Tải bản đầy đủ (.pdf) (198 trang)

Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật doanh nghiệp việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.14 MB, 198 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THANH

ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, 2021


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THANH

ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 9.38.01.07

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Hồ Ngọc Hiển
2. TS. Nguyễn Văn Cƣơng



Hà Nội, 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác. Các số liệu,
thông tin, tài liệu tham khảo trong luận án có xuất xứ rõ ràng, được trích dẫn
đầy đủ.
Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của mình.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Thanh


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành luận án này, Tơi đã nhận được sự quan tâm, chỉ dạy và
giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo, đồng nghiệp, bạn bè và gia đình.
Tơi xin trân trọng bày tỏ lịng biết ơn tới các thầy giáo hướng dẫn là
TS. Hồ Ngọc Hiển và TS. Nguyễn Văn Cương đã nhiệt tình chỉ bảo, giúp đỡ
và động viên tơi trong suốt q trình học tập cũng như hồn thiện luận án.
Tơi xin kính gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Lãnh đạo học viện Khoa học
xã hội, các thầy cô giáo đã chỉ bảo, góp ý cho Tơi trong việc học tập, nghiên
cứu và hồn thiện luận án.
Tơi xin cảm ơn anh chị em đồng nghiệp tại Khoa Luật Trường Đại học
Vinh, bạn bè đã hỗ trợ tơi rất nhiều trong việc tìm kiếm tư liệu, cổ vũ tơi trong
suốt q trình học tập.
Cuối cùng, Tơi xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè
đã hỗ trợ, hết sức tạo điều kiện thuận lợi cho Tơi trong q trình học tập.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Thị Thanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU ....................................................................... 8
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngồi nước............................... 8
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu . 25
1.3. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu và cơ sở lý thuyết
nghiên cứu. .............................................................................................. 30
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................... 32
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI
DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP................................ 34
2.1. Khái niệm đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ...................... 34
2.2. Bản chất pháp lý của đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ..... 47
2.3. Vai trò của đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ..................... 57
2.4. Sự chi phối của các lý thuyết pháp lý tới lựa chọn mơ hình đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp ..................................................... 58
2.5. Mơ hình đại diện theo pháp luật của một số nước trên thế giới ...... 64
2.6. Các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp ........................................................................................... 71
TIẾU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................... 82
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA
DOANH NGHIỆP ......................................................................................... 83
3.1.Thực trạng pháp luật về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ...... 83
3.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về đại diện theo pháp luật của

doanh nghiệp ......................................................................................... 123
3.3. Đánh giá những ưu điểm và tồn tại trong pháp luật doanh nghiệp
và thực tiễn thực hiện pháp luật về đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp .................................................................................................... 137


TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ............................................................................. 141
Chƣơng 4: ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP ..................... 142
4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về đại diện của doanh nghiệp ........ 142
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp ......................................................................................... 148
4.3. Giải pháp cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp ........................................................................... 165
TIỂU KẾT CHƢƠNG 4 ............................................................................. 174
KẾT LUẬN .................................................................................................. 175
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 177


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật dân sự:

BLDS

Ban kiểm sốt:

BKS


Cơng ty cổ phần:

CTCP

Công ty hợp danh:

CTHD

Công ty trách nhiệm hữu hạn:

Công ty TNHH

Đại diện theo pháp luật:

ĐDTPL

Đại hội đồng cổ đông

ĐHĐCĐ

Hội đồng quản trị:

HĐQT

Tổng Giám đốc:

TGĐ

Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp: GCNĐK
Hội đồng thành viên:


HĐTV

Luật Doanh nghiệp:

LDN

Luật Phá sản:

LPS


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống xã hội, doanh nghiệp có vai trị quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế của quốc gia và đời sống của người dân. Để mở rộng kinh doanh và
phát triển bền vững, các doanh nghiệp cần có chiến lược kinh doanh phù hợp
cùng với cơ chế quản trị doanh nghiệp có hiệu quả. Cơ chế này trước hết là sự
phân vai của các chủ thể tham gia vào quá trình ra quyết định và thực thi quyết
định trong doanh nghiệp mà trước hết là việc xác định đúng vai trị của người đại
diện. Quy mơ doanh nghiệp càng lớn, u cầu đó càng cấp thiết và vai trị của
người ĐDTPL càng trở nên quan trọng hơn vì họ là người thay mặt cho doanh
nghiệp thực hiện các giao dịch với các đối tác bên ngoài.
Đại diện là việc một người (người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của
người khác (người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm
vi thẩm quyền nhất định (còn gọi là phạm vi đại diện). Đây là chế định pháp luật
quan trọng đối với các chủ thể mà bản thân khơng thể tự mình tham gia quan hệ
dân sự, trong đó có các doanh nghiệp.
Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là việc người đại diện nhân
danh và vì lợi ích của doanh nghiệp xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với bên

thứ ba. Đây là chế định quan trọng đối với quá trình hoạt động của các doanh
nghiệp. Doanh nghiệp là chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật nhưng mọi
sự tham gia này đều phải thông qua người đại diện (kể từ khi được thành lập cho
đến khi chấm dứt hoạt động). Chính vì vai trị quan trọng như vậy mà các văn
bản pháp luật như BLDS và LDN, LPS đều quy định về ĐDTPL của doanh
nghiệp. Các quy định này hình thành nên một hệ thống các quy phạm pháp luật
điều chỉnh quan hệ đại diện của doanh nghiệp. Có thể thấy, tuy pháp luật hiện
nay đã quy định khá nhiều về ĐDTPL của doanh nghiệp nhưng pháp luật hiện
hành cũng bộc lộ nhiều vấn đề đáng quan tâm:
Thứ nhất, mô hình ĐDTPL của doanh nghiệp trong pháp luật doanh
nghiệp Việt Nam chưa hồn thiện, thể hiện rõ ở việc mơ hình đại diện của doanh
nghiệp chưa được xây dựng theo cơ sở lý thuyết pháp lý thống nhất,
Thứ hai, pháp luật Việt Nam chưa xác định nguyên tắc pháp lý thống nhất
chi phối các yếu tố liên quan đến mô hình ĐDTPL như: việc xác định thẩm
1


