Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Đường lối đối ngoại của đảng cộng sản việt nam giai đoạn từ sau năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.17 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
CƠ SỞ II TẠI TP.HCM
------

TIỂU LUẬN MÔN LỊCH SỬ CÁCH MẠNG ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài: Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam
giai đoạn từ sau năm 1986 đến nay.
Lớp: K58A
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh quốc tế
Giảng viên hướng dẫn: Tô Ngọc Hằng
Lê Thành Nguyên

MỤC LỤC 1912215333
MỞ ĐẦU........................................................................................................................................ 2

Nguyễn Thị Nguyên Trinh

1912215557

Nguyễn Thị Giang

1912215114

1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................................2
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài..........................................................................................2
2.1.

Ngơ
Thị Hồng Yến
1912215633


Mục
đích........................................................................................................................
2

2.2.

Mai Thị
Thanh Tuyền
1912215584
Nhiệm
vụ........................................................................................................................
3

3. PhươngTrần
phápThế
nghiên
Anhcứu......................................................................................................3
1912215026
4. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................................................3

Hồ Văn Hoàng

1912215165

Nguyễn Văn Thủy

1912215520

NỘI DUNG.................................................................................................................................... 4
1. MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP QUỐC

TẾ LÀ ĐÒIVũ
HỎI
KHÁCH
VÀ XU THẾ CHUNG CỦA
Minh
Đức QUAN CỦA ĐẤT NƯỚC
1912215085
THẾ GIỚI. 1.1. Nền tảng của việc mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội
nhập kinh tế................................................................................................................................ 4


1.1.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của chính
sách đối.................................................................................................................................... 4
1.1.2.

Truyền thống ngoại giao của dân tộc..........................................................................7

2. QUÁ TRÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO MỞ RỘNG CÁC
QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI...........................................................................................................10
2.1.1.

Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng:..................................................................10

2.1.2.

Hạn chế và nguyên nhân...........................................................................................11

2.2.

Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1986-1995).........................................12


2.2.1.

Đổi mới chính sách đối ngoại (1986 -1991)..............................................................12

2.2.2.

Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1991-1995)...................................15

2.3.

Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-đến nay).....................................16

2.3.1.

Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-2004)...................................16

2.3.2.

Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước từ (2004 – đến nay)...............................20

3. MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI......................................................................................22
3.2.

Một số bài học bước đầu về chính sách đối ngoại...........................................................28

KẾT LUẬN................................................................................................................................. 30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................30



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tình hình thế giới tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp và khó lường về ngoại
giao giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Tồn cầu hố tiếp tục phát triển sâu rộng và
tác động tới tất cả các nước. Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào q
trình hội nhập quốc tế. Hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế hàng đầu của mỗi quốc gia,
phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển.
Sau khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh, có
lợi thế rất lớn là tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, mơi trường hồ bình. Nhằm phát
huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong tiến hành công cuộc Đổi mới với mục tiêu xây
dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng và Nhà
nước Việt Nam tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá,
đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm: “Việt Nam sẵn
sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hồ
bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức
quốc tế và khu vực để cùng nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh truyền
nhiễm, đói nghèo, tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, buôn lậu ma túy,… Những nỗ
lực của Việt Nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của mình đối với bạn bè ở khu vực và quốc
tế. Việt Nam sẽ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội
lực, nâng cao hợp tác quốc tế, độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc…
Chính vì những lý do trên nhóm chúng em chọn đề tài nghiên cứu: “Đường lối đối
ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn từ sau năm 1986 đến nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục đích
Thơng qua q trình xác định chính sách đối ngoại theo đường lối đổi mới toàn diện đất
nước của Đảng cộng sản Việt Nam, khẳng định sự nhạy cảm chính trị, kinh nghiệm lãnh đạo
cách mạng của Đảng đã kịp thời đổi mới chính sách đối ngoại phù hợp với chính sách đối nội



và xu thế thời đại để hội nhập với cộng đồng quốc tế vì hồ bình, độc lập dân tộc, hợp tác và
phát triển.
2.2. Nhiệm vụ
 Trình bày những cơ sở dẫn đến sự xác định chính sách đối ngoại theo đường lối đổi
mới.
 Trình bày các giai đoạn phát triển của đường lối đối ngoại đổi mới, cái mới, cái sáng
tạo của Đảng trong việc hoạch định chính sách đối ngoại đổi mới.
 Thơng qua việc phân tích những thành tựu, tồn tại khẳng định chủ trương “độc lập, tự
chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá” quan hệ quốc tế là quyết sách đúng đắn, nhạy bén của Đảng,
từ đó bước đầu nêu lên những kinh nghiệm thực hiện chính sách đối ngoại.
3. Phương pháp nghiên cứu
Theo phương pháp luận sử học, đồng thời dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và kết hợp chặt chẽ các phương pháp
lịch sử với so sánh, thống kê nhằm làm nổi bật những thắng lợi trong đường lối chính sách đối
ngoại của Đảng gần 20 năm qua.
4. Phạm vi nghiên cứu
Chính sách đối ngoại của Đảng là một đề tài rộng khoá luận đề cập tới những vấn đề
sau. Thời gian và không gian đề cập là từ năm (1986 – đến nay) ở Việt Nam. Đây là thời kỳ
Đảng lãnh đạo và tiến hành đổi mới toàn diện nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp thiết của đất
nước và đáp ứng xu thế thời đại.


NỘI DUNG
1. MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ
LÀ ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN CỦA ĐẤT NƯỚC VÀ XU THẾ CHUNG CỦA THẾ GIỚI.
1.1. Nền tảng của việc mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế.
1.1.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của chính sách đối
ngoại

Theo quan điểm của Mac, và các nhà kinh điển chủ nghĩa Mac
Văn hóa đối ngoại là tồn bộ những giá trị mà con người tạo ra được biểu hiện và thẩm
thấu trong hoạt động đối ngoại. Nó biểu hiện ở nội dung của chính sách đối ngoại cũng như nhận
thức, hành vi của các chủ thể tham gia hoạt động đối ngoại và kết quả mà họ tạo ra trong hoạt
động đó. 
Chủ thể của văn hóa đối ngoại có thể là các cá nhân hay tập thể, đại diện cho một nước
hay một Đảng của nước này trong quan hệ giao tiếp với nước khác, mà ở đó nhận thức và hành vi
của họ có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động đối ngoại. Do đó, dù chủ thể là cá nhân hay
tập thể thì trong quan hệ đối ngoại, họ đều phải có tri thức, có hành vi xử sự đúng mực và tuân
thủ những nguyên tắc nhất định.
Văn hóa đối ngoại được thể hiện qua chính sách và những nguyên tắc đối ngoại.
Trong Lời kêu gọi thứ nhất của Tổng hội đồng Hội liên hiệp công nhân quốc tế về cuộc chiến
tranh Pháp - Phổ, C.Mác có nêu ra nguyên tắc của quan hệ đối ngoại cần phải có như sau: “Phấn
đấu sao cho những đạo luật đơn giản về đạo đức và chính nghĩa mà các cá nhân phải tuân theo
trong các quan hệ của họ, trở thành những đạo luật tối cao trong các quan hệ giữa các dân tộc”.
Nguyên tắc thấm đẫm chất văn hóa ấy đã được C.Mác và Ph.Ăngghen nhắc đi nhắc lại nhiều lần,
coi đó là kim chỉ nam cho quan hệ đối ngoại của giai cấp công nhân, của Đảng Cộng sản.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các ông cho rằng, các Đảng Cộng sản cần phải có sự liên
kết rộng rãi, tranh thủ sự giúp đỡ của các đảng, các lực lượng tiến bộ, các phong trào cách mạng
trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản. Các ông cịn chỉ rõ, sự liên kết đó là cần thiết, song


