Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Khủng hoảng tài chính tại hoa kỳ năm 2007 – 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.44 KB, 30 trang )

TIỂU LUẬN:
Khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ năm 2007 – 2009

Lớp: KTE203.K60.1
Danh sách thành viên:

1


MỤC LỤC

Lời mở đầu

Khi nhắc đến Hoa Kỳ, người ta khơng chỉ nói đến một đất nước có diện tích đồ sộ
tại bắc châu Mỹ, một đất nước có sự đa dạng về văn hóa phong tục, mà cịn là một đất
nước có nền kinh tế phát triển mạnh mẽ vượt bậc. Nền kinh tế Mỹ đã luôn đứng đầu mọi
mặt trong suốt bao thập kỷ qua. Tuy nhiên, không phải trong suốt khoảng thời gian, Mỹ
luôn suôn sẻ phát triển và duy trì vị trí kinh tế của mình. Mỹ đã trải qua nhiều cơn suy
thoái, nhiều cuộc khủng hoảng có quy mơ khác nhau, song nhờ các chính sách kịp thời và
hiệu quả, Mỹ đã trở lại trạng thái ban đầu và tiếp tục phát triển.
“Đại khủng hoảng 1930” (The Great Depression) có lẽ cuộc khủng hoảng được
nhiều người nhắc đến bởi sự đảo lộn nền kinh tế thế giới hàng trăm năm mà nó mang lại.
Tuy nhiên, nền kinh tế hàng đầu thế giới - Hoa Kỳ có lẽ sẽ khơng thể nào qn được cuộc
khủng hoảng tài chính 2007-2009. Sự dữ dội và quy mơ của nó đã làm sụp đổ khơng chỉ
thị trường tài chính Mỹ mà còn làm chao đảo những nền kinh tế lẫy lừng khác. Từ đó, mà
hàng trăm tập đồn, doanh nghiệp phá sản, hàng nghìn cơ sở sản xuất đình trệ, hàng triệu
người phải thất nghiệp trên toàn thế giới.
Bài luận dưới đây sẽ cho ta biết nguồn gốc của cuộc khủng hoảng, theo dõi diễn
biến của cuộc khủng hoảng tài chính những năm 2007-2009, tác động của nó đến nền
kinh tế Mỹ và các hành động, chính sách can thiệp đã được thực hiện. Từ đó, rút ra những
bài học kinh nghiệm quý báu, đường lối chính sách cho Việt Nam - một nước đang phát


triển, trên đà hội nhập quốc tế.
2


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
I.

Định nghĩa, phân loại

1. Định nghĩa
Khủng hoảng tài chính (Financial Crisis) chính là thị trường tài chính bị sụp đổ. Vì
các ngun nhân cụ thể khiến thị trường tài chính khơng thể ln chuyển vốn hiệu quả
như trước. Qua đó kéo theo nền kinh tế bị suy thoái. Hay hiểu cách khác khủng hoảng tài
chính là khi các tập đồn tài chính mất khi khả năng thanh khoản. Điều này kéo theo sự
sụp đổ dây chuyền trong hệ thống tài chính.
Chúng ta cần phân biệt giữa khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế:
Khủng hoảng tài chính
Nền kinh tế tiền tệ
Liên quan đến cấu trúc tài chính
Mức giá tài sản tài chính (S&P 500, NasDaq…)
Đầu tư tài chính
Bong bóng giá tài sản (chứng khoán, bất động sản)
Thường liên quan đến dòng chu chuyển vốn quốc tế (FDI, FII, vay nợ quốc tế…)
Tác động đến nền kinh tế thực

2. Phân loại
3


Khủng hoảng ngân hàng

Đây là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ồ ạt khỏi ngân hàng.
Vì ngân hàng cho vay phần lớn số tiền gửi vào nên khi khách hàng đồng loạt rút tiền, sẽ
rất khó để các ngân hàng có khả năng hồn trả các khoản nợ. Sự rút tiền ồ ạt có thể dẫn
tới sự phá sản của ngân hàng, khiến nhiều khách hàng mất đi khoản tiền gửi của mình, trừ
khi họ được bồi thường nhờ bảo hiểm tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan rộng sẽ gây ra
khủng hoảng ngân hàng mang tính hệ thống. Cũng có thể hiện tượng trên khơng lan rộng,
nhưng lãi suất tín dụng được tăng lên (để huy động vốn) do lo ngại về sự thiếu hụt trong
ngân sách. Lúc này, chính các ngân hàng sẽ trở thành nhân tố gây ra khủng hoảng kinh tế.
Bong bóng đầu cơ và sự sụp đổ
Các nhà kinh tế cho rằng một tài sản tài chính (chẳng hạn như cổ phiếu) được xem
là bong bóng khi giá của nó vượt quá giá trị hiện tại của những khoản thu nhập trong
tương lai (chẳng hạn như cổ tức hoặc tiền lãi) mà người chủ của nó nhận được cho đến
khi đáo hạn. Nếu các nhà đầu tư tham gia thị trường mua tài sản chỉ với kỳ vọng sẽ bán
nó với giá cao hơn sau này thay vì để hưởng những khoản thu nhập mà nó sẽ tạo ra thì
đây là bằng chứng cho thấy tính chất bong bóng đã hiện diện. Nếu có hiện tượng bong
bóng thì cũng có rủi ro sụp đổ giá tài sản: những người tham gia thị trường sẽ chỉ tiếp tục
mua vào chừng nào họ còn kỳ vọng người khác mua, và khi nhiều người cùng quyết định
bán thì sẽ ngay lập tức làm giá giảm xuống. Tuy nhiên trong thực tế rất khó để biết được
khi nào giá tài sản đã thực sự ngang bằng hay cao hơn giá trị được tạo ra từ các yếu tố căn
bản của nó. Vì vậy cũng khó để nhận biết một cách xác thực các bong bóng tài sản trừ khi
nó quá hiển hiện dưới sự xét đoán của nhiều nhà đầu tư.
Trong cuộc họp Ủy ban kinh tế quốc gia Mỹ về vai trò của Fed ngày 15/10/2002,
Ben Bernanke – khi còn là thành viên Hội đồng Thống đốc - cho rằng việc xác định bong
bóng giá cả khơng phải là điều dễ dàng. Bong bóng giá cả xuất hiện khi giá trị giao dịch
cao hơn giá trị thật nên muốn xem giá có q cao hay khơng thì cần phải biết giá trị thật
của tài sản. Tuy nhiên, giá trị thật của các chứng khoán phái sinh, chẳng hạn như các
chứng khoán được thế chấp bằng bất động sản ở Mỹ, là rất khó xác định. Một số nhà kinh
4



