Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Phát triển xúc tiến thương mại nhà nước sản phẩm may mặc của Việt Nam sang thị trường Mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.24 KB, 16 trang )

PHÁT TRIỂN XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC SẢN PHẨM MAY MẶC
CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ
DEVELOPMENT OF THE STATE TRADE PROMOTION OF VIETNAMESE
GARMENTS TO AMERICAN MARKET
ThS. Nguyễn Thị Lệ
Trường Đại học Thương mại

Tóm tắt
Mỹ là một thị trường hấp dẫn cho việc xuất khẩu hàng hóa của các Việt Nam đặc
biệt là với mặt hàng may mặc. Nhu cầu về các sản phẩm may mặc ở Mỹ là rất lớn, đa dạng
cả về số lượng và chất lượng. Trong những năm qua, giá trị xuất khẩu mặt hàng này của
nước ta sang Mỹ đã có sự tăng nhẹ nhưng sự tăng lên này chưa mang tính bền vững, một
phần do xúc tiến thương mại Nhà nước còn hạn chế. Bài viết sẽ chỉ ra vai trò quan trọng
của xúc tiến thương mại Nhà nước với xuất khẩu hàng hóa thơng qua định hướng sản xuất,
tìm kiếm, cung cấp thông tin về thị trường, quảng bá sản phẩm,... Đồng thời, tác giả sẽ
phân tích thực trạng của xuất khẩu cũng như xúc tiến thương mại Nhà nước với sản phẩm
may mặc của Việt Nam sang Mỹ, để có căn cứ cho việc đề xuất một số giải pháp hoàn
thiện cơng tác này trong thời gian tới.

Từ khóa: thị trường Mỹ, xúc tiến thương mại Nhà nước, xuất khẩu, sản phẩm may mặc
của Việt Nam
Abtract
America is an attractive market for the export of Vietnamese goods especially for
apparel items. Demands for garment products in the US is huge and variety in terms of
both quantity and quality. In recent years, Vietnam’s export value of this commodity to the
United States has rised slightly, but this increase has not sustainable partly due to State
trade promotion is limited. This article will show the important role of state trade
promotion in exporting goods through manufacturing-oriented, finding and providing
information about markets, products promotion, ... At the same time, the author is going to
analyze the situation of export and State trade promotion of Vietnamese garments to the
US in order to propose some solutions to improve this activity in the coming time.



Key words: American market, State trade promotion, export , Vietnamese garments
1. Lý luận về XTTM Nhà nước
Theo tác giả Jerome và William [14, tr.36]: “XTTM là việc truyền tin giữa người
bán và người mua hay những khách hàng tiềm năng khác nhằm tác động vào hành vi và
quan điểm mua hàng”. Theo cách tiếp cận của tạp chí Business Today [10, tr.6]: “XTTM
và hỗ trợ kinh doanh là việc doanh nghiệp sử dụng rộng rãi các kỹ thuật thuyết phục khách
hàng khác nhau để liên hệ với thị trường mục tiêu và các công chúng”. Theo cứu Dennis
W.Goodwin [10, tr.7] đã định nghĩa: “XTTM là một lĩnh vực hoạt động marketing đặc biệt
và có chủ đích định hướng vào việc chào hàng, chiêu khác và xác lập mối quan hệ thuận

434


lợi nhất giữa doanh nghiệp và đối tác và tập khách hàng tiềm năng nhằm triển khai các
chính sách thuộc chương trình marketing hỗn hợp đã lựa chọn cho doanh nghiệp”.
Trong Luật thương mại Việt Nam được Quốc hội ban hành ngày 14 tháng 6 năm
2005: “XTTM là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa và cung ứng dịch
vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hóa,
dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại”.
XTTM Nhà nước nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu có liên
quan khá mật thiết đến xúc tiến xuất khẩu. Cụ thể, theo Ủy ban Kinh tế - xã hội khu vực
châu Á - Thái Bình Dương (UNESCAP), [13, tr.26]: “XTXK (Export promotion) có mục
đích là để khai thác dễ dàng hơn các cơ hội cho việc tăng lên sự giao dịch hàng hóa và dịch
vụ từ thị trường trong nước sang thị trường quốc tế và nâng cao tính cạnh tranh cho các
mặt hàng xuất khẩu của quốc gia. XTXK gồm có các hoạt động được thiết kế để tăng xuất
khẩu cho các hãng hay các quốc gia. Nó bao gồm các biện pháp hay cơng cụ để có thể thiết
lập cũng như nâng cao sự tham gia của các quốc gia hay các hãng vào các hội chợ thương
mại, các phái đoàn thương mại và các chiến lược quảng cáo, cũng như cung cấp thông tin
và đưa ra những dự báo về thị trường thế giới, hoặc các vấn đề về tiếp cận thị trường, …”

Xúc tiến xuất khẩu là các hoạt động được thiết kế để tăng xuất khẩu của một đất nước hay
một doanh nghiệp.
Qua cách tiếp cận về XTTM và xúc tiến xuất khẩu, XTTM Nhà nước nhằm hỗ trợ
cho xuất khẩu sử dụng trong bài viết được hiểu là: “Xúc tiến thương mại Nhà nước là tổng
thể các chiến lược, chính sách, chương trình, biện pháp và cơng cụ được Nhà nước sử dụng
để tìm kiếm cơ hội và thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa hay dịch vụ ra thị trường nước ngồi”.
Các chủ thể tham gia hoạt động XTTM Nhà nước bao gồm có các cơ quan quản lý
Nhà nước, các tổ chức hỗ trợ xuất khẩu và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa. XTTM
Nhà nước có vai trị rất quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu thể hiện như sau:
- XTTM Nhà nước góp phần thúc đẩy sản xuất và phát huy được lợi thế của quốc
gia xuất khẩu. Thực tế, một nền kinh tế luôn luôn phải đối diện với ba vấn đề cơ bản là cái
gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai. Qua hàng loạt các hoạt động khảo sát, tìm kiếm
thơng tin thị trường, cung cấp thông tin thị trường, xây dựng các chiến lược xuất khẩu,…
hoạt động XTTM Nhà nước sẽ có vai trò đầu tiên như là hoạt động nghiên cứu cầu về mặt
hàng xuất khẩu ở thị trường nước ngoài. Hoạt động XTTM Nhà nước với những hoạt động
cụ thể của nó sẽ định hướng rõ hơn cho hoạt động sản xuất trong nước nên sản xuất và xuất
khẩu mặt hàng nào cho hiệu quả. Điều này cũng có tác động làm cho hoạt động sản xuất
trong nước được chuyển dịch theo cơ cấu phù hợp hơn sang những ngành có lợi thế trong
hoạt động xuất khẩu.
- XTTM Nhà nước sẽ góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất
khẩu ở thị trường nước ngồi. Thơng qua các hoạt động như hội chợ triển lãm ở nước
ngoài, quảng cáo, quảng bá sản phẩm, công tác XTTM Nhà nước sẽ giúp cho người tiêu
dùng nước ngồi có thơng tin đầy đủ về sản phẩm xuất khẩu. Hơn nữa, thơng qua XTTM
Nhà nước, các nước có thể gây dựng và khuếch trương hình ảnh sản phẩm hàng hóa, dịch
vụ của mình ở thị trường nước ngồi. Từ đó, khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu
sẽ được tăng lên. Điều này có thể thấy rất rõ ở thị trường Mỹ, với đặc điểm của người tiêu
435


