Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NGỮ VĂN THCS CẤP HUYỆN (VERY GOOD)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.8 MB, 30 trang )

1

CỘNG

HOÀ



HỘI

CHỦ

NGHĨA

VIỆT

NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
VẬN DỤNG LINH HOẠT CÁC HÌNH THỨC KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN 8

1. Mô tả bản chất của sáng kiến:
1.1 Các giải pháp thực hiện, các bước và cách thức thực hiện:
a. Các giải pháp thực hiện:
Giải pháp 1. Đa dạng các hình thức kiểm tra, đánh giá trong bài kiểm tra
thường xuyên.
Giải pháp 2. Sử dụng trò chơi trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh.
Giải pháp 3. Kết hợp nhuần nhuyễn sự đánh giá của giáo viên với tự đánh giá


của học sinh trong dạy học Ngữ văn.
Giải pháp 4. Sự linh hoạt, sáng tạo của giáo viên trong việc kiểm tra đánh giá
kết quả học tập của học sinh trong bộ môn Ngữ văn.
b. Các bước và cách thức thực hiện:
Trước tiên, tơi tìm hiểu thực trạng của việc kiểm tra đánh giá trong dạy học
Ngữ văn ở trường PTDT NT THCS Tây Giang.
Khảo sát sự hứng thú của học sinh với các hình thức kiểm tra đánh giá trong
mơn Ngữ văn.
Đưa ra các hình thức kiểm tra đánh giá khơi dậy sự hứng thú của học sinh
trong kiểm tra đánh giá bộ mơn Ngữ văn: đa dạng các hình thức kiểm tra đánh
giá; nghiên cứu mục tiêu bài học lựa chọn nội dung kiểm tra nhằm đánh giá toàn


2

diện kết quả học tập của học sinh; sử dụng trị chơi; kết hợp sản phẩm học tập liên
mơn thuộc sở trường của học sinh để kiểm tra đánh giá; khuyến khích sự đánh giá
của học sinh về kết quả học tập của bản thân, của bạn bè; thực hiện việc trả bài
kiểm tra thường xuyên trong thời gian sớm nhất.
1.2 Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết (nếu là giải pháp cải tiến
giải pháp đã biết trước đó tại cơ sở):
Khi nghiên cứu đề tài này bản thân chưa có điều kiện tiếp xúc hoặc học hỏi
sáng kiến kinh nghiệm nào về việc vận dụng linh hoạt các hình thức kiểm tra
đánh giá trong dạy học Ngữ văn 8 mà qua quá trình dạy và học Ngữ văn ở tại
trường PTDTNT THCS Tây Giang, bản thân thực hiện ở các lớp mình phụ trách
và nhận thấy các giải pháp này rất quan trọng trong việc giúp học sinh học tốt bộ
môn Ngữ văn. Thực tế là giáo viên đã áp dụng nhưng bản thân thấy có những chỗ
chưa thực sự hiệu quả như sau:
Giải pháp 1. Đa dạng các hình thức kiểm tra, đánh giá trong bài kiểm tra
thường xuyên.

Giải pháp này, giáo viên dạy môn Ngữ văn đều áp dụng. Tuy nhiên qua việc
dự giờ các tiết dạy của giáo viên trong tổ bộ môn, bản thân nhận thấy giáo viên
mới dừng lại ở bài kiểm tra với hình thức vấn đáp vào đầu giờ hoặc các bài viết
tại lớp theo một thời gian cố định với các nội dung mang tính lí thuyết nhiều,
thiếu sự đa dạng ở các bài kiểm tra được làm ở nhà nên chưa khắc phục được tâm
lí chán nản, nhàm chán khi kiểm tra đánh giá ở học sinh, dẫn đến khơng khí tiết
học nặng nề và hiệu quả học tập chưa cao.
Giải pháp 2. Sử dụng trò chơi trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của học sinh.
Giải pháp này giáo viên cũng có sử dụng nhưng chủ yếu ở hoạt động khởi
động, ở quá trình dạy học, chứ chưa chú trọng trong việc kiểm tra đánh giá kết


3

quả học tập của học sinh và thường chỉ có trị chơi ơ chữ. Vì thế chưa đem lại
hứng thú học tập cho học sinh và chưa góp phần giúp học sinh học tốt bộ môn
Ngữ văn.
Giải pháp 3. Kết hợp nhuần nhuyễn sự đánh giá của giáo viên với tự
đánh giá của học sinh trong dạy học Ngữ văn.
Giải pháp này giáo viên cũng có sử dụng nhưng thường chỉ dừng lại trong việc
cho học sinh nhận xét câu trả lời hay bài làm của bạn mà thiếu sự động viên
khuyến khích để các em hứng thú trong việc tự đánh giá kết quả học tập của mình
cũng như của các bạn.
Giải pháp 4. Sự linh họat, sáng tạo của giáo viên trong việc kiểm tra đánh
giá kết quả học tập của học sinh trong bộ môn Ngữ văn.
Về giải pháp này thì bản thân nhận thấy có giáo viên cũng rất linh hoạt, sáng
tạo trong việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh trong bộ mơn Ngữ
văn với hình kết hợp sản phẩm học tập thuộc sở trường của các em (môn Âm
nhạc, Mĩ thuật…) nhưng thực hiện không thường xuyên mà chỉ ở những bài học

