Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

TIẾP CẬN HÌNH ẢNH VIÊM PHỔI VIRUS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.32 MB, 56 trang )

TIẾP CẬN HÌNH ẢNH VIÊM PHỔI VIRUS

DOCTOR LE VU DUY
INTERVENTIONAL RADIOLOGY
DEPARTMENT
NO.103 HOSPITAL


GIỚI THIỆU


Virus là nguyên nhân phổ biến nhất của nhiễm trùng đường hơ hấp. Đặc điểm hình ảnh của
viêm phổi do virus rất đa dạng và trùng lặp với các bệnh nhiễm trùng không do virus khác.



Các virus trong cùng một họ có cùng mầm bệnh viêm phổi và các mẫu hình ảnh có các đặc
điểm có thể phân biệt. Mặc dù không phải tất cả các trường hợp biểu hiện với các mẫu điển
hình, hình ảnh điển hình nhất của viêm phổi virus có thể được phân loại theo họ virus.



Dù khơng thể chẩn đốn xác định khi chỉ dựa trên các đặc điểm hình ảnh, việc nhận biết các
mẫu hình ảnh viêm phổi do virus có thể giúp làm giảm việc sử dụng kháng sinh.



Các loại virus mới liên quan đến các đợt bùng phát gần đây bao gồm metapneumovirus ở
người, hội chứng hơ hấp cấp tính nặng do coronavirus và hội chứng hô hấp Trung Đông do
coronavirus đã được phát hiện. Đặc biệt gần đây nhất là viêm phổi do corona virus ở Vũ Hán
Trung Quốc.




GIỚI THIỆU


Bài này tập trung vào các đặc điểm XQ và CLVT của viêm phổi do virus gây ra bởi các mầm
bệnh khác nhau, bao gồm cả mầm bệnh mới. Các đặc điểm lâm sàng có thể ảnh hưởng đến
hình ảnh, chẳng hạn như tuổi bệnh nhân và tình trạng miễn dịch, sự thay đổi theo mùa và sự
bùng phát của cộng đồng cũng được thảo luận.



Mục tiêu:



Phân tích đặc điểm hình ảnh XQ và CLVT viêm phổi virus theo mầm bệnh.



Phân tích một số virus mới bao gồm HMPV, SARS coronavirus, MERS coronavirus và novel
coronavirus 2019 (2019-nCoV)



Thảo luận về các đặc điểm lâm sàng của viêm phổi virus như tuổi bệnh nhân, tình trạng miễn
dịch, sự thay đổi theo mùa và thời gian bùng phát trong cộng đồng.


Các Virus phổ biến gây viêm đường hô hấp dưới

Trẻ em
Miễn dịch đầy đủ
RSV
HPIV
Influenza
HMPV
Adenovirus
Rhinovirus

Suy giảm miễn dịch
Adenovirus
CMV
Epstein-Barr Virus
HSV
RSV

Người lớn
Miễn dịch đầy đủ
Influenza
HPIV
Adenovirus
RSV
HMPV

Suy giảm miễn dịch
Influenza
RSV
Adenovirus
Rhinovirus
HPIV

HMPV
Coronavirus
CMV, HSV
Varicella zoster VR
Human Bocavirus

Note.—CMV = cytomegalovirus, HPIV = human parainfluenza virus, HMPV = human
metapneumovirus, HSV = herpes simplex virus, RSV = respiratory syncytial virus.


GIỚI THIỆU


Đặc điểm lâm sàng và CLVT của nhiều mầm bệnh virus đường hô hấp như cúm, á cúm ở
người (HPIV), virus hợp bào hô hấp (RSV), rhovovirus và adenovirus đã được mô tả.



RSV gây tổn thương trung tâm đường thở với hình ảnh “Nụ-cành” và dày thành phế quản.



Adenovirus biểu hiện đơng đặc đa ổ hoặc tổn thương kính mờ (GGO) và GGO thường được
chú ý ở bệnh nhân viêm phổi do adenovirus hơn so với những người bị nhiễm virus hoặc
nhiễm khuẩn khác.



Tổn thương đơng đặc hoặc kính mờ lan tỏa theo phế quản thường gặp hơn ở viêm phổi vi
khuẩn.




Sau đây là đặc điểm CLVT của các loại viêm phổi hay gặp.






