Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TIỂU LUẬN TCCT NGUYÊN tắc đảm bảo sự LÃNH đạo của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM đối với NHÀ nước và xã hội một số vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.51 KB, 13 trang )

1

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
*

BÀI THU HOẠCH HẾT HỌC PHẦN
Chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính

CHỦ ĐỀ:

NGUYÊN TẮC ĐẢM BẢO SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC VÀ XÃ HỘI
- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN
Họ tên học viên:
Lớp: Trung cấp LLCT-HC
Phần: Những vấn đề cơ bản về hệ thống chính trị, nhà nước và pháp
luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam

............................. năm 2021
PHẦN I. MỞ ĐẦU
Đảng cầm quyền là một trong những vấn đề phức tạp nhất của đời sống chính
trị trên phương diện lý luận và thực tiễn. Trong các nền chính trị thế giới, vấn đề


2

giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước là một hoạt động cơ bản của Đảng cầm
quyền. Các Đảng cầm quyền ở các nước có nền kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội
khác nhau thì phương thức lãnh đạo với nhà nước cũng khác nhau. Tuy nhiên, các


phương thức lãnh đạo với nhà nước của Đảng đều phải tuân theo những nguyên tắc
chung là lãnh đạo, chi phối, sử dụng quyền lực nhà nước, sử dụng sức mạnh của
nhà nước để thực hiện những mục tiêu của đảng và của giai cấp mình một cách có
hiệu quả.
Ở Việt Nam sau khi lãnh đạo cuộc cách mạng tháng Tám thành công, Đảng
Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo chính quyền và xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng nước ta đã giành từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Đảng ln có phương thức lãnh đạo đúng đắn, phù hợp với tình hình cách
mạng và điều kiện đất nước. Với vị thế là Đảng cầm quyền, Đảng ta đã tích lũy và
làm phong phú hơn khơng ít kinh nghiệm về phương thức lãnh đạo đối với nhà
nước. Song, thực tế phương thức lãnh đạo đối với nhà nước vẫn đang đặt ra khơng
ít vấn đề hết sức cơ bản cả trên phương diện lý luận và thực tiễn cần tiếp tục
nghiên cứu, tổng kết, đổi mới và phát triển nhằm không ngừng nâng cao vị trí, vai
trị và năng lực lãnh đạo của Đảng ta ngang tầm công cuộc đổi mới, xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC VÀ XÃ HỘI
1.1. Từ quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
vai trị lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin thì Đảng cộng sản là đội tiền
phong, là tổ chức chiến đấu của những người cách mạng, là lãnh tụ chính trị của
giai cấp vơ sản. Nói về bản chất giai cấp của Đảng, Đảng luôn đứng trên lập trường
giai cấp công nhân để xử lý và giải quyết mọi vấn đề của cách mạng. Mọi đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng dều phải xuất phát từ lợi ích của giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền Đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo hệ
thống chính trị, Đảng là lực lượng duy nhất có đủ bản lĩnh chính trị, năng lực và uy
tín để lãnh đạo xã hội; đủ sức lãnh đạo và tổ chức xã hội mới. Đảng lãnh đạo Nhà



