Đồ Án Chuyên Môn
Trường Cao Đẳng Lương Thực - Thực Phẩm GVHD: Trần Thị Lệ Hằng
MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây ngành nuôi trồng nấm phát triển mạnh mẽ trên cả nước,
tổng các loại nấm ăn và nấm dược liệu trong năm 2006 ước tính đạt khoảng 1,5 triệu
tấn. Nghề nuôi trồng nấm ra đời đã góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập
cho người nông dân và làm giàu cho rất nhiều hộ gia đình. Với nguồn nguyên liệu chủ
yếu là phế thải nông nghiệp và công nghiệp, do đó ngành nuôi trồng nấm đã góp phần
giải quyết nạn ô nhiễm môi trường đang xảy ra trên toàn cầu. Đặc biệt hơn nữa, nấm
không chỉ là nguồn dinh dưỡng an toàn cho con người mà nấm còn được xem như là
một trong những nguồn dược liệu quí mà hiện nay đang được sử dụng để chữa bệnh
ngày càng phổ biến.
Trong đó, linh chi được xem như là một loại tiên dược, có thể chữa được bách bệnh,
giúp con người trường thọ. Các nghiên cứu dược học hiện đại đã chứng minh linh chi
chứa tới 120 chất, bao gồm các hợp chất hữu cơ, các nguyên tố vi lượng và các
vitamin... linh chi có tác dụng đặc biệt đối với các triệu chứng suy giảm miễn dịch, căng
thẳng thần kinh suy sụp tinh thần, giải độc kém, ít ngủ, các triệu chứng của hệ tim
mạch, ăn không ngon, bệnh béo phì, da xấu do nhiều nếp nhăn. Linh chi cũng có tác
dụng trong việc ngăn ngừa bệnh AIDS và làm chậm quá trình phát bệnh ở bệnh nhân đã
mắc phải bệnh này. Họ đã sử dụng các phương pháp bào chế thông thường là ngâm
rượu, cắt lát nấu lấy nước, nghiền bột để uống, cũng có thể bào chế thành viên nang,
viên hoàn thuốc tiêm [1].
Ở Nhật Bản, người ta sử dụng nấm như là nguồn thực phẩm và dược phẩm hàng
đầu, do đó họ có sức khỏe rất tốt và tuổi thọ cao. Không chỉ dùng đơn thuần dạng nấm
tươi mà ở Nhật nấm còn được sản xuất thành nhiều dạng sản phẩm như: nước tương,
bột nấm, nước chao, súp nấm, thực phẩm chức năng bổ, các loại, thuốc, trà...để điều trị
một số bệnh như: viêm phế quản mãn tính, bệnh tim mạch, viêm gan cấp và mãn, viêm
khớp, viêm phổi...
Nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để nghề nuôi trồng nấm phát triển. Với khí hậu
nhiệt đới gió mùa là điều kiện phù hợp cho ngành trồng nấm quanh năm, nguồn nguyên
liệu dồi dào, lực lượng lao động đông. Trong khi đó, trồng nấm thì không cần đất mà
chỉ cần diện tích nhỏ, vốn đầu tư thấp, vòng quay ngắn, hiệu quả cao gấp chục lần so
với cây lúa….
SVTH: Trương Thị Tuyết Mai Khoa: Công Nghệ
Ngành: Công Nghệ Sinh Học Trang: 1
Đồ Án Chuyên Môn
Trường Cao Đẳng Lương Thực - Thực Phẩm GVHD: Trần Thị Lệ Hằng
Xã hội ngày càng phát triển, điều kiện sống và nhu cầu của con người ngày càng
cao, kéo theo đó là các bệnh tật hiểm nghèo cũng xuất hiện ngày càng nhiều. Việc điều
trị bằng các loại thuốc, hóa chất trị liệu hiện nay vẫn còn rất khan hiếm và đắt tiền so
mức thu nhập của người Việt Nam (chưa kể đến các tác dụng phụ). Trong khi đó nấm
Linh chi với giá thành tương đối rẻ và có hiệu quả cao trong việc điều trị và làm thuyên
giảm một số căn bệnh như: ung thư, đái đường, các vấn đề về tim mạch, hô hấp, HIV,…
Chính những lý do như trên mà chúng tôi đã đề xuất đề tài “Nghiên cứu một số chế
phẩm dược liệu có nguồn gốc từ nấm linh chi ở Việt Nam” nhằm góp phần đa dạng hơn
về các chế phẩm thuốc từ nấm, hạn chế phần nào các bệnh tật hiểm nghèo đang ngày
càng tràn lan.