phải đúng nguyên tắc, trên cơ sở mục đích chính trị của giai cấp cơng nhân, đó là: một mặt, tích
cực ủng hộ những lực lượng tiến bộ, có xu hướng chống lại giai cấp tư sản; mặt khác, tăng cường
ảnh hưởng của phong trào công nhân để mở rộng và phát triển lực lượng, phong trào cách mạng.
Theo quan điểm của Lênin.
Lênin đã bổ sung những nguyên tắc hoạt động đối ngoại qua thực tiễn của nước Cộng
hòa XHCN Xô Viết Nga. Một trong những nguyên tắc ấy là công khai và thông tin sự thật. 
Một nguyên tắc quan trọng trong hoạt động đối ngoại mà các chủ thể tham gia hoạt động
này cần phải tuân thủ, đó là nguyên tắc có sự lãnh đạo thống nhất. Lênin đã phê phán những hành

vi cá nhân chủ nghĩa trong quan hệ đối ngoại. Ông cho rằng, những hành vi như thế sẽ rất nguy
hại đối với lợi ích quốc gia, dân tộc.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cụ thể hơn về hành vi văn hóa của các chủ thể tham gia hoạt động
đối ngoại. Người cho rằng, các chủ thể hoạt động đối ngoại cần phải có thái độ tơn trọng nhau,
tơn trọng tự do, dân chủ của nhau. Hành vi văn hóa cần được biểu hiện qua ngôn ngữ giao tiếp.
Theo Người, để đạt được quan hệ đối ngoại tốt đẹp, ngôn ngữ giao tiếp phải mềm mỏng, khéo
léo.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng hoạt động giao lưu văn
hóa. Quan điểm của Hồ Chí Minh về tiếp thu tiến bộ văn hóa nhân loại đã được hình thành ngay
từ những năm Người cịn bơn ba tìm đường cứu nước. Từ năm 1919, Hồ Chí Minh đã đánh giá
cao vai trị của giao lưu văn hóa quốc tế đối với sự tiến bộ chung. Người viết: “Xét về nguyên tắc,
tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế; và văn minh chỉ có lợi khi các
quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường”.
Vì vậy để có thể có được một nền tảng chính sách ngoại giao vững chắc, chúng ta cần
phải đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Phát triển
quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế theo các
nguyên tắc: tơn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh
chấp thông qua thương lượng hịa bình; tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Củng cố
và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập


dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo và
hiệu quả”. Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới, tăng cường vận
động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngồi để phát
triển kinh tế - xã hội. Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người, sẵn sàng
đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên
quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề “dân chủ, nhân

quyền, dân tộc, tôn giáo” hịng can thiệp vào cơng việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam.
Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế
kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu. Chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước.
Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa
phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác tồn diện có hiệu quả với các nước ASEAN, châu Á – Thái
Bình Dương… Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ
sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn định và minh bạch.
Phát huy vai trị chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến thương mại đầu tư, phát triển thị trường, sản phẩm
và thương hiệu mới. Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh
nghiệp nước ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngồi. Đẩy mạnh cơng tác văn hố - thơng tin
đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các
nước. Đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm cơng tác đối ngoại vững vàng về chính
trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt.Tăng cường
cơng tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại với sự tham gia và phát huy trí tuệ của các
cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với
các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân
dân; chính trị và kinh tế đối ngoại; đối ngoại, quốc phịng và an ninh; thơng tin trong và ngoài
nước.


1.1.2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam ln phải
đương đầu với rất nhiều khó khăn, gian khổ. Qua những thăng trầm ấy, ngoại giao Việt Nam đã
từng bước được hình thành và phát triển, vừa mang đậm bản sắc dân tộc, vừa kết tinh những tinh
hoa của nhân loại để tạo nên một bản sắc riêng của nền ngoại giao Việt Nam.
Ngoại giao Việt Nam truyền thống bắt nguồn từ ý chí đấu tranh kiên cường cho độc lập,

tự do của dân tộc với nhiều tấm gương điển hình như Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn
Trãi… và nhiều bài học sâu sắc và bổ ích về quan hệ với lân bang, ứng xử trong đối ngoại… Đó
cịn là lịng mong muốn hịa bình, hịa hiếu, thủy chung, xuất phát từ bản chất nhân văn sâu sắc
và truyền thống u chuộng hịa bình vốn có của người Việt… Lịch sử đấu tranh bất khuất
chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã mang lại cho ngoại giao Việt Nam
tính chiến đấu cao, bản chất hịa bình, hịa hiếu, nhân nghĩa, thủy chung, “lấy đại nghĩa thắng
hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”.
Tư tưởng đối ngoại và phong cách ngoại giao của Người là sự kết tinh truyền thống của
dân tộc và tinh hoa của nhân loại, trong đó ngoại giao nhân dân là một “binh chủng” đa kênh và
đa năng quan trọng, cùng với ngoại giao Đảng và Nhà nước hợp thành nền ngoại giao tổng hợp
của quốc gia
Trong lịch sử quan hệ quốc tế, các nước tiến hành các hoạt động ngoại giao dưới nhiều
hình thức khác nhau, nhưng quy tụ lại thành hai loại chính là ngoại giao nhà nước và ngoại giao
nhân dân. Ngoại giao nhà nước là mối quan hệ giữa chính phủ với chính phủ của các nước có chủ
quyền, giữa các nhà lãnh đạo của các nước. Các quan chức làm việc trong các đại sứ quán hoặc
cơ quan đại diện ngoại giao của một nước ở nước ngồi là những người đại diện cho chính phủ ở
nước sở tại. Ngoại giao nhân dân là một hình thức hoạt động quan hệ đối ngoại do các tổ chức,
các đoàn thể, hoặc cá nhân thuộc nhiều lĩnh vực tiến hành, khơng mang tính chất chính thức của
Chính phủ.
Hoạt động của ngoại giao nhân dân là phát huy “sức mạnh mềm” của một nước, hỗ trợ cho
ngoại giao nhà nước để thực hiện chính sách đối ngoại mà chính phủ nước đó đề ra. Ngoại giao
nhân dân là lực lượng quan trọng của mặt trận ngoại giao và ưu thế của ngoại giao nhân dân là có
thể đi đầu, có thể đi trước tại những nước, những khu vực và về một số vấn đề mà ngoại giao
chính thức của nhà nước chưa có điều kiện triển khai.


