Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Tài liệu QUAN SÁT THIÊN VĂN 3 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.4 KB, 5 trang )

QUAN SÁT THIÊN VĂN
Tác giả: Bùi Dương Hải
4. CỬU DIỆU
Trên bầu trời, bầu trời hầu hết là những vì sao luôn đứng yên tương đối với nhau – gọi
là Định tinh hay Hằng tinh (sao - viết thường- star), và một số thiên thể chuyển động
trong khoảng trời ấy – gọi là hành tinh (Sao – viết hoa - planet), rõ ràng nhất là mặt
trăng và mặt trời. Trong Hệ mặt trời, cho đến nay các nhà thiên văn
đã phát hiện có 9 hành tinh bao gồm cả trái đất. Tuy nhiên, bằng mắt
thường chỉ có thể thấy 5 hành tinh mà thôi. Người Trung Hoa cũng
đã nghiên cứu riêng những thiên thể chuyển động, và gọi chúng là
Cửu Diệu.
Cửu Diệu bao gồm: Thái Dương tinh, Thái Âm tinh, Kim tinh, Mộc
tinh, Thủy tinh, Hỏa tinh, Thổ tinh, La Hầu tinh, Kế Đô tinh; trong đó 7 thiên thể đầu
tỏa sáng, được gọi là Thất Chính.
I. Thái Dương (Nhật Tinh - Sun)
Mặt trời, vầng Chân hỏa Thái dương ngày ngày soi sáng cũng gọi là Thái Dương
Tinh. Theo quẻ của Dịch thì Thái Dương là một trong Tứ tượng, ứng vào hỏa nhiệt cực
thịnh. Từ Nhật là mặt trời còn có nghĩa là Ngày. Quỹ đạo của Thái Dương trên bầu trời
mà ta nhìn thấy gọi là Hoàng đạo. Lịch dựa trên mặt trời do đó gọi là Dương lịch.
Thái Dương còn được gọi là vầng Kim Ô – con quạ vàng. Theo truyện cổ, xưa ở giữa
Đông Hải có cây Phù Tang
(1)
, trên có bầy 10 con quạ vàng, mỗi ngày 1 con bay từ
phương Đông sang phương Tây, soi sáng thế giới. Ngày kia Đông hải bão tố, cây Phù
tang bị đổ, bầy quạ bay đậu khắp trời gây nên thảm cảnh. Hậu Nghệ là thần tiễn đã bắn
rơi 9 con, chỉ để lại một, chính là vầng Thái Dương ngày nay.
Thái Dương tượng trưng cho sức mạnh, nam giới, luôn tràn đầy, cương mãnh, cho
nóng, sáng, cực thịnh. Trên Thái Dương có cung Quang Minh, Tinh chủ là Thái Dương
Tinh quân Thiên vương Đế quân, một trong những vị thần tối cao trên trời.
II. Thái Âm (Nguyệt Tinh – Moon)
Mặt trăng, tòa Quảng Hàn Thái Âm soi sáng ban đêm là Thái Âm Tinh, cũng là một