3

nước nhưng không làm thay công việc của Nhà nước, không can thiệp vào công
việc cụ thể của nhà nước. Muốn vậy Đảng phải lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà
nước trong sạch, vững mạnh”
Kế thừa và phát triển tư tưởng của Mác – Ăng ghen, Lê nin, vận dụng sáng
tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập và
lãnh đạo Đảng ta đã rất chú ý đến sự lãnh đạo của Đảng và phương thức lãnh đạo
của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với xã hội mà Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn được thể hiện ở những nội dung chủ yếu là:
Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối thông qua các chỉ thị, nghị quyết; bằng
công tác tổ chức cán bộ và công tác kiểm tra với việc thực hiện nghiêm nguyên tắc
tập trung dân chủ; bằng sự thuyết phục các tổ chức chính trị - xã hội và tồn thể
quần chúng nhân dân thực hiện tốt các mục tiêu của Đảng đã đề ra.
1.2. Xuất phát từ thực tiễn lịch sử lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội từ khi thành lập đến nay
Những công lao to lớn của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đối với nhân dân
và dân tộc Việt Nam, ảnh hưởng và uy tín của Đảng trong lịng dân, trong dân tộc
và trong phong trào cách mạng thế giới là khơng có gì phủ nhận được.Thực tiễn
cho thấy, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các phong trào yêu nước đã
phát triển rất mạnh mẽ nhưng cuối cùng đều thất bại. Sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đáp ứng sự đòi hỏi của lịch sử. Đảng là lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu
chiến đấu của giai cấp cơng nhân và tồn thể dân tộc Việt Nam. Trong suốt q
trình đấu tranh cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, hàng vạn đảng viên cộng sản đã
hy sinh trong ngục tù của thực dân, đế quốc, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn
tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, kiên quyết một lòng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, trong khi các
đảng phái của các giai cấp khác, các lực lượng chính trị khác đều tự tan rã.
1.3. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội

Lý luận và thực tiễn đều không thể phủ nhận bản chất hiến pháp là sự thể hiện
tập trung ý chí của giai cấp thống trị, bản chất giai cấp của Nhà nước. Đối với hiến
pháp của nhiều nước tư bản chủ nghĩa hầu như không có quy định nào nói về đảng
cầm quyền. Đây là hành vi của giai cấp tư sản cố tình che giấu tính đảng, tính giai
cấp của hiến pháp để dễ dàng hơn trong việc nhân danh quyền lực chung (Nhà


4

nước) để duy trì địa vị thống trị của giai cấp tư sản đối với toàn xã hội. Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm dành hẳn một điều trong chương
chế độ chính trị, để nói về vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Riêng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước đã được xác định thành nguyên
tắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam. Tồn văn điều 4 Hiến pháp 2013 quy định: "Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân,
Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; 2.
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những
quyết định của mình; 3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn
khổ của Hiến pháp và pháp luật.”
Tinh thần và lời văn của điều nói trên cho thấy:
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nói cách khác, Nhà nước CHXHCN Việt Nam, cụ thể
là bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam, không thể được lãnh đạo bởi một lực lượng
nào khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc xác định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực
lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước là một nét đặc thù trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước CHXHCN Việt Nam nói riêng và của bộ máy nhà nước các nước Xã hội

Chủ nghĩa nói chung.
Thứ hai, hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên phải trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật (Khoản 3 Điều 4 Hiến pháp năm 2013). Đảng Cộng sản Việt Nam là
một tổ chức rộng lớn với hơn 4 triệu đảng viên. Các tổ chức của Đảng được thành lập
một cách rộng khắp từ trung ương đến địa phương. Ở trung ương có Ban Chấp hành
trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, ủy ban Kiểm tra trung ương, Ban Kinh tế trung
ương, Ban Nội chính trung ương, Ban Tổ chức trung ương, Văn phòng trung ương ...Ở
các cơ quan nhà nước, bộ, ngành ở trung ương và ở địa phương từ cấp tỉnh tới cấp xã,
thậm chí thơn, bản, tổ dân phố đều có các tổ chức đảng tương ứng Nguyên tắc “Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước” quy định rằng tuy Đảng Cộng sản Việt Nam


5

nắm vai trò lãnh đạo duy nhất đối với Nhà nước, có nghĩa là các tổ chức đảng lãnh đạo
các cơ quan nhà nước tương ứng; song hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên phải
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật do Nhà nước đặt ra. Điều này là hoàn toàn đúng
đắn bởi pháp luật là quy tắc xử sự chung thể hiện ý chí chung và có hiệu lực bắt buộc đối
với tất cả các chủ thể trong xã hội. Triệt để tuân thủ pháp luật là tinh thần cốt lõi của
nguyên tắc pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa và các tổ chức của Đảng, đảng viên không phải
là ngoại lệ.
Như vậy, nguyên tắc: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội” xác
lập một mối quan hệ hai chiều của Đảng và Nhà nước: một mặt, Đảng là lực lượng lãnh
đạo duy nhất đối với Nhà nước; mặt khác, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật do Nhà nước đặt ra. Đảng Cộng sản Việt Nam là “đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân
tộc”.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC ĐẢNG LÃNH
ĐẠO NHÀ NƯỚC VÀ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