quyền và phạm vi đại diện của người đại diện trong trường hợp doanh nghiệp có
nhiều người ĐDTPL chưa rõ ràng, quyền và nghĩa vụ của người đại diện chưa
được thiết kế đầy đủ, cơ chế giám sát và trách nhiệm pháp lý của người đại diện
cần được bổ sung hồn thiện trong u cầu minh bạch thơng tin và tránh xung
đột lợi ích trong quản trị doanh nghiệp. Mặt khác, thực tiễn phát sinh những
trường hợp cần có hướng dẫn pháp lý cần thiết như: xác định những loại giao
dịch đòi hỏi phải được sự chấp thuận của tất cả các ĐDTPL hay hiệu lực của hợp
đồng mà doanh nghiệp ký với khách hàng trong trường hợp người đại diện phản
đối văn bản mà người đồng đại diện khác đã ký kết. Theo quy định của pháp luật
doanh nghiệp hiện nay, việc xác định thẩm quyền của người ĐDTPL dựa theo
Điều lệ công ty chưa đảm bảo quyền. lợi ích hợp pháp của bên thứ ba khi nội
dung các điều luật gây khó khăn cho bên thứ ba khi phải rà soát Điều lệ đối tác
để đảm bảo hợp đồng không vượt quá phạm vi đại diện.

Thứ ba, cơ chế kiểm soát và trách nhiệm pháp lý của người ĐDTPL chưa
được quy định chặt chẽ dẫn tới hệ quả trên thực tế có nhiều trường hợp người
ĐDTPL lợi dụng sự lỏng lẻo trong quy định kiểm soát nội bộ doanh nghiệp thiết
lập giao dịch tư lợi cho bản thân. Đồng thời, các quy định của pháp luật chưa
đầy đủ dẫn tới việc thực hiện pháp luật trên thực tế chưa đạt hiệu quả tối ưu. Ví
dụ như các vấn đề liên quan tới thẩm quyền giám sát người đại diện của BKS
trong doanh nghiệp, nghĩa vụ của người đại diện trong giai đoạn doanh nghiệp
có nguy cơ phá sản…
Những vấn đề trên cho thấy việc nghiên cứu có hệ thống về ĐDTPL góp
phần hồn thiện cơ cấu quản trị doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật trên thực tế. Với mong muốn góp phần giải quyết những vấn đề thực
tiễn kể trên trong điều chỉnh pháp luật, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài: “Đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về ĐDTPL của doanh nghiệp ở Việt
Nam hiện nay.
2


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án có các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Hệ thống một số vấn đề lý luận về ĐDTPL của doanh nghiệp bao gồm:
khái niệm; bản chất; vai trò ĐDTPL của doanh nghiệp; các lý thuyết pháp lý cơ
bản có liên quan đến ĐDTPL của doanh nghiệp.
- Tìm hiểu mơ hình ĐDTPL của doanh nghiệp ở một số nước trên thế giới
và sự ảnh hưởng của các lý thuyết pháp lý cơ bản liên quan đến đại diện của
doanh nghiệp. Lý giải được những điểm giống và khác nhau giữa quy định của

pháp luật các quốc gia về vấn đề này.
- Phân tích quy định của pháp luật hiện hành và thực trạng thực hiện pháp
luật về ĐDTPL của doanh nghiệp ở Việt Nam. Qua đó, chỉ ra những hạn chế, bất
cập trong quy định pháp luật và thực hiện pháp luật, đánh giá nguyên nhân của
các hạn chế đó .
- Đề xuất các giải pháp nhằm hồn thiện quy định của pháp luật về
ĐDTPL của doanh nghiệp trong BLDS, LDN, LPS trong thời gian tới.
- Kiến nghị những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về ĐDTPL của doanh nghiệp ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án hướng đến đối tượng nghiên cứu là:
- Các lý thuyết pháp lý cơ bản đã được các nhà nghiên cứu trong và ngồi
nước cơng bố liên quan đến đại diện của doanh nghiệp, bao gồm các lý thuyết về
bản chất pháp lý của doanh nghiệp và các lí thuyết về đại diện.
- Các quan điểm khoa học về nguyên tắc pháp lý trong từng vấn đề chi tiết
có liên quan đến mơ hình ĐDTPL như: phạm vi thẩm quyền, bảo vệ quyền lợi
người thứ ba trong giao dịch vượt quá thẩm quyền do người đại diện của doanh
nghiệp xác lập, quyền và nghĩa vụ cũng như có chế giám sát người đại diện.
- Các quy định của pháp luật của một số quốc gia như Anh, Mỹ, Pháp,
Đức, Trung Quốc về ĐDTPL của doanh nghiệp.
- Các quy định của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay về ĐDTPL
của doanh nghiệp.
- Thực tiễn thực hiện pháp luật về ĐDTPL của doanh nghiệp ở Việt Nam
hiện nay.
3


3.2.


Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về nội dung
Luận án chỉ tập trung nghiên cứu về ĐDTPL của doanh nghiệp với phạm

vi hẹp là hình thức đại diện được pháp luật chỉ định có quyền nhân danh cho
doanh nghiệp thực hiện các giao dịch dân sự và chịu trách nhiệm với cơ quan
nhà nước, với các bên thứ ba. Những người đại diện khác của doanh nghiệp như:
đại diện thương mại độc lập hay đại lý, nhân viên đại diện cho doanh nghiệp
trong hoạt động kinh doanh không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án. Do đó,
trong luận án, thuật ngữ người đại diện của doanh nghiệp được đề cập chính là
người ĐDTPL. Bên cạnh đó, phạm vi doanh nghiệp được xác định gồm các loại
hình cơng ty (Công ty TNHH, CTCP, CTHD), không bao gồm doanh nghiệp tư
nhân bởi xét về bản chất, đây là loại hình doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ
đồng thời là người ĐDTPL.Do đó, nghiên cứu về ĐDTPL của DNTN khơng phù
hợp với bản chất quan hệ đại diện: người đại diện hoạt động nhân danh và vì lợi
ích của người được đại diện. Thuật ngữ doanh nghiệp trong luận án này được
hiểu giới hạn là các loại hình cơng ty. Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật
doanh nghiệp được xác định bao gồm LDN và LPS bởi các văn bản luật này quy
định về tổ chức hoạt động và chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu về khơng gian
Nghiên cứu về lí luận và các quy định của pháp luật về ĐDTPL được tác
giả nghiên cứu trong phạm vi rộng, bao gồm quy định của pháp luật một số quốc
gia theo hệ thống pháp luật thông luật (Comon Law) với đại diện là Anh, Mỹ; hệ
thống pháp luật Châu Âu lục địa (Civil Law) với đại diện là Pháp, Đức, Nhật và
quốc gia pháp luật xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc. Việc nghiên cứu pháp luật
của các nước được nghiên cứu điểm xuyết theo từng chủ đề chỉ nhằm mục đích so
sánh, tham khảo kinh nghiệm, còn Luận án cơ bản chỉ tập trung nghiên cứu quy
định của pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về ĐDTPL của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian
Thời gian thực hiện đề tài từ năm 2016 đến nay, do đó, Luận án nghiên

cứu quy định của pháp luật về đại diện trong văn bản pháp luật doanh nghiệp có
hiệu lực trong thời gian đó, bao gồm BLDS năm 2015, LDN năm 2014, LPS
năm 2014, LDN năm 2020 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2021) và các văn bản dưới
4


luật hướng dẫn các văn bản luật trên. Bên cạnh đó, thực tiễn thực hiện pháp luật
liên quan đến ĐDTPL được nghiên cứu theo mốc thời gian từ năm 2016 đến nay.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận là phép biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác – Lê Nin.
Luận án kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu phổ biến như:
-

