Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Đặc tính tự nhiên, kinh tế và xã hội của khu vực Đông Nam Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.83 KB, 23 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐẶC TÍNH TỰ NHIÊN, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
CỦA KHU VỰC ĐÔNG NAM Á

Học phần: Sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước Đông
Nam Á

Hà Nội, 2021


Mục lục


Mở đầu
Khi nói về đặc tính của một cái gì đó, hay của một tập hợp nào
đó, thì ta cần chỉ ra được cái chung của các phần tử trong tập hợp
đó, đồng thời chỉ ra cái nổi bật của tập hợp đó so với các tập hợp
khác (Cái chung và cái riêng ở đây cũng ko đến mức là hoàn toàn
giống hay hoàn toàn khác, mà đạt đến một mức độ cao nào đó). Nói
về đặc tính tự nhiên, kinh tế và xã hội của khu vực Đông Nam Á, tức
là chúng ta cố gắng chỉ ra cái chung của các thành viên trong khu
vực, Đông Nam Á lục địa và Đơng Nam Á hải đảo có điểm gì chung,
Việt Nam với Thái Lan, Philippines, Brunei có điểm gì chung. Đồng
thời ta cũng chỉ ra những điểm đó của Đơng Nam Á có gì nổi bật hơn
so với Đơng Á, Tây Âu, Bắc Mỹ.
Nếu có một từ để nói về khu vực Đơng Nam Á, đó là đa dạng.
Đơng Nam Á đa dạng ở hầu như mọi khía cạnh của nó, từ điều kiện
tự nhiên, thành phần dân cư, tộc người, quá trình lịch sử của các
cộng đồng cho đến văn hóa, tơn giáo, thể chế chính trị. Mỗi quốc


gia, mỗi vùng lại một vẻ khác nhau. Trong 11 quốc gia ở Đơng Nam
Á, có những nước bao quanh hồn tồn là biển (Philipines,
Singapore), có nước lại khơng giáp biển một chút nào (Lào). Có
những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới (Việt Nam, Thái Lan) và
cũng có nước nhập khẩu gạo nhiều nhất nhì thế giới (Philipines). Có
những quốc gia mà Phật giáo ngự trị với tín đồ chiếm hơn 90% dân
số (Thái Lan, Campuchia) nhưng đồng thời lại có nước lại nhiều
người theo đạo Hồi (Islam giáo) hơn bất kỳ quốc gia Trung Đông hay
Bắc Phi nào (Indonesia). Có quốc gia chịu ảnh hưởng đậm nét của
Nho giáo và cũng có cả quốc gia có tỉ lệ dân số theo Kito giáo nhiều
nhất thế giới (Timor Leste1). Đông Nam Á thật sự là một khu vực vô
1 NSD and UNFPA (2011), Population and Housing Census of Timor-Leste, 2010,
/>truy
cập ngày 1/3/2021.


cùng đa dạng, có lẽ là đa dạng hơn bất cứ khu vực nào (được phân
vùng) trên thế giới này
Để có thể tìm kiếm được những đặc tính chung cho khu vực này,
thật sự là không hề dễ dàng. Tuy vậy thì, qua kết quả nghiên cứu
của các học giả, cũng đã chỉ ra một số đặc tính tiêu biểu. Trong khả
năng tiếp cận của mình, nhóm chúng tơi xin trình bày một số đặc
tính như sau:

1. Đặc tính tự nhiên của khu vực Đơng Nam Á
1.1. Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa
Phân tích về các đặc tính khí hậu này, ta xem xét từng yếu tố
cấu thành nên nó. Thứ nhất là nhiệt đới, khu vực Đơng Nam Á nằm
gần như trọn vẹn trong vùng nội chí tuyến, vùng giới hạn bởi 2
đường vĩ tuyến 23 độ 27 phút bắc và 23 độ 27 phút nam. Vì Trái Đất

có dạng hình cầu, trục tự quay nghiêng một góc khoảng 23 độ 27
phút góc, nên vùng nội chí tuyến trong một năm mặt trời lên thiên
đỉnh 2 lần, hay mặt trời chiếu vng góc 2 lần. Vì đặc điểm này mà
trong khu vực ln có số giờ nắng cao và bức xạ nhiệt luôn dương.
Thứ hai là yếu tố ẩm. Ẩm ở đây tức là độ ẩm trong không khí, nó
có được nhờ tác động của nhiều yếu tố: trước hết là biển, nơi cung
cấp nguồn ẩm với lượng bốc hơi ln ở mức cao; tiếp đến là gió, có
khả năng kéo theo lượng ẩm này từ biển vào sâu trong đất liền; và
cùng với đó là địa hình chắn gió, nhân tố khiến cho lượng ẩm có thể
phân bố đa dạng ở trên cùng một khu vực chịu tác động của gió
mang hơi ẩm: địa hình chắn gió (hay đón gió) là nơi giữ lại lượng ẩm
và gây ra mưa, trong khi ở địa hình khuất gió, lượng ẩm nghèo nàn
khiến cho tình trạng khơ hạn trở nên đặc trưng.
Trong ba yếu tố chính kể trên, quan trọng nhất chắc chắn phải
là biển, nơi cung cấp nguồn ẩm dồi dào. Nếu quan sát trên bản đồ,


ta sẽ thấy Đông Nam Á nổi bật hơn các khu vực khác ở điểm này.
Đường xích đạo cắt qua 3 khu vực trên Trái Đất là Đông Nam Á,
Trung Phi và phía bắc lục địa Nam Mỹ, thì trong cả 3 khu vực này chỉ
có Đơng Nam Á là khu vực hải đảo, biển có thể ăn sâu hoặc bao
quanh phần đất liền, tạo nên khí hậu nóng ẩm quanh năm, cịn 2
khu vực kia thì do điều kiện địa hình, ảnh hưởng của biển khó tiến
sâu vào lục địa, cho nên yếu tố “ẩm” không thể cao như ở Đơng
Nam Á.
Thứ ba là gió mùa, diễn ra ở 1 khu vực rộng lớn từ phần lãnh thổ
phía Đơng của nước Nga cho đến Ấn Độ Dương, trong đó Đông Nam
Á cũng là khu vực chịu tác động mạnh mẽ của gió mùa. Gió mùa có
2 loại: một là gió mùa Đơng Bắc, diễn ra vào tháng 11 đến tháng 3,
thổi từ áp cao Xibia của Nga, qua phần lục địa châu Á, nên khi đến