2.1. Những kết quả đạt được
Những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có
nhiều chủ trương, biện pháp đẩy mạnh đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
theo hướng ngày càng phân định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan,
tổ chức đảng với chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước. Đảng đã tập
trung trí tuệ ban hành các nghị quyết chuyên đề về những vấn đề quan trọng, có ý
nghĩa chiến lược về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách
hành chính, về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phịng, an ninh, mở rộng hoạt động
đối ngoại.
Nhìn chung, việc ban hành chủ trương, nghị quyết của Đảng đã bám sát thực
tiễn, phát huy dân chủ, gắn với xây dựng kế hoạch và chỉ đạo tổ chức thực hiện.
Ban Chấp hành Trung ương ban hành kịp thời các nghị quyết, quy định, kết luận để
triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, nhất là các nhiệm vụ trọng tâm, những
đột phá chiến lược. Bộ Chính trị ban hành các kế hoạch thực hiện nghị quyết, xác
định nhiệm vụ cụ thể cho các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương; chỉ đạo


6

các cơ quan nhà nước bổ sung, sửa đổi và ban hành mới các luật và các văn bản
quy phạm pháp luật có liên quan để thực hiện, sớm đưa các nghị quyết của Đảng
vào cuộc sống.
Sau đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, các cấp
ủy từ Trung ương đến cơ sở đã sớm chỉ đạo kiện toàn chức danh lãnh đạo trong các
tổ chức của hệ thống chính trị, đặc biệt là các cơ quan nhà nước; tiếp tục hoàn
thiện các quy định, quy chế, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ hơn trách
nhiệm của tập thể, cá nhân, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy
vai trò chủ động của các cơ quan nhà nước. Trách nhiệm nêu gương của cán bộ,
đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu cơ quan nhà nước

các cấp được phát huy.
Công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước được đẩy mạnh. Phong cách, lề lối làm việc của nhiều cơ quan
lãnh đạo của Đảng được đổi mới theo hướng bám sát thực tiễn, sâu sát cơ sở. Cải
cách hành chính trong Đảng được quan tâm, việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành đạt kết quả bước đầu có ý nghĩa quan trọng. Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đã sớm thành lập các đoàn kiểm tra việc triển khai thực hiện
các nghị quyết của Trung ương các khóa, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc,
chấn chỉnh những nơi thực hiện chưa tốt, đồng thời phổ biến, nhân rộng những
cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả.
2.2. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân
Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung cịn một số
hạn chế và bất cập. Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ “phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị cịn chậm đổi mới, có mặt cịn lúng túng. Cơ chế
kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu
quả chưa cao. Việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng
thành pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ, kịp thời. Việc ban hành nghị quyết của
một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi; việc lãnh đạo, chỉ
đạo, tổ chức thực hiện một số nghị quyết chưa nghiêm, hiệu quả thấp, chưa đạt yêu
cầu đề ra. Tình trạng bao biện, làm thay hoặc bng lỏng vai trị lãnh đạo của cấp
ủy, tổ chức đảng còn xảy ra ở một số nơi”