Phương pháp mô tả, phương pháp tổng hợp là các phương pháp chủ đạo

được tác giả sử dụng tại Chương 1 nhằm trình bày những kết quả nghiên cứu
trong và ngoài nước liên quan đến đại diện của doanh nghiệp.
-

Phương pháp lịch sử, phương pháp luật học so sánh, phương pháp phân

tích được sử dụng để giải quyết nhiệm vụ tìm hiểu ưu, nhược điểm của các quy
định của pháp luật liên quan đến ĐDTPL của doanh nghiệp.
-

Phương pháp phân tích, phương pháp luật học so sánh và phân tích tình

huống thực tiễn được sử dụng thường xun tại Chương 3, Chương 4 nhằm làm nổi
bật tình hình thực hiện pháp luật về ĐDTPL của doanh nghiệp và nghiên cứu đề

xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật.
5.

Những điểm mới của luận án

-

Luận án hệ thống hóa những lý thuyết pháp lý hiện nay ảnh hưởng đến

việc xác định mơ hình ĐDTPL của doanh nghiệp. Lý thuyết được tập trung
nghiên cứu gồm:
Các lý thuyết về bản chất pháp lý của doanh nghiệp: lý thuyết giả tưởng
(Fiction Theory), Lý thuyết hiện thực (Realistic Theory); lý thuyết hợp đồng
(Nexus of Contract), Lý thuyết tổ chức (Organic Theory), lý thuyết về đại diện
(Agency Theory) có liên quan đến vấn đề đại diện của doanh nghiệp.
Luận án hệ thống hóa nội dung của các lý thuyết nhằm lý giải cơ sở lý
luận lý giải mơ hình ĐDTPL trong quy định của pháp luật doanh nghiệp một số
quốc gia. Từ nền tảng lý luận này, luận án làm rõ mơ hình ĐDTPL của doanh
nghiệp hiện tại của Việt Nam gần với cơ sở lý thuyết nào và đánh giá các ưu,
nhược điểm của quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, các nguyên tắc điều chỉnh
quan hệ pháp luật về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được làm rõ.
Những lý thuyết và nguyên tắc này là căn cứ để đánh giá mức độ hoàn thiện của
pháp luật doanh nghiệp Việt Nam.
5


-

Luận án phân tích thực trạng quy định của pháp luật doanh nghiệp Việt


Nam hiện nay về các khía cạnh liên quan đến ĐDTPL của doanh nghiệp như:
điều kiện trở thành người ĐDTPL, thẩm quyền đại diện, quyền và nghĩa vụ của
người đại diện, cơ chế giám sát và trách nhiệm pháp lý của người ĐDTPL. Các
vấn đề trên được phân tích từ các quy định của pháp luật doanh nghiệp là LDN
năm 2014, LDN năm 2020 và có sự liên hệ với quy định trong BLDS năm 2015,
LPS năm 2014 bởi BLDS quy định chung về quan hệ đại diện của pháp nhân và
LPS quy định về cách thức chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp. Các vấn đề này
cũng được nghiên cứu trong sự đối sánh với quy định tương tự trong pháp luật
một số nước trên thế giới. Cụ thể là:
(i)

Luận án chỉ ra những điểm hạn chế trong việc xác định thẩm quyền đại

diện, phân định thẩm quyền đại diện trong trường hợp có nhiều người ĐDTPL
dẫn tới sự xung đột thẩm quyền và gây thiệt hại cho người thứ ba.
(ii)

Luận án làm rõ quy định của pháp luật về trách nhiệm của người ĐDTPL

của doanh nghiệp và doanh nghiệp đối với bên thứ ba (nhất là trong bối cảnh quy
định của BLDS năm 2015 đã có sự sửa đổi, bổ sung so với BLDS năm 2005)
nhằm đề xuất thay đổi theo hướng bảo vệ tốt hơn cho người thứ ba ngay tình.
(iii)

Trên cơ sở phân tích và làm rõ những quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm pháp

lý của người ĐDTPL, luận án chỉ ra những điểm cần bổ sung trong LDN, LPS
nhằm hoàn thiện cơ chế giám sát hoạt động của người ĐDTPL.
-


Luận án làm rõ một số vướng mắc từ thực tiễn thực hiện pháp luật liên quan

đến ĐDTPL. Từ đó, kiến nghị một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật, đặc biệt trong bối cảnh LDN năm 2020 mới có hiệu lực thi hành.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
-

Về mặt lí luận, luận án đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận gồm các lý

thuyết là cơ sở cho quan hệ ĐDTPL của doanh nghiệp, các yếu tố trong mơ
hình đại diện của doanh nghiệp, bao gồm: chức danh người ĐDTPL trong cơ
cấu quản trị doanh nghiệp, phạm vi thẩm quyền đại diện, quyền và nghĩa vụ của
người đại diện, cơ chế kiểm soát quyền hạn của người đại diện đặc biệt trong
bối cảnh mỗi doanh nghiệp có thể có nhiều người ĐDTPL. Những vấn đề trên
được so sánh với pháp luật của một số nước nhằm làm rõ ưu, nhược điểm của

6


quy định của pháp luật Việt Nam và rút ra những kinh nghiệm mang tính gợi
mở cho việc hồn thiện quy định của pháp luật.
- Về thực tiễn: từ việc đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về ĐDTPL
của doanh nghiệp thông qua những vụ việc, tranh chấp, luận án đề xuất các giải
pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật. Đây sẽ là tài liệu tham khảo có giá
trị đối với các nhà nghiên cứu; người quản lý doanh nghiệp… trong hoạt động
nghiên cứu và làm việc. Các thơng tin được hệ thống trong Luận án có giá trị là
tài liệu giảng dạy và học tập hữu ích trong chuyên ngành Luật kinh tế.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết nghiên cứu

Chương 2: Những vấn đề lý luận pháp luật về đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp
Chương 3: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Chương 4: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

7


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
NGHIÊN CỨU

1.1.