trong tứ tượng. Trên Thái Âm có cung Quảng Hàn, Tinh chủ là Thái Âm Tinh quân Thiên
vương, là một người đàn bà (tuy vậy vẫn có trường hợp là đàn ông). Lịch dựa trên mặt
trăng do đó gọi là Âm lịch
Mặt trăng còn gọi là Ngọc Thố - con thỏ ngọc, do những bóng đen trên đó trông giống
con thỏ. Xưa kia, Hậu Nghệ sau khi bắn rơi mặt trời, đã lên làm vua và lấy Hằng Nga.
Sau ông tìm được thuốc trường sinh, nhưng Hằng Nga đã lén uống hết, nên biến thành
Tiên bay lên cung Quảng Hàn. Thái Âm tượng trưng cho nhu thuận, nữ giới, lúc tròn lúc
khuyết, biết tiến thoái.
Ngày trăng non gọi là Sóc, nghĩa là mới, khởi đầu; ngày trăng tròn gọi là Vọng, nghĩa là
nhìn. Hai ngày này là thời điểm quan trọng trong lịch mặt trăng. Đường mô tả quỹ đạo
Mặt trăng trên bầu trời đêm gọi là Bạch đạo.
III. Thủy Tinh (Mercury)
Sao Thuỷ gần Mặt trời nhất, có sắc xanh tối nhưng rất khó nhìn thấy đặc biệt trong điều
kiện thành phố hiện nay. Sao Thuỷ được gọi là Thuỷ Diệu, trông coi bởi Thuỷ Đức tinh
quân và cho rằng Thuỷ hội tụ bởi 5 khí. Trong truyện cổ tích, Thủy đức Tinh quân là
Cung Công, người đã đập đầu vào núi Bất Chu làm sụt vòm trời, khíên Nữ Oa phải đội
đá vá lại. Vì Thủy ứng với phương Bắc nên gọi đầy đủ là Bắc thần Ngũ khí Thủy Diệu.
IV. Kim Tinh (Venus)
Sao Kim là hành tinh sáng nhất bầu trời vào lúc sáng sớm và trước khi
trời tối. Sao Kim mang sắc Trắng được gọi là Thái Bạch. Sắc trắng của
Kim ứng với phương Tây, phương của quẻ Đoài trong Bát quái, nên gọi
là Tây Đoài Thất khí Thái Bạch, còn gọi là Hàm Trì Kim tinh, trông coi
bởi Thái Bạch Kim Tinh là ông già họ Lý. Sao Kim còn được gọi bằng
hai tên khác là Khởi Minh tinh (Sao báo trời sáng) và Trường Canh
tinh (Sao báo đêm dài tới - vì vậy Thái Bạch Kim Tinh còn được gọi là
Lý Trường Canh). Thái Bạch kim tinh được coi là sứ giả của trời, vì luôn
xuất hiện sớm nhất, trước tất cả các tinh tú cũng như trước cả Mặt trời.
V. Hỏa Tinh (Mars)
Sao Hoả mang màu đỏ, là hành tinh mà thiên văn hiện đại quan tâm nhiều nhất. Màu đỏ
là của phương Nam, phương của quẻ Ly là lửa trong Bát quái, và được coi là hội tụ từ

ba khí, nên có tên gọi là Nam Ly Tam khí Vân Hán. Lửa Tam muội thì không gì dập nổi.
Sao Hỏa chuyển động với chu kỳ chỉ gần 2 năm, chênh lệch so với trái đất không nhiều,
gây nên hiện tượng là khi nhìn từ trái đất, nó lúc thì đi sang đông, lúc lại sang tây chứ
không theo một chiều nhất định. Vì sự đổi thay đổi huyễn hoặc không thống nhất và khó
hiểu đó, nên còn được gọi là sao Huỳnh Hoặc.
Tinh chủ của Hỏa Tinh là Nam phương Tam khí Hỏa đức tinh quân chính thần, trong
truyện cổ tích là Chúc Dung, người đã từng đánh bại Cung Công, lại cũng có thuyết gán
La Tuyên.
Trong việc xem tượng trời đoán vận mệnh, Sao Hỏa thường gắn liền với tai ương, vận
hạn, có lẽ do màu đỏ của nó trên màu trời đen. Trong lịch sử Trung Hoa, việc “Sao Hỏa
lâm vào địa phận sao Tâm” để mô tả điềm tai họa, đặc biệt cho vua, bởi sao Tâm tú
cũng có màu đỏ. Sự kiện thời Hán Thành đế (đã viết) tin vào điềm báo Sao Hỏa lâm vào
Tâm tú đã lấy đi mạng sống của một số người.
VI. Mộc Tinh (Jupiter)
Sao Mộc, to nhất hệ Mặt trời, mang màu xanh, ứng với phương Đông, phương Chấn
theo Hậu thiên Bát quái, nên được gọi là Đông Chấn Cửu khí Mộc Đức, vì được cho
rằng Mộc do 9 khí hợp lại mà thành. Sao Mộc được dùng làm chuẩn cho việc tính lịch,
thông qua chu kỳ quay xấp xỉ 12 năm , vì thế còn được gọi là Tuế Tinh hay Sao Thái
Tuế.
Trong tiếng Hán, Nhật có nghĩa là ngày, Nguyệt có nghĩa tháng, còn Tinh có nghĩa là
năm.
VII. Thổ Tinh (Saturn)
Sao Thổ có màu hơi vàng, được gọi là Trung Ương Nhất khí Thổ Tú. Trên thực tế,
Sao Thổ cách trái đất khá xa, nên việc quan sát nó rất khó khăn. Cũng theo quan niệm
ngũ hành, Thổ thuộc về trung ương, mang tính bền vững, nền tảng. Chu kỳ của Sao
Thổ lại rất dài, vì thế nó được coi là chỉ được tạo nên từ 1 khí, không nhiều biến đổi.
Thổ Tinh cũng còn gọi là Thiên Can tinh, với ngụ ý nắm giữ quy luật vận động của bầu
trời.
VIII & IX. La Hầu Tinh & Kế Đô Tinh
Đây là hai thiên thể không có thực. Trước kia, khi thấy mặt trời,