tế khác thì lại cho rằng các bong bóng tài sản không bao giờ hoặc hầu như không bao giờ
xảy ra. Có nhiều ví dụ nổi tiếng về các bong bóng tài sản (hoặc ngụ ý là bong bóng) như
Cơn sốt hoa Tulip ở Hà Lan năm 1637, sự sụp đổ của Phố Wall năm 1929, bong bóng tài
sản ở Nhật Bản những năm 1980, sự sụp đổ của các bong bóng dot-com năm 2000 –
2001, và bong bóng nhà đất ở Mỹ (2007).
Khủng hoảng tài chính thế giới
Khi một quốc gia đang duy trì cơ chế tỷ giá cố định thì đột ngột buộc phải phá giá
tiền tệ do bị tấn công đầu cơ. Hiện tượng này gọi là khủng hoảng tiền tệ (currency crisis)
hay khủng hoảng cán cân thanh tốn (balance of payments crisis). Khi một chính phủ thất
bại trong việc hoàn trả các khoản nợ quốc gia được gọi là sự vỡ nợ quốc gia (sovereign
default). Một vài quốc gia có đồng tiền tham gia vào Cơ chế Tỷ giá châu Âu (European
Exchange Rate Mechanism hay ERM) đã gặp phải khủng hoảng vào năm 1992 – 1993 và
đã bị buộc phải phá giá hoặc rút khỏi cơ chế này. Một cuộc khủng hoảng tiền tệ khác cũng
đã nổ ra ở Đông Á 1997 – 1998. Nhiều nước Châu Mỹ La Tinh cũng đã bị vỡ nợ vào đầu
thập niên 1980. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Nga 1998 cũng là kết quả của sự phá giá
đồng Rup và sự vỡ nợ trái phiếu Chính phủ Nga.
Khủng hoảng tài chính trong các tập đồn Kinh tế
Các tập đồn thường vướng vào khủng hoảng tài chính do 2 lý do chủ yếu: do các
kế hoạch đầu tư không đúng đắn, không thu hồi được vốn đầu tư, dẫn tới việc khơng
thanh tốn được các khoản vay để đầu tư dẫn tới phá sản. Do bị hiệu ứng dây chuyền từ
khủng hoảng chung, khi đó các doanh nghiệp khơng vay được vốn để đầu tư hoặc các dự
án đầu tư khơng thu hồi được vốn do tình trạng khủng hoảng.
3. Dấu hiệu khủng hoảng tài chính
- Các Ngân hàng thương mại khơng hồn trả được các khoản tiền gửi của người
gửi tiền.
- Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng khơng thể
hồn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng.
5



- Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đối cố định.
- Tự do hóa tài chính (Tự do hóa tài chính là q trình giảm thiểu và cuối cùng là
hủy bỏ sự kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm
cho hệ thống này hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường. Nội dung
cơ bản của tự do hóa tài chính bao gồm: Tự do hóa lãi suất, tự do hóa hoạt động cho vay
của các ngân hàng thương mại (NHTM), tự do hóa hoạt động ngoại hối, tự do hóa hoạt
động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính).
- Sự yếu kém trong hệ thống tài chính, nhất là các ngân hàng trong nước.
- Thể chế giám sát kém.
II.

Nguyên nhân và hệ quả

1. Nguyên nhân
1.1 Sự bổ trợ chiến lược và lời tiên tri tự phát sinh trên thị trường tài chính
Người ta thường quan sát và thấy rằng để đầu tư thành cơng địi hỏi mỗi nhà đầu tư
trên thị trường tài chính phải đốn được hành động của các nhà đầu tư khác. George Soros
đã gọi nhu cầu đoán các ý định của người khác là “sự phản xạ” (reflexivity). Tương tự,
John Maynard Keynes đã so sánh các thị trường tài chính như là một trị chơi cuộc thi sắc
đẹp (beauty contest game), ở đó mỗi người tham gia sẽ cố gắng dự đốn mơ hình hình nào
mà những người tham gia khác sẽ cho là đẹp nhất. Trong nhiều trường hợp, các nhà đầu
tư có động cơ để điều phối các lựa chọn của mình. Chẳng hạn, nếu có người nghĩ rằng các
nhà đầu tư khác mua nhiều VND bởi vì họ dự báo VND sẽ tăng giá, và như vậy người này
cũng có động cơ mua VND. Tương tự, một người có tiền gửi ở Ngân hàng Á Châu (như
đã từng xảy ra năm 2003) kỳ vọng rằng những người gửi tiền khác sẽ rút tiền do họ dự
báo ngân hàng sẽ gặp khó khăn, và như vậy người này cũng sẽ có động cơ rút tiền. Các
nhà kinh tế gọi động cơ bắt chước chiến lược của người khác là sự bổ trợ chiến lược
(strategic complementarities). Các nhà kinh tế cũng cho rằng nếu người ta có động cơ đủ
mạnh để làm những điều tương tự mà họ kỳ vọng người khác sẽ làm thì lời tiên tri tự phát
sinh (self-fulfilling prophecies) sẽ xảy ra. Ví dụ, nếu các nhà đầu tư kỳ vọng VND sẽ tăng

6


thì điều này sẽ làm cho VND tăng giá; nếu người gửi tiền cho rằng ngân hàng sẽ phá sản
thì điều này sẽ làm cho ngân hàng phá sản.
Đòn bẩy tài chính
Địn bẩy tài chính có nghĩa là việc vay mượn để tài trợ cho đầu tư. Địn bẩy tài
chính thường cũng bị chỉ trích như là nhân tố đóng góp cho khủng hoảng tài chính. Khi
một nhà đầu tư dùng tiền của mình để đầu tư thì nếu thua lỗ, trong tình huống xấu nhất,
người này chỉ mất tiền của mình mà thơi. Nhưng khi vay nợ để đầu tư thì kết quả có thể
làm cho thu nhập tiềm năng tăng lên nhưng cũng có thể thua lỗ nhiều hơn những gì nhà
đầu tư có. Do đó, địn bẩy tài chính có thể khuếch đại thu nhập nhưng cũng có thể tạo ra
rủi ro phá sản. Nếu sự phá sản xảy ra thì có nghĩa là cơng ty đã thất bại trong việc đáp ứng
các lời hứa trả nợ cho các cơng ty khác, tức có nghĩa là từ rắc rối tài chính của cơng ty
này có thể lan sang thành của cơng ty khác.
1.2 Sự khơng tương thích giữa nợ và tài sản
Một yếu tố khác được cho là có đóng góp đến khủng hoảng tài chính là sự khơng
tương thích giữa nợ và tài sản. Chẳng hạn, các ngân hàng thương mại chào mời các tài
khoản tiền gửi có thể rút tiền ở bất cứ thời điểm nào nhưng lại cho các doanh nghiệp hay
gia đình vay dài hạn. Sự khơng tương thích giữa nợ ngắn hạn và tài sản dài hạn của ngân
hàng được xem là một trong những lý do có sự tháo chạy ngân hàng xảy ra (khi người gửi
tiền hoảng loạn và quyết định rút tiền của mình nhanh hơn là ngân hàng có thể thu hồi nợ
vay). Chẳng hạn, Ngân hàng Bear Stearns đã thất bại năm 2007 – 2008 bởi vì nó khơng
thể tái cấu trúc các khoản nợ ngắn hạn mà nó đã dùng để đầu tư dài hạn vào các chứng
khoán cầm cố. Đứng ở phương diện quốc gia, một vài chính phủ ở các nền kinh tế mới
nổi, vì một lý do nào đó, khơng thể bán trái phiếu có mệnh giá nội tệ, thay vào đó họ bán
trái phiếu có mệnh giá ngoại tệ. Điều này có thể tạo ra sự khơng tương thích giữa mệnh
giá ngoại tệ của nợ với tài sản hay thu nhập có thể kiếm được (doanh thu thuế bằng nội
tệ). Do đó, các chính phủ này sẽ gặp rủi ro vỡ nợ quốc gia nếu tỷ giá có sự dao động
mạnh hoặc khi nguồn dự trữ ngoại tệ yếu.