Tình hình nghiên cứu trong nƣớc và ngồi nƣớc
Quan hệ đại diện nói chung cũng như mơ hình ĐDTPL của doanh nghiệp

nói riêng đã được nhắc đến trong nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học pháp lý
trong và ngoài nước. Sở dĩ đây là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm là
bởi quan hệ này gắn bó chặt chẽ, ảnh hưởng rất lớn tới đời sống dân sự, thương
mại của các chủ thể nhất là các doanh nghiệp.
Có thể chia các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đại diện và mơ hình ĐDTPL
của doanh nghiệp của các học giả trong nước và ngoài nước thành các nhóm sau:
1.1.1. Các nghiên cứu về lý thuyết pháp lý liên quan đến vấn đề đại diện của
doanh nghiệp
Có nhiều lý thuyết pháp lý liên quan đến bản chất pháp lý của cơng ty. Đó
là các lý thuyết giả tưởng (Fiction Theory), lý thuyết hiện thực (Realistic
Theory), lý thuyết mục đích (Purpose Theory), lý thuyết biểu tượng (Symbol

Theory), lý thuyết nhượng bộ (Concession Theory), lý thuyết tổ chức (Organic
Theory) và lý thuyết hợp đồng (Nexus of Contract). Tác giả Ngơ Huy Cương
trong Giáo trình Luật Thương mại phần chung và thương nhân [9,tr 166], tác giả
Nguyễn Ngọc Điện trong Giáo trình Luật Dân sự tập 1 - Tổng quan [18, tr 110112]; Martin Petrin trong bài viết “Reconceptualizing the Theory of the Firm From Nature to Function” (Nhận thức lý thuyết về công ty - từ bản chất đến chức
năng) [77] và Mayank Shekhar trong “Theories juristic personality” (Các lý
thuyết về tư cách pháp nhân)[78] đã hệ thống hóa, giới thiệu về các lý thuyết đó
khá đầy đủ. Theo đó:
Lý thuyết giả tưởng (Fiction Theory) được đề cập từ thế kỷ XIX, được nhiều
luật gia nổi tiếng ủng hộ, đặc biệt là Von Savigny, Coke, Blackstone và Salmond
[78]. Theo lý thuyết này, pháp nhân là một thực thể nhân tạo được pháp luật tạo
dựng nhằm tạo thuận lợi cho việc thiết lập các quan hệ giữa nhóm với người thứ
ba. Hay nói cách khác, pháp nhân khơng tự tồn tại mà sự xuất hiện của nó chỉ có
thể xảy ra khi có lệnh hoặc được sự cho phép của cơ quan công quyền. Doanh
nghiệp với tư cách pháp nhân được nhìn nhận là một thực thể hư cấu thiếu ý chí
8


và khả năng phán đoán, khả năng hành động độc lập theo ý chí của nó. Do đó,
doanh nghiệp phải có người đại diện – chủ thể có thẩm quyền, địa vị pháp lý
theo luật định nhằm thực hiện hành động của doanh nghiệp. Hệ quả tiếp theo là
doanh nghiệp có tư cách pháp nhân khơng có khả năng chịu trách nhiệm pháp lý
ngoài hợp đồng. Đối với trách nhiệm hình sự, các cá nhân có liên quan trực tiếp
phải chịu trách nhiệm về các hành động vi phạm pháp luật hình sự [9,tr 166],
Evgenij Smirnov, Oleg Jastrebov trong nghiên cứu của mình về “Value of the
Fiction Theory for Understanding the “Legal Person” (Giá trị của lý thuyết
giả tưởng để hiểu về pháp nhân) đã bình luận: Lý thuyết này đã đặt cơ sở lý
luận cho việc phải đăng ký danh tính doanh nghiệp trong quy định của pháp
luật tư [69, tr 912].
Theo lý thuyết nhượng bộ (Concession Theory), sự tồn tại của công ty
xuất phát từ sự nhượng bộ của nhà nước. Lý thuyết nhượng bộ thường được coi

là con đẻ của lý thuyết giả tưởng vì theo nội dung đó thì các cơng ty khơng có tư
cách pháp nhân trừ khi được nhà nước thừa nhận. Hay nói cách khác, chỉ những
chủ sở hữu hoặc những người đầu tư có đặc quyền kinh doanh và họ đã nhượng
quyền đó cho cơng ty khi được Nhà nước cơng nhận[9,tr 167], [78].
Tương tự như các lý thuyết giả tưởng và nhượng bộ, lý thuyết mục đích
(Purpose Theory) tuyên bố rằng chỉ con người mới có thể là chủ thể của pháp
luật và có năng lực. Pháp nhân hồn tồn khơng phải là con người, khơng được
xây dựng quanh một nhóm người mà chỉ dựa trên mục đích cụ thể. Tài sản của
pháp nhân không thuộc về bất kỳ ai nhưng có thể bị ràng buộc bởi một số quy
định nhất định [9,tr 167].
Lý thuyết biểu tượng ((Symbol Theory) “xem công ty là một biểu tượng cho
sự liên kết của những cá nhân tạo thành cơng ty” [9, tr167], đó là các thành viên
và người đại diện của nó. Hay nói cách khác, những người đại diện cho công ty
và công ty là một. Quan điểm này phù hợp với nguyên tắc vén bức màn công ty
(lifting of the corporate veil). Theo đó, trong một số trường hợp Tịa án sẽ phá bỏ
hoặc vén bức màn công ty (chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn về tài sản) và xem
xét những người đứng sau công ty, những người thực sự hưởng lợi từ sự hư cấu
của công ty [96].