GIỚI THIỆU
Hình 1a. Viêm phổi do virut varicellazoster cho thấy nhiều tổn thương dạng
nốt mờ kích thước 1-10 mm ranh giới rõ
hoặc không rõ (mũi tên) với quầng Halo
xung quanh hoặc các đám tổn thương
kính mờ (đầu mũi tên) ở cả hai phổi.


GIỚI THIỆU
Hình 1b. Viêm phổi do CMV cho thấy
các đám tổn thương kính mờ lan tỏa
khơng rõ ranh giới cùng với sự dày lên
của vách liên tiểu thùy (đầu mũi tên) ở
cả hai phổi.


GIỚI THIỆU
Hình 1c. Viêm phổi do HMPV cho thấy
nhiều nốt ranh gới khơng rõ (mũi tên) hoặc
tổn thương kính mờ (đầu mũi tên) dọc theo

các nhánh phế quản ở cả hai phổi. Những
phát hiện này tương tự như viêm phổi
HPIV, thuộc cùng một họ virus.


GIỚI THIỆU
Hình 1d. Viêm phổi do vi-rút cúm A cho
thấy nhiều vùng tổn thương đông đặc
không đồng nhất (mũi tên) dọc theo các
nhánh phế quản và tổn thương kính mờ
lan tỏa (đầu mũi tên) với dày vách liên
tiểu thùy ở cả hai phổi.


GIỚI THIỆU
Hình 1e. Viêm phổi do rhinovirus cho
thấy nhiều đám tổn thương kính mờ
(mũi tên) khơng rõ ranh giới với sự dày
lên của vách liên tiểu thùy (đầu mũi tên)
ở cả hai phổi


Coronaviridae









Các coronavirus ở người được coi là mầm bệnh quan trọng gây nhiễm trùng ở bệnh nhân nhi,
lão khoa, suy giảm miễn dịch và bao gồm nhiễm trùng đường hô hấp trên và dưới (viêm phổi
và viêm phế quản) và thậm chí hội chứng suy hơ hấp cấp tính.
SARS coronavirus được xác định là một thành viên của họ coronaviridae vào cuối năm 2003
sau một trận dịch trên toàn thế giới.
Năm 2012, một dịch bệnh khác liên quan đến coronavirus đã xảy ra ở Trung Đông được xác
định là MERS.
Enzyme chuyển đổi angiotensin 2 là một thụ thể virus SARS tiềm năng và là chất điều chỉnh
tiêu cực của hệ thống renin-angiotensin ảnh hưởng đến tính thấm của mạch máu. Enzyme
chuyển đổi angiotensin 2 được biểu hiện ở phổi và thận, và virut SARS gây tổn thương phổi
trực tiếp bằng cách liên quan đến enzyme chuyển đổi angiotensin, góp phần gây tổn thương
phế nang lan tỏa. Ngoài ra, các protein được mã hóa SARS coronavirus, gây ra chết tế bào,
bao gồm cả phổi, thận và gan.
MERS coronavirus có thể trốn tránh phản ứng miễn dịch và gây ra sự rối loạn nghiêm trọng
của bản sao tế bào chủ, dẫn đến chết tế bào.


SARS Coronavirus
Một đợt bùng phát SARS coronavirus trên toàn thế giới, lần đầu tiên được xác định ở tỉnh
Quảng Đông, Trung Quốc, xảy ra trong năm 2002-2003. Có hơn 8000 trường hợp nhiễm
trùng được xác định, với 21% xảy ra ở nhân viên y tế. Tỷ lệ tử vong do SARS năm 2003
được ước tính là 6,8% -13,2% đối với bệnh nhân dưới 60 tuổi và 43%-50% đối với bệnh
nhân trên 60 tuổi. Bệnh nhân mắc bệnh đi kèm như tiểu đường hoặc viêm gan mạn làm tăng
tỷ lệ tử vong.
 Sau thời gian ủ bệnh 2-10 ngày, bệnh nhân có triệu chứng giống cúm, khó thở và sốt tái diễn
hoặc sốt kéo dài. Bệnh nhân thường có tiền sử phơi nhiễm và thâm nhiễm viêm phổi mới trên
X quang phổi. Chẩn đoán được thực hiện trên cơ sở một hoặc nhiều xét nghiệm dương tính
với SARS coronavirus.
 Các đặc điểm X quang của SARS tương tự như các loại viêm phổi mắc phải tại cộng đồng