SVTH: Trương Thị Tuyết Mai Khoa: Công Nghệ
Ngành: Công Nghệ Sinh Học Trang: 2
Đồ Án Chuyên Môn
Trường Cao Đẳng Lương Thực - Thực Phẩm GVHD: Trần Thị Lệ Hằng
Chương I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nuôi trồng nấm ăn và dược liệu ở Việt Nam và trên thế giới
1.1.1. Tình hình nuôi trồng nấm ăn và nấm dược liệu trên thế giới
Hiện nay, nghề trồng nấm đã phát triển trở thành một ngành công nghiệp ở nhiều
nước trên thế giới, đặc biệt phải kể đến là Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ,...
Việc nuôi trồng nấm linh chi được ghi nhận từ năm 1621, nhưng đến 300 năm sau
(1936), với thành công của GS Dật Kiến Vũ Hưng (Nhật) thì ngành nuôi trồng nấm mới
được phổ biến. Nếu tính từ 1979 sản lượng nấm linh chi khô ở Nhật đạt 5 tấn/năm thì
đến năm 1995, sản lượng lên đến gần 200 tấn/năm. Như vậy là 16 năm, sản lượng nấm
linh chi của Nhật đã tăng gấp 40 lần [4].
Hàng năm, thế giới sản xuất khoảng 4300 tấn nấm linh chi, trong đó riêng Trung
Quốc trồng khoảng 3000 tấn, còn lại các quốc gia khác như: Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật
Bản, Thái Lan, Hoa Kỳ, Malaysia, Việt Nam, Indonesia, Srilanca. Trong khi Nhật Bản
là nước đưa ra kỹ thuật nuôi trồng nhưng hiện nay đứng sau Trung Quốc. Kỹ thuật nuôi
trồng linh chi ngày càng phát triển và tại Việt Nam nhiều nhà nghiên cứu đã thành lập
một trại nuôi trồng và bào chế linh chi ở Sài Gòn từ năm 1987 [9].
Nhóm nấm quý họ linh chi (Ganodermataceae) sống trên cây, trên gỗ hay rễ cây
mục. Cho tới nay đã có 386 tên loài được ghi nhận trên toàn thế giới, trong đó 221 loài
được các nhà khoa học công nhận, hơn 200 loài còn lại là các loài đồng nghĩa, các loài
được sắp xếp nhầm vào họ linh chi và gần 10 loài chưa xác định loại được.
Trên thế giới, đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan thì từ lâu nấm
linh chi đã được nghiên cứu và sử dụng vào việc phòng và điều trị bệnh. Đến nay công
nghệ nuôi trồng nấm ở các quốc gia này đã phát triển ở quy mô công nghiệp hiện đại và
đem lại nguồn thu khá lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Sản xuất nấm phát triển đã tận
dụng nguyên liệu thừa trong các ngành công nghiệp, nông lâm nghiệp, cùng một lúc
đem lại sản phẩm có giá trị, hiệu quả kinh tế cao, đồng thời góp phần không nhỏ trong
việc bảo vệ môi trường.
Đến nay việc nghiên cứu về nấm linh chi không còn giới hạn trong phạm vi đất nước
Trung Quốc, mà đã mang tính toàn cầu. Hiện nay có khoảng 250 bài báo của các nhà
khoa học trên thế giới đã được công bố liên quan tới dược tính và lâm sàng của linh chi.