9


Trái ngược với các lý thuyết này, lý thuyết hiện thực (Realistic Theory)
quan niệm pháp nhân tồn tại trên thực tế một cách khách quan và luật pháp chỉ
đơn thuần cơng nhận sự tồn tại đó. “Nhóm có ý chí riêng của mình, phân biệt ý
chí với các thành viên và chính ý chí đó là cơ sở của quan niệm về chủ thể của
quan hệ pháp luật: cá nhân có ý chí, vậy cá nhân có ý chí là chủ thể của quyền
và nghĩa vụ , nhóm cũng có ý chí, vậy nhóm cũng là chủ thể của quyền và nghĩa
vụ, với tư cách là một pháp nhân” [18, tr111].
Lý thuyết tổ chức (Organic Theory) tương tự với lý thuyết hiện thực khi

quan niệm rằng: Doanh nghiệp là một thực thể tồn tại trên thực tế, có ý chí và
hành động thông qua các cá nhân là các cơ quan của nó, tương tự như con người
tự nhiên. Chính sự tổ chức chặt chẽ của pháp nhân khiến cho hoạt động của nó
mang dáng dấp của hoạt động một thực thể sống có khả năng nhận thức, tự điều
khiển, giống như một cá nhân. Do đó, trong doanh nghiệp, các cơ quan của công
ty, cụ thể là HĐQT và ĐHĐCĐ, khi hành động trong giới hạn quyền hạn do
Điều lệ công ty quy định, không chỉ được coi là đại diện của cơng ty mà cịn
được coi là chính cơng ty đang hành động [87]. Phân tích này được học giả Ross
Grantham đề cập trong bài viết “Attributing Responsibility to Corporate Entities:
A Doctrinal Approach” (Trách nhiệm pháp lý đối với doanh nghiệp: cách tiếp
cận khoa học)
Lý thuyết mối liên hệ hợp đồng (Nexus of Contract) cho rằng công ty là
một giả tưởng pháp lý bao gồm mạng lưới các quan hệ hợp đồng giữa những
người liên quan với nhau như nhà đầu tư, người cung cấp nguyên vật liệu, vốn,
người lao động cũng như các khách hàng. Theo lý thuyết này, những người điều
hành công ty được xem là nhân vật trung tâm có chức năng kết hợp các nguồn
lực để tiến hành các hoạt động mạng lại lợi ích tối đa” [9, tr167].
Về cơ bản, các lý thuyết giải thích về bản chất của cơng ty, về tư cách
pháp nhân của công ty tập trung vào hai lý thuyết trái ngược nhau: lý thuyết giả
tưởng và lý thuyết hiện thực [18,tr 110]. Cịn có nhiều lý thuyết khác song mỗi
lý thuyết chỉ chiếm một vị trí nhất định trong việc giải thích và khơng bao trùm
được tồn bộ [9, tr 168]. “Luật Việt Nam đang tìm cách xây dựng không hẳn là
một quan niệm thứ ba, mà đúng hơn là kết quả sự vận dụng các quan niệm sẵn
có trong hồn cảnh Việt Nam”. “Pháp nhân trong luật Việt Nam không phải là
10


một hư cấu cũng không phải là một hiện thực” [18, tr 110,111]. Tác giả Nguyễn
Ngọc Điện đã nhận xét khái quát điều đó khi nghiên cứu về pháp nhân trong
pháp luật Việt Nam.

Bên cạnh lý thuyết về bản chất của pháp nhân, bản chất của doanh nghiệp,
khi bàn về vai trò của người đại diện, các quốc gia Phương Tây như Anh, Mỹ đề
cập tới lý thuyết đại diện (Agency Theory). Lý thuyết này xuất phát ban đầu từ
nghiên cứu của Jensen và Meckling năm 1976. Đây là các nguyên tắc được sử
dụng để giải thích các vấn đề trong mối quan hệ giữa các chủ sở hữu (người
được đại diện) và người đại diện. Trong quản trị doanh nghiệp, đó là mối quan
hệ giữa các cổ đơng cơng ty với tư cách chủ sở hữu và giám đốc công ty
(Director) với tư cách người đại diện. Rõ ràng, lý thuyết này đóng vai trị quan
trọng khi giải quyết các vấn đề trong các doanh nghiệp có sự phân chia quyền sở
hữu và quyền quản lý. Người đại diện thường có xu thế khơng bảo vệ triệt để lợi
ích của các cổ đông do những ràng buộc về nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự khi
có rủi ro kinh doanh, mong muốn duy trì lợi ích của bản thân thông qua kế hoạch
kinh doanh ngắn hạn hơn là các dự án dài hạn. Do đó, để khắc phục các nhược
điểm trên, chính sách của các cơng ty cho phép các nhà quản lý các khoản lợi ích
tài chính để tối đa hóa lợi ích của cổ đơng [76, tr 295]. Nội dung này được Lex
Donaldson, James H.Davis phân tích từ góc độ kinh tế luật trong bài viết:
“Stewardship theory or Agency Theory: CEO Governance and Shareholder
returns” (Lý thuyết quản lý hay lý thuyết đại diện: quản trị của CEO và lợi nhuận
của cổ đông) [75].
Vận dụng lý thuyết đai diện trong quản trị doanh nghiệp được Luh Luh
Lan and Loizos Heracleous phân tích trong bài viết: “Rethingking agency
theory: the view from law” (Suy nghĩ về lý thuyết đại diện: góc nhìn từ pháp
luật): “Lý thuyết hợp đồng (Contract theory) là lý thuyết nền tảng cho lý thuyết
ưu tiên quyền lực quản lý (Director Primacy Model) trong quản trị doanh
nghiệp hiện đại gần đây đang khẳng định ưu thế trước lý thuyết đại diện vốn là
bệ đỡ cho lý thuyết ưu tiên quyền lợi của cổ đơng (Shareholder Primacy
Model)”[76,tr 295].
Có thể khẳng định, từ lý thuyết ban đầu lý thuyết về đại diện, các nhà
nghiên cứu kinh tế luật và luật học đã mở rộng các lý thuyết quản trị hiện đại
11