1.3 Sự lừa dối
7


Sự lừa dối đóng một vai trị quan trọng trong việc làm sụp đổ một số tổ chức tài
chính. Chẳng hạn nhiều công ty thu hút đầu tư với lời hứa hão huyền về các cơ hội đầu tư,
hoặc che đậy kết quả thu nhập thực sự của mình. Sự lừa dối này có nguyên nhân do sự bất
cân xứng thông tin với các hệ quả như vấn đề ủy quyền - tác nghiệp hay rủi ro đạo đức.
Sự lừa dối trong các khoản tài trợ bất động sản thế chấp cũng bị chỉ trích là một khả năng
gây ra khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn năm 2008; các quan chức chính phủ phát biểu
ngày 23 tháng 12, 2008 rằng FBI đang tìm kiếm bằng chứng về các khả năng lừa dối của
các công ty tài trợ bất động sản như Fannie Mae, Freddie Mac, Lehman Brothers, và tập
đoàn bảo hiểm AIG. Tương tự, người ta cho rằng nhiều công ty tài chính đã phá sản trong
cuộc khủng hoảng này do các giám đốc của họ không thể (hoặc không muốn) thực hiện
các nhiệm vụ được giao phó.
1.4 Sự khơng chắc chắn và tâm lý bầy đàn
Nhiều phân tích về khủng hoảng tài chính nhấn mạnh đến vai trị của các sai lầm
trong đầu tư gây ra bởi sự thiếu hiểu biết và sự khơng hồn hảo trong lý lẽ của con người.
Kindleberger và Aliber (2003) đã chỉ ra rằng khủng hoảng thường phát sinh ngay sau các
cuộc cách tân tài chính hay cách mạng kỹ thuật. Các cuộc cách tân này cho phép các nhà
đầu tư tìm thấy những cơ hội đầu tư mới được gọi là “sự chuyển hốn” các kỳ vọng của
nhà đầu tư.
Một số ví dụ như Bong bóng Cơng ty Nam Dương (South Sea Bubble) và Bong
bóng Mississippi năm 1720 là hệ quả của sự sáng tạo ra các cổ phần công ty với những
đặc tính xa lạ với nhiều người lúc bấy giờ; hay sự sụp đổ của thị trường tài chính 1929 là
hệ quả của các phát minh mới về vận tải và điện; sự sụp đổ của các bong bóng dot-com
năm 2001 do “tính hoa mỹ phi lý” về các cơng nghệ internet; cuộc khủng hoảng 2008
cũng có dấu ấn của những chứng khoán phái sinh phức tạp như các hợp đồng hốn đổi rủi
ro tín dụng (credit default swaps hay CDS).
Sự xa lạ với các cách tân tài chính và kỹ thuật có thể giúp giải thích lý do các nhà

đầu tư lại ước tính quá cao giá trị của các tài sản. Chẳng hạn, một số nhà đầu tư lớp đầu
biết được tiềm năng của internet nên đã đầu tư vào các công ty dot-com. Các khoản lợi
8


nhuận bắt đầu được tạo ra do sự tăng giá cổ phiếu dot-com. Những nhà đầu tư lớp thứ hai
nhanh chóng nhảy vào để tìm kiếm lợi nhuận tương tự mặc dù những người này có thơng
tin rất hạn chế về tiềm năng của các công ty dot-com. Tâm lý bầy đàn như vậy ban đầu đã
làm giá cổ phiếu tăng và thực tế họ đã thu được lợi nhuận. Giá cổ phiếu tăng cao vượt ra
ngoài những tiềm năng thực sự mà ngành có thể tạo ra và đến một lúc nào đó thì sự đổ vỡ
là khơng thể tránh khỏi. Khi đó, chỉ cần một số nhỏ nhà đầu tư nhận ra vấn đề và bắt đầu
bán ra thì ngay lập tức gây nên làn sóng bán tháo cổ phiếu và hậu quả là sự sụp đổ của thị
trường.
1.5 Sự lây lan
Người ta cho rằng các trục trặc tài chính có thể lây lan từ tổ chức này sang tổ chức
khác giống như các căn bệnh truyền nhiễm. Chẳng hạn như khi một ngân hàng bị rơi vào
tình trạng tháo chạy thì các ngân hàng khác cũng có nguy cơ bị rơi vào tình trạng tương
tự. Khi sự sụp đổ của một tổ chức tài chính nào đó đe dọa đến sự ổn định của nhiều tổ
chức tài chính khác, người ta gọi đó là rủi ro hệ thống. Sự lây lan cịn mang tính chất quốc
gia, ở đó sự khủng hoảng tài chính từ quốc gia này có thể lan sang các quốc gia khác.
Chẳng hạn như khi có khủng hoảng tiền tệ, sự vỡ nợ quốc gia, hay sự sụp đổ của thị
trường chứng khốn nó ngay lập tức sẽ lan sang các thị trường tài chính ở các quốc gia
khác. Ví dụ như cuộc khủng hoảng tài chính Thái Lan năm 1997 đã nhanh chóng lây lan
đến các quốc gia khác như Indonesia, Hàn Quốc… Tuy nhiên, các nhà kinh tế thường
tranh luận rằng liệu các cuộc khủng hoảng được quan sát từ các quốc gia khác là do sự tác
động lây lan hay là do cùng một yếu tố căn bản tương tự của chính bản thân các quốc gia
này gây ra ngay cả khi khơng có sự liên kết giữa các thị trường tài chính đó.
1.6 Thất bại trong việc điều tiết
Các chính phủ cố gắng loại bỏ hoặc làm giảm nhẹ khủng hoảng tài chính bằng sự
điều tiết đối với khu vực tài chính. Một mục tiêu lớn của sự điều tiết là làm tăng tính minh

bạch: buộc các định chế tài chính phải cơng bố rộng rãi các báo cáo tài chính một cách
thường xun theo các tiêu chuẩn kế tốn. Một mục tiêu khác của sự điều tiết là đảm bảo
các định chế tài chính có đủ tài sản để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính theo hợp đồng,
9


chẳng hạn như yêu cầu dự trữ, yêu cầu về vốn, và các giới hạn khác về vay nợ. Một số
cuộc khủng hoảng tài chính đã nổ ra do thiếu một hệ thống điều tiết hữu hiệu. Chẳng hạn,
theo cựu Giám đốc điều hành của IMF, ông Dominique Strauss-Kahn, cuộc khủng hoảng
2008 nổ ra là do “sự thất bại của hệ thống điều tiết nhằm chống lại những hành vi chấp
nhận rủi ro quá mức trong hệ thống tài chính, đặc biệt là ở Mỹ”. Tờ New York Times thì
cho rằng sự thiếu điều tiết đối với các hợp đồng hốn đổi rủi ro tín dụng (CDS) là một
ngun nhân của khủng hoảng. Tuy nhiên, nhiều khi sự điều tiết q mức cũng có thể bị
chỉ trích là ngun nhân của khủng hoảng tài chính. Chẳng hạn như Hiệp ước Basel II
thường bị chỉ trích bởi yêu cầu các ngân hàng tăng vốn tự có khi rủi ro tăng lên, mà điều
này có thể buộc ngân hàng giảm vay mượn xuống khi khơng thể tăng vốn tự có. Điều này,
ở một phương diện nào đó, có thể làm gia tăng các tiềm năng gây ra sự trói buộc tín dụng
như đã trình bày mà hệ quả của nó có thể là khủng hoảng tài chính.
1 Hệ quả
Một vài cuộc khủng hoảng tài chính có ít tác động lên các yếu tố bên ngồi khu
vực tài chính, chẳng hạn như sự sụp đổ Phố Wall 1987. Nhưng cũng có nhiều cuộc khủng
hoảng được cho là đóng một vai trị quan trọng trong việc làm suy giảm tăng trưởng lên
phần còn lại của nền kinh tế (tức nền kinh tế thực). Có nhiều lý thuyết giải thích lý do vì
sao khủng hoảng tài chính có thể có tác động suy thối lên phần còn lại của nền kinh tế.
Một số lý thuyết tiêu biểu như lý thuyết về các mơ hình khủng hoảng tiền tệ, lý thuyết về
sự ổn định trong bất ổn của Minsky, lý thuyết Kiyotaki-Moore…
III.