Tháng 7 /1994, Hội nghị Nấm học thế giới tại Vancouver, Canada đã nhất trí thành lập
viện nghiên cứu linh chi Quốc Tế, đặt trụ sở tại NewYork (Hoa Kỳ) [8].
SVTH: Trương Thị Tuyết Mai Khoa: Công Nghệ
Ngành: Công Nghệ Sinh Học Trang: 3
Đồ Án Chuyên Môn
Trường Cao Đẳng Lương Thực - Thực Phẩm GVHD: Trần Thị Lệ Hằng
Nhiều công trình nghiên cứu về linh chi đã chứng minh trong linh chi chứa nhiều
hợp chất germanium và polysaccharid có tác dụng thúc đẩy quá trình trao đổi chất; làm
chậm quá trình lão hóa; tăng cường miễn dịch cho cơ thể; nâng cao khả năng đề kháng
bệnh; điều tiết hệ thần kinh trung ương, giúp thăng bằng cơ năng; ổn định huyết áp; bảo
vệ gan; bổ não, tăng trí thông minh, tăng trí nhớ; giảm nhẹ các tác dụng phụ ở bệnh
nhân ung thư khi điều trị bằng hóa dược liệu;...Chính vì thế mà ở châu Á việc sử dụng
linh chi làm thuốc, thực phẩm chức năng, trà thuốc trở nên rất phổ biến và số người sử
dụng linh chi ngày càng một tăng trong những năm gần đây [1].
1.1.2. Tình hình nuôi trồng nấm ăn và nấm dược liệu ở Việt Nam
Từ những năm 70, đặc biệt trong các năm 80 và 90 của thế kỷ XX ở Việt Nam nấm
linh chi đã được quan tâm và nghiên cứu nhiều về thành phần hóa học cũng như tác
dụng dược lý và quy trình sản xuất ra các chế phẩm. Hiện nay, các chế phẩm từ linh chi
đã được con người ưa chuộng và sử dụng ngày càng rộng rãi với nhiều hình thức đa
dạng về chủng loại như: thuốc tiêm, cồn thuốc, cao dán, thuốc xông và cao thuốc dùng
ngoài. Việc nghiên cứu phân lập nhóm hoạt chất làm thuốc còn rất hạn chế, cần được
quan tâm nhiều hơn. Trong công nghiệp điều chế, nhóm polysaccharid rất được chú ý,
ngoài ra các acid amin và các nguyên tố vi lượng cũng được quan tâm [1].
Ở nước ta, nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã khẳng định nấm
linh chi có thể chữa khỏi hoặc hạn chế các bệnh hiểm nghèo như: ung thư, đái đường,
tim mạch, hô hấp… Giá trị dược liệu của nấm linh chi đã được ghi chép trong các thư
tịch cổ, cách nay hơn 4000 năm. Trong “Thần nông bách thảo” đã đề cập đến 365 dược
thảo và linh chi được xếp vào loại thượng dược, ở vị trí số một sau đó mới đến nhân
sâm và phân biệt linh chi thảo theo màu sắc: xích chi (linh chi đỏ), huỳnh chi (linh chi
vàng), hắc chi (linh chi đen), tử chi (linh chi tím), bạch chi (linh chi trắng) và thanh chi
(linh chi xanh) có tác dụng làm thuốc tốt nhất nên gọi Lục Bảo Linh chi [2].