theo chủ đề và với quy mô lớn theo tập thể lớp; cũng có giáo viên cho rằng việc
hát, vẽ khơng phục vụ gì trong việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập bộ môn
Ngữ văn nên cũng không thực hiện các bài kiểm tra như thế này. Việc xây dựng
đề kiểm tra của giáo viên còn thiếu sáng tạo linh hoạt trong việc lựa chọn ngữ
liệu. Việc trả bài kiểm tra thường xuyên thì thực hiện theo quy định thiếu sự khẩn
trương đáp ứng sự mong chờ của học sinh.
1.3 Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm hiện
tại (nếu là giải pháp cải tiến giải pháp đã biết trước đó tại cơ sở):
Với các giải pháp đã biết (đã biết như ở trên đã nêu là giáo viên có sử dụng
nhưng còn nhiều điểm chưa hiệu quả, bản thân cải tiến thêm chứ không dựa trên
sáng kiến kinh nghiệm đã biết).


4

Giải pháp 1. Đa dạng các hình thức kiểm tra, đánh giá trong bài kiểm tra
thường xuyên.
Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh là một mắc xích quan trọng
trong q trình đào tạo. Kiểm tra đánh giá có hệ thống và thường xuyên sẽ cung
cấp kịp thời những thông tin cần thiết giúp học sinh tự điều chỉnh hoạt động học,
giúp giáo viên có thơng tin phản hồi để điều chỉnh và hồn thiện q trình dạy để
từ đó nâng cao chất lượng dạy học của nhà trường phổ thông.
Do yêu cầu đặc trưng bộ môn nên kiểm tra, đánh giá trong môn Ngữ văn
nhằm mục đích đánh giá học sinh một cách tồn diện về hai năng lực đọc hiểu
văn bản và tạo lập văn bản, tạo điều kiện cho học sinh phát triển toàn diện các kĩ
năng nghe, nói, đọc, viết và xúc cảm thẩm mĩ. Những năng lực này đã được cụ
thể hóa trong chuẩn chương trình mơn học với những u cầu cần đạt trên cả ba
mặt kiến thức, năng lực và phẩm chất.
Nhằm tiếp cận với chương trình phổ thơng mới, cùng với đó, năm học 20202021 Bộ giáo dục và đào tạo ban hành thông tư 26 ngày 26 tháng 8 năm 2020 về
việc “Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh trung

học cơ sở và học sinh trung học phổ thông ban hành kèm theo Thông tư số
58/2011/TT-BGDĐT ngày 12 tháng 12 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo”, việc kiểm tra đánh giá trong các môn học nói chung và mơn Ngữ văn
nói riêng, khơng cịn các bài kiểm tra định kì dưới dạng các bài kiểm tra một tiết
mà thay vào đó là một bài kiểm tra giữa kì.
Vì vậy, để thực hiện đề tài này bản thân chọn giải pháp đầu tiên đó là, đa dạng
các hình thức kiểm tra, đánh giá trong bài kiểm tra thường xuyên.
Để thực hiện giải pháp này, giáo viên cần phải bám sát mục tiêu môn học, và
chuẩn kiến thức, kĩ năng cần đánh giá. Việc xác định chuẩn đánh giá sẽ là cơ sở
để định ra nội dung và hình thức kiểm tra trong mơn học, cũng là căn cứ để có thể
đo một cách chính xác các mức độ nhận thức và vận dụng của học sinh.


5

Môn Ngữ văn lớp 8 về quy định cột điểm kiểm tra thường xuyên là 4. Mỗi
bài kiểm tra giáo viên có thể sử dụng một hình thức khác nhau, để có thể kiểm tra
tồn diện năng lực đọc hiểu cũng như năng lực tạo lập văn bản của học sinh.
Về điều này thì thực tế giáo viên sử dụng hình thức tự luận là nhiều, và
thường là những bài kiểm tra tại lớp, trong vòng 1 tiết học, hoặc 10 phút, 15 phút.
Bản thân tôi cho học sinh làm những bài kiểm tra khác nhau, bài kiểm tra kiến
thức Tiếng Việt sử dụng các hình thức như sau: Ví dụ sau khi học bài ‘Trợ từ,
thán từ”, trong bài kiểm tra đầu giờ, tơi mời nhóm 2 học sinh theo bàn lên bảng
tạo lập một đoạn hội thoại trong đó có thán từ và trợ từ. Yêu cầu học sinh chỉ ra,
trợ từ và thán từ. Hay như phần kiểm tra sau khi học bài “Quê hương” thông
thường giáo viên kiểm tra phần tìm hiểu chung thì hỏi về tác giả, tác phẩm, thể
thơ, bản than tôi yêu cầu các em sau khi học xong bài thơ thì phần tìm hiểu chung
các em viết thành đoạn văn giới thiệu chung về tác giả cũng như bài thơ, và khi
kiểm tra thì tơi u cầu các em giới thiệu như vậy. Hay như khi học xong các văn
bản văn học nước ngồi, tơi cũng đưa ra các câu hỏi kiểm tra khêu gợi sự hứng