vùng Đông Nam Á lục địa vẫn có tính lạnh và khơ, nhưng khi qua
Biển Đông, được bổ sung lượng ẩm, sẽ gây mưa lớn cho các nước
Đông Nam Á hải đảo. Hai là gió mùa Tây Nam, diễn ra từ tháng 9,
thổi từ áp cao ở Nam bán cầu, qua Ấn Độ Dương nên có tính nóng,
ẩm.2
Gió mùa là yếu tố đóng vai trị quan trọng trong khả năng canh
tác nơng nghiệp và khả năng đi biển của cư dân Đông Nam Á trong
những giai đoạn sớm của lịch sử, khi mà kĩ thuật cịn nhiều hạn chế,
tức là nó cũng sẽ tác động to lớn đến hoạt động kinh tế, xã hội và
văn hóa.

1.2. Địa hình bị chia cắt
Địa hình bị chia cắt bởi các dãy núi, sơng ngịi và biển, tạo
thành những không gian sinh tồn tương đối nhỏ hẹp. Ở Đơng Nam Á
lục địa thì sự chia cắt bởi đồi núi là khá phổ biến. Ví dụ ở vùng đơng
2 Lim Chong Yah (2002), Đông Nam Á – Chặng đường dài phía trước, Nxb. Thế giới, Hà
Nội, tr.16.


bắc Việt Nam, trên diện tích khoảng 56.610 km 2 nhưng đã có tới 4
cánh cung - 4 dãy núi (Sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn, Đông Triều)
chia cắt địa hình, đi về phía Tây có dãy Hồng Liên Sơn, dãy núi cao
nhất Đơng Dương. Đi về phía Nam thì liên tục gặp núi và đèo, dãy
Hoành Sơn, dãy Bạch Mã, đèo Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cù Mông,…
Ở Đông Nam Á hải đảo, sự chia cắt phổ biến là đến từ biển, chẳng
hạn như Philipines có đến hơn 7000 hịn đảo, Indonesia thì thậm chí
có đến 17-18000 hịn đảo, và tất nhiên khơng phải đảo nào cũng có
người ở, chỉ có khoảng 1/2 đến 1/3 là có người ở mà thơi.
Những khu vực ít bị chia cắt nhất là các đồng bằng châu thổ
sông lớn ở Đông Nam Á lục địa. Có thể kể đến một số con sơng lớn ở

khu vực này, như sông Hồng (Việt Nam), sông Mekong, sơng Chao
Phraya (cịn gọi là sơng Mê Nam) (Thái Lan), sông Salween
(Myanmar, Thái Lan), sông Irrawaddy (Myanmar). Những con sơng
này buổi ban đầu chính là những con đường di dân quan trọng trong
quá khứ, đồng thời cũng chính là nền tảng cho các nhà nước nông
nghiệp hùng mạnh trong khu vực vào thời trung đại.
Địa hình chia cắt tạo nên những không gian sinh tồn tương đối
nhỏ hẹp. Trong những khơng gian đó, dân cư buổi đầu sẽ tìm đến và
quần cư tại những khu vực thuận lợi mà thơi. Do đó sự hình thành
của các làng xóm, các cộng đồng địa phương trở nên phổ biến. Hệ
sinh thái phổ tạp chép phép cư dân có khả năng tự cấp tự túc khá ổn
bằng việc kết hợp săn bắt hái lượm với nông nghiệp quy mô nhỏ,
khiến cho các cộng đồng địa phương đó có thể tồn tại lâu dài một
cách tương đối biệt lập với nhau. Ở những khu vực hội tụ được nhiều
yếu tố thuận lợi hơn cùng những xúc tác đủ mạnh (trị thủy, chống
ngoại xâm, thương mại biển,…), có thể phát triển cộng đồng ở quy
mô lớn hơn, từ các làng trở thành các nhà nước sơ kỳ, rồi thành các
vương quốc.


1.3. Chỉ số duyên hải cao
Chỉ số duyên hải là một khái niệm đánh giá mức độ hướng biển
của một quốc gia, hay một khu vực. Giá trị của chỉ số này được tính
bằng tỷ lệ diện tích đất liền trên chiều dài đường bờ biển của quốc
gia, khu vực đó. Chẳng hạn như Việt Nam có diện tích hơn 330.000
km2 mà có 3260km đường bờ biển, tức là cứ 100 km 2 đất liền thì có
1 km bờ biển, tỷ lệ là 1/100. Đây là một tỷ lệ rất cao, bởi mức trung
bình của thế giới chỉ là 1/600.3 Để hình dung cụ thể hơn, ta có tỷ lệ
của của Nhật Bản là 1/20, của Trung Quốc là 1/500 và của khu vực
Đông Nam Á là 1/5. 4 Đông Nam Á là vùng địa lý có chỉ số duyên hải

cao nhất thế giới.5 Đường bờ biển dài so với diện tích đất liền là
nguyên nhân chính khiến cho độ ẩm của khu vực Đông Nam Á vô
cùng dồi dào. Điều này là cơ sở để đánh giá Đông Nam Á là khu vực
có tính hướng biển và hướng ngoại.
Bên cạnh đó GS Lâm Mỹ Dung cũng đề cập đến 2 yếu tố là vị trí
địa lý và sự xuất khẩu. Vị trí địa lý là Đơng Nam Á nằm giữa 2 trung
tâm văn minh lâu đời bậc nhất thế giới - Ấn Độ và Trung Hoa, cũng
đồng thời là 2 trung tâm sản xuất dồi dào và 2 thị trường tiêu thụ
rộng lớn. Trong suốt thời cổ trung đại, con đường giao thương vượt
đại dương chỉ có giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương (Đại Tây
Dương hầu như không chuyên chở con đường thương mại vào thời kỳ
này, thậm chí phần lớn diện tích của Thái Bình Dương cũng vậy), và
Đơng Nam Á nằm trên hải trình đó. Các đảo của Đông Nam Á hải đảo
3 Nguyễn Văn Kim, “Vai trò của Việt Nam trong “con đường tơ lụa trên biển””, Tạp chí
Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, tr.40-53, />fileticket=PFFgmQapNKA%3D&tabid=61, truy cập ngày 28/2/2021.
4
Lâm
Thị
Mỹ
Dung,
Bối
cảnh
Đông
Nam
Á
thời
/>ngày 28/2/2021.