Đại danh y Lý thời trần viết: “Linh chi, dùng lâu người nhẹ nhàng, trẻ lâu, sống lâu
như thần tiên”. Ngành nuôi trồng nấm dược liệu trong những năm gần đây phát triển
mạnh mẽ, tổng sản lượng ước tính đạt khoảng 100.000 tấn/năm. Với công nghệ ngày
càng hiện đại, nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu thành công các nguồn nguyên liệu nuôi
trồng nấm linh chi thay cho mùn cưa cao su trước đây. Kết quả này đã góp phần tránh
lãng phí và hạn chế sự ô nhiễm môi trường bởi nguyên liệu được sử dụng là phế thải
của các nhà máy đường, công nghiệp dệt như: bã mía, bông thải,…[2]. Đặc biệt trong
SVTH: Trương Thị Tuyết Mai Khoa: Công Nghệ
Ngành: Công Nghệ Sinh Học Trang: 4
Đồ Án Chuyên Môn
Trường Cao Đẳng Lương Thực - Thực Phẩm GVHD: Trần Thị Lệ Hằng
một vài năm gần đây con người đã tìm kiếm và phát hiện một lượng khá lớn nấm cổ
linh chi tại một số vùng núi cao ở nước ta. Đây là một kho tàng sản phẩm quí của y
dược Việt Nam, cần được nghiên cứu sâu để ứng dụng đưa vào sản xuất, khai thác và
phát triển nấm linh chi ở nước ta [1].
1.2. Thành phần hoá học của nấm linh chi
Thành phần hóa học của G.lucidum gồm các chất:
Nước : 12-13%
Lignin : 13-14%
Cellulose : 54-56%
Hợp chất nitơ : 1,6-2,1%
Hợp chất phenol : 0,08- 0,1%
Hợp chất steroid : 0,11-0,16%
Chất béo : 2%
Chất khử : 4-5%
Saponin toàn phần : 0,3-1,23%
Acaloide và glucoside tổng số : 1,82-3,06%
Các nguyên tố vô cơ như: Ag, Br, Ca, Fe, K, Na, Mg, Mn, Zn, ...Hai nguyên tố quan
trọng nhất là selenium và germanium [4].
1.2.1. Các polysaccharid [1]
Phần lớn thực vật chứa polysaccharid, nhưng trong thời gian khá dài chưa được quan
tâm, gần đây các nhà khoa học đã biết polysaccharid là nhóm chất có tác dụng đặc biệt,
nhất là các polysaccharid chứa trong nấm. Tác dụng chống ung thư và tăng cường miễn
dịch, kéo dài tuổi thọ của nhóm chất này được nhiều người quan tâm và đã được ứng
dụng trên lâm sàng.
Đã chiết tách bằng nước nóng hồng chi thể quả và phân lập được 18 polysaccharid
trong đó bao gồm 7 polysaccharid liên kết protein, 4β-glucan còn lại là các
polysaccharid khác.
1.2.2. Các 3-terpen
Các chất thuộc nhóm 3-terpen được phát hiện từ năm 1982 từ hồng chi. Cho đến nay
được chia làm 3 loại: C
30
, C
20
và C
24
hoặc 5 loại theo công thức cấu tạo [1].
1.2.3. Các alcaloid
SVTH: Trương Thị Tuyết Mai Khoa: Công Nghệ
Ngành: Công Nghệ Sinh Học Trang: 5
Đồ Án Chuyên Môn
Trường Cao Đẳng Lương Thực - Thực Phẩm GVHD: Trần Thị Lệ Hằng
Phần lớn dược thảo chứa alcaloid là nhóm chất có tác dụng sinh học. Alcaloid linh
chi cũng là nhóm chất có tác dụng điều trị. Cho đến nay đã chiết xuất được hơn 6
alcaloid từ linh chi.
Trong quá trình tách chiết betain còn thu được một số chất khác cũng dạng tinh thể
là γ-butirobetain (CH
3
)
3
N
+
CH
2
CH
2
CH
2
COOHCl
-
.H
2
O và este của γ-butirobetain.
Alcaloid trong tử chi và hồng chi chủ yếu là γ-butirobetain. Hồng chi nuôi trồng
nhân tạo chứa một lượng rất nhỏ γ-butirobetain. Bào tử của tử chi người ta còn tách
chiết được C
9
H
15
O
2
SH
2
O là một dạng muối có điểm chảy 262-263
0
C từ phần tan trong
nước [1].