thú mới lạ cho các em như: “Chúng ta vừa du lịch đến nước nào, em biết những ai
ở đó, giới thiệu cho cả lớp cùng nghe?” Còn giáo viên khác chỉ mới dừng lại ở
việc kiểm tra các kiến thức lí thuyết, hoặc chỉ thêm là cho ví dụ, làm bài tập trong
sách giáo khoa.
Một hình thức kiểm tra, đánh giá nữa mà bản thân sử dụng trong bài kiểm tra
thường xuyên đó là giao bài tập (các sản phẩm học tập là những công cụ hữu ích
để giáo viên và học sinh dễ đánh giá được kết quả học tập) cho các em về nhà
làm. Việc này thì giáo viên chưa thấy thực hiện. Hình thức này, có lúc các em làm
cá nhân, có lúc làm theo nhóm 4 học sinh. Ví dụ với việc học các văn bản nhật
dụng, tôi yêu cầu các nhóm bốc thăm đề tài (ba văn bản đã học “Thơng tin về
ngày trái đất năm 2000”, “Ơn dịch, thuốc lá”, “Bài tốn dân số”; sau đó các nhóm
bắt tay thiết kế bài trình bày hiểu biết về đề tài mình chọn; thuyết trình bài làm


6

của mình. Tương tự như vậy tơi cho các em làm theo nhóm các bài tập của bài
học “Thuyết minh về danh lam thắng cảnh của quê hương em” trong chương trình
địa phương kết hợp với bài “Thuyết minh về danh lam thắng cảnh”; hay làm bài
tập cho bài “Thuyết minh về một thứ đồ dùng”, “Thuyết minh về một phương
pháp, cách làm”. Sau khi hoàn thành bài viết, học sinh sẽ trình bày bài làm của
mình trước lớp, giáo viên và học sinh cùng đánh giá trực tiếp kết quả học tập của
các nhóm. Với hình thức làm bài cá nhân ở nhà, thì tơi giao cho các em các bài
tập kiểm tra như sau vẽ tranh minh họa các văn bản mà em đã học; hoặc thiết kế
sơ đồ tư duy về một chủ đề, như thiết kế sơ đồ tư duy cho chủ đề các kiểu câu,
chủ đề hành động nói…
Với việc đa dạng các hình thức kiểm tra như vậy, học sinh hình thành được
nhiều năng lực khác nhau, và các em cũng hứng thú hơn với việc làm bài kiểm tra
và không cảm thấy nhàm chán.
Giải pháp 2. Sử dụng trò chơi trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập

của học sinh.
Để đáp ứng những mục tiêu mới của giáo dục, việc kiểm tra đánh giá cũng
phải đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh nhằm phát triển trí
thơng minh, sáng tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt kiến thức, kỹ
năng đã học vào những tình huống thực tế, làm bộc lộ những cảm xúc, thái độ của
học sinh trước những vấn đề được đặt ra trong cuộc sống phức tạp hiện nay. Kiểm
tra đánh giá có vai trò ý nghĩa đối với cả học sinh và giáo viên vì qua kiểm tra
đánh giá sẽ giúp cho giáo viên bộ môn, các nhà quản lý giáo dục và bản thân học
sinh có những thơng tin xác thực để có tác động kịp thời nhằm điều chỉnh và bổ
sung phương pháp trong q trình dạy và học. Khơng đổi mới kiểm tra đánh giá
thì tất cả trở nên vô nghĩa.
Hoạt động dạy học chỉ đạt hiệu quả cao khi tạo lập được môi trường sư phạm
lành mạnh, bầu khơng khí thân thiện, phát huy ngày càng cao vai trị tích cực, chủ


7

động, sáng tạo của học sinh.
Việc kiểm tra chỉ thực sự đem lại hiệu quả khi đối tượng kiểm tra có hứng thú,
có sự mong chờ trong việc kiểm tra. Thực tế thì học sinh rất sợ kiểm tra. Vậy làm
sao để thay đổi tâm lí đó ở các em? Bản thân tơi đã thực hiện giải pháp sử dụng
trị chơi trong kiểm tra đánh giá để khắc phục tâm lí sợ kiểm tra và khơi dậy hứng
thú khi được kiểm tra của học sinh.
Trị chơi mà tơi hay sử dụng cho các em khi kiểm tra là lá thăm may mắn
hoặc con số may mắn, hoặc ô chữ may mắn, hay trị chơi sắm vai cơ giáo… Để
thực hiện giải pháp này, giáo viên chuẩn bị các phụ kiện cho trị chơi như sau:
chuẩn bị các ơ số, chuẩn bị các lá thăm, chuẩn bị các ô chữ….; chuẩn bị các phần
quà (cây bút, quyển vở, cái kẹo…). Trò chơi này có thể áp dụng lúc kiểm tra đầu
giờ, hoặc lúc làm bài tập, lúc ôn tập đều được. Ví dụ, sau khi học xong bài “Câu
trần thuật”, trước khi vào học bài “Câu phủ định”, trong phần kiểm tra đầu giờ,