Một số lý thuyết về khủng hoảng tài chính


1. Lý thuyết của Chủ nghĩa Marx
Dưới hệ thống tư bản chủ nghĩa, các công ty trả lương quá thấp so với giá trị hàng
hóa mà người lao động làm ra. Những đồng tiền lương này, xét về giá trị là quá thấp so
với tổng giá trị hàng hóa mà bản thân họ đã làm ra trong nền kinh tế. Tính chất mâu thuẫn
nằm ở chỗ, các sản phẩm hàng hóa này có đối tượng tiêu dùng chủ yếu lại là người lao
động. Điều này có nghĩa là thu nhập và của cải trong xã hội ngày càng bị phân phối thiên
lệch, làm tăng bất bình đẳng giữa hai giai cấp chính là tư sản và vơ sản. Trong khi đó, lợi
10


nhuận cao khiến cho các nhà tư bản mở rộng hoạt động và điều này lại làm cho hàng hóa
được sản xuất ra ngày càng dư thừa, đẩy giá hàng hóa phải giảm xuống mà hệ quả cuối
cùng là lợi nhuận có xu hướng giảm. Lý thuyết này đã cho thấy được khía cạnh kinh tế
chính trị của cuộc Đại khủng hoảng 1929 – 1933. Các cuộc khủng hoảng sẽ ln tiếp diễn
và mang tính chu kỳ nếu bản chất của vấn đề phân phối không được giải quyết tận gốc.
Lý thuyết này cũng ngụ ý rằng, chính phủ với vai trị của mình cần phải xây dựng một hệ
thống thuế đánh trên lợi nhuận của nhà tư bản và cùng với nó là cải thiện điều kiện giáo
dục hay y tế nhằm bổ sung phúc lợi cho người lao động.
2. Lý thuyết của Minsky
Hyman Minsky (1919 – 1996), một người theo trường phái Keynes, nổi tiếng với
lý thuyết về sự ổn định bất ổn (stability is unstable). Theo Minsky, có một khoảnh khắc
mà ở đó hệ thống tài chính di chuyển từ trạng thái ổn định sang trạng thái khủng hoảng
(thường được gọi là khoảnh khắc Minsky). Nói cách khác, khoảnh khắc Minsky là khi các
nhà đầu tư mắc nợ buộc phải bán các tài sản tốt nhất của mình để hồn trả nợ vay, dẫn đến
một sự sụt giảm mạnh trên thị trường tài chính.
Ở bất kỳ chu kỳ tín dụng hoặc kinh doanh nào thì khoảnh khắc Minsky là điểm mà
ở đó các nhà đầu tư bắt đầu gặp khó khăn về dịng tiền do vịng xốy nợ nần gây ra do
việc tài trợ các khoản đầu tư mang tính rủi ro cao. Ở điểm này, làn sóng bán tháo diễn ra
do khơng có đối tác nào có thể bán tại mức giá chào bán cao được niêm yết trước đó, dẫn
đến một suy giảm thanh khoản nặng nề và sự sụp đổ bất ngờ theo chiều thẳng đứng của

thị trường tài chính.
Theo Minsky, dễ tổn thương là một đặc tính cơ bản của bất kỳ nền kinh tế tư bản
nào. Tính tổn thương càng cao sẽ càng dễ dẫn đến rủi ro khủng hoảng tài chính hơn.
Minsky chia các phương thức tài trợ tài chính của doanh nghiệp ra làm 3 phần tương ứng
với các mức độ rủi ro khác nhau, đó là tài chính phịng vệ (hedge finance), tài chính đầu
cơ (speculative finance), và tài chính Ponzi (Ponzi finance). Trong đó, tài chính Ponzi làm
cho hệ thống tài chính trở nên dễ tổn thương nhất.

11


- Đối với tài chính phịng vệ, dịng thu nhập được kỳ vọng sẽ đáp ứng được các
nghĩa vụ tài chính trong mọi thời kỳ, bao gồm cả nợ gốc và lãi.
- Đối với tài chính đầu cơ, dịng thu nhập được kỳ vọng chỉ đáp ứng được khả năng
trả lãi vay, trong khi không thể trả được nợ gốc.
- Đối với tài chính Ponzi, thu nhập kỳ vọng thậm chí cịn khơng thể trang trải nổi
lãi vay, do đó công ty phải vay mượn nhiều hơn hoặc bán đi các tài sản chỉ đơn giản là để
trả các khoản nợ. Hy vọng nằm ở chỗ giá các tài sản hoặc thu nhập sẽ tăng lên ở mức đủ
để trả nợ gốc và lãi.
Mức độ dễ tổn thương tài chính di chuyển cùng chiều với các chu kỳ kinh tế. Sau
kỳ suy thối, các cơng ty bị thua lỗ nhiều sẽ chọn cách phòng vệ. Khi kinh tế bắt đầu phục
hồi trở lại và lợi nhuận bắt đầu tăng lên, các cơng ty có khuynh hướng tin rằng chúng có
thể tham gia vào các hoạt động mang tính chất đầu cơ. Trong trường hợp này, các công ty
biết rằng không phải lúc nào lợi nhuận cũng đủ để trang trải các khoản lãi vay. Tuy nhiên,
các công ty tin rằng lợi nhuận sẽ tăng và như vậy các khoản nợ vay sẽ dễ dàng được hồn
trả mà khơng gặp khó khăn gì. Vay mượn nhiều sẽ làm tăng đầu tư và kéo theo nền kinh
tế tăng trưởng. Rồi thì những người cho vay cũng tin rằng họ sẽ dễ dàng thu hồi các
khoản nợ đã cho vay mà khơng có trở ngại nào đáng kể. Do đó, các chủ nợ bắt đầu tăng
cường cho vay đến các doanh nghiệp mà khơng có một sự đảm bảo thành cơng nào. Các
ngân hàng cũng biết rằng các doanh nghiệp này sẽ gặp khó khăn trả nợ. Tuy nhiên, ngân

hàng lại tin rằng các doanh nghiệp sẽ có thể tái tài trợ khi lợi nhuận kỳ vọng của chúng
tăng lên. Đây là hình thức tài chính Ponzi. Ở phương thức này, nền kinh tế đã chứa đựng
quá nhiều rủi ro tín dụng. Đến lúc chỉ còn một câu hỏi lớn đặt ra là thời điểm trước khi
các công ty lớn sụp đổ. Các ngân hàng bắt đầu hiểu được những rủi ro thực sự trong nền
kinh tế và hạn chế hoặc ngừng cho vay với điều khoản dễ dãi. Tái tài trợ trở nên không
thể đối với nhiều doanh nghiệp vỡ nợ. Nếu khơng cịn đủ tiền chảy vào nền kinh tế để
giúp cho quá trình tái tài trợ này tiếp diễn thì một cuộc khủng hoảng kinh tế thực sẽ bắt
đầu. Trong suốt thời kỳ khủng hoảng, các công ty bắt đầu trở về phương án phòng vệ, và
chu kỳ kinh tế khép lại.
12