1.2.4. Các acid amin
Acid amin không những là thành phần cấu tạo nên các protid, không những có tác
dụng dinh dưỡng đối với người, mà còn có tác dụng chữa bệnh. Trong linh chi
thành phần các acid amin rất phong phú. Hồng chi có 17 loại rất cần cho cơ thể người.
Xích chi có hàm lượng acid amin rất cao (14,55%). Thể sợi của linh chi cũng chứa 17
acid amin. Các acid amin có tác dụng rất tốt đối vời người bị xơ gan hoặc viêm gan.
Lượng acid amin có trong thể sợi nấm linh chi là 1,88%.
Địa điểm, phương pháp nuôi trồng hoặc lên men khác nhau có ảnh hưởng lớn đến
chủng loại acid amin và số lượng của chúng. Linh chi trồng nhân tạo chứa acid amin cao
hơn so với loại mọc hoang [1].
1.2.5. Các nguyên tố vi lượng
Gần đây đã phát hiện các nguyên tố vi lượng có quan hệ đến sự phát sinh và phát
triển của nhiều loại bệnh tật, có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển và sức khỏe
con người. Đã phát hiện nhiều loại thảo dược có tác dụng bổ dưỡng chứa nhiều loại
nguyên tố vi lượng có tác dụng kéo dài tuổi thọ. Tác dụng chữa bệnh bổ dưỡng của linh
chi rất có thể có sự góp phần của các nguyên tố vi lượng.
Tuy nhiên ở linh chi mọc hoang hay nuôi trồng cũng đều chứa một nguyên tố vi
lượng độc hại như Pb hoặc Cd [1].
1.2.6. Các nhóm chất có hoạt tính sinh học cao
Các nhóm chất polysaccharid, 3-terpen và các alcaloid được xem là các nhóm chất
có tác dụng. Polysaccharid linh chi có tác dụng tăng cường miễn dịch, nâng cao khả
năng đề kháng của cơ thể, đặc biệt đối với điều kiện, môi trường bên ngoài khắc nghiệt,
tăng khả năng chịu đựng của cơ thể trong trường hợp thiếu dưỡng khí, có tác dụng điều
SVTH: Trương Thị Tuyết Mai Khoa: Công Nghệ
Ngành: Công Nghệ Sinh Học Trang: 6
Đồ Án Chuyên Môn
Trường Cao Đẳng Lương Thực - Thực Phẩm GVHD: Trần Thị Lệ Hằng
tiết cơ năng của cơ quan trong cơ thể. Nhóm này được chia làm 5 nhóm nhỏ, trong đó 3
nhóm đầu do độ lớn nhỏ của phân tử khác nhau như BN
3
B, BN
3
C và GLA là các
polysaccharid peptid có phân tử lượng 1∼2 vạn có tác dụng khá rộng. Các polysaccharid
BN
3
C và GLA có hoạt tính khá đặc biệt [1].
Trong số 3-terpen của linh chi thì các acid ganoderic C và D có khả năng ức chế sự
giải phóng amin.
Trong các alcaloid linh chi thì γ-butirobetain có tác dụng tăng thời gian tuần hoàn và
tăng lưu lượng máu ở tim.
1.3. Giá trị dược liệu của linh chi
Theo giáo sư Hiroshi Hikino thì linh chi là
một trong những vị thuốc bổ quan trọng nhất
trong đông y. Các thầy thuốc đã dùng linh chi
trong các chứng mệt mỏi, suy nhược, tiểu
đường, các chứng bệnh về gan, về nhiều chứng
bệnh thuộc chứng đề kháng của cơ thể.
Theo Lý Thời Trần trong “Bản Thảo Cương
Mục” thì linh chi có tác dụng bổ tâm khí, chữa
các chứng nhói ngực. Hiện nay, linh chi được dùng để giảm áp huyết, kích thước sự làm
việc của gan, tẩy máu, và giúp cơ thể chống lại các chứng lao lực quá độ. Trong một
mức độ nào đó, linh chi có tác dụng giải độc cho cơ thể.