thay vì chỉ định học sinh được kiểm tra, tôi muốn các em chủ động hứng thú hơn
với việc được kiểm tra, tôi kêu gọi học sinh với tinh thần xung phong bốc thăm
các lá thăm, trong các lá thăm là các ô số, trước khi kiểm tra giáo viên quy định ô
số nào là ô số may mắn, sẽ nhận một phần quà, kèm theo trả lời được câu hỏi sẽ
nhận điểm tối đa; (câu hỏi kiểm tra thì giáo viên đã chuẩn bị, khi học sinh chọn ô
số xong giáo viên sẽ đọc câu hỏi). Hoặc sau khi học sinh thực hiện các bài tập, ví
dụ như “Viết đoạn hội thoại có 4 kiểu câu đã học”, nếu để học sinh tự giác đứng
lên thực hiện bài tập thì hầu như các em khơng thực hiện, mà bắt buộc các em thì
các em làm theo một cách miễn cưỡng, nhưng nếu chúng ta cho các em được bốc
thăm, rồi sau đó trình bày bài làm thì các em lại hứng thú hơn và tham gia trình
bày một cách hào hứng. Khi làm các bài tập Tiếng Việt thay vì giáo viên hay gọi
học sinh lên bảng làm hoặc các em đứng tại chỗ trả lời bài, ta có thể thay đổi ở
một số tiết bằng cách tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Ai nhanh hơn”. Yêu cầu
học sinh làm bài tập nào đó trong một thời gian cụ thể, ta quy định số lượng nộp


8

bài, có thể 2 hoặc 3 hoặc 4… bạn nhanh nhất nộp bài để chấm và có cộng điểm
khuyến khích nếu làm nhanh và chính xác, đồng thời chúng ta cũng gọi bất kỳ các
em dưới lớp nộp bài để tránh tình trạng học sinh nghĩ mình khơng nhanh khơng
cần làm.
Với trị chơi sắm vai cơ giáo, trị chơi này có thể giúp chúng ta đánh giá
được việc tự học và sự chuẩn bị, năng lực học tập của học sinh. Tơi tổ chức trị
chơi như sau: Ví dụ khi dạy bài “Quê hương” chẳng hạn, đầu giờ tôi kêu gọi tinh
thần xung phong của học sinh có thể đóng vai cơ giáo tổ chức cho các bạn tìm
hiểu chung về văn bản. Học sinh thực hiện tốt trò chơi của mình thì sẽ được ghi
điểm. Các em tham gia cũng rất hào hứng, các bạn dưới lớp tương tác sôi nổi.
Cũng quen với phong cách dạy học của cô nên cũng khơng q khó để các em
thực hiện trị chơi này. Trò chơi như một cách để các em trải nghiệm và rèn luyện

thêm được nhiều kĩ năng bổ ích, trị chơi này cũng có thể thực hiện trong phần
tìm hiểu ví dụ hay làm bài tập ở các bài Tiếng Việt. Nếu chúng ta tổ chức được
các trò chơi như vậy, tuy nhỏ thôi nhưng sẽ tạo ra được khơng khí mơi trường học
tập tích cực và học sinh sẽ hứng thú hơn với việc học và chính điều này sẽ giúp
các em học tốt hơn. Về các trị chơi này thì bản thân chưa thấy giáo viên nào thực
hiện.
Giải pháp 3. Kết hợp nhuần nhuyễn sự đánh giá của giáo viên với tự
đánh giá của học sinh trong dạy học Ngữ văn.
Kiểm tra, đánh giá chỉ có hiệu quả khi kết hợp đánh giá của giáo viên với tự
đánh giá của học sinh.
Bản thân luôn chú ý, khuyến khích sự tự đánh giá của học sinh về kết quả học
tập của chính các em hoặc của các bạn. Đây là việc làm xuyên suốt tiến trình dạy
học cũng như kiểm tra đánh giá kết quả học tập của các em. Không chỉ khi kiểm
tra mà trong quá trình dạy học tơi ln chú ý khai thác sự chủ động của học sinh
trong việc tự đánh giá kết quả học tập của chính các em hay các bạn. Khi học sinh


9

trình bày về một đơn vị kiến thức nào đó, tôi luôn chú ý mời sự nhận xét, đánh
giá từ các bạn về câu trả lời của bạn mình. (Giáo viên có làm bước này nhưng
thiếu sự động viên, khuyến khích). Thực tế là học sinh thường rất thụ động trong
việc đánh giá, nhận xét câu trả lời của bạn. Vì vậy tơi thường khuyến khích động
viên các em bằng những món q nhỏ như cây bút, quyển vở, đơi khi là tràng vỗ
tay, hay lời tán dương khen thưởng, nếu sự nhận xét, đánh giá chính xác với
những yêu cầu khó thì có thể ghi điểm cao cho các em. Khi thực hiện kiểm tra
những bài tập hay những nội dung đơn giản, chỉ ở mức độ nhận biết, thông hiểu,
bản thân tôi thường giao cho lớp trưởng, lớp phó học tập có thể xem xét bài tập,
hay câu hỏi đó bạn nào làm là phù hợp. Thơng qua cách làm này, học sinh sẽ đánh
giá được năng lực học tập của các bạn, đồng thời các em cũng tự đánh giá được