Hồ Chí Minh chủ trương đối ngoại rộng mở, mở rộng lực lượng theo phương châm “thêm
bạn, bớt thù”, tránh đối đầu “khơng gây thù ốn với một ai”, tìm ra những điểm tương đồng, khai
thác mọi khả năng có thể nhằm tập hợp lực lượng, hình thành mặt trận đoàn kết ủng hộ Việt Nam
theo nhiều tầng, nhiều nấc. Người từng nói: “Đường lối tấn cơng vào lịng người, chinh phục

bằng đạo lý, chuyển hóa bằng nhân tình, thuyết phục lịng người để nhân lên sức mạnh của chính
nghĩa”. Như vậy, với Hồ Chí Minh, ngoại giao khơng chỉ là sự nghiệp của tồn dân, mà cịn phải
lơi kéo, thuyết phục bằng chính nghĩa để nhân dân và bạn bè thế giới ủng hộ, giúp đỡ mình.
Ngoại giao Việt Nam hiện đại bắt đầu từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời (1945) và vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp dẫn dắt và rèn luyện. Ngoại giao Việt
Nam hiện đại là sự kết hợp tài tình giữa ngoại giao truyền thống Việt Nam với những tư tưởng
ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh được vận dụng linh hoạt và sáng tạo trong từng hoàn cảnh
cụ thể. Trải qua những giai đoạn khác nhau, trong thời chiến cũng như trong thời bình, ngoại giao
Việt Nam hiện đại đã kế thừa xứng đáng truyền thống cha ơng, góp phần khơng nhỏ vào bảo vệ
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh.
1.2. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước và xu thế của thế giới
1.2.1. Địi hỏi bức thiết của tình hình trong nước
Năm 1975 nước ta hồn tồn giải phóng, tổ quốc hịa bình, thống nhất cả nước tiến lên
chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được thắng lợi vĩ đại. Công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Chiến tranh vừa kết thúc thì
nước ta phải tập trung vào công cuộc khắc phục hậu quả nặng nề của hơn 30 năm chiến tranh, thì
lại xảy ra hai cuộc chiến là chiến tranh biên giới Tây Nam với Campuchia, và cuộc chiến biên
giới phía Bắc với Trung Quốc. Hai cuộc chiến này đã làm suy giảm tiềm lực của đất nước. Bên
cạnh đó, các thế lực thù địch sử dụng những âm mưu thâm độc phá hoại nước ta. Đại hội Đảng
lần V (3-1982) nhận định “Nước ta đang ở trong tình thế vừa có hịa bình vừa phải đương đầu với
một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt”. Mặt khác do tư tưởng chủ quan, nóng vội, muốn tiến
nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong thời gian ngắn đã dẫn đến những khó khăn về kinh tế xã hội.
1.2.2. Địi hỏi bức thiết của tình hình thế giới
Trong khi đó trên thế giới, sự tiến bộ nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã
thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh mẽ; Nhật Bản và Tây Âu vươn lên trở thành
hai trung tâm lớn của kinh tế thế giới; xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hòa


hoãn của các nước lớn. Với thắng lợi của cách mạng Việt Nam và các nước Đông Dương, hệ
thống xã hội chủ nghĩa đã mở rộng phạm vi, phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh.

Đảng ta nhận định: Hệ thống nước xã hội chủ nghĩa đã và đang lớn mạnh không ngừng; phong
trào độc lập dân tộc và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân đang trên đà phát triển
mạnh. Tuy nhiên, đến giữa thập kỉ 70, tình hình kinh tế – xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa xuất
hiện sự trì trệ và mất ổn định. Trong các nước xã hội chủ nghĩa cũng xuất hiện những mâu thuẫn
bất đồng, Đông Nam Á cũng đã có những chuyển biến mới.
Sau năm 1975, Mỹ đã rút quân khỏi Đông Nam Á lục địa: khối quân sự SEATO tan rã; ngày
24/02/1976, các nước ASEAN ký hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (gọi tắt là hiệp
ước Bali), mở ra cục diện hịa bình hợp tác trong khu vực.
Hơn thế nữa từ những năm của thập kỷ 80 thế kỷ trước, thế giới chứng kiến những quá
trình mới diễn ra đang làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế - chính trị và xã hội nhân loại. Tồn
cầu hố kinh tế trở thành xu thế nổi bật và tất yếu chi phối thời đại; không ngoại trừ một quốc gia,
dân tộc nào, nếu muốn phát triển bắt buộc phải mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Cùng
với toàn cầu hố kinh tế, cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ mới lần thứ 3 diễn ra với nhịp độ
ngày càng mạnh mẽ, mà cốt lõi là dựa trên việc ứng dụng các phát minh khoa học công nghệ,
phát triển các ngành công nghệ cao, như công nghệ truyền thông và tin học, công nghệ vật liệu
mới, công nghệ sinh học…
Tình hình này trước hết tác động mạnh đến nền kinh tế thế giới chẳng những các lực lượng
sản xuất và cơ cấu kinh tế thế giới có nhiều thay đổi theo hướng dựa vào tri thức và khoa học
công nghệ, làm xuất hiện các ngành sản xuất mới, ngành dịch vụ ngày càng có vai trị quan trọng
và tỷ trọng lớn dần trong cơ cấu kinh tế quốc dân.


2. QUÁ TRÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO MỞ RỘNG CÁC
QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI
2.1. Thực trạng đối ngoại của Đảng, Nhà nước trước đổi mới.
2.1.1. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng:
Đại hội lần thứ IV của Đảng (12-1976) xác định nhiệm vụ đối ngoại là “Ra sức tranh thủ
những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Trong quan hệ với các nước, Đại
hội IV chủ trương củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả

các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào Campuchia; sẵn sàng, thiết lập phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu
vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tơn
trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách đối ngoại như:
chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xô là hịn đá tảng trong chính sách
đối ngoại của Việt Nam; nhấn mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào
trong bối cảnh vấn đề Campuchia đang diễn biến phức tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu
vực Đơng Nam Á hồ bình, tự do, trung lập và ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại.
Đại hội lần thứ V của Đảng (3/1982)xác định: Công tác đối ngoại phải trở thành một
mặt trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất bại chính sách của các thế lực hiếu
chiến mưu toan chống phá cách mạng nước ta.Về quan hệ với các nước, Đảng ta tiếp tục nhấn
mạnh đồn kết và hợp tác tồn diện với Liên Xơ là ngun tắc, là chiến lược và ln ln là
hịn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; xác định quan hệ đăc biệt Việt NamLào-Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc; kêu gọi các nước
ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và thương lượng để giải quyết các trở ngại;
nhằm xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hịa bình và ổn định; chủ trương khơi phục quan
hệ bình thường với Trung Quốc trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hịa bình; chủ trương


thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt nhà nước, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ
thuật, với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị.
Thực tế cho thấy ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn (19751986) là xây dựng quan hệ hợp tác.Từ năm 1975 đến năm 1977, nước ta đã thiết lập thêm quan
hệ ngoại giao với 23 nước; ngày 15-9-1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức
Qũy tiền tệ quốc tế (IFM); ngày 21-9-1976, tiếp ghế thành viên chính thức Ngân hàng thế giới
(WB); ngày 23-9-1976, gia nhập Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); ngày 20-9-177, tiếp
nhận ghế thành viên Liên hợp quốc; tham gia tích cực các hoạt động trong phong trào không
liên kết… Kể từ năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam.Với
các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á: Cuối năm 1976, Philippin và Thái Lan là nước
cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Những kết quả đối ngoại trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng Việt Nam. Sự

tăng cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế
với cả các nước hệ thống chủ nghĩa đã tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khơi
phục đất nước sau chiến tranh; việc trở thành thành viên chính thức của Qũy tiền tệ quốc tế;
Ngân hàng thế giới; Ngân hàng phát triển châu Á và thành viên chính thức của Liên hợp quốc,
tham gia tích cực vào các hoạt động của Phong trào không liên kết, đã tranh thủ được sự ủng
hộ, hợp tác của các nước , các tổ chức quốc tế đồng thời phát huy được vai trò của nước ta trên
trường quốc tế. Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trong tổ chức ASEAN đã tạo
thuận lợi để triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau, nhằm xây dựng Đơng Nam
Á trở thành khu vực hịa bình, hữu nghị và hợp tác.
2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân
Nhìn tổng quát, từ năm 1975- 1986, quan hệ hợp tác của Việt Nam gặp những khó khăn
trở ngại lớn. Nước ta bị bao vây, cộ lập trong đó đặc biệt từ cuối thập kỷ 70 đến thế kỷ XX, lấy
cớ “sự kiện campuchia” các nước ASEAN và một số nước khác thực hiện bao vây, cấm vận
Việt Nam…
Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn, là do trong quan hệ đối ngoại giai đoạn này
chúng ta chưa nắm bắt được xu thế chuyển từ đối đầu sang hịa hỗn và chay đua kinh tế trên
thế giới. Do đó, đã tranh thủ được các nhân tố thuận lợi trong quan hệ quốc tế phục vụ cho
công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh; không kịp thời đổi mối quan hệ đối


ngoại phù hợp với tình hình. Nguyên nhân những hạn chế về đối ngoại của Việt Nam giai đoạn
(1975 -1986) đã được Đại hội lần thứ VI của Đảng chỉ ra là “bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy
nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”.
2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1986-1995)
2.2.1. Đổi mới chính sách đối ngoại (1986 -1991)
Hoạt động mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt Nam được bắt đầu từ năm 1986. Nghị
quyết 32 của Bộ Chính trị khóa V (tháng 7/1986) chủ trương chuyển từ đối đầu sang đối thoại,
đấu tranh trong cùng tồn tại hịa bình. Đến Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ VI, Đảng nhấn
mạnh: “Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, giữ hịa bình ở Đơng
Dương, góp phần giữ vững hịa bình ở Đơng Nam Á và trên thế giới, tranh thủ điều kiện quốc

tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ Quốc…”. Hịa bình ở khu
vực và thế giới có quan hệ gắn kết với nhau, thế giới có hịa bình thì các khu vực mới có hịa
bình và ngược lại. Đổi mới toàn diện, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986)
của Đảng đề ra chính sách đối ngoại phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước. Đại hội
khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hồ bình và hữu
nghị”. Về quan hệ với các nước khu vực Đông Nam Á: “Chúng ta mong muốn và sẵn sàng
cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập
quan hệ cùng tồn tại hồ bình, xây dựng Đơng Nam Á thành khu vực hồ bình, ổn định và hợp
tác”. Đại hội VI nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là “… Tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”… và “cần hồ bình để phát triển
kinh tế”. Nghị quyết của Đại hội VI và các Nghị quyết của Trung ương đã chuyển hướng chính
sách ngoại giao, chủ trương đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới,
không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, thi hành chính sách hữu nghị, phù hợp với
lợi ích của nhân dân ta và xu thế phát triển chung của thế giới. Nó trở thành tư tưởng chủ đạo,
sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đồng thời là
một dấu mốc quan trọng trong tiến trình từng bước gia nhập ASEAN của Việt Nam.
Trên cơ sở đổi mới tư duy đối ngoại, Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu và những
chính sách đối ngoại lớn. Mục tiêu của ngoại giao Việt Nam lúc này là hịa bình và phát triển.
Đảng và Nhà nước ta quyết tâm giải quyết vấn đề Campuchia, từ đó giải quyết vấn đề bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc, ASEAN và Hoa Kỳ.


Từ giữa những năm 80, các nước lớn và ASEAN đi vào hịa hỗn, hợp tác giải quyết các
vấn đề khu vực, trong đó có vấn đề Campuchia. Đại hội VI đã khẳng định “chúng ta mong
muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông
Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hịa bình, xây dựng Đơng Nam Á thành khu vực hịa
bình, ổn định và hợp tác”. Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa VI 20/5/1988) là mốc khởi
đầu của quá trình đổi mới tư duy, nhận thức và đường lối đối ngoại của Đảng ta. Nghị quyết
khẳng định nước ta “lại càng có những cơ hội lớn để có thể giữ hịa bình và phát triển về kinh
tế” và xác định “với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở

rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn”. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị thay chủ trương 10
năm trước tăng cường liên minh 3 nước Đông Dương làm đối trọng với các nước ASEAN.
Ngược lại, chúng ta khẳng định khơng đối lập nhóm 3 nước Lào, Việt Nam, Campuchia, xã hội
chủ nghĩa với nhóm ASEAN, tư bản chủ nghĩa.
Nghị quyết nêu rõ chúng ta cần có chính sách tồn diện với Đơng Nam Á, trước hết là
tăng cường quan hệ hợp tác về nhiều mặt với Indonexia, phá vỡ bế tắc trong quan hệ với Thái
Lan, mở rộng quan hệ hợp tác về kinh tế, khoa học – kỹ thuật, văn hóa với các nước trong khu
vực, thúc đẩy việc xây dựng khu vực hịa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác. Đặc biệt nghị
quyết cũng nhắc lại lời cảnh báo của nghị quyết 32 khóa V về nguy cơ tụt hậu xa hơn “nếu
chúng ta lại để lỡ những cơ hội lớn đó thì sẽ gặp những thách thức mới và sẽ bị thua kém về
mọi mặt so với nhiều nước trên thế giới”. Ra sức tranh thủ sự đồng tình của thế giới, làm thất
bại âm mưu cô lập ta về kinh tế và chính trị; lợi dụng sự phát triển của khoa học – kỹ thuật,
đồng thời tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế.
Thực hiện chủ trương trên, ta đã mời ngoại trưởng Indonexia sang thăm và ký Thông
cáo chung Việt Nam – Indonexia tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 29/07/1987, vừa khai thơng
quan hệ song phương, mở đường cho xu thế đối thoại, hợp tác giải quyết vấn đề Campuchia.
Việt Nam đã từng bước rút quân khỏi Campuchia từ 1984 - 1989. Như vậy vấn đề Campuchia
đi dần vào giải pháp hịa bình. Trước những tiến triển mới đó, các nước ASEAN bắt đầu phát
triển quan hệ song phương với Việt Nam, hoan nghênh Việt Nam tham gia vào hợp tác khu
vực. Tháng 12/1987, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 3 họp tại Manila (Philipin)
Tổng thống Philipin C.V.Akinô tuyên bố không coi Việt Nam là mối đe dọa đối với Philipin.