Ngoài ra, linh chi còn được dùng để chữa bệnh mất ngủ, lở dạ dày, tê thấp, xuyễn
sưng cổ họng. Người ta cũng không thấy phản ứng phụ hay tác dụng xấu nào khi dùng
linh chi lâu. Người Trung Quốc hiện nay còn dùng linh chi để cho da mặt mịn, có lẽ là
do các chất hormone trong loại nấm này. Nhiều y gia Nhật Bản đã dùng loại nấm này
trong các loại thuốc trị rụng tóc. Vì tác dụng bổ khí và làm tăng hệ thống miễn dịch của
cơ thể, mà người ta đã dùng linh chi phụ với các loại thuốc trị ung thư. Bác sĩ Fukumi
Morishige, chuyên gia giải phẫu tim đang nghiên cứu công dụng của linh chi trong việc
trị bệnh ung thư tại viện Linus Paulong Institate of Science & Medicine (Hoa Kỳ). Ông
cho biết dùng linh chi chung với vitamin C liều lượng lớn có tác dụng mạnh hơn vì
vitamin C giúp cho việc hấp thụ dược tính của linh chi.
Nhiều trường hợp chữa lành hay thuyên giảm bệnh đã được bác sĩ Morishige trình
bày trên các tập sang y học…những công dụng của linh chi vẫn đang được tiếp tục
SVTH: Trương Thị Tuyết Mai Khoa: Công Nghệ
Ngành: Công Nghệ Sinh Học Trang: 7
Đồ Án Chuyên Môn
Trường Cao Đẳng Lương Thực - Thực Phẩm GVHD: Trần Thị Lệ Hằng
nghiên cứu, dùng đơn lẻ hay dùng chung với các dược thảo khác. Hầu như linh chi có
thể dùng để chữa rất nhiều chứng bệnh khác nhau nên người ta đã đặt cho linh chi cái
tên “ Nấm Trường Sinh ” [1].
Nhiều tác giả trên thế giới cho thấy trong quả thể cũng như khuẩn ty nấm có gần 100
chất. Các nhóm chất và các chất có hoạt tính sinh học là: protein, polysaccharid, 3-
terpen, steroid, alcaloid, nucleotid, acid béo, enzyme kháng sinh và các germanium…Về
mặt hoạt tính dược lý, các hoạt chất thuộc nhóm acid béo có khả năng ức chế giải phóng
histamin. Nhóm nucleotid ức chế kết dính tiểu cầu, thư giãn cơ, giảm đau. Nhóm protein
chống dị ứng phổ rộng, điều hoà miễn dịch. Nhóm alcaloid trợ tim. Nhóm steroid giải
độc gan ức chế sinh tổng hợp cholesterol; nhóm ester với các acid béo không no linoleic
được ghi nhận 1991có hoạt tính chống ung thư trong công trình nghiên cứu của Lin,
C.N. et al [5]; nhóm polysaccharid hạ đường huyết; nhóm 3-terpen hạ huyết áp ức chế
Angiotensine Conversion enzyme (ACE), bảo vệ gan, chống khối u…Ngoài các tác
dụng đã được chứng minh từ lâu đối với các bệnh ung thư phổi, ung thư vú và ung thư
dạ dày.
Gần đây người ta còn thấy linh chi có tác dụng với ung thư tử cung, ung thư khoang
miệng, ung thư dạ dày, ung thư gan…Đặc biệt nếu kết hợp với hoá trị liệu sẽ có kết quả
nhanh hơn [4].
1.4. Tác dụng dược lý của nấm linh chi [1]
1.4.1. Tác dụng của linh chi trên thần kinh
1.4.1.1. Tác dụng trên thần kinh trung ương
Dịch chiết thể sợi nuôi cấy tầng sâu của linh chi đa niên có tác dụng tăng cường ức
chế thần kinh trung ương của các thuốc nhóm barbital, làm giảm hưng phấn trung khu
thần kinh, có tác dụng trấn tĩnh.