tiền
truy


sử,
cập

5 Nguyễn Văn Kim (2017), “Văn minh và đế chế: nhìn lại con đường phát triển của các
quốc gia Đông Á”, trong Lịch sử và văn hóa – tiếp cận đa chiều, liên ngành, Nxb.
ĐHQGHN, Hà Nội, tr.58.


và những phần bán đảo của Đông Nam Á lục địa là những điểm
trung chuyển nhộn nhịp của những luồng giao thương. Đường bờ
biển ở đây có nhiều vũng, vịnh, dễ dàng cho tàu bè tiếp cận, thay vì
bị bao bọc bởi núi hay các địa hình bất lợi.
Sự xuất khẩu của Đông Nam Á thể hiện ở đặc điểm lãnh thổ
nhỏ, dân số ít nhưng lượng hàng xuất khẩu lại dồi dào, tức là thị
trường tiêu thụ chính là thị trường bên ngoài, trong khi thị trường nội
địa lại hạn chế. Đó là những yếu tố thể hiện tính hướng ngoại của
khu vực Đông Nam Á, động lực tăng trưởng của Đông Nam Á, theo
đặc điểm này, lại đến từ bên ngồi thay vì nội địa.

1.4. Hệ sinh thái phổ tạp
Với điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa nhiều, thiên nhiên
khu vực Đông Nam Á vô cùng phong phú và đa dạng. Đông Nam Á
về đại thể được xếp vào hệ sinh thái phổ tạp (General ecosystem).
Hệ sinh thái phổ tạp có 3 đặc trưng cơ bản là: số lượng loài rất đa
dạng (chỉ số đa dạng cao), số lượng cá thể của mỗi lồi thì tương đối
ít, khả năng tái sinh [của hệ sinh thái] nhanh. Đây cũng là hệ sinh
thái phổ biến ở các nền văn minh phương Đông, cũng là một trong
những sự đối nghịch giữa phương Đơng và phương Tây, phương Tây
thì phổ biến với hệ sinh thái chuyên biệt, chỉ với một số lồi cây, con

ít hơn, nhưng có số lượng cá thể ở mỗi lồi thì nhiều hơn.
Sự đa dạng của hệ sinh thái phổ tạp cho phép cư dân khu vực
Đơng Nam Á có thể làm nhiều việc, kiếm sống bằng nhiều phương
thức, nhưng với quy mô và mức độ chuyên môn hạn chế. Trong một
khu rừng rậm nhiệt đới (jungle) với rất nhiều lồi cây, con, bằng sự
tìm hiểu và tích luỹ tri thức, những cánh rừng này có thể đảm bảo
hầu hết các nhu cầu cơ bản của cư dân. Những cư dân này cũng sẽ
phát triển đa dạng các kỹ năng sinh kế. Trong khi đó, ngược lại,
trong điều kiện hệ sinh thái chuyên biệt, trong một khu rừng chỉ với


một số loại động, thực vật nhất định (forest), con người chỉ có thể
làm việc với một số loại cây, con, đó là một điều kiện khiến họ buộc
phải trao đổi thường xuyên giữa các vùng để đáp ứng nhu cầu, và
chun mơn hố trong hoạt động sản xuất.


2. Đặc tính kinh tế dưới những tác động của đặc
tính tự nhiên
Với những đăc tính tự nhiên như vậy, đã phần nào quy định nên
các đặc tính xã hội của khu vực Đông Nam Á, mà chúng ta sẽ xem
xét sau đây

2.1. Săn bắt hái lượm kết hợp với nơng nghiệp đa canh
quy mơ nhỏ.
Như đã trình bày ở trên, điều kiện khí hậu và vị trí địa lý đã tạo
nên một thiên nhiên trù phú ở Đông Nam Á, một hệ sinh thái phổ tạp
với đa dạng loài và sự tái tạo nhanh. Điều kiện này cho phép những
cư dân ở đây có thể khai thác nguồn thực phẩm đa dạng từ tự nhiên.
Họ có thể đảm bảo nhu cầu cho cộng đồng nhỏ của mình, bởi sự gia

tăng dân số trong điều kiện săn bắt hái lượm là chậm chạp và tốc độ
khai thác có lẽ vẫn trong giới hạn điều chỉnh, tái sinh của hệ sinh
thái.
Khi chuyển sang nơng nghiệp, đó cũng là một nền nơng nghiệp
quy mơn nhỏ và vẫn giữ tính đa dạng của nó, người ta có thể trồng
nhiều loại cây, bao gồm cả cây lấy củ và cây lấy hạt, chăn nuôi một
số loại vật ni nhỏ với số lượng ít ở quy mơn hộ gia đình, đồng thời
vẫn có thể săn bắt hái lượm bên cạnh việc làm nông, bởi làm nơng ở
trình độ thấp này khơng đến mức chiếm trọn thời gian và công sức
của họ
Phạm vi nhỏ hẹp do điều kiện địa hình chia cắt cũng hạn chế
khả năng phát triển tiến lên nền sản xuất lớn của các cộng đồng cư
dân trong khu vực. Cùng với áp lực dân số không đáng kể, trong một
điều kiện tự nhiên khá dễ sống và đòi hỏi cư dân phải phát triển
nhiều loại kỹ năng để thu thập một thực đơn đa dạng, thay vì