Tiếp đó tháng 2/1989, Bộ trưởng Ngoại giao Philipin tuyên bố: “Khơng chống lại việc Việt
Nam gia nhập ASEAN”. Cịn Thủ tướng Thái Lan Chatichai, khi lên cầm quyền tháng 8/1988,
đã đưa ra chủ trương: “Biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường”. Chính sách trên
của Thái Lan đã được thủ tướng Malaysia tuyên bố ủng hộ (6/1989). Thực hiện đường lối đổi
mới do Đại hội Đảng VI, Nhà nước ta cũng luôn khẳng định lập trường của Việt Nam là được
chung sống hồ bình với các nước trong khu vực, sẵn sàng hợp tác để xây dựng Đông Nam Á

thành một khu vực hồ bình, ổn định và phát triển. Tháng 1/1989, tại Hội nghị bàn tròn các nhà
báo châu Á – Thái Bình Dương tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Đảng Cộng
sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh một lần nữa nhấn mạnh: “Việt Nam sẵn sàng phát triển quan
hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các nước trong khu vực”. Tại Hội nghị này, Bộ trưởng
Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các nước Đông
Nam Á”. Những phát biểu trên một lần nữa nhấn mạnh quan điểm trước sau như một của Đảng
và Nhà nước ta trong vấn đề gia nhập ASEAN. Quan hệ Việt Nam – ASEAN đã được đẩy
mạnh trong năm 1989 và các năm tiếp theo. Sự kiện chính trị nổi bật và quan trọng nhất trong
quan hệ hai bên đó là Tổng thống Indonexia Xuhacto, nguyên thủ của một nước ASEAN đầu
tiên, thăm hữu nghị chính thức Việt Nam tháng 10/1990. Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng lần lượt
thăm hữu nghị chính thức Indonexia, Vương quốc Thái Lan và Cộng Hòa Singapore từ ngày
24/10 đến ngày 01/11/1991.
Kể từ giai đoạn này, các nước ASEAN tách dần khỏi lập trường của Trung Quốc về vấn
đề Campuchia, vượt qua chính sách bao vây cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam để đi vào
cải thiện quan hệ với Việt Nam - Đông Dương. Buôn bán hai chiều Việt Nam - ASEAN đã
tăng từ 107 triệu đô la Mỹ năm 1985 lên 740 triệu đô la Mỹ năm 1991.
Chúng ta đã giải quyết được vấn đề Campuchia trên cơ sở giữ vững một số thành quả
của cách mạng Campuchia, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, khai thơng quan hệ với
các nước ASEAN tạo dựng tiền để để ta tham gia tổ chức này nhằm xây dựng khu vực Đông
Nam Á hịa bình, ổn định, hợp tác để phát triển, từng bước cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ từ đó
có điều kiện tăng cường quan hệ với Nhật Bản và các nước phương Tây khác. Những thành tựu
đối ngoại thời kỳ đầu đổi mới này sẽ tạo đà cho những thắng lợi lớn hơn thời kỳ tiếp theo.


2.2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1991-1995)
Quan hệ Việt Nam - ASEAN bắt đầu có những chuyển biến tích cực, và việc Hiệp định
Pari về Campuchia được ký kết tháng 10/1991 đánh dấu chấm dứt của “thời kỳ Campuchia
trong quan hệ Việt Nam - ASEAN , mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ hợp tác của cả hai bên”.
Việt Nam trải qua nhiều cuộc chiến tranh nên lợi ích lớn nhất của đất nước lúc này là
duy trì hịa bình, ổn định khu vực, tạo dựng một môi trường quốc tế và khu vực thuận lợi cho

công cuộc đổi mới, cải thiện đời sống nhân dân, đưa đất nước đi lên theo kịp với nhịp độ phát
triển chung của các nước trong khu vực và trên thế giới. Hội nghị Trung ương 3, khóa VII
(tháng 6-1992) đã ra Nghị quyết xác định nhiệm vụ cơng tác đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính
sách đối ngoại, các phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế; đề ra chủ trương mở rộng,
đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cả về chính trị, kinh tế,
văn hóa…, trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, tơn trọng lẫn
nhau, bình đẳng và cùng có lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy truyền thống
tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc… Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII là văn kiện đánh dấu
sự hình thành đường lối đối ngoại của Đảng ta cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Lãnh đạo ta và lãnh đạo các nước ASEAN liên tiếp tiến hành các chuyến viếng thăm lẫn
nhau, góp phần gia tăng sự hiểu biết và tin cậy. Ta và các nước này đã ký hàng chục hiệp định
cấp chính phủ tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa
học kỹ thuật. Các nước ASEAN trở thành bạn hàng quan trọng, chiếm khoảng 30% hàng xuất –
nhập khẩu của ta, kim ngạch buôn bán hai chiều tăng từ 1,6 tỷ USD năm 1991 lên 2,7 tỷ USD
năm 1994. Các nước thành viên ASEAN cũng chiếm hơn 20% tổng số đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam. Giữa Việt Nam và các nước này cũng từng bước thương lượng giải quyết những vấn
đề tồn tại. Chúng ta đã thỏa thuận với Malaysia cùng khai thác vùng chồng lấn và hồi hương
người Việt di tản. Thái Lan tiếp tục giải quyết thuận lợi việc cho Việt kiều ngập quốc tịch, khai
thông sự hợp tác về sông Mekong, lập quỹ khu vực, duy trì viện trợ linh hoạt hơn trong đàm
phán về vùng chồng lấn, thỏa thuận về lập lại trật tự trên Vịnh Thái Lan. Chúng ta cũng kiên trì
thúc đẩy đàm phán phán về thềm lục địa với Indonexia.
Tháng 07/1992, Việt Nam đã tham gia Hiệp ước Bali, trở hành quan sát viên của
ASEAN. Với tư cách là quan sát viên ASEAN, từ năm 1992 ,Việt Nam đã được mời tham dự
các cuộc họp hàng năm Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN. Từ tháng 2/1993, Việt Nam