Các nhà nghiên cứu viện y học Bắc Kinh đã tiến nghiên cứu trên đối tượng chuột
nhắt và đưa ra kết quả dịch chiết cồn ethanol thể sợi, khi tiêm phúc mạch chuột nhắt
trắng với liều 5g/kg thể trọng thì sau 1-2 ngày xuất hiện tác dụng trấn tĩnh thần kinh,
làm giảm rõ rệt các hoạt động. Tác dụng trấn tĩnh có thể duy trì sau 2 giờ. Linh chi còn
có tác dụng giảm cơn co giật do nicotin gây ra.
1.4.1.2. Tác dụng giảm đau
SVTH: Trương Thị Tuyết Mai Khoa: Công Nghệ
Ngành: Công Nghệ Sinh Học Trang: 8
Đồ Án Chuyên Môn
Trường Cao Đẳng Lương Thực - Thực Phẩm GVHD: Trần Thị Lệ Hằng
Các nhà khoa học Trung Quốc cũng nghiên cứu đối tượng chuột nhắt trên mô hình
tấm nóng đã chứng minh được linh chi có tác dụng ức chế phản ứng xoay mình của
chuột nhắt, có tác dụng làm giảm đau. Hiệu quả điều trị của linh chi trên các bệnh nhân
bị suy nhược thần kinh, mất ngủ, còn được coi là tác dụng bảo vệ hệ thần kinh trung
ương, giảm hưng phấn, giảm kích thích ngoại cảnh, từ đó giúp cho bệnh nhân chìm
trong giấc ngủ, tạo điều kiện cho tế bào não nghỉ ngơi và tăng cường quá trình trao đổi
chất của tế bào thần kinh, giúp cho thần kinh trung ương điều tiết chuẩn xác hệ thần
kinh thực vật và hoạt động nội tạng nâng cao khả năng bảo vệ cơ thể.
1.4.2. Tác dụng chống ung thư
Polysaccharid là hoạt chất chủ yếu có tác dụng tăng cường miễn dịch và kháng u.
Phân tử lượng của hợp chất này lớn hơn 10
4
. Tác dụng kháng u phụ thuộc vào cấu tạo
của các polysaccharid, chủ yếu phụ thuộc vào sự sắp xếp của các chuỗi phân tử và số
lượng nhóm OH trên các chuỗi, thường là các chất co khả năng tan trong nước nóng, có
các chuỗi phân tử chính D-glycopyranosy (14)-α- và-β-và (16)-β- và chuỗi (13)-
β-arabinosa.
Các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã nghiên cứu tương đối kỹ tác dụng kháng u của
polysaccharid linh chi tan trong nước có chứa α-fructose, β-fructose. Họ chứng minh
hợp chất FA có phân tử lượng khoảng 150.000 có tác dụng tốt nhưng các hợp chất FG
và MGF lại không có tác dụng. Viện y học Nhật Bản cũng chứng minh được khi uống
một mình linh chi thì tác dụng không rõ rệt nhưng khi kết hợp các phương pháp điều trị
ung thư khác, tác dụng của linh chi rất hữu hiệu do tăng khả năng miễn dịch và ức chế
khả năng sinh sản tế bào ung thư. Các nhà khoa học ở Phúc Kiến (Trung Quốc) còn
nhận thấy, khi kết hợp với đông trùng hạ thảo thì tác dụng ức chế rõ rệt. Khi quan sát
dưới kính hiển vi cho thấy, nhóm không dùng thuốc, các tế bào ung thư và các tổ chức
xung quanh dính liền với nhau, xâm nhập vào cơ và cả tổ chức mô mỡ. Nhóm dùng
thuốc, không thấy có biểu hiện trên. Trên mô hình ung thư phổi, khả năng hạn chế đạt
tới 60%. Họ đã chứng minh tác dụng trên là do cơ chế miễn dịch tế bào, trực tiếp tăng
cường hoạt tính tế bào NK hoặc thông qua hoạt tính của tế bào lympho T. Nhưng khả
năng tăng cường miễn dịch của linh chi là quan trọng nhất.