7

Cùng với đó, việc phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm
giữa các cơ quan, tổ chức đảng và cơ quan nhà nước cũng như thẩm quyền, trách
nhiệm giữa tập thể lãnh đạo, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức đảng với người
đứng đầu cơ quan nhà nước chưa thật rõ ràng và thống nhất. Một số chủ trương,
nghị quyết quan trọng của Đảng chậm đi vào cuộc sống, hoặc chưa được tổ chức

thực hiện một cách đầy đủ, thiếu triệt để, hiệu quả chưa cao. Chất lượng đội ngũ
cán bộ, đảng viên, công chức trong bộ máy nhà nước có một số mặt chưa đáp ứng
yêu cầu; tinh thần trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu chưa cao, tác phong, lề
lối làm việc thiếu chuyên nghiệp; thậm chí, một số cán bộ, cơng chức suy thối
phẩm chất đạo đức, lối sống, cửa quyền, tham nhũng, hách dịch, vi phạm pháp
luật. Công tác vận động, giáo dục, thuyết phục đảng viên và nhân dân thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có mặt cịn
hạn chế. Cải cách hành chính trong Đảng còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu.
Nguyên nhân của những hạn chế còn tồn tại:
Bước vào thời kỳ phát triển mới với những tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ
của tình hình trong nước, quốc tế diễn biến nhanh và khó lường, nền kinh tế - xã
hội cịn chưa phát triển đồng bộ, dẫn đến sự phân chia giàu- nghèo thể hiện rõ rệt,
kéo theo là các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, an ninh, mơi trường cịn tồn đọng nhiều
hạn chế tạo nên sự bức xúc xã hội từ người dân.
Việc thực hiện các chủ trương, chính sách, nghị quyết, chỉ thị, quy định về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số địa phương chưa được thực hiện đến nơi đến
chốn dẫn đến việc áp dụng kỷ cương, kỷ luật khơng nghiêm, nói khơng đi đơi với
làm, hoặc làm chiếu lệ khơng mang tính chất áp dụng nghiêm quy định
Cán bộ, đảng viên chưa có ý thức trong việc tự tu dưỡng, rèn luyện nên
nhiều khi trong các hoạt động của Đảng luôn quên đi trách nhiệm, bổn phận trước
quy định của Đảng, trước nhân dân. Trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ hoặc trong công tác tiến hành tự phê bình và phê bình cịn bị bng lỏng, các
đảng viên cịn cả nể, để tình cảm xen lẫn vào hoạt động công việc dẫn đến hoạt
động đánh giá chưa được khách quan, đánh giá đúng bản chất kiểm điểm của vấn
đề.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ BÀI HỌC GẮN VỚI CÔNG VIỆC BẢN
THÂN


8


3.1. Giải pháp
Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và
xã hội nói chung, sự lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với địa phương, cơ quan
đơn vị cụ thể nói riêng thì giải pháp căn cơ, cốt lõi mang tính cấp bách và cũng là
chiến lược lâu dài đó chính là đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng. Một số vấn
đề mà học viên quan tâm đề cập trong giải pháp đó là:
Một là: trước hết cần nâng cao nhận thức và thống nhất quan điểm về thể
chế Đảng lãnh đạo Nhà nước ở nước ta hiện nay cho từng cán bộ, đảng viên và
quần chúng nhân dân. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu, bởi vì khơng có sự
thống nhất về quan điểm trong tồn Đảng về định hướng và những nội dung cần
đổi mới thì khơng thể tạo nên sự thống nhất hành động đổi mới được. Do đó, cần
làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức rõ những yêu cầu mới trong sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là một đòi hỏi bức xúc của giai đoạn cách
mạng hiện nay.
Đổi mới nhận thức về xây dựng thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước theo
hướng tơn trọng vị trí, vai trị, chức năng của Nhà nước. Cần có sự chuyển hướng
căn bản giảm dần lãnh đạo bằng chỉ thị, mệnh lệnh trực tiếp, quá cụ thể vào hoạt
động của Nhà nước thông qua những nguyên tắc chung, bằng tuyên truyền, thuyết
phục, bằng công khai, dân chủ, tôn trọng pháp luật.
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước, địa phương là thông qua
các tổ chức đảng, thông qua các đảng viên làm việc trong các cơ quan nhà nước.
Trên cương vị lãnh đạo các cơ quan công quyền, đảng viên nhân danh người được
dân ủy quyền để tác động vào nhà nước, chứ không phải là nhân danh Đảng, nhân
danh nghị quyết của Đảng để thực thi các công việc nhà nước.
Hai là: Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ vững và tăng cường bản
chất giai cấp công nhân của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
chính trị của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Thiếu bản lĩnh
chính trị, xa rời bản chất giai cấp công nhân, Đảng dễ bị sai lầm, chệch hướng, khó
vượt qua thử thách, trở ngại để đi tới thành công. Đảng phải nắm vững và vận dụng

sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu những kinh
nghiệm, tri thức của nhân loại, tham khảo kinh nghiệm các Đảng Cộng sản trên thế
giới để áp dụng vào thực tiễn cách mạng nước ta. Trong từng tổ chức đảng các cấp