chun mơn hóa vào một số kỹ năng. Sự đa dạng của nguồn tài
nguyên sẵn có cũng làm giảm đi nhu cầu trao đổi. Sự trao đổi giữa
các vùng để lấy được một sản vật nào đó khơng phải một nhu cầu
bức thiết, và theo đó cộng đồng dân cư có thể hài lịng với khơng
gian sinh sống của mình thay vì phải chịu sức ép di chuyển thường
xuyên. Những điều này khiến sự phát triển kinh tế của các cộng
đồng cư dân trở nên khá bình lặng, bó hẹp trong một phạm vi quen
thuộc và duy trì ở mức độ tự cung tự cấp quy mơ nhỏ.
Ta có thể thấy điểm này ở một trong những hình thức nơng
nghiệp phổ biến tại Đông Nam Á là làm nương rẫy (bên cạnh nơng
nghiệp lúa nước), vẫn có thể quan sát thấy tính phụ thuộc vào tự
nhiên, vào khả năng tái sinh của hệ sinh thái, khi mà người trồng
trọt chỉ đốt rừng để phát quang và lấy tro làm màu cho đất, chọc lỗ

gieo hạt và trồng những loại cây ngắn ngày. Khi đất bạc màu sau vài
vụ thì họ đổi địa điểm canh tác, và sau khoảng 10 hay 20 năm thì họ
trở lại những vùng đất cũ, khi nó đã phục hồi độ màu và có thể canh
tác. Tức là phương thức canh tác rất thô sơ, không địi hỏi nhiều về
cải tiến cơng cụ hay kỹ thuật làm đất, làm thủy lợi, phân bón.
Khi mà những cộng đồng nhỏ vẫn đủ sống từ việc khai thác tự
nhiên, họ thiếu đi những áp lực, những xúc tác để phát triển. Nếu
không phải nằm trên những tuyến giao thương sầm uất thời cổ đại,
hoặc không nảy sinh nhu cầu tự vệ trước sự xâm lăng, rất khó để
những cộng đồng nhỏ này phát triển về kinh tế, chuyển đổi mạnh
mẽ sang nơng nghiệp hồn tồn, hoặc nơng nghiệp kết hợp thương
nghiệp. Điều này thường xảy ra với các khu vực nằm ở những vùng
núi hẻo lánh, cách xa những con sơng giao thơng nội địa quan trọng,
hoặc những hịn đảo biệt lập khơng nằm trên hải trình giao thương.
Cho đến thế kỷ 19, 20, Đông Nam Á vẫn là thiên đường cho những
nhà nghiên cứu dân tộc học, nhân học bởi sự bảo lưu lâu dài gần như
nguyên vẹn những sinh hoạt truyền thống trong hàng ngàn năm.


2.2. Nông nghiệp trồng lúa nước
Nông nghiệp trồng lúa nước là một đặc trưng phổ biến ở các
cộng đồng khu vực Đơng Nam Á. Trước đây cũng từng có nhiều
nghiên cứu về nguồn gốc của lúa nước, có ý kiến thì cho rằng Đơng
Nam Á là một trong những nơi đầu tiên phát sinh ra nghề trồng lúa
nước, có ý kiến thì cho là nghề trồng lúa nước ở Đơng Nam Á phát
sinh từ nghề trồng lúa nước ở nam sông Dương Tử (Hiện không nơi
nào ở Đông Nam Á có được những bằng chứng thuyết phục về sự
xuất hiện của bất cứ dạng sản xuất lương thực nào trước 3500 TCN.
Điều này rất quan trọng bởi lúa đã được thuần hóa muộn nhất vào
6500 TCN ở vùng dọc sơng Dương Tử6).

Nhưng Đông Nam Á không nhất thiết phải trở thành cái nơi của
văn minh lúa nước, thì lúa nước mới được phép là đặc trưng của khu
vực này. Giống như Phật giáo không cần phát sinh ở Đông Nam Á,
nhưng vẫn là một dấu ấn quan trọng ở Đông Nam Á mà người ta
phải nhắc đến, bởi sự ảnh hưởng phổ biến và lâu dài của nó ở khu
vực này. Nhìn chung, những gì mà chúng ta có thể rút ra đó là: nghề
trồng lúa nước là một đặc tính phổ biến của các xã hội Đơng Nam Á,
dù là lục địa hay hải đảo. Đối với bản thân các quốc gia Đông Nam
Á, khi lựa chọn biểu tượng cho ASEAN - tổ chức chung của khu vực
đầy đa dạng này, họ đã chọn hình tượng bó lúa, từ ASEAN 6 cho đến
ASEAN 10. Nói cách khác tức là, bản thân các quốc gia Đông Nam Á
hiện đại thừa nhận nông nghiệp trồng lúa là nét chung của họ.
Nông nghiệp lúa nước ở Đông Nam Á gắn liền với những lưu vực
sông lớn trong khu vực, như sông Hồng, sông Mekong, sông Mê
Nam, sông Salween, sông Irrawaddy. Lúa gạo còn được trồng ở các
vùng đất phủ tro núi lửa như Trung Java của Indonesia và Luzon ở
Philipines. Tuy nhiên, ở phần lục địa, trước đây người nông dân chỉ
6 Peter Bellwood (2010), Những nhà nông đầu tiên – Nguồn gốc của các xã hội nông
nghiệp, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.147.


trồng được 1 vụ lúa trong năm do lượng mưa thất thường. Để khắc
phục tình trạng này, họ đã tiến hành xây dựng các hệ thống thủy lợi
và đê điều (như ở sông Hồng) để đảm bảo nguồn nước ổn định cho
nông nghiệp. Tại một số nước, hệ thống thủy nông cho phép canh
tác 2 vụ lúa 1 năm, do đó năng suất tăng lên rất nhiều 7.
Những hoạt động trị thuỷ này thường được xem là yếu tố thúc
đẩy sự ra đời của các nhà nước buổi ban đầu, bởi nó đặt ra nhu cầu
về việc tổ chức tập hợp người ở quy mơ lớn, nó gắn kết cộng đồng
người một cách tương đối ổn định, dựa vào những cơng trình chung