khác. X quang phổi ban đầu là bình thường nhưng sớm tiến triển tạo thành tổn thương đông
đặc đa ổ, chủ yếu ở vùng phổi dưới và ngoại vi phổi. Tổn thương đơn độc phổ biến hơn tổn
thương đa ổ hai bên. Trên hình ảnh CT, tổn thương kính mờ và đơng đặc hay gặp, duy trì sau
2 tuần. Tổn thương hang, hạch bạch huyết hoặc tràn dịch màng phổi không phổ biến.



MERS Coronavirus


MERS coronavirus là một thành viên mới của coronavirus và khác với SARS và các loạicoronavirus đặc hữu khác của con người (ví dụ, OC43, HKU1). Trường hợp đầu tiên được
xác định vào tháng 9 năm 2012, tại Riyadh, Ả Rập Saudi. Dơi và lạc đà được coi là ổ chứa
MERS coronavirus.



Các triệu chứng lâm sàng giống như các bệnh đường hô hấp dưới khác liên quan đến sốt, ho,
khó thở và viêm phổi. Nhiễm trùng có thể tiến triển nhanh chóng đến hội chứng suy hơ hấp
cấp tính, suy đa cơ quan và tử vong. MERS tiến triển nhanh hơn đến suy hô hấp so với
SARS và gây tổn thương thận cấp tính. Khoảng 20% ​của tất cả các trường hợp virus được
xác định ở nhân viên y tế và những người tiếp xúc gần gũi với lạc đà.



Viêm phổi do MERS, tổn thương phân bố dưới màng phổi vùng nền phổi hai bên, gồm có
tổn thương kính mờ và đơng đặc diện rộng, hang ít gặp. Tràn dịch và tràn khí màng phổi phổ
biến hơn ở những bệnh nhân tử vong so với những bệnh nhân hồi phục.


MERS Coronavirus

Hình 12a. Viêm phổi do MERS
coronavirus ở một người đàn ông
27 tuổi bị ho và khạc đờm. (a) X
quang phổi ban đầu cho thấy các
nốt mờ không rõ ranh giới (mũi
tên) ở cả hai vùng phổi dưới, đặc
biệt là ở khu vực sau tim trái.


MERS Coronavirus

Hình 12a. Viêm phổi do MERS coronavirus ở một người đàn ơng 27 tuổi bị ho và khạc
đờm. Hình ảnh CT b,c,d, cho thấy nhiều nốt và đám đông đặc, kính mờ ở nền phổi hai bên.


Novel Coronavirus (2019-nCoV)


Một phụ nữ 33 tuổi đến bệnh viện có tiền sử sốt 5 ngày và ho khơng rõ nguyên nhân. Cô ấy
làm việc ở Vũ Hán, Trung Quốc (trung tâm của dịch coronavirus mới) nhưng đã đi đến Lan
Châu, Trung Quốc, 6 ngày trước khi đến bệnh viện.



Khi nhập viện, bệnh nhân sốt 39,0 ° C hơi thở thô cả hai phổi. Các xét nghiệm nghiệm cho
thấy giảm bạch cầu (số lượng bạch cầu: 2,91 × 10 9 / L), 70,0% bạch cầu trung tính và 0,1%
bạch cầu ái toan. Có nồng độ protein phản ứng C trong máu tăng cao (16,16 mg / L; phạm vi
bình thường, 0 thép10 mg / L), tốc độ máu lắng (29 mm / giờ; phạm vi bình thường, <20 mm
/ giờ) và D-dimer (580 ng / mL; phạm vi bình thường, 500 ng / mL).




CT ngực không cản quang cho thấy tổn thương dạng kính mờ đa ổ hai phổi ( Hình, A) phân
bố ngoại vi. Phản ứng chuỗi polymerase huỳnh quang thời gian thực đờm của bệnh nhân
dương tính với axit nucleic novel coronavirus 2019 (2019-nCoV).