3. Trị chơi phối hợp
Cách tiếp cận tốn học trong các mơ hình khủng hoảng tài chính cho thấy có sự
tương tác mang tính chiến lược giữa những quyết định của những người tham gia thị
trường. Tính đa cân bằng là một đặc tính quan trọng của các thị trường tài chính. Chẳng
hạn, theo McLeod (2002), có một điểm cân bằng mà ở đó nhiều người tham gia thị trường
sẽ gia tăng đầu tư vào các tài sản vì họ kỳ vọng giá trị của chúng sẽ ngày càng tăng,
nhưng có thể cịn một điểm cân bằng khác mà ở đó những người tham gia thị trường chạy
trốn khỏi các tài sản bởi vì họ kỳ vọng những người khác cũng sẽ chạy trốn như vậy.
Trong khi đó, mơ hình tháo chạy ngân hàng của Diamond và Dybvig mô tả rằng những
người tiết kiệm sẽ rút tiền khỏi ngân hàng bởi vì họ sợ rằng người khác cũng làm như vậy.
Theo mơ hình khủng hoảng tiền tệ của Obstfeld, khi các điều kiện kinh tế không quá tốt
cũng không quá xấu, sẽ có hai khả năng xảy ra: các nhà đầu cơ quyết định có tấn cơng
hay khơng tấn cơng tiền tệ tùy thuộc vào sự kỳ vọng của họ lên hành vi của những nhà
đầu cơ khác. Trong khi đó, bản thân chính phủ quyết định có nên can thiệp để bảo vệ tỷ
giá hay không cũng phụ thuộc vào những nước đi của những nhà đầu cơ.
4. Mô hình bầy đàn (herding model) và mơ hình học hỏi (learning model)
Khi tài sản được mua bởi một vài nhà đầu tư này có thể khuyến khích nhà đầu tư
khác cũng mua theo. Điều này khơng phải bởi vì giá tài sản sẽ tăng khi có nhiều người

mua (gọi là sự bổ trợ chiến lược) mà bởi vì các nhà đầu tư tin rằng giá trị của tài sản thực
sự là cao khi họ quan sát thấy những nhà đầu tư khác mua nó. Trong mơ hình “bầy đàn”,
người ta giả định rằng các nhà đầu tư hoàn toàn duy lý nhưng lại có một phần thơng tin về
nền kinh tế. Khi một vài nhà đầu tư mua một tài sản nào đó, điều này tiết lộ rằng người
này có thơng tin tích cực về tài sản đó. Từ đó nó làm tăng động cơ duy lý của những nhà
đầu tư khác khi cũng quyết định mua tài sản đó. Thậm chí đây là một quyết định hồn
tồn duy lý mà nhiều khi dẫn đến sự sai lầm khi nhận định rằng giá trị tài sản là cao, do
những nhà đầu tư ban đầu cũng có thể nhầm lẫn như vậy.24 Trong mơ hình “kỳ vọng
thích ứng” hay “học hỏi thích ứng”, các nhà đầu tư được giả định sẽ khơng hồn tồn duy
lý mà họ sẽ dựa trên kinh nghiệm gần đây của mình để đưa ra quyết định. Trong những
13


mơ hình này, nếu giá của một tài sản cho trước tăng lên (hay giảm xuống) trong một thời
kỳ nhất định thì các nhà đầu tư bắt đầu tin rằng giá của nó có thể sẽ cịn tiếp tục tăng lên
(hoặc giảm xuống). Điều này sẽ làm tăng khuynh hướng mua vào/bán ra của họ và như
vậy sẽ làm giá tài sản tăng/giảm thêm.

CHƯƠNG 2: DIỄN BIẾN CUỘC KHỦNG KHOẢNG TÀI CHÍNH Ở
MỸ VÀ PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN
I.

Diễn biến của cuộc khủng hoảng ở Hoa Kỳ.
Hệ thống tài chính ngân hàng của Mỹ cuối năm 2007 và 2008 đột nhiên lâm vào

một cuộc khủng hoảng chưa từng có. Hàng trăm tỷ USD đã tiêu tan. Sự lây lan vẫn chưa
chấm dứt, hậu quả vẫn chưa lường hết.

Tình hình phá sản 2007-2008 (Wikipedia)


* Tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund -một loại quỹ có tính đại chúng thấp và

khơng bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns -ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ quỵ ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho
vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ.
14


* Tháng 7 -Tháng 9/2007: Ngân hàng IBK của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên tại

châu Âu chịu ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị trường cho vay dưới
chuẩn ở Mỹ. Trong khi đó, Ngân hàng SachsenLB của Đức phải nhận sự cứu trợ từ
chính phủ.
* Tháng 8 năm 2007, một số tổ chức tín dụng của Mỹ như New Century Financial

Corporation phải làm thủ tục xin phá sản. Một số khác thì rơi vào tình trạng cổ phiếu
của mình mất giá mạnh như Countrywide Financial Corporation. Nhiều người gửi
tiền ở các tổ chức tín dụng này đã lo sợ và đến rút tiền, gây ra hiện tượng đột biến rút
tiền gửi khiến cho các tổ chức đó càng thêm khó khăn. Nguy cơ khan hiếm tín dụng
hình thành. Cuộc khủng hoảng tài chính thực thụ chính thức nổ ra.
* Ngày 14/9/2007: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa vây

để đòi rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh -Ngân hàng cho vay thế chấp Northern
Rock -ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh.
* Ngày 15/10/2007: Citigroup -Tập đồn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ-cơng bố lợi

nhuận Q 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phịng lên tới 6,5
tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11.
* Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn nhân là

Tập đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau

khi tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá
70% tại các giao dịch ở Sydney.
* Tháng 12 năm 2007, cuộc khủng hoảng tiến sang nấc trầm trọng hơn khi những báo

cáo kinh tế cuối năm cho thấy sự điều chỉnh của thị trường bất động sản diễn ra lâu
hơn dự tính và quy mơ của khủng hoảng cũng rộng hơn dự tính. Tình trạng đói tín
dụng trở nên rõ ràng. Hệ thống dự trữ liên bang cố gắng giảm mạnh lãi suất liên ngân
hàng vào tháng 12/2007 và tháng 2 năm 2008 nhưng khơng có hiệu quả như mong đợi.
* Năm 2008 bắt đầu những dấu hiệu ảm đạm. Bong bóng nhà đất xuất hiện tại Mỹ với

trên 1 triệu chủ nhà đất đối mặt với nguy cơ tịch thu tài sản thế nợ. Nhiều ngân hàng
15


vướng phải các khoản nợ dưới chuẩn (subprime loan) phải hứng chịu những khoản
thua lỗ nặng.
* Ngày 11/1/2008:Bank of America -ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn hoá

thị trường - đã bỏ ra 4 tỷ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân hàng
cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó địi q lớn.
* 30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS cơng bố trích lập dự phịng 4 tỷ USD,

nâng tổng số tiền trích lập dự phịng lên 18,4 tỷ USD do những thất thốt quan đến
cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố
* 17/2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock.
* 28/2/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn nhân của

cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ euro.
* Tháng 3/2008, Ngân hàng dự trữ liên bang New York cố cứu Bear Stearns, nhưng


không nổi. Công ty này chấp nhận để JP Morgan Chase mua lại với giá 10 dollar một
cổ phiếu, nghĩa là thấp hơn rất nhiều với giá 130,2 dollar một cổ phiếu lúc đắt giá nhất
trước khi khủng hoảng nổ ra. Việc Ngân hàng dự trữ liên bang New York cứu không
nổi Bear Stearns và buộc lịng để cơng ty này bị bán đi với giá quá rẻ đã khiến cho sự
lo ngại về năng lực can thiệp của chính phủ cứu viện các tổ chức tài chính gặp khó
khăn. Sự sụp đổ của Bear Stearns đã đẩy cuộc khủng hoảng lên nấc thang trầm trọng
hơn.
* 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một khoản thua lỗ

trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phịng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và
các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế chấp bất động sản.
* 1/7/2008 : Bank of America mua lại Countrywide Financials (một trong những tổ chức

bán mortgage backed securities lớn nhất).
* 11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac

Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau
khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày.
16


* 31/7/2008 : Deutsche Bank cơng bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6 tỷ USD,

nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở thành một
trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng tồn cầu.
* Tháng 8/2008 : đến lượt Lehman Brothers, một tổ chức tài chính vào loại lớn nhất và

lâu đời nhất của Mỹ bị phá sản. Tiếp sau Lehman là một số công ty khác.
* 8/9/2008, Freddie Mac and Fannie Mae bị quốc hữu hoá (với tổng tài sản hơn 5 ngàn


tỷ USD).
* 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại chính

mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.
* 14/9/2008 : Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29 USD/ cổ phần

sau khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brother.
* 15/ 9/2008, Lehman đệ đơn phá sản (tài sản lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ: 600 tỷ

USD).

Lehman Brothers phá sản ( Wikipedia)

* 15/9/2008:Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa trở lại

sau vụ khủng bố 2 tòa tháp đôi tại Mỹ vào tháng 9 năm 2001. Lehman Brothers sụp đổ
đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ; Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu
tóm; American International Group (AIG) - tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất
khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố.
17


* 16/9/2008, Fed buộc phải cứu AIG với 85 tỷ USD cứu trợ (Tài sản của nó hơn 1 ngàn

tỷ USD).
* 25/9/2008: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ

đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Với 307 tỷ
USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ.
* 29/9/2008: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính


Mỹ.
* 10/2008: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 780 tỷ USD. Lý do là các

tổ chức này mất khả năng thanh toán. Sự vỡ nợ của một loạt tổ chức trong lĩnh vực tài
chính, địa ốc làm một số lượng lớn nhân viên làm việc thuộc lĩnh vực này bị sa thải. Sự
sụt giảm mạnh giá địa ốc, chứng khoán, làm tài sản của giới trung lưu - trụ cột của sức
tiêu thụ của nền kinh tế Mỹ bị giảm mạnh, dẫn đến sự co thắt về tổng cầu tiêu dùng
hàng hóa cao cấp và lâu bền như xe hơi, cũng như các dịch vụ giải trí. Điều này cũng
làm các công ty xe hơi lớn như GM và một số lớn các nhà thầu phụ của chúng bị phá
sản.
* Nhiều trung tâm giải trí lớn như Las vegas cũng vắng khách.Việc rất nhiều các cơng ty

tài chính và phi tài chính bị phá sản làm tăng số người thất nghiệp, kéo theo sự co hẹp
tổng cầu về tiêu dùng và đầu tư, diễn ra theo đường xoáy ốc đi xuống. Do Mỹ là trung
tâm tài chính, thị trường tiêu thụ, và là con nợ lớn nhất thế giới; khủng hoảng tài chính
và kinh tế của Mỹ đã lan nhanh ra các nền kinh tế khác, dẫn đến khủng hoảng kinh tế
toàn cầu.
IV.

Tác động của cuộc khủng hoảng đối với Mỹ:

- Cuộc khủng hoảng này là nguyên nhân chính làm cho kinh tế Hoa Kỳ rơi vào suy
thoái từ tháng 12 năm 2007. NBER dự đoán đây sẽ là đợt suy thoái nghiêm trọng nhất ở
Hoa Kỳ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Bình quân mỗi tháng từ tháng 1 tới tháng
9 năm 2008, có 84 nghìn lượt người lao động Hoa Kỳ bị mất việc làm, trong vịng 8
tháng có 605.000 người lao động mất việc làm, đẩy tỉ lệ thất nghiệp từ 6,2% lên 9,7%,
18



cao nhất trong 5 năm trở lại đây.
- Hàng loạt tổ chức tài chính trong đó có những tổ chức tài chính khổng lồ và lâu đời
bị phá sản đã đẩy kinh tế Hoa Kỳ vào tình trạng đói tín dụng. Đến lượt nó, tình trạng đói
tín dụng lại ảnh hưởng đến khu vực sản xuất khiến doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất,
sa thải lao động, cắt giảm các hợp đồng nhập đầu vào. Thất nghiệp gia tăng ảnh hưởng
tiêu cực đến thu nhập và qua đó tới tiêu dùng của các hộ gia đình lại làm cho các doanh
nghiệp khó bán được hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc có nguy cơ bị phá
sản, trong đó có cả 3 nhà sản xuất ơ tơ hàng đầu của Hoa Kỳ là General Motors, Ford
Motor và Chrysler LLC. Các nhà lãnh đạo 3 hãng ô tô này đã nỗ lực vận động Quốc hội
Hoa Kỳ cứu trợ, nhưng không thành công. Hôm 12 tháng 12 năm 2008, GM đã phải
tuyên bố tạm thời đóng cửa 20 nhà máy của hãng ở khu vực Bắc Mỹ. Tiêu dùng giảm,
hàng hóa ế thừa đã dẫn tới mức giá chung của nền kinh tế giảm liên tục, đẩy kinh tế Hoa
Kỳ tới nguy cơ có thể bị giảm phát. Các ngân hàng hàng đầu của Mỹ điêu đứng vì khủng
hoảng, hoặc bị sáp nhập, hoặc bị mua lại, tùy thuộc vào Chính Phủ.
- Đồng USD xuống giá khoảng 20% so với đồng euro cũng trong vịng năm qua

Chỉ số bình qn công nghiệp Dow-Jones giảm liên tục từ cuối quý III năm 2007 (Wikipedia)

V.

Nguyên nhân khủng hoảng

1 Nợ dưới chuẩn
19


Thơng thường, muốn vay nợ ngân hàng để trả góp mua nhà thì người đi vay cần có
một số vốn để trả trước một phần trị giá căn nhà và đồng thời phải chứng tỏ là mình có đủ
khả năng tài chính để trả nợ đều đặn trong suốt thời gian đi vay. Khi xét đơn vay nợ, các
ngân hàng Mỹ cịn căn cứ vào “điểm tín dụng” của người đi vay. Điểm tín dụng được