dùng là rất thích những sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng. Vì vậy, hình sản của sản phẩm

xuất khẩu sang Mỹ được làm khuếch trương lên nhiều điều đó cũng đồng nghĩa với khả
năng xuất khẩu các sản phẩm của Việt Nam sang thị trường tương đối khó tính này sẽ tăng
lên.
- XTTM Nhà nước còn là cầu nối giữa doanh nghiệp trong nước và thị trường thế
giới thông qua hoạt đông thông tin cơ hội kinh doanh, khảo sát thị trường, nghiên cứu thị
trường. Qua những hoạt động này, doanh nghiệp sẽ xác định được thế mạnh trong sản xuất
và sản xuất các sản phẩm phù hợp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng thế giới.
XTTM Nhà nước sẽ định hướng về các thị trường, cung cấp thơng tin về thị trường quốc
tế, từ đó các doanh nghiệp xuất khẩu cũng như nền kinh tế sẽ trở nên linh hoạt hơn. XTTM
Nhà nước không chỉ góp phần làm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu
mà còn làm cho sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên rõ rệt.
- XTTM Nhà nước góp phần duy trì kim ngạch và tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm.
Trên thực tế, cùng với sự phát triển mạnh của quá trình mở cửa, hội nhập nền kinh tế, xu
hướng tự do hóa thương mại cũng phát triển mạnh mẽ. Nhưng đi kèm với đó là sự gia tăng
trong xu hướng bảo hộ thương mại thông qua các công cụ phi thuế, các rào cản kỹ thuật.
XTTM Nhà nước sẽ giúp cho các quốc gia có thể mở rộng thị trường xuất khẩu. Thông qua
XTTM Nhà nước, các quốc gia không chỉ nâng cao được sức cạnh tranh cho sản phẩm,
kim ngạch xuất khẩu ở các thị trường nhập khẩu hiện tại mà cịn có cơ hội để đẩy mạnh
xuất khẩu sang các thị trường mới. Thực tế, các doanh nghiệp xuất khẩu chưa đủ khả năng
để tiến hành các nghiên cứu thị trường quốc tế, tiến hành các đàm phán, cũng như thực
hiện các chương trình XTTM ra ngồi. Vì vậy, sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý Nhà nước
là rất cần thiết.
- Công tác XTTM Nhà nước được tiến hành thông qua những hoạt động như
nghiên cứu thị trường, hội chợ triển lãm nước ngoài, giao thương kết nối doanh nghiệp
ngoài nước, hỗ trợ xây dựng và phát triển thương hiệu, văn phịng đại diện ở nước ngồi,
tư vấn phát triển sản phẩm và thị trường, thông tin cơ hội kinh doanh ở thị trường nước
ngoài,… Với những hoạt động này, các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ có thơng tin về các
thị trường xuất khẩu tiềm năng. Trên cơ sở đó, họ có thể định hướng, cũng như tạo cơ hội
cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước xuất khẩu sản phẩm của mình sang các thị
trường mới.

XTTM Nhà nước thường thực hiện các nội dung chính như:
- Ban hành các văn bản pháp luật và pháp quy liên quan đến XTTM.
- Xây dựng các chiến lược, chính sách và chương trình XTTM.
- Triển khai các hoạt động XTTM Nhà nước.
- Các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động XTTM Nhà nước.

2. Thực trạng xuất khẩu sản phẩm may mặc của Việt Nam sang thị trường Mỹ
Mỹ là một thị trường có sức tiêu thụ rộng lớn, mẫu mã đa dạng và phong phú mặt
hàng may mặc. Về mẫu mã, người Mỹ thường chú trọng đến yếu tố tự nhiên,sự thoáng mát
là ưu tiên hàng đầu trong việc họ lựa chọn trang phục. Tình thời trang, mẫu mốt và thị hiếu

436


thể hiện rất rõ trong phong cách ăn mặc của người Mỹ. Ở Mỹ chủ nghĩa cá nhân luôn được
đề cao ngay cả trong trang phục, họ tự do mặc đồ và có thể tạo được phong cách ăn mặc
riêng cho mình. Việt Nam đã có sự tìm hiểu về thị hiếu đối với các mặt hàng may mặc của
Mỹ và đã đáp ứng được phần nào nhu cầu của họ. Trong những năm qua, Việt Nam đã đưa
được những sản phẩm may mặc của mình đến đất Mỹ thể hiện qua biểu đồ 1.