năng lực của mình. Có những bài kiểm tra tôi giao cho các bạn tự đánh giá kết
quả của bạn mình thế nào theo cách sau: các bạn làm bài tập xong, đổi bài cho
nhau theo bàn, hoặc trên dưới, sau đó yêu cầu các em tự đánh giá bài cho nhau,
ghi lỗi; giáo viên kiểm tra lại bạn nào có sự đánh giá chính xác, bài làm chính xác
thì sẽ được ghi điểm cao; cịn ngược lại các bạn chưa có sự đánh giá chính xác,
hoặc khơng có kết quả bài làm đúng thì giáo viên cùng bạn còn lại hướng dẫn bạn
điều chỉnh phù hợp, cùng với lời động viên lần sau chú ý làm tốt hơn để đạt điểm
tốt. Đối với những bài kiểm tra giáo viên đã đánh giá kết quả bài làm của học sinh
rồi thì trước khi phát bài cho các em, giáo viên cùng học sinh giải lại bài, sau đó
u cầu học khi nhận lại bài của mình thảo luận theo nhóm để trao đổi với các
bạn về cách làm bài của mình, đọc cho nhau nghe các câu văn hay, giúp nhau sửa
lỗi trong bài; sau đó học sinh tự sửa lỗi và làm lại những bài tập chưa đạt yêu cầu
vào vở học của mình để lần sau rút kinh nghiệm.
Giải pháp 4. Sự linh họat, sáng tạo của giáo viên trong việc kiểm tra đánh
giá kết quả học tập của học sinh trong bộ môn Ngữ văn.


10

Dạy học mà khơng kiểm tra, đánh giá thì khơng thấy được hiệu quả học tập.
Kiểm tra đánh giá mà khơng hiệu quả thì cũng khơng có ý nghĩa. Vậy làm thế nào
để việc kiểm tra đánh giá được hiệu quả? Trước hết là đòi hỏi sự linh hoạt, sáng
tạo của giáo viên trong kiểm tra đánh giá. Để thực hiện giải pháp này, giáo viên
phải linh hoạt, sáng tạo trong việc xây dựng đề kiểm tra, trong việc lựa chọn hình
thức kiểm tra. Việc lựa chọn hình thức kiểm tra , bản thân đã trình bày trong giải
pháp 1. Ở đây, tôi chỉ bàn đến việc xây dựng đề kiểm tra. Để xây dựng đề kiểm
tra, đánh giá đúng năng lực, phẩm chất của học sinh, giáo viên cần căn cứ vào
mục tiêu môn học, chú ý liên hệ thực tiễn, mở rộng phạm vi kiến thức kỹ năng
được kiểm tra trong đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn của học sinh và coi
trọng sự đánh giá toàn diện về các mặt kiến thức, kĩ năng, thái độ dựa trên kết quả

thực hành vận dụng 4 kĩ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh. Với nguyên tắc
này, các bài kiểm tra chỉ yêu cầu học sinh nhớ, tái hiện kiến thức được (mức độ tư
duy nhận biết) giảm thiểu, những câu hỏi bài tập thử thách tư duy sáng tạo (mức
độ tư duy thông hiểu), năng lực vận dụng linh hoạt các tri thức kĩ năng đã học để
giải quyết hợp lí những vấn đề đặt ra trong thực tiễn được tăng cường (mức độ tư
duy vận dụng). Mặt khác, mỗi bài kiểm tra có thể sử dụng nhiều loại câu hỏi khác
nhau nhằm phân hoá các đối tượng học sinh, giúp giáo viên có được những thông
tin đầy đủ về việc học tập Ngữ văn của từng đối tượng học sinh trong lớp và từ đó
có những quyết định sư phạm chính xác, kịp thời giúp từng học sinh tiến bộ thực
sự. Đổi mới đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn của học sinh ln dựa trên
quan điểm tích cực hố hoạt động học tập của học sinh (với ý nghĩa học sinh tự
giác, chủ động, linh hoạt trong lĩnh hội và vận dụng kiến thức kỹ năng). Mỗi một
đề kiểm tra đều cố gắng tạo điều kiện cho tất cả các đối tượng học sinh được suy
nghĩ, tìm tịi, khám phá... để có thể hiểu, cảm, vận dụng tốt các kiến thức, kỹ năng
về Văn, Tiếng Việt, Làm văn vào quá trình thực hiện bài kiểm tra. Đặc biệt chú
trọng kiểm tra hoạt động nghĩ (tư duy), làm (thực hành) của học sinh. Bản thân tôi
luôn cố gắng linh hoạt trong việc xây dựng đề kiểm tra mà chú trọng đến tính
thực tiễn, đặt các em vào những hoàn cảnh thực tế. Ngữ liệu kiểm tra không chỉ
lấy ở các văn bản đã học…


11

Tôi đã vận dụng linh hoạt sáng tạo trong việc huy động sản phẩm học tập của
học sinh để kiểm tra đánh giá trong bộ mơn Ngữ văn có sự tích hợp với năng lực
học tập thuộc sở trường của các em (mơn Âm nhạc, Mĩ thuật…). Bởi tâm lí học
sinh rất đơn giản, cái gì thuộc sở trường thì các em rất tự tin. Mà đa phần học sinh
ở các trường trên địa bàn huyện Tây Giang đều có năng khiếu về vẽ về hát…
Nếu các em biết vận dụng các năng khiếu ấy vào việc học tập bộ mơn Ngữ văn
thì rất tốt, các em rèn luyện được kĩ năng nói, trình bày trước tập thể, các em có