thiết lập cho mỗi cá nhân dựa trên các yếu tố khác nhau mà quan trọng nhất là “tiểu sử tín
dụng”. Một người có tiểu sử trả nợ trễ hạn càng nhiều thì điểm tín dụng của họ càng thấp.
Người có điểm tín dụng cao thì dễ vay hơn và được vay với lãi suất thấp hơn.
Trong những năm 2000, để khuyến khích nhiều người mua nhà, các công ty tài trợ địa
ốc ở Mỹ đã dùng nhiều “thủ thuật tài chính” và tung ra những sản phẩm vay trả góp mới.
Sản phẩm mới cho phép người đi vay trả góp hàng tháng ở mức tối thiểu rất thấp, tiền lãi
còn lại chưa trả sẽ được tính vào khoản vay ban đầu và sau một thời gian nhất định, khoản
nợ sẽ được “tính lại”.
Với giá nhà liên tục gia tăng và lãi suất cho vay thấp cùng với sự cạnh tranh khốc liệt
trên thị trường, nhiều công ty tài trợ địa ốc đã sẵn sàng cho vay khơng cần tiền đặt cọc,
cũng chẳng địi hỏi người đi vay phải chứng tỏ rõ ràng về khả năng trả nợ, và lại không hề
quan tâm đến “điểm tín dụng”.
Cách cho vay quá dễ dàng này biến những người trước đây bị ngân hàng coi là “không
đạt tiêu chuẩn”, những người khơng có lý lịch vay mượn, có lý lịch yếu, khơng đủ khả
năng trả góp hàng tháng hay cả người đã phá sản cũng trở thành chủ của những ngơi nhà
to lớn. Những món nợ cho các khách hàng này được gọi chung là nợ dưới chuẩn.
4. Chứng khốn hóa
Chứng khốn hóa (Securitization) là nghiệp vụ phát hành những cơng cụ tài chính
(financial instruments) mới bằng cách kết hợp các tài sản tài chính khác lại với nhau
("đóng gói" chúng lại rồi chia nhỏ ra), sau đó bán những sản phẩm này cho các nhà đầu
tư.
Chứng khoán hóa và sự ra đời của các sản phẩm của quá trình này như nghĩa vụ nợ thế
chấp (CDO) là một phát minh lớn về cơng cụ tài chính, góp phần quan trọng trong thúc
20


đẩy nền kinh tế phát triển, đặc biệt là trong thời kỳ Hoa Kỳ vừa đi qua sự kiện ngày
11/9/2001. Tuy nhiên, việc tồn tại ít nhất 4 chủ thể kinh tế liên quan đến chứng khốn hóa
(thay vì 2 là người đi vay và tổ chức tín dụng cho vay như giao dịch truyền thống) vì sự
xuất hiện của bảo hiểm cho các sản phẩm chứng khốn hóa, mơ hình này tồn tại những rủi

ro hệ thống. Trong khi đó, mơ hình giám sát tài chính của Hoa Kỳ trước khủng hoảng
không đủ năng lực giám sát các rủi ro này.
Các khoản nợ dưới chuẩn có rủi ro người vay không trả được nợ rất cao nhưng vẫn
được các ngân hàng cho vay là vì họ khơng phải người phải chịu những rủi ro này mà bán
lại cho người khác. Người mua cuối của những sản phẩm chứng khoán hóa này khơng hề
biết mình đang mua những quả bom nổ chậm. Những người mua cuối cịn có thể đảm bảo
cho những sản phẩm này thông qua credit default swap. Credit default swap có thể được
hiểu như bảo hiểm cho việc người vay không trả được nợ. Người mua đặt cược với công
ty bảo hiểm bằng cách mua credit default swap hàng năm trong một thời gian nhất định.
Nếu bên vay không phá sản, người mua chỉ mất tiền mua bảo hiểm mà thu về được lợi
nhuận cao từ sản phẩm chứng khốn hóa, ngược lại, nếu bên vay phá sản, người mua cuối
sẽ được đền bù nhờ bảo hiểm. Số tiền mất có hạn cịn số tiền có khả năng thu được thì vơ
hạn khiến cho các sản phẩm này càng trở nên hấp dẫn hơn. Các công ty bảo hiểm sẵn
sàng bảo trợ cho các sản phẩm chứng khốn hóa này vì khi đó những tổ chức tài chính lớn
tin tưởng thị trường nhà đất tuyệt đối. Tồn bộ nền kinh tế tin thị trường nhà đất không
thể sụp đổ.
Các khoản nợ được các tổ chức đánh giá rủi ro xếp hạng từ cao (AAA) đến thấp (B, C,
D). Những khoản nợ được đánh giá ở mức B được “đóng gói” lại, tạo thành CDO. Những
tổ chức đánh giá rủi ro sau đó được thuyết phục để chấm điểm AAA cho CDO. Lợi dụng
việc đánh giá rủi ro dựa trên điểm tín dụng, những khoản vay của những người có tiểu sử
vay ít (điểm tín dụng khởi đầu cao) được đóng gói cùng những khoản vay B để nâng điểm
tín dụng trung bình của CDO lên mức AAA. Tương tự như vậy, người mua cũng đi vào
ván cược với cơng ty bảo hiểm về tương lai của gói CDO. Các credit default swap cũng
được đóng gói tương tự, tạo thành các Synthetic CDO. Các gói Synthetic CDO được đóng
21


gói và tạo thành các gói Synthetic CDO khác. Như thế, giá trị ban đầu của khoản nợ có
thể được tăng lên gấp nhiều lần. Đây là cách tín dụng được tạo thành trong thời kì bong
bóng phình to.

5. Bong bóng bất động sản
Trong thị trường nhà đất bấy giờ, giá nhà chỉ tăng lên và tăng lên, không ai nghĩ có
ngày giá nhà sẽ đi xuống. Các khoản nợ liên tục được “tính lại”, giá trị các khoản nợ liên
tục tăng lên, khiến cho các sản phẩm chứng khoán hóa liên tục tăng giá trị. Các con nợ
tiếp tục vay tiền ngân hàng để trả nợ cũ hoặc rút 1 khoản vay mua nhà tiếp theo để mua
nhà mới. Khoản vay mới được dùng để trả khoản vay cũ, dùng giá trị gia tăng của nhà 1
để mua nhà 2, liên tục như vậy tạo thành bong bóng.
Khi giá nhà ngừng tăng, các con nợ mắc kẹt trong bong bóng khơng có gì ngồi những
ngơi nhà. Các hợp đồng khơng được tiếp tục tính lại, họ khơng cịn nguồn thu nhập nào
khác, không thể trả các khoản vay. Khi 1 người “xù nợ”, các con nợ khác cũng không cịn
khả năng thanh tốn (do nợ của người này là tài sản của người khác), tạo ra một hiệu ứng
dây chuyền. Các ngân hàng trong thời kì này có những “gói bảo hiểm” để đảm bảo mọi
chuyện vẫn trong tầm kiểm sốt trong trường hợp tệ nhất. Tuy nhiên, “gói bảo hiểm” của
ngân hàng A lại được bảo hộ bởi ngân hàng B, gói bảo hiểm của ngân hàng B được bảo
hộ bởi ngân hàng C, cứ thế rồi quay lại với ngân hàng A. Như vậy, khi bong bóng phát nổ,
1 ngân hàng phá sản kéo theo hàng loại ngân hàng khác thoi thóp.

CHƯƠNG 3: NHỮNG CHÍNH SÁCH MỸ ĐÃ ÁP DỤNG VÀ HÀM Ý
CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
I.