mà họ đều đã đầu tư rất nhiều thời gian, công sức để xây dựng và
thường xuyên tu bổ (như một tuyến đường, một tuyến đê, một hệ
thống kênh mương,…). Và với hiệu quả canh tác nhờ các cơng trình
cơng cộng này mang lại, cho phép cộng đồng người thu hoạch được
nhiều hơn (như là canh tác được nhiều vụ hơn trong một năm), tạo
ra thặng du lương thực và có thể phát triển dân số. Những nhà nước
sơ khai đã hình thành trên những cơ sở như vậy.
Nền nông nghiệp vững chắc không chỉ là nền tảng của những
vương quốc nơng nghiệp cường thịnh, mà cịn là bệ đỡ quan trọng
cho các quốc gia hải thương. Chẳng hạn, ở Champa, một quốc gia
lấy kinh tế công thương, đặc biệt là hải thương đi nữa, thì theo các
nguồn thư tịch Hoa – Tây, người Chămpa tranh thủ xuất khẩu đủ mọi
thứ, duy chỉ có một món hàng cấm xuất khẩu, vì thiếu, đó là lúa
gạo!8 Điều đó cho thấy rằng dù là nền kinh tế hướng biển, chú trọng
thương mại, thì lúa gạo là một nhân tố quan trọng để đảm bảo sự
phát triển và thịnh vượng của cộng đồng. Cho nên giá trị của mỗi
đồng bằng phì nhiêu cũng thua kém gì một thương cảng đắc địa.

7 Lim Chong Yah (2002), Đông Nam Á – Chặng đường dài phía trước, Sđd, tr.17-18.
8 Trần Quốc Vượng (1998), “Miền Trung Việt Nam và văn hóa Chămpa, một cái nhìn địa –
văn hóa”, trong: Việt Nam: cái nhìn địa – văn hóa, Nxb. Văn hóa Dân tộc – Tạp chí Văn
hóa Nghệ thuật, Hà Nội, tr.328-329.


2.3. Thương mại biển phát triển mạnh từ thời cổ
Có thể nói, ở Đơng Nam Á ln diễn ra sự vận động song song
của hai mơ hình phát triển: chính thể trọng nông (agrarian-based
polities) như Java, Angkor hay Đại Việt và các chính thể trọng
thương/thể chế biển (commercial-based polities/marine polities). Hai
mơ hình này khơng tồn tại biệt lập mà ln có mối quan hệ mật

thiết, tác động, tương hỗ với nhau. Kinh tế tế nông nghiệp hay
thương nghiệp không bao giờ giữ vai trị độc tơn trong các xã hội
Đơng Nam Á cũng như châu Á.9
Trong thiên nhiên kỷ đầu công nguyên, các trung tâm kinh tế lớn
là Trung Hoa, Ấn Độ, Ả rập, Địa Trung Hải đều nảy sinh nhu cầu trao
đổi buôn bán rất lớn. Nằm trên tuyến hải thương quốc tế nhộn nhịp,
nguồn lợi từ ngoại thương là vô cùng hấp dẫn, nên các quốc gia
Đông Nam Á có thể trở nên giàu có nhờ tham gia vào tuyến thương
mại này, và giàu có sớm hơn các quốc gia phát triển nông nghiệp
làm trọng, khi mà những quốc gia trọng nông phải đến từ thế kỷ X
trở về sau mới bắt đầu vươn lên mạnh mẽ.
Việc phát triển thương mại biển ở Đông Nam Á cũng là tận dụng
lợi thế sẵn có của khu vực. Thứ nhất là vị trí địa lý cầu nối, như đã
trình bày ở trên, cho đến trước những cuộc phát kiến địa lý, thì con
đường hàng hải đại dương chỉ đi qua Ấn Độ Dương và bờ đơng của
Thái Bình Dương, Đơng Nam Á chính là cầu nối của 2 đại dương này.
Thứ hai là địa hình hướng biển, với đường bờ biển dài so với diện tích
đất liền, đồng thời có nhiều vũng, vịnh, địa hình thích hợp cho việc
ra vào của tàu thuyền. Thứ ba là yếu tố gió mùa, kỹ thuật hàng hải
thời đầu Cơng ngun cịn hạn chế và thuyền đi biển phải dựa vào
gió mùa thổi, nên các thương thuyền đi giữa Trung Hoa và Ấn Độ
phải dừng ở các cảng Đông Nam Á nhiều tháng (3-5 tháng) để đợi
9 Nguyễn Văn Kim (2017), “Văn minh và đế chế: nhìn lại con đường phát triển của các
quốc gia Đông Á”, Sđd, tr.59.


gió mùa. Thời gian lưu trú lâu đem lại nhiều nguồn lợi cho các quốc
gia Đông Nam Á thông qua hoạt động cung cấp dịch vụ, nước ngọt
và lương thực10. Với trình độ kỹ thuật hạn chế, có lẽ ngồi Địa Trung
Hải ra, các tàu thuyền thời kỳ cổ trung đại sẽ rất khó khăn để vượt

đại dương, nên hải trình của họ thường sẽ là men theo rìa đất liền,
hoặc các quãng ngắn nối từ đảo này sang đảo kia. Thứ tư là hệ sinh
thái phổ tạp của Đông Nam Á mang đầy những sản vật quý hiếm,
đặc trưng mà ở thời cổ trung đại khó nơi nào so sánh được, như là
trầm hương, vàng ngọc, sừng tê, ngà voi, tổ yến, hồ tiêu, đường mía,
đồi mồi… Trong đó phải kể đến trầm hương của Chămpa là mặt hàng
được ưa chuộng nhất ở thế giới Ả Rập và Ả Rập hóa 11.
Do đó, trên phương diện kinh tế, với tiềm năng phong phú và
hoạt động kinh tế đa dạng của nó, Đơng Nam Á cịn là một Trung
tâm kinh tế quan trọng của châu Á. Trong nhiều thế kỷ, Đông Nam Á
là một khu vực kinh tế năng động, có nhiều đóng góp to lớn cho sự
phát triển của kinh tế phương Đông và thế giới chứ không phải là
“một khu chợ chun bn bán hàng hố nước ngồi” 12