trong doanh nghiệp nhằm giải thích cơ cấu HĐQT, BKS, các giám đốc và trách
nhiệm của họ. Các cơng trình nghiên cứu trên về lý thuyết pháp lý có ý nghĩa to
lớn trong việc phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật liên quan đến đại
diện của doanh nghiệp.
1.1.2. Mơ hình đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Xã hội càng phát triển, nhu cầu thực hiện giao lưu dân sự và kinh doanh càng
cần được thuận lợi và chuyên nghiệp hóa. Đại diện xuất hiện như là một nhu cầu tất
yếu của các chủ thể thực hiện giao dịch trong đời sống xã hội, theo đó, một chủ thể
nhân danh người khác thực hiện những hoạt động nhằm đem lại lợi ích cho người
được nhân danh trong quan hệ đó. Khi được ghi nhận trong hệ thống pháp luật,
quan hệ đại diện được điều chỉnh chi tiết, đầy đủ với nhiều dấu hiệu xác định.
Đại diện là một quan hệ pháp luật giữa các chủ thể (người được đại diện và
người đại diện) theo đó, một người (người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của một
người khác (người được đại diện) để xác lập và thực hiện một giao dịch. Người đại
diện, trong trường hợp hành động trong phạm vi thẩm quyền đại diện sẽ ràng buộc
người được đại diện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hành động đó.
Trong quan hệ đại diện, có trường hợp ĐDTPL và đại diện theo ủy quyền.
Theo đó, ĐDTPL bao gồm ĐDTPL của cá nhân và ĐDTPL của pháp nhân. Đại
diện theo pháp luật của cá nhân là việc xác lập quan hệ đại diện trong trường hợp
cá nhân không thể hoặc không được phép tự mình xác lập các giao dịch trong
đời sống dân sự (cha mẹ đại diện cho con chưa thành niên, người giám hộ đại
diện cho người được giám hộ với phạm vi đại diện được xác định theo quy định
của pháp luật). “Đại diện theo pháp luật của pháp nhân được thiết lập do bản
thân pháp nhân không phải là một con người cụ thể và do đó khơng thể tự mình
thực hiện các quyền nghĩa vụ của mình” [18,tr 141]. Do đó, chức danh người
ĐDTPL của pháp nhân được chỉ định theo quy định của Luật, theo Điều lệ của pháp
nhân hoặc quyết định của của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Những khái niệm
cơ bản này được tác giả Nguyễn Ngọc Điện phân tích trong Giáo trình Luật Dân sự,

Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh năm 2016.
Khái niệm doanh nghiệp được đề cập đến dưới góc độ pháp lý trong
nghiên cứu của tác giả Đồng Ngọc Ba, theo đó: “doanh nghiệp là một thuật ngữ
để chỉ một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định,
12


được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện
các hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp là một chủ thể pháp luật, có năng lực
để tham gia các quan hệ pháp luật, trong đó trước hết và chủ yếu là các quan hệ
kinh doanh thông qua người đại diện” [3, tr13]. Với tư cách là một tổ chức,
doanh nghiệp phải ln có người đại diện, kể từ khi được thành lập cho đến khi
chấm dứt. Trong cuốn “The Anatomy of Corporate Law: A Comparative and
Functional Approach” (Phân tích Luật doanh nghiệp: Phương pháp tiếp cận
chung) của Reinier H. Kraakman chủ biên đã tổng kết: “có 5 đặc điểm chung dễ
dàng nhận thấy trong loại hình cơng ty, bao gồm: tư cách pháp nhân, trách
nhiệm hữu hạn về tài sản, phần vốn có thể chuyển nhượng, ủy quyền quản lý cho
HĐQT và quyền sở hữu của nhà đầu tư…Có một số loại hình doanh nghiệp thiếu
một hoặc hai trong số các đặc điểm chung này” [85, tr 2].
Tại Việt Nam, một số cơng trình nghiên cứu trong nước đã giải thích rõ
hơn vai trị của người ĐDTPL của doanh nghiệp: “Người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp được ví như “cây nêu“ của doanh nghiệp để bàn dân thiên hạ
trông vào, là một cơ chế pháp lý đặc biệt quan trọng đối với doanh
nghiệp....Theo đó, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có quyền sinh
quyền sát của doanh nghiệp, ít nhất là về mặt pháp lý thể hiện ra bên ngồi.
...nếu khơng phải là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thì khơng
có quyền đương nhiên được ký kết văn bản, giao dịch với đối tác...“ [19; tr.163].
Có thể thấy, lý giải trên được tác giả Trương Thanh Đức trong cơng trình “Luận
giải về Luật Doanh nghiệp năm 2014” dựa trên quy định của pháp luật doanh
nghiệp Việt Nam. Bởi ĐDTPL là hình thức đại diện theo quy định của pháp luật,

do đó, trong văn bản pháp luật như LDN năm 2014 quy định về khái niệm này:
“Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh
nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh
nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tịa án và các quyền và nghĩa vụ
khác theo quy định của pháp luật” [111, Khoản 1 Điều 13]. Bình luận về vấn đề
này, Phạm Lâm Hải Nguyên trong luận văn thạc sĩ luật học năm 2014 về “Người
đại diện theo pháp luật của công ty theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam” đã
nhận xét: nội hàm của khái niệm này “chưa bao quát được hết vai trò và chưa
13


làm rõ được người đại diện có quyền chủ động xác lập giao dịch nhân danh
doanh nghiệp hay chỉ thực hiện giao dịch” [36, tr 90].
Trong cơng trình nghiên cứu: “Công ty, vốn, quản lý và tranh chấp theo
Luật Doanh nghiệp năm 2005”, các nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn
Đình Cung đã khẳng định phân biệt người ĐDTPL với các người quản lý của
doanh nghiệp: “người ĐDTPL là người luôn tồn tại cùng với công ty, được cử ra
để tiếp xúc, giao dịch với những người bên ngồi cơng ty (thuế gửi thơng báo,
tịa gửi giấy triệu tập, nhà cung cấp địi nợ) và ln ràng buộc cơng ty vào hoạt
động của họ khi nhân danh công ty” [6, tr 330]. Người quản lý là người được
các cổ đông ủy quyền coi sóc cơng ty hay nói một cách dễ hiểu hơn họ là thành
viên Hội đồng quản trị hay Hội đồng thành viên. Còn người điều hành thuần túy
là người chỉ đạo thực hiện công việc kinh doanh, là Giám đốc hay Tổng giám
đốc, có thể là người làm thuê theo hợp đồng lao động và được trả lương”[6; tr
332]. Trong thực tế, người ĐDTPL của công ty thường đảm nhận vai trò quản lý
hoặc điều hành trong cơng ty đó.
Cơng trình nghiên cứu: “Một số vấn đề pháp lý về nghĩa vụ của người quản
lý công ty” của học giả Đỗ Minh Tuấn đã chỉ ra sự khác nhau giữa người ĐDTPL
và người quản lý trong doanh nghiệp từ các đặc trưng như: người ĐDTPL là đại