Những chính sách mà Mỹ đã áp dụng và những kết quả của chính sách đó
Mỹ đã cố gắng thực hiện rất nhiều biện pháp và chính sách trong một khoảng thời

gian từ quý 3 năm 2008 đến đầu những năm 2009 nhằm thực hiện đối phó với khủng
hoảng và nỗ lực ngăn chặn nó.
22


- 19/9/2008: Các quan chức Chính phủ Mỹ bắt đầu triển khai kế hoạch 700 tỷ USD

để giúp các ngân hàng thốt khỏi tình trạng nợ xấu.
- 6/10/2008: FED cơng bố kế hoạch mua một lượng lớn các khoản nợ ngắn hạn từ
các công ty nhằm khai thông thị trường đóng băng.
- 14/10/2008: Chính phủ Mỹ dùng 250 tỷ USD trong gói 700 tỷ để mua lại cổ
phiếu của một số ngân hàng quan trọng.
- 9/11/2008: Tập đoàn bảo hiểm khổng lồ AIG có thêm hỗ trợ tài chính của Chính
phủ Mỹ, nâng tổng khoản tiền nhận cứu trợ lên 150 tỷ USD (khoản cứu trợ ban đầu là 85
tỷ USD)
- 12/11/2008: Từ bỏ kế hoạch dùng một phần trong 700 tỷ USD mua lại khoản nợ
xấu của các ngân hàng. Thay vào đó, chính phủ sẽ tập trung mua cổ phiếu của các tổ chức
cho vay đang gặp khó khăn.
- 15/11/2008: Hội nghị thượng đỉnh của nhóm các nền kinh tế giàu nhất thế giới
được tổ chức tại Washington (Mỹ), do tổng thống Bush chủ trì.
- 23/11/2008: Các cơ quan quản lý tài chính chủ chốt của Mỹ, bao gồm Bộ Tài
chính, Cục Dự trữ liên bang (FED) và Hãng bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC) thông
báo các biện pháp lập lại ổn định tại Citigroup Inc.Bộ Tài chính sẽ bỏ ra 20 tỷ từ gói 700
tỷ USD để hỗ trợ thanh khoản cho ngân hàng có mạng lưới dịch vụ rộng nhất thế giới này.
Trước đó, Citi đã nhận được 25 tỷ USD và là một trong những ngân hàng đầu tiên nhận
được hỗ trợ của Chính phủ Mỹ
- 25/11/2008: Gói giải pháp mới với tổng số tiền lên đến 800 tỷ USD được công
bố.
- 13/1/2009: Tổng thống Mỹ đắc cử B. Obama yêu cầu quốc hội nước này giải
ngân tiếp 350 tỷ USD trong Chương trình cứu trợ các tài sản đang gặp khó khăn (TARP)
trị giá 700 tỷ USD giúp nước Mỹ đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính.

23


- 15/1/2009: Thượng viện Mỹ bỏ phiếu chấp thuận cho Chính phủ giải ngân tiếp
350 tỷ USD kích thích kinh tế với tỷ lệ phiếu thuận/ phiếu chống là 52/42. Một nửa cịn

lại của gói kích thích kinh tế 700 tỷ USD đã được chấp thuận để mua lại các tài sản đang
gặp khó khăn tại Mỹ.
- Đầu tháng 2/2009: Bộ trưởng bộ Tài chính Mỹ Timothy Geithner vừa mới tiết lộ
một kế hoạch cứu trợ ngân hàng toàn diện trị giá ít nhất 1,5 nghìn tỷ USD với các mục
tiêu sẽ hâm nóng lại thị trường tín dụng, cùng cố ngân hàng và hỗ trợ tích cự cho những
người sở hữu nhà và các doanh nghiệp nhỏ, và đồng thời với việc triển khai này là áp
dụng các tiêu chuẩn mới và cao hơn về tính minh bách cũng như trách nhiệm giải trình.
VI.

Những bài học kinh nghiệm dành cho Việt Nam
Chính phủ Việt Nam cần có các biện pháp tổng thể:
- Thứ nhất, tiếp tục thực hiện các nhóm giải pháp chống lạm phát, nhất là tiếp tục

chính sách tiền tệ chặt chẽ nhưng linh hoạt, thận trọng theo cơ chế thị trường (không đưa
các giải pháp sốc). Sử dụng hiệu quả các công cụ tiền tệ với việc điều chỉnh linh hoạt theo
diễn biến của thị trường như: tỷ giá, lãi suất, hạn mức tín dụng… Trước mắt hạ lãi suất
xuống một cách phù hợp theo tín hiệu thị trường. Xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương
mại, bảo đảm các khoản nợ này ở mức an tồn. Rà sốt và kiểm sốt chặt chẽ các khoản
vay kinh doanh bất động sản và chứng khoán. Bên cạnh đổi mới và cơ cấu lại hệ thống
ngân hàng, cần đổi mới quản trị nội bộ ngân hàng nhằm lành mạnh hoá hệ thống này
tránh tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới.
- Thứ hai, tăng cường sự giám sát của Chính phủ đối với hệ thống tài chính, ngân
hàng và thị trường chứng khốn. Rà sốt lại và lành mạnh hóa hệ thống tài chính, ngân
hàng. Rà soát lại các ngân hàng cho vay nhiều vào khu vực bất động sản và các dự án có
tính rủi ro cao. Kiểm tra chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là tín
dụng dành cho các lĩnh vực nhiều rủi ro như bất động sản, chứng khoán. Xây dựng hệ
thống cảnh báo sớm với các tiêu chí cụ thể để có phương án, giải pháp dự phòng đối với
biến động xấu từ hệ thống ngân hàng, tài chính.
24



- Thứ ba, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, có chính sách hỗ trợ nơng nghiệp khắc
phục hậu quả bão lụt, hỗ trợ người dân sản xuất lương thực, thực phẩm và người dân
nghèo vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện thuận lợi đến các doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả. Có chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ, giảm tiến độ thu thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng
hàng nhập khẩu trong trường hợp lạm phát cao và suy thoái kinh tế. Tập trung tháo gỡ
khó khăn, tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh trong các tháng cuối
năm.
- Thứ tư, tiếp tục các chính sách về chặt chẽ chi tiêu Chính phủ và đầu tư khu vực
cơng nhằm tránh xảy ra nguy cơ thâm hụt ngân sách. Việc thắt chặt chi tiêu Chính phủ và
chuyển các khoản đầu tư cơng sang cho khu vực tư nhân sẽ góp phần vào việc giảm thuế
cho khu vực doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Các doanh nghiệp sẽ có thêm được
nguồn vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thị trường. Đẩy mạnh đầu tư cho các dự án
cơ sở hạ tầng, hạ tầng kỹ thuật lớn, quan trọng mà trong các thời điểm trước đây chưa có
điều kiện đầu tư thì nay đầu tư để kích thích kinh tế phát triển.
- Thứ năm, cải cách và tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính, về giải
phóng mặt bằng, phê duyệt dự án và về giải ngân để tạo điều kiện các dự án, chương trình
được triển khai nhanh, đặc biệt là đối với các công ty xây dựng. Đối kinh doanh bất động
sản thì bên cạnh đẩy mạnh và khuyến khích đầu tư và xây dựng nhà giá rẻ cho người
nghèo, các đối tượng chính sách, nhà ở cho người lao động ở các khu kinh tế, khu công
nghiệp tập trung, nhà ở cho sinh viên, học sinh, cần hạn chế và đánh thuế cao vào các
trường hợp đầu cơ bất động sản.
- Thứ sáu, đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, để tránh bớt tác động từ việc giảm
nhập khẩu của Mỹ và một số nước chịu nhiều tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính, tín
dụng thế giới và tăng cường các thị trường mới, chuyển hướng tới mở rộng thị trường
trong nước. Áp dụng các biện pháp chính sách để khuyến khích phát triển sản xuất hàng
xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và giảm bớt nhập siêu. Thực hiện chế độ tỷ
giá linh hoạt hỗ trợ xuất khẩu và tăng mức tín dụng ưu đãi cho sản xuất hàng xuất khẩu.
25



×