10 Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2016), “Biển trong sự tồn vong của vương quốc Phù Nam”, Tạp
chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 (104), tr.62.
11 Trần Quốc Vượng (1998), “Miền Trung Việt Nam và văn hóa Chămpa, một cái nhìn địa –
văn hóa”, Sđd, tr.328.
12 Trần Quốc Vượng (2000), “Truyền thống văn hoá Việt Nam trong bối cảnh Đơng Nam Á
và Đơng Á” trong: Văn hố Việt Nam tìm tịi và suy ngẫm, Nxb. Văn hố Dân tộc và Tạp
chí Văn hố Nghệ thuật, Hà Nội, tr. 15-24. Dẫn từ Nguyễn Văn Kim, Một số suy nghĩ về
đặc tính kinh tế, thể chế chính trị và cấu trúc quyền lực của các quốc gia Đông Nam Á
thời cổ trung đại, Kỷ yếu hội thảo: Nghiên cứu và đào tạo Khoa học Xã hội và Nhân văn ở
Việt Nam – Thành tựu và kinh nghiệm, Trường ĐH KHXH & NV, ĐHQG HN, 2010, tr.313336


3. Đặc tính xã hội dưới tác động của đặc tính tự
nhiên và kinh tế
3.1. Thành phần dân cư, tộc người, ngữ hệ đa dạng
Đông Nam Á là khu vực đa tộc người, có tới hàng trăm nhóm cư

dân sinh sống ở đây, được phân chia theo 5 dịng ngơn ngữ 13:
- Dịng Nam Á (cịn gọi là Mơn - Khmer): Đây là lớp cư dân bản
địa của Đông Nam Á lục địa, ngày nay là hàng loạt tộc người, họ có
ngơn ngữ được dùng làm quốc ngữ, như tiếng Việt, tiếng Khmer, và
rất nhiều ngơn ngữ khác.
- Dịng Nam Đảo: Phân bố chủ yếu ở Đông Nam Á hải đảo,
Malaysia, có một bộ phận ở Tây Nguyên của Việt Nam, vùng duyên
hải của Thái Lan và Myanmar.
- Dòng Thái - Kađai: Gồm các nhóm cư trú tại Lào, Thái Lan,
Nam Trung Quốc, vùng núi của Myanmar và Việt Nam. Có một bộ
phận phân bố tới Assam thuộc Ấn Độ.
- Dịng Hmơng - Yao: Phân bố tại vùng núi Nam Trung Quốc,
Myanmar, Việt Nam, Lào và Thái Lan.
- Dòng Hán - Tạng: Gồm nhóm Hán và nhóm Tạng - Miến. Ở
Đông Nam Á, người Hán sống chủ yếu ở các thành phố lớn. Trong khi
đó, các nhóm nói ngơn ngữ Tạng - Miến có mặt khắp nơi, trừ Đơng
Nam Á hải đảo và Malaysia. Người Karen cư trú ở Myanmar và biên
giới Thái Lan cũng được xếp vào nhóm ngơn ngữ Tạng - Miến.

13 Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Văn hóa Đơng Nam Á, truy cập ngày 1/3/2021.


3.2. Kết cấu làng xóm đậm tính cộng đồng và tính tự trị
Với ảnh hưởng phổ biến của hệ sinh thái phổ tạp và địa hình
chia cắt, hình thành nên các không gian sinh tồn quy mô nhỏ, tạo
nên một số nét chung về kinh tế, xã hội ở các cộng đồng dân cư khu
vực Đông Nam Á là mật độ dân số tương đối thấp, năng suất lúa khá
cao, kỹ thuật nông nghiệp phù hợp với sản xuất hộ gia đình quy mơ
nhỏ. Hoạt động kinh tế đảm bảo cho cư dân trong khu vực một cuộc
sống bình dị, hịa hợp với tự nhiên, trong một xã hội có tính liên kết

cộng đồng chặt chẽ.14
Quy mơ của các cộng đồng ở khu vực Đông Nam Á phổ biến là ở
cấp độ làng, hay bn, phum, sóc, được tạo ra do nền tảng kinh tế,
và được tiếp tục duy trì, giới hạn bởi hoạt động kinh tế đó cùng với
những thiết chế văn hóa, xã hội được lập ra. Trong phạm vi một đơn
vị làng, cư dân trong đó được đáp ứng tương đối đầy đủ các nhu cầu
cơ bản về vật chất và tinh thần, cùng với đặc điểm nền sản xuất tiểu
nông gắn họ với mảnh đất và giảm đi tính di động để có thể bứt ra
khỏi làng. Với những cộng đồng có sinh kế bằng nghề đi biển, có thể
tính di động sẽ cao hơn, nhưng có thể hình dung họ là những người
đi biển dài ngày rồi lại trở về với mảnh đất làng chài ven biển và ngụ
cư ở đó.
Tính cộng đồng của làng xã được thể hiện ở nhiều mặt. trong
sinh hoạt, trong lễ hội hay trong kinh tế. Chẳng hạn, bất cứ những
việc ma chay, cưới hỏi, giỗ chạp,… đó vốn là việc giữa các cá nhân,
giữa 2 gia đình hoặc trong 1 họ, tuy nhiên những việc này ln có sự
tham gia của nhiều thành phần trong cả họ tộc và làng xóm. Điều
này, một mặt thể hiện tình đồn kết, san sẻ, giúp đỡ lẫn nhau, một
thứ tình làng nghĩa xóm rất đáng quý. Mặt khác, nó để lại sự can
14 Lâm Thị Mỹ Dung, Bối cảnh Đông Nam Á thời tiền sử,
truy cập
ngày 28/2/2021.


thiệp sâu của cộng đồng, của dư luận làng xóm vào đời sống cá
nhân, đời sống gia đình. Những con người sống trong khơng gian
làng xóm bị ràng buộc q sâu, bằng cả những lợi ích – tức là sự
giúp đỡ, và cả những định kiến, chẳng có sự giúp đỡ nào là miễn phí.
Một kiểu xã hội có tính cố kết và ràng buộc cao như vậy, không cho
phép con người làm được q nhiều điều ngồi khn khổ của nó.