hình thức ghi nhớ bài học hiệu quả thơng qua các bức tranh, các em hiểu được nội
dung chủ đề học tập của mình thơng qua các bài hát. Vì vậy, có bài kiểm tra tơi
u cầu các em từ nội dung các văn bản đã học, em có thể tạo nên các tác phẩm
hội họa mà nhìn vào đấy người đọc có thể hình dung về tác phẩm và các em làm
theo cá nhân ở nhiều bài học khác nhau. Và điều này có thể thực hiện ở nhiều bài
học. Cũng có bài kiểm tra, tơi khuyến khích các em có thể sử dụng hình thức ca
hát theo cá nhân hoặc nhóm tổ. Ví dụ khi dạy bài “Từ ngữ địa phương…” ngoài
việc kiểm tra nội dung bài học, tơi khuyến khích các em có thể trình bày bài hát
nào đó mà có sử dụng từ ngữ địa phương. Sau khi hát xong, các em nêu ra từ ngữ
địa phương và từ tồn dân tương ứng. …(Hình thức này có thể thực hiện cá nhân
hoặc nhóm nhỏ chứ khơng nhất thiết là tập thể lớn như một số giáo viên áp dụng).
Bản thân cũng ln linh hoạt để kích thích hứng thú học tập của học sinh bằng
việc trả bài kiểm tra thường xuyên cho các em trong thời gian sớm nhất. Vì với
loại bài kiểm tra này thì thời gian trả bài rất quan trọng; bởi khi làm bài, em nào
cũng muốn biết kết quả kiểm tra của mình nhanh vì thế mà tơi ln cố gắng trả
bài kiểm tra thường xuyên cho học sinh với thời gian nhanh nhất có thể. Ví dụ
hơm nay các em làm bài kiểm tra, ngày mai các em có tiết Ngữ văn thì tơi sẽ trả
bài cho các em vào tiết học ngày mai và yêu cầu học sinh về nhà sửa bài. (Điều
này thì giáo viên thường ít chú ý thực hiện mà chỉ dừng lại ở việc trả bài đúng
thời gian qui định.)
1.4. Khả năng áp dụng của sáng kiến:


12

Đề tài này có ý nghĩa rất quan trọng đối với công việc giảng dạy bộ môn
Ngữ văn. Các giải pháp mà đề tài đưa ra rất đơn giản, dễ thực hiện và có thể áp
dụng cho nhiều đối tượng học sinh, đặc biệt đối với học sinh người dân tộc thiểu
số ở miền núi, vùng sâu, vùng xa mà đem lại hiệu quả cao.
Đề tài tôi nghiên cứu tại đơn vị thì chưa thấy ai nghiên cứu. Do vậy tơi

thực hiện đề tài này với mong muốn tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất nhằm
giúp các em học sinh học tốt bộ môn Ngữ văn. Mặc dù tôi chỉ nghiên cứu đối
tượng học sinh lớp 8 do điều kiện công tác cũng như thời gian nghiên cứu không
nhiều nhưng các giải pháp tôi đưa ra rất dễ thực hiện mà mang lại hiệu quả cao.
Đề tài này có thể áp dụng cho việc dạy học Ngữ văn nói chung ở các khối lớp
khác ở các trường học khác với nhiều đối tượng học sinh khác; đặc biệt là với các
trường Dân tộc nội trú và bán trú trên địa bàn các huyện miền núi và ở các môn
học khác vẫn có thể lựa chọn hoặc lưu ý một vài giải pháp để chỉnh sửa áp dụng
cho phù hợp với bộ mơn mình đem lại hiệu quả trong việc dạy học của mình.
1.5 Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
* Đối với học sinh:
Các em cần tăng cường rèn luyện kỹ năng đọc sách, xem báo, xem truyền
hình… trong thời gian rãnh rỗi để tích lũy vốn từ cũng như vốn sống cho bản
thân.
Trong học tập, các em phải ln có tinh thần tự học, ln có tinh thần tích cực
trong các hoạt động học tập của nhóm, của tổ, của lớp mình; cần mạnh dạn, tự tin
và có sự nhìn nhận, đánh giá đúng kết quả học tập của bản thân cũng như của bạn
bè xung quanh; cần có sự nghiêm túc, hết mình trong việc kiểm tra đánh giá kết
quả học tập.
* Đối với giáo viên:


13

Việc kiểm tra đánh giá đúng theo chuẩn năng lực rất khó so với trình độ tiếp
nhận của học sinh người dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa nên giáo
viên phải lựa chọn hình thức, nội dung kiểm tra đánh giá một cách hợp lí nhất,
chuẩn bị đủ các phương tiện dạy học (các câu hỏi, phần quà chơi trò chơi may
mắn...), chú ý đến giải pháp sử dụng trò chơi, kết hợp các sản phẩm liên môn
trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập bộ môn Ngữ văn để học sinh hứng thú

trong việc làm bài kiểm tra cũng như tham gia vào quá trình tự đánh giá kết quả
học tập; chú ý đến việc trả bài cho học sinh, các bài kiểm tra thường xuyên cố
gắng trả bài trong thời gian sớm nhất có thể để tạo hứng thú học tập cho các em.
Khi giao cho học sinh làm bất cứ việc gì, chúng ta phải chú ý kiểm tra, động
viên nhắc nhở kịp thời những việc chưa được và khen ngợi, khuyến khích những
việc làm tốt.
* Đối với nhà trường:
Chun mơn nhà trường cần theo dõi sát sao và có sự động viên, khen thưởng
kịp thời và nhân rộng việc thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá hiệu quả.
Nhà trường khi tiến hành công tác dự giờ các tiết dạy của giáo viên cần có
những góp ý, đánh giá kịp thời để giáo viên biết được những điểm mạnh (đặc biệt
là trong việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh) mà phát huy cũng
như khắc phục những điểm chưa được để đem lại hiệu quả giảng dạy cao nhất.
1.6 Hiệu quả sáng kiến mang lại:
Trong quá trình tiến hành thực nghiệm, điều tra phát hiện, khắc phục sai sót
của giáo viên và học sinh, tơi đã áp dụng các giải pháp của đề tài “Vận dụng linh
hoạt các hình thức kiểm tra đánh giá trong dạy học Ngữ văn 8” ở lớp 8/1, 8/2 và
8/3 trường PTDTNT THCS Tây Giang năm học 2020-2021 đã thu được kết quả
rất khả quan.


14

Tôi thực hiện việc điều tra về thực trạng kiểm tra, đánh giá trong dạy học
bộ môn Ngữ văn với đối tượng học sinh khối 8 trường PTDTNT THCS Tây
Giang (vào đầu năm học trước khi áp dụng giải pháp và sau khi áp dụng các giải
pháp) và thu được kết quả như sạu:
- Kết quả khảo sát học sinh: (Tỉ lệ: %)
Thời gian
Trước


Nội dung khảo sát Rất thích
thử Em có u thích/ 5

nghiệm
(đầu

Bình thường

Khơng thích

55

45

30

0

hứng thú với các
năm

học)

hình

thức,

nội


dung

kiểm

tra

đánh giá trong dạy
học bộ môn Ngữ
văn hiện nay

Sau

thử

70

nghiệm (sau
khi đã áp
dụng

các

giải pháp)
Chúng ta có thể thấy rõ hơn hiệu quả của sáng kiến thể hiện trong bảng so sánh
sau của học sinh lớp 8/1, 8/2 và 8/3 năm học 2020-2021 (trước và sau khi áp dụng
các giải pháp của đề tài). Kết quả quan sát bài kiểm tra khảo sát đầu năm khi chưa
áp dụng giải pháp và kết quả bài kiểm tra cuối học kỳ 1 như sau:
Mức độ

Bài làm tốt, khá

(>= 6,5 điểm

Bài làm đạt yêu Bài làm chưa đạt,
cầu (5->6,3 điểm) mắc nhiều lỗi
(<5 điểm)

Trước thử nghiệm 13,9%

37,1%

49%


15

(bài khảo sát đầu
năm)

Sau thử nghiệm

26,7%

52,4%

20,9%

(bài kiểm tra học
kỳ)
Qua kết quả quan sát trên, ta nhận thấy rằng sau khi áp dụng các giải pháp
trên thì chất lượng bài kiểm tra học kỳ của học sinh được nâng lên rõ rệt: số

lượng bài làm đạt yêu cầu trở lên của học sinh tăng cao, các bài làm chưa đạt yêu
cầu thì giảm đi rất nhiều từ 49% trong tổng số bài xuống còn 20,9% trong tổng số
bài. Chất lượng bài kiểm tra học kỳ tăng lên đồng thời kéo theo chất lượng bộ
mơn Ngữ văn cũng tăng lên.
Đó là kết quả so sánh với bài kiểm tra cuối học kỳ 1 theo đề kiểm tra của
sở giáo dục. Còn thực tế kết quả các bài kiểm tra thường xuyên và bài kiểm tra
giữa kì của các em học sinh khối 8 trong học kỳ 1 và học kỳ 2 thì chất lượng các
bài kiểm tra rất cao: các bài làm chưa đạt (dưới 5) chỉ chiếm 1,5%; các bài làm
đạt yêu cầu chỉ chiếm 11,1%; còn bài làm tốt, khá chiếm 87,4%. Mặc dù ban đầu
khi nghiên cứu đề tài, bản thân chỉ có ý định áp dụng cho khối 8, nhưng trong quá
trình dạy học của mình khi dạy lớp 9, tôi vẫn áp dụng các giải pháp này và thấy
kết quả học tập của học sinh cũng tăng lên. Bởi muốn đổi mới trong kiểm tra
đánh giá thì giáo viên phải đổi mới trong phương pháp dạy học. Kết quả của đề
tài còn thể hiện ở việc học sinh tôi hướng dẫn tham gia ở các hội thi thu được kết
quả cao. Giải nhất Hội thi “Học văn-văn học” cấp huyện và giải 3 cấp tỉnh. Ba
em trong đội học sinh giỏi môn Ngữ văn tôi bồi dưỡng đạt giải cao ở cấp huyện
và đều tham gia kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh, trong đó 1 em đạt giải 3 và 1 em đạt