diện theo luật quy định, ln ln gắn bó với sự tồn tại của doanh nghiệp do đó,
có quyền đại diện cho doanh nghiệp với bên thứ ba, Tòa án hay Nhà nước. Nhưng
người quản lý trong nhiều trường hợp, dù thực hiện chức năng quản lý, điều hành
công ty nhưng khơng có thẩm quyền đại diện thay mặt cho cơng ty mà phải được
“ủy quyền” quyền đại diện mới có thể tự mình đứng ra xác lập giao dịch thay mặt
cho cơng ty với bên thứ ba. Hay nói cách khác, không phải mọi trường hợp người
quản lý đều đương nhiên trở thành người ĐDTPL của doanh nghiệp [52; tr 33,35].
Làm rõ hơn về chức danh này trong cơ cấu quản trị doanh nghiệp, tác giả
Trương Thanh Đức đã chỉ ra các mơ hình ĐDTPL cho doanh nghiệp lựa chọn
với những hạn chế nhất định. Mơ hình thứ nhất, người quản trị kiêm người điều
hành đồng thời là người ĐDTPL tiềm ẩn nhiều rủi ro khi tập trung quyền lực
trong quản trị và điều hành doanh nghiệp vào tay cá nhân. Mơ hình thứ hai,
người quản trị đồng thời là người ĐDTPL nhưng không kiêm người điều hành
dễ dẫn đến tình trạng vơ hiệu hóa vai trị của người điều hành trong hoạt động
14


kinh doanh hằng ngày của doanh nghiệp. Mơ hình thứ ba, người điều hành đồng
thời là người ĐDTPL nhưng không đồng thời là người quản trị doanh nghiệp
cũng dễ dẫn khó khăn trong việc kiểm sốt cơng việc điều hành hằng ngày của
GĐ/TGĐ. Học giả đã khẳng định việc lựa chọn mơ hình nào cũng có những hạn
chế nhất định và bình luận quy định tại LDN năm 2014: “luật đành phải tìm ra
lối thốt bằng quy định cơ chế nhiều người ĐDTPL, tức chỉ giải quyết bề nổi,
không xử lý triệt để vấn đề” [19, tr 165-169].
Ở các quốc gia khác, mơ hình ĐDTPL của doanh nghiệp có nhiều điểm
khác nhau.
Ở Trung Quốc, mơ hình ĐDTPL của doanh nghiệp tương đồng với mơ
hình được quy định của pháp luật Việt Nam. Trong nghiên cứu của Giovanni
Pisacane (2017) trong tác phẩm “Corporate Governance in China” (Quản trị
doanh nghiệp ở Trung Quốc) đã chỉ rõ: “tất cả các công ty được thành lập tại

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bất kể là doanh nghiệp trong nước hay có vốn
đầu tư nước ngồi, đều phải có người đại diện pháp lý cho dù họ có vốn đầu tư
nước ngồi hay trong nước, phải chỉ định một đại diện pháp lý. Bởi Công ty
khơng phải là con người, khơng thể tự mình hành động, nên Công ty cần một
người được coi là đại diện theo pháp luật. Không giống như mỗi quan hệ đại
diện phát sinh trên cơ sở ủy quyền, người đại diện pháp lý của Công ty phải
được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Mặt khác, dựa trên nguyên
tắc người đại diện theo pháp luật thay mặt cho Công ty, Công ty phải chịu trách
nhiệm dân sự đối với tất cả các hàng động nhân danh Công ty của người đại
diện. Người đại diện cũng phải chịu trách nhiệm chung về hoạt động vi phạm
pháp luật của Công ty... Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đã
đăng ký sau khi được cơ quan đăng ký có thẩm quyền xem xét, chấp thuận là
người ký kết thực hiện các chức năng, quyền hạn nhân danh doanh
nghiệp..người đại diện theo pháp luật có rất nhiều quyền hạn, cũng như quyền
đại diện cho Công ty trước bên thứ ba” [72; tr 57,59].
Phân tích về người đại diện của doanh nghiệp trong sự so sánh Luật công ty
của Đức, Anh, Mỹ, Andreas Cahn và David C.Donald đã làm rõ chức danh trong
từng loại hình doanh nghiệp: Cơng ty TNHH, CTCP trong tác phẩm “Comprative
Company Law” (Luật Công ty so sánh) năm 2010 [59; tr 312 -331].
15


Theo đó, “Cơng ty hồn tồn phụ thuộc vào đại diện của con người và chỉ có
những năng lực mà pháp luật và Điều lệ trao cho nó. Bởi vì thế, Công ty cần
những người đại diện, và những người đại diện cần thẩm quyền đại diện trong
giao dịch với bên thứ ba...Thẩm quyền của người đại diện cho Công ty có thể
được hình thành từ đại diện thực tế (Actual agent) hoặc đại diện rõ ràng
(Apparent agent) theo quy định của pháp luật, Điều lệ Công ty hoặc Hợp đồng”
[69; tr 314].
Theo Luật mẫu về công ty của Mỹ, HĐQT công ty (Board of directors)

gồm các giám đốc (Directors) thực chất là các thành viên HĐQT, hoạt động tập
thể và có quyền đại diện cho cơng ty. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm pháp lý
cuối cùng về các hoạt động của công ty, người quản lý, nhân viên và người đại
diện với tư cách thay mặt công ty. Khi Công ty được thành lập, các giám đốc
được các cổ đơng/thành viên góp vốn bầu ra trong cuộc họp thường niên. Đặc
trưng mối quan hệ đại diện này được coi như là quan hệ ủy thác mà theo đó, các
cổ đông (chủ sở hữu), bổ nhiệm, chỉ định cá nhân giám đốc (Director) để thực
hiện việc quản lý công ty cho họ, trao cho họ thẩm quyền đại diện, trong đó bao
gồm cả việc quyết định định đoạt tài sản của công ty trong phạm vi thẩm quyền
[6, tr 375,376]. Cùng chung mục đích so sánh quy định của pháp luật doanh
nghiệp về cơ cấu tổ chức trong doanh nghiệp với học giả Nguyễn Ngọc Bích,
Nguyễn Đình Cung, học giả Bùi Xuân Hải đã phân tích so sánh về cơ cấu quản
trị của Công ty giữa LDN Việt Nam và các nước, trong đó có đề cập đến quyền
đại diện cho doanh nghiệp. Các bài viết: “So sánh cấu trúc quản trị nội bộ của
công ty cổ phần ở Việt Nam với các mơ hình điển hình trên thế giới” đăng trong
Tạp chí Khoa học Pháp lý số 6/2006; “Người quản lý công ty theo Luật doanh
nghiệp 1999 – nhìn từ góc độ so sánh” đăng trong Tạp chí Khoa học Pháp lý số
4/2005; “Lý thuyết đại diện và những vấn đề pháp lý của công ty” đăng trong
Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2007 ít nhiều nhắc đến vị trí của HĐQT và Giám
đốc trong doanh nghiệp. Các cơng trình này đã làm rõ quyền đại diện công ty
trong pháp luật một số quốc gia như Mỹ, Anh được quy định như thế nào.
Nghiên cứu về pháp luật công ty của Đức, “Báo cáo thể chế pháp luật
kinh tế một số quốc gia trên thế giới” do tập thể tác giả Nguyễn Văn Giàu,
Nguyễn Văn Phúc và Nguyễn Đình Cung chủ biên đã chỉ rõ: trong cơng ty
16