Nó bảo lưu các truyền thống và giới hạn con người trong các truyền
thống đó.
Bên cạnh tính cộng đồng ở quy mơ nhỏ này cịn là tính địa
phương và tính tự trị. Vì các làng, bn có thể tồn tại một cách
tương đối biệt lập trong thời gian dài, cả về mặt kinh tế và văn hóa,
có địa hình để dựa vào và chống đỡ được những sự tấn cơng từ bên
ngồi. Do đó bản thân trong làng xóm có sự cố kết mạnh, cao hơn
thì cao làng sẽ liên kết với nhau nhưng mỗi làng vẫn có tư cách như
một thực thể riêng biệt. Để có thể tiến lên một sự hợp tác lớn hơn,
đòi hỏi các cộng đồng phải có những xúc tác đủ mạnh, chẳng hạn
như khi họ phải khai phá vùng châu thổ sông và trị thủy, hoặc khi
tham gia xây dựng thương cảng có thể đáp ứng nhu cầu lớn của
thương nhân quốc tế, hoặc khi gặp phải các thế lực ngoại xâm,…

3.3. Vị thế của người phụ nữ trong các xã hội cổ truyền
Ở Đơng Nam Á nói riêng và châu Á nói chung, phụ nữ có một
địa vị nhất định trong văn hóa và xã hội, dù sự chuyển dịch sang chế
độ phụ quyền đã trở nên phổ biến. Ở Đông Nam Á cũng là nơi mà vị
thế của phụ nữ còn được bảo đảm khá cao trong thời gian khá dài,
nếu so với các khu vực khác ở châu Á.
Chẳng hạn, dù chịu tác động đậm nét của Ấn Độ, đến mức nhiều
quốc gia Đông Nam Á được gọi là các quốc gia Ấn Độ hóa, song cơ
cấu xã hội phần lớn không chịu tác động của ảnh hưởng Ấn Độ. Chế
độ đẳng cấp, nền tảng của đạo Hindu, có rất ít ảnh hưởng và phụ nữ


phổ biến vẫn giữ được một vị trí cao mà họ đã có trước khi có tác
động đầu tiên của nền văn hóa Ấn Độ, vị trí này cao hơn rất nhiều so
với vị trí mà người phụ nữ từng chiếm được ở Ấn Độ trong lịch sử
được ghi chép lại.15

Ở những quốc gia chịu ảnh hưởng của Nho giáo, dù vẫn có thể
tìm thấy trong thần thoại và truyền thuyết của họ dấu ấn của người
phụ nữ, như là thần Nữ Oa của Trung Quốc hay nữ thần mặt trời
Amaterasu, nhưng đó chỉ là dấu ấn sót lại trong văn hóa mà thơi,
cịn trong xã hội Trung Hoa, Nhật Bản hay Triều Tiên thời cổ trung
đại, vị thế của người phụ nữ bị đẩy xuống rất thấp trong chế độ phụ
quyền, chế độ sở hữu ruộng đất, chế độ thừa kế, chế độ đa thê,…
Điều này càng được ngấm sâu hơn vào xã hội sau những sự cứng
nhắc hóa giáo lý đạo Nho của nhà cầm quyền. Ở Việt Nam, hiện
tượng này cũng có xuất hiện, tuy nhiên vai trò của phụ nữ vẫn giữ
được ở một mức độ nhất định, thể hiện qua các hương ước lệ làng,
qua bộ luật Hồng Đức...
Sự duy trì vai trị của người phụ nữ, phần nào đó có thể giải
thích từ đặc điểm kinh tế. Phổ biến ở khu vực Đông Nam Á là kinh tế
tiểu nơng hộ gia đình, chăn ni gia súc nhỏ, số lượng ít và nơng
nghiệp lúa nước khơng địi hỏi sức mạnh đặc biệt từ nam giới, mà nữ
giới cũng có thể tham gia, có thể đóng vai trị trong lao động, từ đó
vẫn tiếp tục đảm bảo vị thế xã hội của mình trong gia đình và xã hội.
Vị thế cao của người phụ nữ trong xã hội có thể xem là 1 minh chứng
cho sức sống của nền văn hóa bản địa trước những ảnh hưởng của
đạo Bà La Mơn, Phật, Nho.

3.4. Vai trị của người Hoa di cư
Người Hoa, hay chính xác hơn là người ở địa bàn Trung Quốc
ngày nay, đã di cư đến Đông Nam Á từ sớm, chủ yếu là theo các con
15 D. G. E. Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb CTQG, Hà Nội, tr.22.


sông lớn chảy từ Bắc xuống Nam (Hồng, Mekong, Chao Phraya,
Salween, Irrawaddy). Vì thế, khảo cổ học thời Đá Mới ở vùng Đông

Nam Á lục địa cho thấy những liên hệ rõ ràng với Trung Quốc hơn là
liên hệ với Ấn Độ. Nhưng đến khoảng đầu Cơng ngun thì ngược lại,
sự lan tỏa của các ảnh hưởng chi phối từ văn hóa Ấn Độ đến các nền
văn minh Phật giáo – Ấn Độ giáo ở Đông Nam Á. 16
Ở các giai đoạn sau, người Hoa di cư đến Đông Nam Á với nhiều
kiểu. Có trường hợp người Hoa di cư ồ ạt vào miền Bắc Việt Nam
theo chính sách cai trị đồng hóa từ thời nhà Hán khi cai trị Việt Nam,
những người di cư này có thể phần nhiều là những người lao động ở
tầng lớp thấp. Đến thế kỷ 17, người Hoa lại có một đợt di cư ồ ạt nữa
do sự thất bại của nhà Minh trước người Mãn Thanh, những người di
cư đợt này lại thường thuộc tầng lớp trên, có thể là quan lại, quý tộc
hoặc thương thân giàu có. Nhưng phổ biến trong các thời kỳ, người
Hoa di cư thường là giới thương nhân. Họ xuất hiện phổ biến ở hầu
khắp các quốc gia Đơng Nam Á, có tính liên kết cộng đồng đồng
hương rất mạnh mẽ. Bất cứ nơi đâu người Hoa đặt chân đến cũng có
thể hình thành những bang hội, hội quán, những phố người Hoa,
không gian mà họ sẽ lưu giữ và truyền bá văn hóa Trung Quốc.
Thương nhân người Hoa có vai trị đáng kể với kinh tế cơng
thương ở Đông Nam Á. Khi thương nhân người Hoa đến, họ kéo theo
những nghề thủ công, vốn đầu tư, nguồn hàng và sự bn bán. Từ
đó tạo ra dịng chảy thương mại. Tiếp đến, không gian buôn bán phi
nông nghiệp đó dần hình thành nên các phố bn bán và trở thành
các đô thị, với yếu tố “thị” đậm nét, thay vì kiểu tạo dựng đơ thị do
nhà nước chỉ đạo, nặng về yếu tố “thành”, “đô”, tức là yếu tố chính
trị, hành chính, quân sự. Ở Việt Nam vào khoảng thế kỷ 17-18,
những đô thị như Thanh Hà, Hội An, Cù Lao Phố, Hà Tiên, Chợ Lớn…
16 Peter Bellwood (2010), Những nhà nông đầu tiên – Nguồn gốc của các xã hội nông
nghiệp, Sđd, tr.147.