9

đến cấp tế bào của đảng là chi bộ phải luôn giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ,
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn
sự đồn kết thống nhất trong Đảng. Mọi hoạt động gây chia rẽ, bè phái, mất đồn
kết, bng lỏng kỷ luật đều dẫn tới nguy cơ làm mất bản chất giai cấp công nhân
của Đảng.
Ba là: Đổi mới, chỉnh đốn Đảng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới.
Đổi mới, chỉnh đốn là việc Đảng quyết tâm từ bỏ những lạc hậu, lỗi thời,
khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, giữ vững và tăng cường mối liên hệ máu
thịt với nhân dân, vững vàng trước mọi thử thách, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới
đến thắng lợi. Đây là bài học lớn nhất, cũng là vấn đề sống cịn, có quan hệ đến sự
ổn định và phát triển lâu dài của đất nước và vận mệnh của bản thân Đảng. Đổi
mới, chỉnh đốn Đảng phải bắt đầu từ việc thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân
chủ và kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng, đảm bảo cho Đảng có tổ chức chặt
chẽ, đồn kết thống nhất và có sức chiến đấu cao. Xa rời nguyên tắc tập trung dân
chủ, đảng sẽ mất quyền lãnh đạo, bị suy yếu nhanh chóng, thậm chí biến chất và
tan rã. Do vậy, phải kịp thời bổ sung, hồn thiện các quy chế, quy trình để đảng
viên được tham gia trực tiếp vào quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng, thực hiện dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Có cơ chế để
cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến của đảng
viên, cán bộ dưới quyền, kể cả những ý kiến trái chiều; trong những trường hợp
cần thiết cần tham khảo ý kiến của các nhà khoa học, các trung tâm, viện nghiên
cứu trước khi đưa ra quyết định. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,
các biểu hiện kèn cựa, tranh giành địa vị, lợi lộc, cục bộ, bản vị.

Bốn là, Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát quyền lực hiệu quả
Chế độ một đảng duy nhất cầm quyền đảm bảo cho Đảng khơng có sự cạnh
tranh quyền lực. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức đối với Đảng ta do nguy cơ sự
tha hóa quyền lực mà biểu hiện cụ thể là sự độc đoán, chuyên quyền, xa rời quần
chúng. Chính vì vậy, để củng cố vị trí và nâng cao vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã
hội, Đảng phải thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực một cách hiệu quả. Giải pháp
căn cơ trước hết là cần quan tâm đến việc tự kiểm soát trong nội bộ Đảng. Phát
huy vai trò, năng lực kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp đối với tổ chức


10

đảng và đảng viên, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những biểu hiện mơ hồ, dao
động, những việc làm không đúng quy định Điều lệ Đảng, các quy chế, quy định
của Đảng. Coi trọng kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy trình liên quan đến các
khâu của cơng tác cán bộ, do đây là việc làm phức tạp, nhạy cảm, dễ sinh ra các
hiện tượng tiêu cực, chạy chức, chạy quyền, không đảm bảo chất lượng đội ngũ
cán bộ, từ đó dẫn đến giảm sút năng lực lãnh đạo , cầm quyền của Đảng.
3.3. Bài học gắn với công việc của bản thân
Bản thân tôi luôn tự hào được đứng trong hàng ngũ của Đảng, nhưng tôi
cũng ý thức sâu sắc được rằng, mặc dù Đảng ta là đảng cầm quyền, tuy nhiên
quyền lực đó thuộc về đơng đảo quần chúng nhân dân, chính vì vậy trong nhận
thức của mỗi người cán bộ, đảng viên phải luôn luôn khắc ghi lời dạy của chủ tịch
Hồ Chí Minh: Khơng phải khắc lên trán hai chữ cộng sản mà được dân tin, dân
quý, nhân dân chỉ yêu quý những người có tài, có đức. Chính vì vậy, để góp phần
giữ vững vai trò của Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội nói chung, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng nói riêng, mỗi đảng viên trước hết
cần gương mẫu về tư tưởng, đạo đức lối sống, kiên định mục tiêu lý tưởng và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta lựa chọn.
Là người Đảng viên, bản thân tơi nghĩ rằng, cần có mục tiêu lý tưởng rõ