TNHH, người đại diện là Giám đốc công ty; trong CTCP, người đại diện cho
công ty với bên thứ ba là thành viên HĐQT với quyền quản lý doanh nghiệp,
trong công ty hợp danh, các thành viên hợp danh là người đại diện nhân danh

công ty [56; tr272]. Cũng phân tích về nghĩa vụ và trách nhiệm của Giám đốc
Cơng ty theo Luật của Đức so sánh với Luật Estonia, Karren Maddison đã chỉ ra
“khi thành viên HĐQT có hành vi vi phạm, họ phải gánh trách nhiệm với công ty
(trách nhiệm nội bộ) và trách nhiệm với người thứ ba (trách nhiệm bên ngoài”
[73; tr 7].
Những đặc điểm cơ bản của ĐDTPL của doanh nghiệp ở Việt Nam cũng
được học giả Vũ Thị Lan Anh hệ thống hóa, phân tích từ các quy định LDN năm
2014 như: người đại diện phải là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự; là
người thực hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp theo quy định của pháp
luật hoặc Điều lệ doanh nghiệp; có thể có nhiều người ĐDTPL, trừ trường hợp
doanh nghiệp tư nhân [2].
Có thể thấy, đa phần các cơng trình nghiên cứu đều chỉ rõ ĐDTPL của
doanh nghiệp là quan hệ phát sinh từ quan hệ đại diện gắn trong một chủ thể đặc
biệt là doanh nghiệp. Các cơng trình nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng trong
việc làm sáng tỏ bản chất pháp lý cũng như cung cấp bức tranh toàn cảnh về mơ
hình ĐDTPL của doanh nghiệp trong pháp luật một số quốc gia.
1.1.3. Phạm vi thẩm quyền đại diện trong quan hệ đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp
Thẩm quyền đại diện của người ĐDTPL của doanh nghiệp được đề cập
trong nhiều cơng trình khoa học cơng bố ở trong và ngồi nước.
Phân tích pháp luật các nước Anh, Mỹ, Đức được đề cập khá chi tiết trong
cuốn sách “Comparative Company Law” (So sánh Luật Công ty) của Andreas
Cahn và David C. Donal được xuất bản năm 2010 tại Cambridge University từ
trang 312 đến trang 331. Các tác giả đã làm sáng tỏ các nội dung như: thẩm
quyền đại diện thực tế (Actual authority) được xác định theo Luật công ty, được
xác định theo Luật hợp đồng; thẩm quyền đại diện rõ ràng (Apparent authority)
và văn bản xác nhận thẩm quyền. Từng vấn đề đều được xem xét trong quy định
của pháp luật các nước Đức, Anh, Mỹ và dẫn chiếu các án lệ để giải thích rõ quy
định của Luật. Khi bàn về thẩm quyền của người đại diện của công ty, Andreas
17



Cahn đã khẳng định: “Luật công ty ghi nhận thẩm quyền đại diện của người đại
diện trong giao dịch với bên thứ ba. Cần thiết lập những hạn chế trong trường
hợp giao dịch giữa những người đại diện và cần có những giới hạn nhằm tránh
giao dịch tư lợi...Điều lệ chấp nhận Hội đồng ủy nhiệm quyền đại diện cho Ủy
ban, hoặc cá nhân thành viên ” [59; tr315]. Quy định của pháp luật công ty ở
Anh cho thấy, thẩm quyền đại diện cho công ty thường được xác định từ hai góc
độ: theo luật cơng ty và theo luật hợp đồng. Góp kinh nghiệm nhằm giúp bên thứ
ba phân định được thẩm quyền của những người đại diện trong trường hợp cơng
ty có nhiều người ĐDTPL, người viết đã chỉ dẫn: các công ty lớn thường thiết
lập văn bản có cơng chứng mà nội dung được trích xuất từ trong Điều lệ cơng ty,
có con dấu và logo của cơng ty, liệt kê danh sách những người có quyền đại diện
cho cơng ty cho các giao dịch có giá trị, thậm chí có cả những mẫu chữ ký của
tất cả mọi người trong danh sách để chúng có thể được so sánh với chữ ký thực
tế trong hợp đồng [59; tr 321]. Có thể khẳng định đây là tài liệu tham khảo hữu
ích cho việc xem xét thẩm quyền đại diện của doanh nghiệp ở Việt Nam, tuy
nhiên cũng cần lưu ý sự khác nhau trong cách tiếp cận vấn đề đại diện theo hệ
thống pháp luật khác nhau và văn hóa, đặc trưng trong hoạt động kinh doanh. Có
thể khẳng định, cơng trình này đã nêu được những điểm cơ bản về người đại
diện của công ty đặt trong sự đối sánh của pháp luật các nước nên rất có ý nghĩa
trong việc tham khảo các vấn đề cụ thể.
Quy định tương tự trong pháp luật của Trung Quốc được Giovanni
Pisacane chỉ ra đầy đủ và chi tiết, thể hiện trong thẩm quyền đại diện rộng rãi
của người ĐDTPL của doanh nghiệp bao gồm: “Hành động để bảo vệ tài sản
của cơng ty; Tham gia và chủ trì các cuộc họp của các cổ đông và các cuộc họp
của Hội đồng quản trị; Hành động thay mặt cho công ty dựa vào Giấy ủy quyền;
Ủy quyền đại diện pháp lý trong trường hợp có tranh chấp; Thực hiện tất cả các
giao dịch thuộc tính chất và phạm vi kinh doanh của công ty; Hoạt động như
một người giữ cổ phiếu của công ty”[72; tr56].

Ở Việt Nam, ĐDTPL là người được công ty cử ra để tiếp xúc, giao dịch
với người bên ngồi cơng ty (thuế gửi thơng báo, Tịa gửi giấy triệu tập, nhà
cung cấp địi nợ…Đó là người ký hợp đồng, lập bản cam kết, gửi văn bản, nhận

18


×