mặt trăng bị che lấp tối đen, người Trung Hoa cho rằng do một

“Sao La Hầu”
đang che lấp
mặt trời - theo
quan niệm cổ.
giống quái vật khổng lồ ăn mất, tạo ra Nhật thực và Nguyệt thực (quái vật gấu ăn mặt
trời, quái vật chó sói ăn trăng – có lẽ do hiện tượng chó sói tru đêm trăng tròn, mà
nguyệt thực chỉ xảy ra vào đêm trăng tròn).
Thế kỷ I, Phật giáo từ Ấn Độ vào Trung Hoa, cùng với Phạn lịch, trong đó hai thiên thể
che lấp mặt trời, mặt trăng được gọi là Rahu và Kethu. Người Trung Hoa phiên âm là
La Hầu và Kế Đô. Hai “Sao” này tối đen, rất lớn và chỉ che lấp mặt trời mặt trăng chứ
không che bất cứ thiên thể nào khác. Dù giả thuyết của Trương Hoành (78 – 139) về trái
đất hình tròn và bóng của trái đất che lấp mặt trăng đã tíến đến chân lý, nhưng đã không
được chấp nhận ngay khi đó.
Các tên tiếng Phạn tương ứng: Sao Thủy - Bhuda ; Sao Kim - Sukra ; Sao Hỏa -
Angaraka ; Sao Mộc - Brhaspati ; Sao Thổ - Sanaiscara (hay Sani).
Các tầng trời
Người Trung Hoa nhận thấy rằng các hành tinh chuyển động giữa các thiên thể khác,
nhưng không “va chạm” gì với nhau, nên cho rằng chúng ở trên các vòng cầu khác
nhau, từ thấp đến cao tức là các tầng trời. Có 9 tầng trời – Cửu trùng thiên:
Tên tầng trời Mô tả Chu kỳ
1. Thái Âm Chứa Mặt trăng 1 tháng
(vì thấp)
2. Thìn Tinh Chứa Thủy Tinh 3 tháng
3. Thái Bạch Chứa Kim Tinh 7 tháng
4. Thái Dương Chứa Mặt trời 1 năm
5. Huỳnh Hoặc Chứa Hỏa Tinh 2 năm
6. Tuế Tinh Chứa Mộc Tinh 12 năm
7. Điền Tinh Chứa Thổ Tinh 30 năm

8. Liệt Túc Chứa các định tinh
không chuyển động
(các vì sao)
x
9. Tông Động Vỏ ngoài cùng của của
Trời, bao bọc tất thẩy
x
Về La Hầu, Kế Đô, một khi đã che được Mặt trăng và Mặt trời, thì phải nằm thấp hơn
nữa. Thế nhưng chúng lại không che bất kỳ một thiên thể nào khác, vì vậy người Trung
Hoa cho đó là thiên thể kì lạ, là khắc tinh của riêng Mặt trời, mặt trăng. Và vì vậy La Hầu
và Kế Đô vẫn có một vị trí nhất định trong hệ thống thiên thể, đặc biệt trong việc xem bói
Tử vi.
(1). Phù là nổi, Tang là cây dâu, Nhật Bản – ở phía đông, hay bị động đất nên cũng gọi là xứ Phù
Tang

×