SVTH: Trương Thị Tuyết Mai Khoa: Công Nghệ
Ngành: Công Nghệ Sinh Học Trang: 9
Đồ Án Chuyên Môn
Trường Cao Đẳng Lương Thực - Thực Phẩm GVHD: Trần Thị Lệ Hằng
1.4.3. Tác dụng lên hệ tuần hoàn
Linh chi có tác dụng rất tốt đối hệ tuần hoàn như: Ổn định huyết áp; lọc sạch máu
tăng cường tuần hoàn máu; giảm mệt mỏi, hỗ trợ thần kinh; chống đau đầu và tứ chi;
điều hoà kinh nguyệt; làm da dẻ hồng hào chống các bênh ngoài da như dị ứng,....
1.4.4. Thúc đẩy quá trình tiết insulin
Nấm linh chi tác dụng đặc biệt trong việc loại trừ chất cholesterol trong các thành
mạch lọc sạch máu thúc đẩy quá trình lưu thông máu; cải thiện cơ bản thiểu năng insulin
nguyên nhân chính gây ra bệnh tiểu đường. Nghiên cứu của Lin JM (1995) cho thấy linh
chi có tác dụng phục hồi chức năng gan trong bệnh tiểu đường. Ngoài ra, theo khảo cứu
của Mizuno T. (1996) linh chi còn làm giảm glucose- huyết ở chuột bình thường và
chuột gây bị tiểu đường (theo báo khoa học phổ thông, chuyên đề Nấm và sức khỏe
2006, 63:801) .Vì vậy sử dụng linh chi để phòng chữa bệnh tiểu đường là rất tốt.
1.4.5. Tác dụng chống quá trình làm lão hoá
1.4.5.1. Tác dụng dọn các gốc tự do
Năm 1956, Harmarn đưa ra lý thuyết gốc tự do. Ông cho rằng các phân tử trong tế
bào giải phóng ra các gốc tự do và chuyển các gốc tự do này thúc đẩy quá trình lão hóa.
Gốc tự do không ngừng sản sinh trong quá trình trao đổi chất của tế bào, làm tổn thương
ngay các tế bào, giảm hoạt tính của các enzyme, phát sinh sai sót trong quá trình tổng
hợp và hấp thụ các acid amin, xuất hiện các biểu hiện dị thường trong các màng tế bào,
thúc đẩy quá trình lão hóa và xuất hiện các trạng thái bệnh lý cùng tuổi tác tăng lên, khả
năng chống oxy hóa, các enzyme chống oxy hóa nội sinh, khả năng phòng vệ các gốc tự
do tự sản sinh trong cơ thể mỗi năm một giảm làm tăng quá trình lão hóa.
Nhiều tác giả đã sử dụng vitamin để đo hoạt tính của enzyme peroxy hóa (SOD) của
các polysaccharid linh chi, khả năng ức chế được biểu thị (Inb%) như sau: GLA (70%),
GLB (59%), GLC (29%), GLA, GLB đều có khả năng tạo ra SOD, nhưng GLA tốt hơn
cả. Ngoài ra các tác giả còn sử dụng phương pháp MDA-TBA để đánh giá khả năng thải
trừ các gốc OH tự do của GLA, GLB và GLC (66,7%), GLB (57,6%), GLC (45,4%).
Như vậy cả 3 polysaccharid đều có khả năng giảo phóng đối với gốc OH tự do. Với
phương pháp TBA để đo khả năng ức chế protid tế bào bị oxy hóa, kết quả thu được
như sau: (Inb %), GLB (45%), GLC (86%), khả năng ức chế gốc O
2
-
đối với protein
hồng cầu. Tương tự các gốc OH tự do trong huyết tương của thỏ và gốc H
2
O
2
/Fe
3+
.
SVTH: Trương Thị Tuyết Mai Khoa: Công Nghệ
Ngành: Công Nghệ Sinh Học Trang: 10