ràng và kiên định, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản, vững vàng, không
dao động trước bất kỳ khó khăn, thử thách nào. Hồn thành tốt những nhiệm vụ
được giao. Bao gồm những nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định, nhiệm vụ khác do
tổ chi bộ, cơ quan phân cơng. Trong cơng việc của mình tơi ln suy nghĩ cần phải
hoàn thành nhiệm vụ cả về chất lượng, số lượng được giao, tính hiệu quả và thời
gian hồn thành nhiệm vụ của bản thân. Cùng với đó, bản thân xác định phải
không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực cơng tác,
phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện
tiêu cực khác.
Thực hiện tự phê bình và phê bình là vấn đề sống cịn, liên quan đến sự tồn
vong và phát triển của Đảng. Chính vì vậy, là người đảng viên phải luôn tranh
chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các


11

biểu hiện tiêu cực khác tránh ảnh hưởng đến Đảng và Nhà nước. Đồng thời cịn
góp phần hạn chế những tệ nạn, những tiêu cực trong bộ máy hoạt động của nhà
nước, đảm bảo ln vận hành trơn tru, có hiệu quả. Đã là người đảng viên trong
chi bộ thì thấy đúng ta phải bảo vệ, thấy sai phải đấu tranh, thẳng thắn, trung thực
chính là những vấn đề cốt lõi trong nhân cách đạo đức người cách mạng như chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy bảo.
Cuối cùng, người đảng viên phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng, tôn trọng
và phát huy quyền làm chủ của tập thể; tích cực tham gia cơng tác quần chúng,
cơng tác xã hội nơi làm việc và nơi ở. Đây cũng là nhiệm vụ quan trọng của người
đảng viên, chính vì vậy, ngồi việc thực hiện nhiệm vụ chun mơn của mình, mỗi
người đảng viên cần là một tuyên truyền viên vận động gia đình và nhân dân thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
PHẦN III. KẾT LUẬN

Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội thơng qua phương thức
Đảng lãnh đạo, đó là phương pháp tác động và hình thức thể hiện mà Đảng sử
dụng để lãnh đạo đối với hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và các đồn thể chính
trị - xã hội. Phương thức lãnh đạo của Đảng với nhà nước bảo đảm cho Đảng luôn
giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng với nhà nước, vai trị đó được thể
chế hóa thành luật và được ghi vào Hiến pháp - bộ luật cơ bản, cao nhất của Nhà
nước, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Những thành tựu của cách mạng dân
tộc dân chủ và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là thành tựu to lớn của 35 năm
đổi mới đã chứng thực tính đúng đắn của đường lối cách mạng do Đảng ta vạch ra
và sự phát triển, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
xã hội phù hợp với tiến trình lịch sử của cách mạng Việt Nam. Q trình đổi mới,
phát triển và hồn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là
nhân tố quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng
lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường
dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê


12

bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội
ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế
tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia

Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II.
2. Trần Đình Huỳnh, Phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước, Nxb Hà Nội,
2001
3.Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, “Những vấn đề cơ bản về hệ
thống chính trị, nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa” (Giáo trình Trung cấp lý
luận chính trị - hành chính), Nxb.Lý luận chính trị, 2017.



×