Biểu đồ 1. Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào Mỹ
Đơn vị: Tỷ USD

Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam
Niên giám thống kê hải quan về hàng hóa xuất nhập khẩu Việt Nam

Qua biểu đồ 1, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào Mỹ có sự
tăng lên đều qua các năm trong giai đoạn 2010 - 2016. Tuy nhiên, mức tăng chưa đáng kể
bởi trong 6 năm kim ngạch này tăng đươn 5 tỷ USD. Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu ngành
may của Việt Nam khá đa dạng. Trong đó, nhiều loại hàng hóa may mặc mới, chất lượng

cao như áo sơ mi nữ cao cấp, quần jean,... các sản phẩm này đã khẳng định được chỗ đứng
trên thị trường Mỹ.
Cụ thể, theo thông tin từ Hiệp hội Dệt may, mặt hàng áo sơ mi nữ, váy dài, đồ lót,..
là những mặt hàng chiếm tỷ trọng cao trong xuất khẩu sang mỹ giai đoạn vừa qua. Tiêu
biểu, mặt hàng sơ mi nữ ln duy trì mức tỷ trọng gần 10% năm 2012 và đạt 9,03% với
kim ngạch xuất khẩu là 673,27 triệu USD năm 2013. Và năm 2014, kim ngạch xuất khẩu
mặt hàng này là 791,23 triệu USD với 8,06% tỷ trọng kim ngạch. Mặt hàng quần dài và
quần sooc nam, váy ngắn, áo sơ mi nam ... là những mặt hàng có tỷ trọng khá ổn định
trong thời quan qua. Các loại áo khoác nam khác, đồ ngủ và Pyjama là những mặt hàng có
tốc độ tăng trưởng khá nhanh. Nếu năm 2010 tỷ trọng các dòng áo khốc nam chỉ ở mức
156,04 triệu USD thì đến năm 2014 đã tăng lên 487,02 triệu USD tăng gấp 2 lần so với
năm 2010.
Về hình thức xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang Mỹ. Các doanh nghiệp
gia công hàng xuất khẩu Việt Nam hiện nay thường áp dụng 3 hình thức xuất khẩu là

437


CMT, FOB, ODM. Gia cơng xuất khẩu (CMT)là một hình thức sản xuất hàng hóa xuất
khẩu trong đó người đặt gia cơng nước ngồi cung cấp máy móc thiết bị hoặc phụ liệu
hoặc thành phẩm theo mẫu. Người nhận may gia cơng trong nước sẽ tổ chức q trình sản
xuất theo yêu cầu của khách hàng. Người nhận gia công sẽ giao lại toàn bộ sản phẩm cho
người đặt gia công để nhận tiền công.
FOB là một phương thức xuất khẩu ở hoặc cao hơn so với CMT và được hiểu là 1
hình thức sản xuất theo kiểu "mua đứt - bán đoạn". ODM là một hình thức sản xuất mà nhà
thiết kế và chế tạo sản phẩm theo đơn hàng. Khả năng thiết kê cho thấy trình độ cao hơn về
tri thức của nhà cung cấp, họ có khả năng tạo ra những xu hướng thời trang từ các mẫu
thiết kế của mình.Các doanh nghiệp ODM tạo ra những mẫu thiết kế và bán lại cho người
mau - đó là chủ của các thương hiệu lớn trên thế giới.


Biểu đồ 2. Kim ngạch xuất khẩu may mặc theo các hình thức xuất khẩu
của VN sang Mỹ
Đơn vị: Tỷ USD

Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam

Qua biểu đồ 2, mặt hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sang Mỹ theo
hình thức CMT. Sở dĩ có điều này là do: Kỹ năng tìm kiếm nguồn nguyên liệu của các
doanh nghiệp xuất khẩu cịn yếu, kỹ năng này chính là sự hiểu biết đối với tất cả các loại
vải và sợi gồm có cả đặc điểm, cách sử dụng, địa chỉ nhà máy và kỹ năng thương thuyết.
Trong khi đó, nguồn nguyên liệu cần thiết trong nước, các nhà sản xuất nước ta khó tìm
được các ngun liệu do bên mua quy đhhh. Việc chọn nguồn nguyên liệu đòi hỏi các nhà
sản xuất phải có đủ nguồn tài chính và có khả năng đương đầu với những rủi ro liên quan
đến sự khơng tương thích của các nguồn mua dẫn đnn vỡ hợp đồng. Các doanh nghiệp sản
xuất hàng may mặc nước ta chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ, nguồn lực tài chính cịn hạn
chế. Do đó, một sự lơ là trong việc mua bán đầu vào đều có thể làm cho doanh nghiệp khó
khăn, thậm chí tiêu tán. Và nước ta còn thiếu năng lực thiết kế và marketing cần thiết cho
hình thức FOB.
Xuất khẩu theo hinh thức CMT chiếm 68,12% năm 2010 và vẫn duy trì được tỷ
trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ là 53.44% trong năm 2016. Bên cạnh đó, với
sự phát triển của khoa học công nghệ và chất lượng nguồn lực được cải thiện đã làm cho
438


kim ngạch xuất khẩu may mặc theo hình FOB cũng được cải thiện đáng kể từ 29.9% năm
2010 lên trên 40% năm 2016.
Hơn nữa, về năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may của Việt Nam ở Mỹ chưa
thực sự mạnh. Việt Nam thường xuyên đối đầu với đối thủ khá mạnh là Trung Quốc nhưng
sự trỗi dậy của các thị trường như Bangladesh, Campuchia, việc dịch chuyển đơn hàng
xuất khẩu lan sang Lào, Campuchia khiến các doanh nghiệp bất an. Theo ông Trương Văn