16

giải khuyến khích cấp tỉnh. Kết quả này cũng một phần nhờ vào việc thực hiện
giải pháp của đề tài khuyến khích được sự nỗ lực học tập của học sinh.
Qua phân tích kết quả trên, bản thân nhận thấy lợi ích thu được từ việc áp
dụng sáng kiến này khá cao: học sinh tìm được hứng thú khi thực hiện kiểm tra,
đánh giá trong việc học Ngữ văn, học sinh biết được phương pháp tự học cho
mình, các em mở rộng được vốn từ, tích cực hơn trong học tập, biết hợp tác làm
việc theo nhóm; biết tự đánh giá kết quả học tập của mình cũng như của các bạn;
rèn luyện được đầy đủ 4 kĩ năng nghe, nói, đọc, viết và quan trọng hơn cả là kết
quả học tập bộ môn Ngữ văn của các em được nâng lên rõ rệt so với khi chưa áp

dụng giải pháp trong sáng kiến. Đặc biệt là các giải pháp trong đề tài có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc học tập bộ môn Ngữ văn đối với tất cả giáo viên và học
sinh trung học cơ sở mà nhất là đối tượng học sinh trên địa bàn huyện Tây Giang.
2. Những thông tin cần được bảo mật - nếu có: Khơng
3. Danh sách những thành viên đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng
sáng kiến lần đầu - nếu có:
TT

Họ và tên

Nơi cơng tác

Nơi áp dụng sáng kiến

Ghi chú

4. Hồ sơ kèm theo (Bản mô tả nội dung sáng kiến có thể minh họa bằng
các bản vẽ, thiết kế, sơ đồ, ảnh chụp mẫu sản phẩm... - nếu có)
Những hình ảnh minh họa cho đề tài.


17


18


19

Các sản phẩm học tập minh họa cho hình thức kiểm tra được chuẩn bị ở nhà

theo nhóm và trình bày sản phẩm trước lớp


20


21

Các sản phẩm kiểm tra của bài học “Thuyết minh về danh lam thắng cảnh;
thuyết minh về một phương pháp, cách làm”.


22

Các sản phẩm học tập theo sơ đồ tư duy.


23

Các sản phẩm tranh minh họa cho bài học.
Hình ảnh minh họa cho hình thức kiểm tra theo nhóm hoặc cá nhân (thực hiện
ở nhà) và trình bày tại lớp.


24

Hình ảnh trị chơi đóng vai cơ giáo
Đề kiểm tra
* Kiểm tra 15 phút:
Ma trận đề:


Tên Chủ đề

Nhận biết

Thông hiểu

Vận dụng

Cộng

Cấp độ thấp Cấp độ cao
1. Đọc hiểu
- Văn bản
truyện(tích
hợp Tiếng
Việt)

-Nhận biết
PTBĐ, thán
Hiểu về
từ, trường từ
một hình
vựng
ảnh trong
VB

- Trình bày
suy nghĩ về
thông điệp từ

VB

Số câu: 5
Số điểm:10


25

Số câu : 5

Số câu: 3

Số câu: 1

Số câu: 1

Số điểm : 10 Số điểm: 4

Số điểm: 3 Số điểm : 3

Tỉ lệ %: 100

TL: 30%

TL: 40%

TL: 30%

Đề: Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Có một chàng trai nọ không thể lo được cho mẹ già, anh cảm thấy bà như một

gánh nặng thực sự khi mỗi ngày phải chăm lo cho từng miếng cơm, cốc nước, bà
đã già và cũng khơng cịn làm được gì để có thêm thu nhập nữa, nên anh chợt
nghĩ có lẽ sẽ tiết kiệm được thời gian và một khoản chi phí nếu như có thể mang
bà vào núi. Rồi chàng trai quyết định làm vậy. Tối đến, anh nói với mẹ rằng anh
muốn đưa bà đi dạo. Anh cõng bà trên lưng của mình và đưa bà đi theo con
đường núi, anh cứ thế đi mãi, đi mãi, anh muốn chắc chắn rằng bà sẽ không thể
trở về nhà được nữa.
Bất chợt, chàng trai phát hiện mẹ mình đang đánh dấu đường bằng những hạt đậu
khô. Trong cơn tức giận, anh lớn tiếng hỏi:
- Này! Mẹ đang làm gì thế?
Bà mẹ nhẹ nhàng trả lời:
- Mẹ sợ con sẽ bị lạc nếu không nhớ đường về nhà!
Cậu con trai ứa nước mắt, quỳ xuống ôm chân và xin lỗi mẹ.
(Theo Kannewyork)
Câu 1. (2,0 điểm) Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là gì?
Câu 2. (1,0 điểm) Tìm các từ ngữ thuộc trường từ vựng bộ phận cơ thể người
trong văn bản trên?
Câu 3. (1,0 điểm) Từ “này” trong văn bản trên là trợ từ, thán từ hay tình thái từ?
Câu 4. (3,0 điểm) Hình ảnh người mẹ trong văn bản trên hiện lên như thế nào?
Câu 5. (3,0 điểm) Theo em, văn bản trên muốn gởi tới mọi người thơng điệp gì?
Hướng dẫn chấm:

Câu
1
2
3
Câu 4:

Nội dung cần đạt
Biểu điểm

Phương thức biểu đạt chính: Tự sự
2,0
Các từ ngữ thuộc trường từ vựng bộ phận cơ 1,0
thể người: lưng, chân, mắt
Từ “này” thuộc: Thán từ
1,0


×