đã tuyên bố “sẵn sàng tham gia ASEAN vào thời điểm thích hợp”. Điều này đã được các nước
ASEAN, dư luận khu vực và quốc tế đánh giá cao. Đáp lại ,các nước ASEAN tuyên bố “ muốn
Việt Nam sớm gia nhập ASEAN”. Tháng 10/1993, chúng ta tuyên bố chính sách 4 điểm định
hướng quan hệ với ASEAN . Tại hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 27 tại Băng

cốc 1994, các nước ASEAN đã nhất trí tuyên bố sẵn sàng cơng nhận Việt Nam là thành viên
chính thức của ASEAN. Ngày 28/07/1995, tại Banda Xeri Beegaoan (Vương quốc Bruney) lễ
kết nạp Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thành thành viên thứ 7 của ASEAN đã được tổ
chức trọng thể. Quốc Hội nước ta cũng gia nhập Liên minh Quốc hội ASEAN (AIPO).Hội nghị
đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) và Đại hội VIII (tháng 6-1996) của
Đảng đã khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa quan hệ với
tinh thần “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa
bình, độc lập và phát triển”.
Năm năm tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới trên mặt trận đối ngoại, Việt Nam đã giữ
vững được môi trường hịa bình, phá được thế bị bao vây cấm vận về kinh tế và cơ lập về chính
trị, đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc – nước láng giềng lớn và Hoa Kỳ – cường
quốc số 1 thế giới, gia nhập ASEAN và đã mở rộng quan hệ với hầu hết các nước ở khắp năm
châu ( riêng từ 1991 – 1995 Việt Nam đã lập thêm quan hệ ngoại giao với 42 nước , nâng tổng
số các nước có quan hệ ngoại giao với ta lên 160 nước ). Điều này cho thấy, vị trí, vai trị và uy
tín của Việt Nam ngày một nâng cao ở khu vực và thế giới.
2.3. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-đến nay)
2.3.1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-2004)
Tại đại hội lần thứ VIII (6-1996), Đảng tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nhiều
mặt với nhiều nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương
“xây dựng nền kinh tế mở” và “đẩy nhanh quá trình kinh tế khu vực và thế giới”.
Đại hội xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác, chủ trương đối ngoại
của Đại hội VIII có đặc điểm mới so với đại hội VII như:
 Mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền và các Đảng khác
 Quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi
chính phủ.


 Lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ trương: “Thử nghiệm để
tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương, khóa VIII (12-1997), đề ra

chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại Mỹ, Gia
nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ
AFTA. Đại hội lần thứ IX (4-2001), Đảng nhấn mạnh chủ trương chủ trương chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Đảng nêu rõ quan điểm
về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ: “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hế là độc
lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ phài đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất
nước”.
Sau 15 năm đổi mới, tình hình chính trị - xã hội nước ta dần đi vào ổn định; “thế” và
“lực” của ta được nâng cao hơn; quan hệ quốc tế được mở rộng; vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế được cải thiện. Tuy nhiên, chúng ta cịn phải đối phó với nhiều khó khăn, thử
thách “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to
lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh
quyết liệt”.
Đại hội VIII (tháng 6-1996) và Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng tiếp tục hồn
thiện đường lối đối ngoại thơng qua việc khẳng định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”. Ngồi
ra, Đại hội còn nhấn mạnh, Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh
thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Tháng 11-2001, Bộ Chính trị
đã ra Nghị quyết riêng về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6
biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhệp kinh tế.Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng
7-2003) đã ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nhằm đánh giá tồn
diện, sâu sắc cục diện thế giới, khu vực từ 1991 đến nay; chỉ ra một cách có hệ thống những
thành tựu, bài học kinh nghiệm về đối ngoại. Đây là một mốc hết sức quan trọng trong nhận
thức, định hướng cho chính sách đối ngoại và hoạt động quốc tế của Đảng và Nhà nước ta
trong thời gian tới.


Những thành tựu của công tác đối ngoại thời kỳ đổi mới trong chính sách và hoạt động

đối ngoại đã hòa nhịp cùng với đổi mới trên mọi lĩnh vực của đất nước, đem lại những thành
tựu rất to lớn, được thể hiện trên các mặt: “Từ chỗ bị bao vây cấm vận, đến nay Việt Nam đã có
quan hệ ngoại giao với 169 nước; đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta có quan hệ với
tất cả các nước, trung tâm chính trị – kinh tế lớn trên thế giới”. Chúng ta đã tạo được khuôn
khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài và đan xen lợi ích với tất cả các nước láng
giềng, khu vực: Quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện với Lào không ngừng được củng cố và
mở rộng, hợp tác kinh tế ngày càng chặt chẽ, hiệu quả. Quan hệ với Cam-pu-chia được đổi mới
theo hướng mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, phối hợp giải quyết các vấn đề an ninh,
biên giới, lãnh thổ trong khuôn khổ các tổ chức khu vực và quốc tế. Quan hệ với Trung
Quốc được bình thường hóa hồn toàn và nâng lên tầm cao mới theo phương châm 16
chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Lần đầu
tiên trong lịch sử, hai nước đã ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền, Hiệp định về Phân định
vịnh Bắc Bộ, Hiệp định giải quyết vấn đề lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa
hai nước trong vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ. Sau khi gia nhập
Hiệp hội các quốc gia Đông – Nam Á (ASEAN) năm 1995, Việt Nam đã có nhiều đóng góp
tích cực, góp phần vào việc củng cố đồn kết, duy trì những ngun tắc cơ bản, tăng cường hợp
tác nội khối, góp phần nâng cao vai trị, vị trí của của hiệp hội ở khu vực và trên trường quốc tế.
Nước ta đã chủ động duy trì và thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các nước bạn bè truyền
thống như Nga, Cu Ba, Ấn Độ, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Mông Cổ; các nước
thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập, Trung – Đông Âu trên nhiều lĩnh vực, thể hiện tình
nghĩa thủy chung, đồn kết trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời,
chúng ta đã chủ động khôi phục và củng cố quan hệ hợp tác với các nước châu Phi, Trung
Đông và Mỹ La-tinh, nêu cao tinh thần đoàn kết và ủng hộ các nước bạn trong cuộc đấu tranh
bảo vệ độc lập, chủ quyền và tự quyết dân tộc.
Không những thế, nước ta cũng đã bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác cùng
có lợi với các nước lớn và trung tâm kinh tế – chính trị lớn trên thế giới. Từ chỗ là hai nước thù
địch trước đây, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao và hợp tác với Mỹ trên tinh thần gác
lại quá khứ, hướng tới tương lai. Nước ta tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Nhật



Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Tây Bắc Âu, nhất là trên các lĩnh vực kinh tế, thương
mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn hóa, du lịch, chuyển giao công nghệ.
Nước ta đã triển khai mạnh mẽ công cuộc hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế. Đến
nay, Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực của ASEAN, tham gia ngày càng sâu rộng vào
các định chế kinh tế, tài chính, thương mại của ASEAN như Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA), Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA); là thành viên của Diễn đàn Hợp tác Á – Âu (ASEM),
Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC); có quan hệ chặt chẽ với Quỹ
Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)… Hội
nghị lần thứ 9 ban chấp hành Trung ương khóa IX ( 5-1-2004) nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt
cá điều kiện trong nước để sớm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Hoạt động đối ngoại đã có những đóng góp to lớn trong cơng cuộc phát triển đất
nước thơng qua việc giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định. Đặc biệt là công tác nghiên cứu,
tham mưu, thông tin, vận động viện trợ, thu hút đầu tư; tham gia giải quyết vướng mắc trong
quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nước khác.
Hoạt động ngoại giao đa phương có bước trưởng thành vượt bậc kết hợp chặt chẽ với
các mối quan hệ song phương, góp phần nâng cao hơn nữa vai trị và uy tín của Việt Nam tại
các tổ chức quốc tế như: Liên hợp quốc, Phong trào Không liên kết, ASEAN, ASEM, Cộng
đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp..; tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại,
phát triển kinh tế – xã hội; đồng thời đóng góp bảo vệ hịa bình và các ngun tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế.
Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được coi trọng. Về nhận thức,
Đảng khẳng định rõ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách
rời của dân tộc Việt Nam. Gần đây, Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác đối với
người Việt Nam ở nước ngồi đã được ban hành, nhằm xóa bỏ ngăn cách giữa người Việt ở
nước ngoài và người Việt ở trong nước; tạo điều kiện cho bà con hướng về cội nguồn và tham
gia đóng góp xây dựng đất nước; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước
ngoài, cũng như hỗ trợ kiều bào hội nhập với nước sở tại.


2.3.2. Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước từ (2004 – đến nay)

Đại hội lần thứ X (6-2006), Đảng nêu quan điểm: thự hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, hịa bình hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế. Đồng thời để ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế”.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn tồn chủ động quyết định đường lối,chính
sách phát triển kinh tế – xã hội nói chung, chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế nói
riêng, phân tích lực chọn phương án hành động đúng, dự báo được tình huống thuận lợi và khó
khăn khi hội nhập kinh tế quốc tế.
Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới bên
trong, từ phương thức lãnh đạo, khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch, đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, hoành chỉnh hệ thống pháp luật; nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; tích cực nhưng phải thận trọng, vững chắc.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải có ý chí, quyết tâm của Đảng, Nhà
nước, toàn dân, của mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và toàn xã hội.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh; nhiều cơ hội song cũng
đầy thách thức, vì vậy ta cần có kế hoạch và lộ trình thích hợp, vừa phù hợp với trình độ phát
triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức quốc tế mà ta tham gia. Sau hơn
11 năm chuẩn bị và đàm phán, tháng 11-2006, Việt Nam được kết nạp làm thành viên thứ 150
của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Việc gia nhập tổ chức quốc tế này là một cột mốc hết sức quan trọng, mở ra nhiều điều
kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc phát triển kinh tế. Đó là ta được hưởng sự đối xử bình
đẳng trong quan hệ thương mại với 150 thành viên WTO, những hàng rào thuế quan phi WTO
mà ta phải chịu trước đây đều được bãi bỏ tạo điều kiện cho ta tăng khả năng xuất khẩu. Cơ hội
để Việt Nam thu hút đầu tư của các nước cũng tăng lên. Hiện nay ta có quan hệ đầu tư với
khoảng 70 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Một nét mới khác của ngoại giao Việt Nam thời kỳ đổi mới là ngoại giao văn hóa được
đẩy mạnh và nâng lên thành một trụ cột chính cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh
tế, tạo thành sức mạnh tổng hợp. Năm 2009 được lấy làm năm Ngoại giao văn hóa. Bộ Ngoại
giao đã phối hợp với các bộ, ban, ngành và nhiều địa phương triển khai nhiều hoạt động văn



hóa đối ngoại đa dạng, phong phú, mang lại nhiều kết quả đáng khích lệ. Nhiều hoạt động văn
hóa đối ngoại được tổ chức trong và ngồi nước, góp phần quảng bá rộng rãi hình ảnh một
nước Việt Nam hịa bình, phát triển và thân thiện với cộng đồng quốc tế. UNESCO đã ra Nghị
quyết kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, trao giải thưởng cho Hà Nội là “Thành phố vì
hịa bình”. Nhiều di sản của đất nước, như quan họ Bắc Ninh, Ca trù, Kho mộc bản triều
Nguyễn… và nhiều thắng cảnh, như Cù Lao Chàm, Mũi Cà Mau v.v.. đã được UNESCO công
nhận là di sản văn hóa thế giới. Tháng 10-2009, Việt Nam đã được bầu vào Hội đồng Chấp
hành UNESCO nhiệm kỳ 2009 – 2013.
Qua 25 năm thực hiện đổi mới trên mặt trận đối ngoại, ngoại giao phối hợp với các cơ
quan liên quan khác đã đạt được những thành tựu to lớn, ghi đậm dấu ấn của trường phái ngoại
giao Hồ Chí Minh trên thế giới.
Một là, hình ảnh và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế đã được cải thiện. Việt Nam
khơng những là đất nước hịa bình hữu nghị mà cịn là một nước đã ra khỏi đói nghèo và đang
phát triển đầy ấn tượng. Chúng ta đã hồn thành xuất sắc trọng trách ủy viên khơng thường trực
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 và đang hồn thành tốt vai trị Chủ tịch
ASEAN 2010.
Hai là, đã làm công tác ngoại giao kinh tế, là thành viên của ủy ban quốc gia về hợp tác
kinh tế quốc tế, ngoại giao đã chủ động và tích cực tham gia cơng tác tham mưu về chính sách
kinh tế đối ngoại, nhất là kinh nghiệm của các nước về chính sách thị trường, đối tác, kinh
nghiệm về hội nhập quốc tế, và luật chơi quốc tế. Đã tranh thủ được một số nước và các tổ
chức quốc tế giúp ta công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại v.v..
Ba là, ngoại giao đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ an ninh biên giới lãnh thổ. Các hiệp
định biên giới trên đất liền với Trung Quốc cũng như với Lào và Campuchia đã tạo cơ sở cho
việc xây dựng một khu vực biên giới hịa bình và phát triển với các nước láng giềng.
Bốn là, thế giới đã đánh giá cao những cố gắng của Việt Nam trong việc thúc đẩy và
bảo về quyền con người ở Việt Nam. Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc đã chính thức
thơng qua Báo cáo quốc gia về tình hình thực hiện quyền con người ở Việt Nam và hoan
nghênh các cố gắng của Việt Nam trong việc trao đổi, đối thoại cởi mở với nhiều nước về vấn
đề này. Với chính sách “người Việt Nam ở nước ngồi là một bộ phận không tách rời của dân

tộc Việt Nam” và với tinh thần hòa hợp dân tộc, Nhà nước ta đã tạo điều kiện thuận lợi cho