Cẩm - Tổng thư ký Hiệp hội Dệt May Việt Nam - hiện Campuchia vẫn hưởng thuế suất ưu
đãi 0% theo Chương trình Everything But Arms (EBA) - GSP của EU dành cho các nước
kém phát triển. Việt Nam chỉ được hưởng GSP cho các nước đang phát triển với thuế suất
9,6%. Campuchia cũng chỉ vượt Việt Nam về thị phần dệt may tại một số quốc gia ở các
mặt hàng khác nhau. Hơn nữa, chi phí ở các quốc gia này cũng cạnh tranh hơn hẳn. Cụ thể,
giá nhân công ngành dệt may tại VN thấp nhất chưa tới 200 USD/người/tháng thì tại
Campuchia, giá nhân công chỉ từ 100 - 120 USD/người/tháng. Điều này cũng diễn ra tương
tự như ở Lào hay Myanmar. Bên cạnh đó, chi phí th mặt bằng cùng các chi phí khác
trong q trình hoạt động như bảo hiểm xã hội, cơng đồn... của các nước đều thấp hơn
nhiều so với VN. Vì vậy, cùng với lợi thế về thuế xuất khẩu vào các thị trường lớn như Mỹ
thì đơn hàng đang đổ về các nước này có xu hướng gia tăng. Đặc biệt, Campuchia và
Myanmar là những đối thủ mới đáng gờm trong phân khúc sản xuất theo các đơn hàng số
lượng lớn, giá trị trung bình thấp mà lâu nay VN vẫn nhận được. Thêm vào đó, khách hàng
Walmart đến từ Mỹ chủ yếu đặt gia công hàng trẻ em ở Campuchia. Đặc biệt, mua hàng
xuất khẩu từ Campuchia thì bảo đảm là hàng xuất “xịn” nên yên tâm hơn. Nếu cộng thêm
chi phí vận chuyển, hàng xuất mua từ Campuchia vẫn lời hơn trong khi mua hàng tại VN
lại còn dễ bị nhầm hàng xuất “dỏm”. Còn theo một số đầu mối chuyên đánh hàng áo quần
từ Campuchia, chỉ cần gọi điện qua Phnom Penh, 2 ngày sau đã có hàng về, cước vận
chuyển tính theo ký. Trung bình 1,8 USD/kg cho hàng kiện 100 kg. Nếu số lượng lên đến
300 - 500 kg, giá cước vận chuyển giảm xuống 1,6 USD/kg.

3. Thực trạng xúc tiến thương mại Nhà nước với sản phẩm may mặc của Việt Nam
sang thị trường Mỹ
3.1. Ban hành văn bản đối với XTTM Nhà nước sản phẩm may mặc

Ở nước ta Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) trực thuộc Bộ Công Thương là
cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về Xúc tiến thương mại, thương hiệu và
đầu tư phát triển công nghiệp, thương mại theo quy định của pháp luật. Ngoài Cục Xúc
tiến thương mại, hệ thống các tổ chức XTTM Nhà nước còn bao gồm các tổ chức XTTM
thuộc các Bộ, ngành và các tổ chức hỗ trợ thương mại của Nhà nước như Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Tài chính đều có các bộ phận chun trách giúp Nhà nước trong việc hoạch

định các chính sách hỗ trợ, khuyến khích xuất khẩu của đất nước và của các doanh nghiệp.
Các bộ và các tổ chức hỗ trợ thương mại đều có các Viện nghiên cứu, Vụ chức năng, các
Trung tâm thơng tin, báo chí chun ngành,… hỗ trợ công tác quản lý, phát triển sản xuất,
kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp. Ngoài ra, ở cấp địa phương, hiện nay có 57
tỉnh/thành phố ở nước ta đã thành lập trung tâm XTTM và 6 địa phương cịn lại đã có các
phịng đảm nhiệm việc thực hiện công tác XTTM.

439


Hoạt động XTTM Nhà nước sản phẩm may mặc được điều chỉnh bởi các quy định
cùa pháp luật và những văn bản pháp quy như:
Luật thương mại 2005 được thiết lập để điều tiết hoạt động XTTM và quy định Bộ
Công Thương là cơ quan quản lý Nhà nước về tổ chức, hướng dẫn hoạt động XTTM Nhà
nước
Quyết định số 46/2001/QĐ - TTg ngày 4/4/2001 của Thủ tướng quy định về cơ chế
quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2001-2005
Quyết định số 2/2002/QĐ - BTM ngày 2/1/2002 của Bộ Thương mại (nay là Bộ
Công Thương) đề cập đến quy chế xét thưởng xuất khẩu
Chỉ thị số 22/2000/CT - TTg được ban hành ngày 27/10/2000 của Thủ tướng
Chính phủ về chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2001-2010; Thông tư số
17/2001/TT - BTM ngày 17/2/2001 của Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) hướng
đẫn thực hiện hoạt động khuyến mại
Quyết định số 104/2003/QĐ - TTg ngày 24/1/2003 của Bộ Thương mại (nay là Bộ
Công Thương) đưa ra Quy chế xây dựng và quản lý chương trình XTTM trọng điểm quốc
gia
Quyết định số 253/2003/QĐ - TTg ngày 25/11/2003 của Thủ tướng về phát triển
thương hiệu quốc gia được Thủ tướng Chính; Quyết định số 279/2005/QĐ - TTg ngày
3/11/2005 của Thủ tướng về Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình XTTM cho giai
đoạn 2006-2010. Ở Chương 2, chính phủ quy định rõ về nội dung, mức hỗ trợ tùy thuộc

vào từng hoạt động và áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
Nghị định số 37/2006NĐ - CP ngày 4/5/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật
Thương mại về hoạt động XTTM thương mại và các quy định pháp luật hiện hành về hoạt
động khuyến mại
Thông tư liên tịch số 07/2007/TTLT-BTM-BTC ngày 06/07/2007 của liên Bộ
Thương mại-Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều về khuyến mại hội chợ, triển
lãm thương mại được quy định ở nghị định số 37/NĐ - CP
Quyết định 1118/QĐ - BTC ngày 17/10/1007 của Bộ Công Thương đưa ra quy chế
làm việc giữa Cục XTTM và thương vụ Việt Nam tại nước ngoài
Quyết định 80/2009/QĐ - TTg ngày 21/5/2009 của Thủ tướng về việc sửa đổi, bổ
sung Quy chế xây dựng và thực hiện chương trình XTTM quố gia giai đoạn 2006 - 2010
với mục đích sửa đổi, bổ sung các điều như điều 1, điều 3, điều 5, điều 6, điều 7, điều 8,
diều 9, điều 12 và điều 19 của quyết định 279/2005/QĐ - TTg
Quyết định 72/2010/QĐ - TTg ngày 15/11/2010 của Thủ tướng về Quy chế xây
dựng, quản lý và thực hiện Chương trình XTTM quốc gia
Quyết định 7313/QĐ- BTC của Bộ Công thương ngày 7/10/2013 về một số hoạt
động hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu uy tín; Thơng tư liên tịch số 07/2007/TTLT - BTM BTC - Hướng dẫn thực hiện một số điều về khuyến mại hội chợ, triển lãm thương mại đã
được quy định ở nghị định số 37/NĐ - CP,