Trên cơ sở các đặc điểm dịch tễ học, các biểu hiện lâm sàng, hình ảnh CT ngực và kết quả
xét nghiệm, chẩn đoán viêm phổi 2019-nCoV đã được thực hiện. Sau 3 ngày điều trị, tình
trạng lâm sàng tồi tệ hơn và tơn thương tiến triển trên phim CT lặp lại ( Hình, B)


Novel Coronavirus (2019-nCoV)

Hình ảnh CT khơng cản quang ở một phụ nữ 33 tuổi. A, Hình ảnh cho thấy nhiều tổn thương
kính mờ hai phổi. Các tổn thương kính mờ nằm ở phân thùy sau thùy trên phải và phân thùy
đỉnh sau thùy trên trái. B, Hình ảnh thu được 3 ngày sau khi theo dõi cho thấy tổn thương kính
mờ tiến triển ở phân thùy sau thùy trên phải và phân thùy đỉnh sau thùy trên trái. Các đám tổn
thương kính mờ ngoại vi hai phổi là những phát hiện CT phổ biến của bệnh viêm phổi novel
coronavirus 2019.


Adenoviridae - Adenovirus ở người


Adenovirus là một loại virus DNA sợi kép với hơn 50 loại huyết thanh được xác định, chiếm
5% 10% trong tất cả các bệnh nhiễm trùng đường hơ hấp ở trẻ em. Nó có thể gây ly giải tế
bào biểu mô đường hô hấp và ảnh hưởng đến các tiểu phế quản tận.




Bệnh nhân bị viêm họng, viêm thanh quản, viêm phế quản hoặc viêm phế quản phổi.



Adenovirus cho thấy các nốt kính mờ đa ổ hai bên cùng với các đám tổn thương đông đặc .
Tổn thương có thể phân bố theo thùy hoặc phân thùy giống viêm phế quản.



Qúa giãn hoặc xẹp phổi thùy hay gặp ở trẻ em. Viêm phổi adenovirus có thể để lại các di
chứng lâu dài như giãn phế quản, viêm tiểu phế quản, hội chứng phổi đơn độc…


Adenoviridae - Adenovirus ở người
Hình 2a. Viêm phổi do adenovirus ở một
người đàn ông 20 tuổi bị sốt, ho và khó
thở. X quang phổi ban đầu cho thấy các
đám tổn thương đơng đặc và kính mờ
khơng rõ ranh giới (mũi tên) ở vùng giữa
và dưới phổi trái, vùng dưới phổi phải.


Adenoviridae - Adenovirus ở người

Hình 2b,c. Viêm phổi do adenovirus ở một người đàn ông 20 tuổi bị sốt, ho và khó thở.
Hình ảnh CT ngực (độ dày lát cắt 5 mm) thu được vào cùng ngày cho thấy các đám tổn
thương kính mờ ranh giới khơng rõ (đầu mũi tên) và đông đặc thùy ( mũi tên).



Herpesviridae - Viêm phổi HSV


Viêm phổi HSV được gây ra chủ yếu bởi HSV loại 1 và hiếm khi do HSV loại 2. Viêm phổi
loại 1 HSV không phổ biến, thường khu trú và dung nạp tốt ở người khỏe mạnh; tuy nhiên,
nó được quan sát thấy ở những bệnh nhân hoặc những người bị suy giảm miễn dịch có
đường thở bị tổn thương do đặt nội khí quản, hít phải khói thuốc hoặc hút thuốc lá mãn
tính. Các yếu tố nguy cơ bao gồm bỏng nặng, hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
(AIDS), các khối u ác tính, ghép tạng, chấn thương do đặt nội khí quản, hít phải khói thuốc
và hút thuốc lá mãn tính.



Viêm phổi HSV thường cho thấy các mảng đơng đặc và kính mờ hai bên với phân bố thùy,
phân thùy hoặc dưới phân thùy X quang phổi. Tổn thương kẽ dạng lưới cũng có thể có mặt.



CT cho thấy chủ yếu là các vùng tổn thương kính mờ phân bố theo thùy hoặc phân thùy, tổn
thương dạng đơng đặc khu trú ít gặp hơn. Tràn dịch màng phổi hay gặp.



Sự hiện diện của các nốt trung tâm tiểu thùy nhỏ hoặc lớn đang gây tranh cãi; chúng có thể là
viêm phổi do virus, nhiều nốt xuất huyết hoặc viêm phổi do nấm cùng tồn tại.


×