người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng hướng về Tổ quốc. Ngoài ra, ta tiếp tục thảo luận với
các nước ASEAN cũng như với các quốc gia đối tác để sớm thông qua Bộ Quy tắc ứng xử
(COC) ở Biển Đơng có tính chất ràng buộc thay cho Tun bố về cách ứng xử (DOC) hiện nay.
Trong chặng đường 65 năm qua, nhất là trong gần 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới,
cùng với sự phát triển của đất nước, những thành tựu đó của ngoại giao Việt Nam đã góp phần
cải thiện và nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ đất nước.
3. MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Chủ trương, nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong thời gian tới
Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó
dự báo, cả thách thức và cơ hội đều đan xen, trong đó thách thức lớn hơn. Những chuyển biến
của cục diện thế giới và khu vực tác động nhiều mặt tới Việt Nam do chúng ta ngày càng hội
nhập sâu rộng với thế giới và khu vực. Nhiệm vụ đối ngoại do đó cũng càng trở nên quan trọng
và nặng nề, vừa nhằm thích ứng và ứng phó với bối cảnh thế giới và khu vực biến động mạnh,
vừa phục vụ những mục tiêu phát triển chiến lược của đất nước giai đoạn tới.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII của Đảng (2/2021) đã khẳng
định rõ Việt Nam cần tiếp tục kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hịa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế toàn diện và sâu
rộng.
Văn kiện Đại hội đã khẳng định những điểm nổi bật về phương hướng đối ngoại, đó là:
Một là, “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ
vững mơi trường hịa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước,
nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”. Đây là bước phát triển rất mới trong tầm nhìn chiến
lược của Đảng ta, vừa là sự nhìn nhận vai trò quan trọng của đối ngoại, vừa đặt ra những nhiệm
vụ rất nặng nề cho giai đoạn tới. “Vai trò tiên phong của đối ngoại” khơng chỉ có ngoại giao
mà cả quốc phòng, an ninh và các binh chủng khác, trong sự phối hợp liên ngành dưới sự chỉ

đạo và quản lý thống nhất của Đảng và Nhà nước.
Hai là, đối ngoại phải “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các


nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác,
cùng có lợi”. Lợi ích quốc gia - dân tộc đã, đang và sẽ tiếp tục là kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất
trong triển khai hoạt động đối ngoại. Không những vậy, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII còn
xác định đây là một trong những quan điểm chỉ đạo cao nhất nhằm thực hiện tầm nhìn và định
hướng phát triển của đất nước. Đồng thời, Việt Nam không theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp
hòi mà thúc đẩy lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc
tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
Ba là, “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập,
tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả
vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”. Độc lập, tự chủ là
cơ sở, tạo ra sức mạnh nội sinh để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế. “Hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng” nghĩa là hội nhập đầy đủ trên các lĩnh
vực, các tầng nấc khác nhau với mức độ tham gia, đóng góp thực chất hơn, cam kết và đan xen
lợi ích cao hơn. Hội nhập quốc tế cũng phải bám sát, gắn chặt và phục vụ trực tiếp nhiệm vụ
phục vụ phát triển với việc “Tích cực triển khai các cam kết khu vực và quốc tế, lồng ghép với
các chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội”.
Bốn là, tư duy về đối ngoại song phương và đa phương có những bước phát triển mới.
Về song phương, chúng ta cần tiếp tục đưa các mối quan hệ đối ngoại song phương đi vào
chiều sâu, đồng thời cần “tạo thế đan xen lợi ích” và “tăng độ tin cậy”. Đối ngoại đa phương
cần “Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trị của Việt Nam trong xây dựng,
định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế” và “trong những vấn đề,
các cơ chế quan trọng, có tầm chiến lược đối với lợi ích Việt Nam, phù hợp với khả năng và
điều kiện cụ thể”. Đây là bước phát triển quan trọng về lý luận và thực tiễn từ Đại hội XII và
Chỉ thị 25 của Ban Bí thư (8-8-2018). Điều này phù hợp thế và lực mới của đất nước cũng như
những đòi hỏi thực tiễn mới đối với công tác đối ngoại. Tư duy về không gian và các trọng
điểm chiến lược của đất nước cũng được thể hiện rất rõ, đó là các nước láng giềng, khu vực tiểu

vùng Mê Công, ASEAN, châu Á - Thái Bình Dương, các nước lớn và các đối tác quan trọng…
Năm là, đối ngoại được giao trọng trách tham gia cùng quốc phòng, an ninh và cả hệ
thống chính trị vào việc bảo đảm mơi trường hịa bình, ổn định của đất nước, giữ nước từ sớm,
từ xa. Về an ninh quốc gia, văn kiện nêu rõ “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm


mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước”. Về
bảo vệ chủ quyền, biển đảo: “Tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển, an ninh, an toàn
hàng hải, hàng không trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật
Biển năm 1982. Củng cố đường biên giới hịa bình, an ninh, hợp tác và phát triển; giải quyết
các vấn đề còn tồn tại liên quan đến đường biên giới trên bộ với các nước láng giềng”. Đối
ngoại cũng phải “Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại,
không để bị động, bất ngờ”.
Sáu là, khẳng định sự quan tâm và quan điểm của Đảng và Nhà nước về cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài. Văn kiện nêu rõ “Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngồi có địa
vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội nước sở tại. Nâng cao
hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh… Tạo điều kiện để đồng bào
giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lịng tự hào, tự tơn dân tộc. Làm tốt cơng
tác thơng tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động
phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc, có chính sách thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở
nước ngồi đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đây sẽ là phương
hướng để xây dựng những chủ trương, chính sách nhằm hỗ trợ, tạo thuận lợi cho bà con hội
nhập với xã hội sở tại, đồng thời tiếp tục giữ gìn văn hóa, bản sắc dân tộc và đóng góp vào xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bảy là, “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng,
ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Tính “tồn diện” thể hiện trên các chủ thể, địa
bàn, cả song phương và đa phương, trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, thơng tin đối
ngoại, cơng tác về người Việt Nam ở nước ngồi, bảo hộ cơng dân…, qua đó phát huy hiệu quả
sức mạnh của tất cả các binh chủng. Đặc biệt, nhằm phục vụ mục tiêu phát triển của đất nước,

ngoại giao sẽ không chỉ triển khai các nhiệm vụ chính trị lớn ở tầm vĩ mơ, mà cịn phục vụ trực
tiếp các địa phương, doanh nghiệp, người dân, tranh thủ mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược
và đối tác toàn diện để mở rộng địa bàn, thị trường, tranh thủ nguồn ngoại lực cho phát triển
của đất nước. Đây sẽ là trọng tâm lớn của công tác đối ngoại những năm tới. Tính “hiện đại”
của ngoại giao được thể hiện ở việc xây dựng ngành, phát triển và nâng tầm phương thức triển
khai công tác đối ngoại, tổ chức bộ máy, cơ sở hạ tầng, công nghệ và trang thiết bị… đạt trình


×