là những đơ thị trong đó vai trị, đóng góp của người Hoa được thể
hiện rõ nét trong quá trình hình thành và phát triển. Những hoạt
động thương mại của người Hoa cịn vượt ra ngồi những đơ thị đó
và góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế ở khu vực
Đàng Trong.17
Ở mức độ cao hơn, người Hoa tiến tới nắm quyền chi phối nền
kinh tế các quốc gia Đông Nam Á, điều này kéo dài cho tới tận ngày
nay. Cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á chỉ chiếm khoảng 5% dân
số khu vực, nhưng họ đã chiếm một số lượng khá lớn trong số các
nhà tỷ phú của khu vực. Họ làm chủ nhiều lĩnh vực kinh doanh và
nắm một lượng lớn nguồn tư bản kinh doanh. Ví dụ, ở Singapore, họ
chiếm tới 33% trong tổng số nguồn tư bản; Malaixia 35%, Thái Lan
44%, Philippine 30%… 18 Người gốc Hoa còn tiến tới nắm vai trị lớn
trong chính trường của các quốc gia Đơng Nam Á, chẳng hạn như ở
Thái Lan có nhiều đời thủ tướng là người gốc Hoa, ở Singapore có
xấp xỉ 75% dân số là người Hoa. Người Hoa vì vậy đóng một vai trị
rất đáng kể trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội của khu vực
Đơng Nam Á.

17 Tống Thị Quỳnh Hương, Vai trò của người Hoa trong việc hình thành và phát triển các
đơ
thị

Trung

Nam
Bộ
Việt
Nam
(Thế

kỷ
XVII-XIX),
truy cập ngày 1/3/2021.
18 Châu Thị Hải, Vai trò cầu nối của người Hoa ở Đơng Nam Á trong q trình thu hút vốn
đầu

của
Cộng
hòa
Nhân
dân
Trung
Hoa,
truy cập
ngày 28/2/2021


Tài liệu tham khảo
1. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Văn hóa Đơng Nam Á,

truy cập ngày 1/3/2021.
2. Peter Bellwood (2010), Những nhà nông đầu tiên – Nguồn gốc
của các xã hội nông nghiệp, Nxb Thế giới, Hà Nội.
3. Lâm Thị Mỹ Dung, Bối cảnh Đông Nam Á thời tiền sử,

truy cập ngày 28/2/2021.
4. Châu Thị Hải, Vai trị cầu nối của người Hoa ở Đơng Nam Á
trong quá trình thu hút vốn đầu tư của Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa,
/>uThiHai_sua2.doc, truy cập ngày 28/2/2021.

5. D. G. E. Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb CTQG, Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2016), “Biển trong sự tồn vong của
vương quốc Phù Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số
7 (104).
7. Tống Thị Quỳnh Hương, Vai trị của người Hoa trong việc hình
thành và phát triển các đô thị ở Trung và Nam Bộ Việt Nam
(Thế kỷ XVII-XIX),
/>file?uuid=085b7e55-3d28-4e67-afaf07792f32a561&groupId=13025, truy cập ngày 1/3/2021.
8. Nguyễn Văn Kim (2010), Một số suy nghĩ về đặc tính kinh tế,
thể chế chính trị và cấu trúc quyền lực của các quốc gia
Đông Nam Á thời cổ trung đại, Kỷ yếu hội thảo: Nghiên cứu
và đào tạo Khoa học Xã hội và Nhân văn ở Việt Nam – Thành
tựu và kinh nghiệm, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN, 2010,
tr.313-336
9. Nguyễn Văn Kim, “Vai trò của Việt Nam trong “con đường tơ

lụa trên biển””, Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng,


tr.40-53, />fileticket=PFFgmQapNKA%3D&tabid=61, truy cập ngày
28/2/2021.
10. Nguyễn Văn Kim (2017), “Văn minh và đế chế: nhìn lại con
đường phát triển của các quốc gia Đơng Á”, trong Lịch sử và
văn hóa – tiếp cận đa chiều, liên ngành, Nxb. ĐHQGHN, Hà
Nội.
11. NSD and UNFPA (2011), Population and Housing Census of

Timor-Leste, 2010, truy
cập ngày 1/3/2021


12. Trần Quốc Vượng (1998), “Miền Trung Việt Nam và văn hóa

Chămpa, một cái nhìn địa – văn hóa”, trong: Việt Nam: cái
nhìn địa – văn hóa, Nxb. Văn hóa Dân tộc – Tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật, Hà Nội
13. Trần Quốc Vượng (2000), “Truyền thống văn hố Việt Nam
trong bối cảnh Đơng Nam Á và Đơng Á” trong: Văn hố Việt
Nam tìm tịi và suy ngẫm, Nxb. Văn hố Dân tộc và Tạp chí
Văn hố Nghệ thuật, Hà Nội
14. Lim Chong Yah (2002), Đông Nam Á – Chặng đường dài phía
trước, Nxb. Thế giới, Hà Nội



×