440


Thông tư số 06/2012/TT- BCT ngày 27/3/2012 - Quy định chi tiết trình tự, thủ tục
cấp giấy phép thành lập và hoạt động văn phòng đại diện của tổ chức XTTM nước ngồi
tại Việt Nam; Thơng tư 171/2014/TT - BTC ngày 14/11/2014 - Cơ chế tài chính hỗ trợ từ
ngân sách nhà nước để thực hiện Chương trình XTTM quốc gia,...
Với những văn bản quy định về XTTM Nhà nước được ban hành cụ thể như vậy đã
giúp cho hoạt động XTTM Nhà nước được thự hiện trong khung pháp lý đồng bộ hơn. Từ
đó, cơng tác XTTM Nhà nước nói chung và XTTM Nhà nước sản phẩm may mặc của Việt
Nam sang Mỹ được hiệu quả hơn.Trong các chiến lược xuất khẩu hàng hóa, nước ta ln

xác định may mặc là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và đã đưa
ra nhiều giải pháp để có thể đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm này trong thời gian tới trong đó
có những giải pháp liên quan đến XTTM Nhà nước.
3.2. Xây dựng chiến lược XTTM Nhà nước cho xuất khẩu sản phẩm may mặc

Việt Nam đã xây dựng được chương trình Thương hiệu quốc gia theo quyết định số
253/2003/QĐ-TTg ngày 25/11/2003. Chương trình này hướng tới việc: Xây dựng hình ảnh
về Việt Nam là một số quốc gia có uy tín về hàng hóa và dịch vụ, đa dạng phong phú với
chất lượng cao. nâng cao sức cạnh tranh cho các thương hiếu ản paharm Việt Nam trên thị
trường trong và ngoài nước; Xây dựng hình ảnh Việt Nam gắn với các giá trị "Chất lượng Đổi mới, sáng tạo - Năng lực tiên phong". Tăng thêm uy tín, niềm tự hào và sức hấp dẫn
cho đất nước và con người Việt Nam, góp phần khuyến khích du lịch và thu hút đầu tư
nước ngồi.
Chương trình Thương hiệu quốc gia: Xây dựng mơi trường phát triển thương hiệu
thuận lợi thông qua việc phối hợp các chương trình và hoạt động có sự tương đồng về mục
tiêu và nội dung do các Bộ/ngành và tổ chức hữu quan thực hiện nhằm tạo lập cơ chế chính
sách đồng bộ và sử dụng hiệu quả nguồn lực của Nhà nước dành cho lĩnh vực xây dựng
thương hiệu. TIếp tục hỗ tợ doanh nghiệp xây dựng năng lực phát triển thương hiệu thông
qua các hoạt động đào tạo, tư vấn và thơng tin nhằm nâng cao trình độ sản xuất, kinh
doanh và năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng háo và dịch vụ, phát triển xuất khẩu.
Tăng cường quảng bá Chương trình Thương hiệu quốc gia thơng qua các kênh thông tin
truyền thông đại chúng, các sự kiện thương mại quốc tế được tổ chức ở trong nước và quốc
tế.
Bên cạnh, chương trình Thương hiệu quốc gia, nước ta đã tổ chức xây dựng và thự
hiện chương trình xúc tiến Thương mại định hướng xuất khẩu cho mặt hàng may mặc.
Chương trình này do Cục xúc tiến thương mại chủ trì thực hiện phối hợp cùng với Bộ Tài
chính và các Bộ, ngành liên quan, Hiệp hội ngành hàng, Sở công thương các địa phương/
Trung tâm xúc tiến thương mại thực hiện. Với mục đích hỗ trợ thơng tin thương mại, tư
vấn, đào tạo tập huấn ngắn hạn cho các daonh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc. Chương
trình có nội dung như sau: Thơng tin thương mại, nghiên cứu thị trường, xây dựng cơ sở
dữ liệu về thị trường Mỹ cho xuất khẩu hàng may mặc, mời đại diện cơ quan truyền thơng

nước ngồi đến Việt Nam để viết bài, làm phóng sự trên báo, tạp chí, truyền thanh, truyền
hình, internet nhằm quảng bá cho xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam. Thuê chuyên gia
trong và ngoài nước để tư vấn phát triển các sản phẩm may mặc, nâng cao chất lượng sản
phẩm phát triển xuất khẩu, thâm nhập thị trường Mỹ. Đào tạo, tập huấn ngắn hạn để nâng

441


cao nghiệp vụ xúc tiến xuất khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng may mặc với
mức hỗ trợ từ 50- 100% chi phí tùy theo từng nội dung chương trình.
Chương trình xúc tiến thương mại nhà nước hướng tới xuất khẩu sản phẩm may
mặc có nội dung: Tổ chức tham gia các hội chợ triển lãm tại Mỹ như hội chợ Magic Show
(gồm chi phí gian hàng, trang trí tổng thể khu vực hội chợ, gian hàng quốc gia, tổ chức lễ
khai mạc, tổ chức hội thảo, trình diễn sản phẩm, cơng tác phí cho cán bộ cảu đơn vị chủ trì
đi nước ngồi thực hiện các tổ chức); Tổ chức hội chợ định hướng xuất khẩu may mặc tại
Việt Nam; Tuyên truyền quảng bá hình ảnh và mời khách hàng tham gia giao dịch tại hội
chợ. Tổ chức hội gnhij quốc tế xuất khẩu hàng may mặc tại Việt Nam với mức kinh phí hỗ
trợ 50 - 100% kinh phí tùy theo nội dung chương trình.
Chính phủ đã xóa bỏ chính sách thưởng xuất khẩu, ngoại trừ xuất khẩu theo Hiệp
định. Hiện nay,Việt Nam chỉ còn duy nhất chương trình xúc tiến thương mại là hoạt động
hỗ trợ gián tiếp và tăng cường năng lực xuất khẩu cho các doanh nghiệp nói chung và
doanh nghiệp xuất khẩu may mặc nói riêng. Tuy nhiên, theo thơng tin từ cục xúc tiến
thương mại,nguồn kinh phí phục vụ hoạt động này cịn q nhỏ so với nhu cầu.Cụ thể,
chương trình xúc tiến thương mại quốc gia năm 2011 là 55 tỷ đồng chỉ bằng 31,97% so với
năm 2009 và bằng 45,83% năm 2010 và chỉ bằng 0,0036% kim ngạch xuất khẩu. Con số
này chỉ bằng 1/30 thế giới và bằng 13,6% nhu cầu hỗ trợ cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Năm 2014, nguồn kinh phí này là 70 tỷ đồng giảm 25,32% so với năm 2013 trong khi các
dự án tăng 97,72%. Trong khi đó, theo thống kê của Ngân hàng thế giới, kinh phí cho hoạt
động này là 0,11 % kim ngạch xuất khẩu. Với các nước Mỹ La Tinh và nước nước vùng
Caribe là 0,17%, các nước Đông Âu và châu Á là 0,12%. Mà nước ta chưa đạt 0,01% điều

này cho thấy bất cập trong kinh phí đầu tư cho XTTM Nhà nước ở Việt Nam.
3.2. Tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại Nhà nước đối với mặt hàng may
mặc xuất khẩu

Số lượng cơ sở hạ tầng cho XTTM Nhà nước đã có sự gia tăng nhưng khơng nhiều.
Tuy nhiên, việc nâng cấp này cũng có tác động tích cực tới hoạt động XTTM Nhà nước đối
với sản phẩm may mặc của Việt Nam sang Mỹ. Chất lượng và hình ảnh của sản phẩm may
mặc và doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng này ngày càng được phổ biến rộng rãi, nâng cao
vị thế khơng chỉ có doanh nghiệp mà còn vị thế của Việt Nam trên thế giới.

Bảng 4. Cơ sở hạ tầng phục vụ XTTM Nhà nước
Năm
Trung tâm triển lãm
Trung tâm thông
thương mại
Cơ sở hạ tầng khác

tin

2011
60

2012
61

2013
63

2014
64


2015
64

2016
66

47

49

51

53

55

56

28

32

33

35

36

36


Nguồn: Cục Xúc tiến thương mại

Trong những năm qua, Việt Nam đã có sự thiết lập mơi trường pháp lý thuận lợi
cho hoạt động truyền tin, xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho việc phủ sóng và phát
triển thông tin viễn thông, triển khai ứng dụng thương mại điện tử trong hoạt động XTTM
Nhà nước đối với sản phẩm may mặc. Nhà nước cần thực hiện hỗ trợ về kinh tế, kỹ thuật,

442


xây dựng năng lực, tạo điều kiện cho việc hình thành và phát triển các đơn vị dịch vụ thông
tin một cách chuyên nghiệp. Đồng thời, Cục XTTM - Bộ Công thương cũng đã đẩy mạnh
công tác thu thập, xử lý và cung cấp thông tin theo hướng phục vụ tốt hơn cho các doanh
nghiệp xuất khẩu sản phẩm may mặc sang Mỹ.
Bộ Công thương cũng đã xây dựng các trang web thiết thực giúp cho các doanh
nghiệp xuất khẩu có thể kịp thời nắm bắt được thơng tin về các thị trường nước ngồi như
cổng thơng tin nước ngồi (www.ttnn.com.vn). Cùng với đó, Nhà nước cũng đã xây dựng
và triển khai thông tin thương mại quốc gia, cung cấp thông tin thương mại phục vụ cho
công tác quản lý Nhà nước về XTTM, đồng thời đáp ứng thông tin thương mại cho các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu và khách hàng ở nước ngồi. Bộ Cơng thương
đã xây dựng mạng MOITnet kết nối hơn 40 Sở Công thương của các địa phương và hơn 60
thương vụ của Việt Nam ở nước ngồi. Cùng với các đồn cơng tác thương mại cấp Nhà
nước, các tổ chức XTTM Nhà nước của Việt Nam tổ chức đoàn doanh nhân của nước ta ra
nước ngoài để khảo sát thị trường, đồng thời tiếp đón các đồn doanh nhân nước ngồi vào
Việt Nam khảo sát, tìm kiếm cơ hội kinh doanh. Cục XTTM (VIETRADE) đã phối hợp
với Trung tâm thương mại quốc (ITC) giới thiệu công cụ nghiên cứu thị trường: Trademap
và Productmap qua website với cơ sở dữ liệu khổng lồ thu thập từ hơn 160 quốc gia trên
thế giới trong đó có Mỹ
Mặc dù vậy, hoạt động tổ chức và cung cấp thơng tin thương mại cho mọi loại hình

doanh nghiệp ở nước ta còn rất yếu kém. Điều này đã dẫn đến tình trạng thơng tin vừa
thừa vừa thiếu, khơng kiểm sốt nổi các thơng tin đang được lưu hành. Tình trạng phổ biến
là thơng tin chung rất nhiều, nhưng thông tin cụ thể phụ vụ cho hoạt động kinh doanh xuất
khẩu thì lại thiếu. Thơng tin cung cấp còn nghèo nàn, giá trị thấp, chất lượng thấp và vẫn
chưa bắt kịp với tình hình biến động của thị trường. Hiện nay, Việt Nam đã thành lập các
trung tâm giới thiệu sản phẩm ở Mỹ vào tháng 5 năm 2004 với diện tích 420m2. Tuy nhiên,
đội ngũ cán bộ cơng tác tại các thương vụ rất ít, điều này xuất phát từ nguồn nhân lực trong
hoạt động xúc tiến thương mại. Theo thống kê từ Cục xúc tiến thương mại Việt Nam, năm
2010 nước ta có 900 cán bộ làm trong lĩnh vực xúc tiến thương mại và đến năm 2014 là
1250 người. Tuy nhiên, con số này chưa phục vụ đủ cho hoạt động xúc tiến nhà nước ở
nước ngồi. Thực tế, mỗi thương vụ có từ 2 - 4 cán bộ, thậm chí có thương vụ khi mới đi
vào hoạt động chỉ có 1 cán bộ nên việc thực hiện các nhiệm vụ về XTTM gặp nhiều khó
khăn. Thơng tin từ cổng thơng tin nước ngồi năm 2011, thương vụ ở thị trường Mỹ mới
chỉ có 2 cán bộ là ông Đào Trần Nhân - Tham tán và ơng Trần Như Sơn - Phó tổng lãnh
sự. Với số lượng cán bộ ít nên cơng việc mà mỗi người đảm nhận là rất nhiều nên rất khó
có thể đảm bảo hồn thành tốt tất cả các cơng việc được giao phó. Ngồi ra, đội ngũ nhân
lực làm cơng tác XTTM Nhà nước còn thiếu nhiều. Điều này xuất phát từ việc chưa có sự
đánh giá đúng đắn về vai trò của XTTM Nhà nước đối với xuất khẩu nên các tổ chức
XTTM Nhà nước chưa thực sự quan tâm đúng mức đến việc tuyển dụng về số lượng cũng
như trình độ chun mơn, ngoại ngữ làm cho lực lượng cán bộ chưa thực sự đảm bảo tốt về
ngoại ngữ và chuyên môn.
Theo thông tin từ cục XTTM, trung này sẽ giúp ích cho các doanh nghiệp rất nhiều
trong việc sang gặp gỡ, trao đổi và tìm kiếm cơ hội hợp tác kinh doanh tại Mỹ. Với việc tổ

443


chức các trung tâm giới thiệu sản phẩm đã có khá nhiều doanh nghiệp tham gia trong đó có
các doanh nghiệp nông may mặc gửi catalog, sản phẩm trưng bày. Tuy nhiên, các doanh
nghiệp không mặn mà với hoạt động này. Trung tâm New York chỉ có 4 doanh nghiệp mở

phòng giao dịch, 4 doanh nghiệp trưng bày sản phẩm và 27 doanh nghiệp gửi catalog.
Trong số các doanh nghiệp gửi sản phẩm và gửi catalog tới các trung tâm này, hiện chỉ có
duy nhất một doanh nghiệp thấy hài lịng. Mức phí thu về việc đăng ký trưng bày sản phẩm
và catalog ở mức khá cao. Từ năm 2005 -2007, Cục XTTM duy trì mức phí thu của doanh
nghiệp nếu trưng bày catalog là 4.500 USD/DN/năm; trưng bày sản phẩm là 7.376 USD/
DN năm, doanh nghiệp muốn đặt văn phịng tại TTGTSP thì phải trả đến 27.367 USD.
Hơn thế, từ năm 2006, giá thuê phòng giao dịch: 4.200- 4.800 USD/phịng/năm. Cùng với
việc lập các TTGTSP, nước ta cũng có các đoàn trao đổi sang các nước khác, tuy nhiên
nhiều cuộc trao đổi, gặp gỡ chỉ mang tính hình thức, chỉ gửi catalog mà khơng có sự trao
đổi gì.
Hơn nữa, các tổ chức XTTM Nhà nước có thể cung cấp dịch vụ tư vấn kinh doanh
miễn phí hoặc có thu phí cho doanh nghiệp theo yêu cầu. Nhưng dịch vụ này mới chỉ dừng
lại ở việc tư vấn về việc lựa chọn mặt hàng và thị trường xuất khẩu mà cụ thể là tư vấn sản
phẩm may mặc xuất khẩu. Đối tượng tư vẫn khá hẹp nên sản phẩm tư vấn đó chưa đến
được với số đơng doanh nghiệp xuất khẩu có quy mơ nhỏ và vừa. Hơn nữa, dịch vụ tư vấn
cho các doanh nghiệp xuất khẩu may mặc vẫn chưa đi đến tư vấn cho doanh nghiệp về lựa
chọn công nghệ, nguyên liệu đầu vào, lập kế hoạch, tổ chức sản xuất và xuất khẩu để từ đó,
doanh nghiệp có thể nâng cao năng lực cạnh tranh và vị thế trên thị trường.
Tình hình cầu ngày càng cao về lao động cho hoạt động ngoại thương, XTTM Nhà
nước nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, Chính phủ Việt Nam và các tổ chức XTTM Nhà
nước đã cung cấp các dịch vụ đào tạo đa dạng. Bộ Công thương, VIETRADE và các tổ
chức XTTM Nhà nước ở cấp địa phương đã tổ chức rất nhiều lớp huấn, hội nghị, hội thảo
khoa học với sự tham gia tích cực của giới quan chức và cộng đồng doanh nghiệp. Những
hội thảo, hội nghị và những dự án này có tác dụng rất lớn đối với việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của Việt Nam khi tham gia vào công tác XTTM Nhà nước nói chung và
với sản phẩm may mặc nói riêng. Tuy nhiên, chất lượng nguồn lực vẫn chưa đạt được như
mong muốn.
Bên cạnh các hoạt động XTTM Nhà nước ở Mỹ, tại Việt Nam đã có khá nhiều hội
chợ liên quan đến sản phẩm ngành may mặc thể hiện qua bảng 5.


Bảng 5. Số lượng hội chợ, triển lãm ngành may mặc Việt Nam
Năm
Số lượng
Quy mô Tổng gian hàng
Số DN tham gia

2010
52
7.040
4.580

2011
64
7.650
5.300

2012
75
8.500
6.000

2013
81
9.100
6.350

2014
86
9.340
6.500


2015
91
9.530
6.650

2016
96
9.820
6.830

Nguồn: Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam

Với số lượng các hội chợ và triển lãm tăng lên đã làm cho hoạt động xuất khẩu
hàng may mặc của Việt Nam có những chuyển biến tích cực. Kim ngạch xuất khẩu trong
những năm qua dã tăng và Việt Nam chỉ đứng sau Trung Quốc ở thị trường hàng may mặc

444


Mỹ. Một số triển lãm nổi bật cần được kể đến là: Hội chợ hàng Made in Việt Nam 2010,
Hội chợ thời trang Việt Nam 2010, Triển lãm quốc tế về máy móc, thiết bị ngành dệt may,
Hội chợ quốc tế thời trang Việt Nam - VIFF (2012, 2013, 2014), Hội chợ Xuân 2011 thành
phố Đà Nẵng, Triển lãm quốc tế lần thứ 22 về ngành công nghiệp Dệt & May, thiết bị và
nguyên phụ liệu 2012, Hội chợ thời trang Việt Nam 2012, Hội chợ thời trang Đông Xuân
lần thứ XXIII - 2013,...
Bên cạnh đó, cần phải kể đến hội chợ hàng may mặc mà Việt Nam đã tham gia ở Mỹ
là hội chợ quốc tế Magic Show, đây là hội chợ mà VN đã có sự tham gia thường niên từ năm
2009. Đây là hội chợ lớn được tổ chức 2 lần/năm tại Las Vegas. Qua đây, VN có nhiều cơ
hội trong tiếp cận và mở rộng thị trường cho hàng may mặc của mình. Riêng với việc tham

gia vào hội chợ này các doanh nghiệp VN sẽ nhận được 100% kinh phí hỗ trợ từ nhà nước
(Theo thông tin từ Cục xúc tiến thương mại giai đoạn 2010 - 2014). Hơn nữa, việc tổ chức
các hoạt động nghiên cứu khảo sát tại Mỹ cũng được Việt Nam quan tâm và thực hiện đều
đặn hàng năm. Trước khi hoạt động nghiên cứu khảo sát diễn ra, Cục xúc tiến thương mại sẽ
thông báo cho các đơn vị liên quan chuẩn bị và nộp hồ sơ đăng ký tham gia. Sau đó, Cục sẽ
thơng tin về quy mơ hội chợ, thời gian tổ chức, địa điểm, định mức hỗ trợ và yêu cầu nội
dung báo cáo khi kết thúc hoạt động nghiên cứu thị trường. Cũng từ thông tin của Cục
XTTM, trong giai đoạn 2010 - 2014 nước ta đã có 60 đồn khảo sát thị trưỡng sau khi tham
gia hội chợ Magic Show. Đồng thời, Việt Nam cũng có sự hỗ trợ các đồn khảo sát từ Mỹ
đối với thị trường của Việt Nam. Cũng trong giai đoạn này nước ta đã tiếp đón 48 đồn khảo
sát ở Mỹ. Đây là tín hiệu tốt cho thấy sự quan tâm của Mỹ đối với Việt Nam.
Qua những phân tích thực trạng xuất khẩu và XTTM Nhà nước đối với sản phẩm
may mặc ở Mỹ trong thời gian qua, hoạt động XTTM Nhà nước sản phẩm may mặc xuất
khẩu sang các thị trường Mỹ đã được những thành công như:
Thứ nhất, mạng lưới XTTM Nhà nước đã được hình thành, có sự phát triển và đóng
góp nhất định cho hoạt động xuất khẩu may mặc của Việt Nam các thị trường Mỹ. Điều
này được thể hiện thông qua sự tăng lên về kim ngạch xuất khẩu sản phẩm may mặc của
Việt Nam sang Mỹ đã có sự tăng lên trong giai đoạn 2010 - 2016.
Thứ hai, Việt Nam đã xây dựng được chiến lược xuất nhập khẩu cho giai đoạn
2001 - 2010, và định hướng xuất khẩu sang Mỹ. Trong các chiến lược này, Nhà nước luôn
nhấn mạnh và đưa ra giải pháp cho hoạt động XTTM Nhà nước. Cùng với đó, các cơ quan
quản lý Nhà nước cũng đã xây dựng được chiến lược XTTM 2006 - 2010, các chương
trình XTTM quốc gia hàng năm. Trong các chiến lược, chương trình này sản phẩm may
mặc ln được coi là sản phẩm xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam và Mỹ là một trong những
thị trường xuất khẩu may mặc chính của Việt Nam.
Thứ ba, dịch vụ XTTM Nhà nước đã có lên tăng về số lượng và hoạt động XTTM
Nhà nước sản phẩm may mặc xuất khẩu sang thị trường Mỹ có những động thái phát triển
mới, chất lượng của các hoạt động dần được nâng lên. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm
may mặc Việt Nam ở Mỹ chưa cao như mong đợi là do công tác XTTM Nhà nước sản
phẩm may mặc sang Mỹ còn một số hạn chế sau:

Thứ nhất, giữa các tổ chức XTTM Nhà nước vẫn chưa có sự kết nối thực sự để làm
cho mạng lưới XTTM Nhà nước trở nên hoàn chỉnh.
445


Thứ hai, các tổ chức XTTM Nhà nước được hình thành và phát triển mới chỉ mạnh
về mặt số lượng, chất lượng hoạt động chưa cao.
Thứ ba, năng lực triển khai các hoạt động XTTM Nhà nước sản phẩm may mặc
xuất khẩu sang Mỹ cịn thấp, trình độ ngoại ngữ của cán bộ, nhân viên tham gia XTTM
chưa cao.
Thứ tư, dịch vụ XTTM Nhà nước đối với sản phẩm may mặc xuất khẩu sang Mỹ
mới chỉ thiên về dịch vụ bề nổi, đơn giản như tư vấn và tổ chức tham gia hội chợ, triển
lãm, thông tin thương mại, tạo cơ hội kinh doanh và đào tạo tập huấn. Hơn nữa, các dịch
vụ này mới chỉ hỗ trợ ở khâu tiêu thụ mà chưa tạo được sự kết hợp giữa phát triển sản
phẩm và phát triển thị trường.
Thứ năm, các dịch vụ XTTM Nhà nước sản phẩm may mặc xuất khẩu sang Mỹ có
sự tăng lên về số lượng nhưng chất lượng chưa cao như thông tin nghèo nàn, lạc hậu; dịch
vụ khảo sát, nghiên cứu thị trường còn kém; các trung tâm giới thiệu sản phẩm không hiệu
quả đối với sản phẩm may mặc; dịch vụ tư vấn cho doanh nghiệp còn nhiều hạn chế về đối
tượng khách hàng, về nội dung tư vấn; dịch vụ hỗ trợ quảng cáo chưa được làm thường
xun, chưa có chương trình thực sự mạnh mẽ và hiệu quả,…

4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của xúc tiến thương mại Nhà nước đối với sản
phẩm may mặc ở Mỹ
Thứ nhất, phát triển hệ thống XTTM Nhà nước hoàn chỉnh và phát huy vai trị tích
cực của các bộ phận trong hệ thống đó. Cụ thể, Nhà nước thực hiện phân cấp trong quản lý
Nhà nước về XTTM cho cơ quan XTTM của các địa phương, từ đó tạo được sự linh hoạt
trong việc thực hiện công tác XTTM của các tổ chức này. Đồng thời, Nhà nước cần thực
hiên tổ chức lại và tăng cường hợp tác, liên kết giữa các tổ chức XTTM Nhà nước nhằm
khắc phục tình trạng phát triển mạnh về số lượng mà các tổ chức hoạt động mang tính tự

phát. