đẹp, cái đúng, không
nên suy diễn tùy tiện.



×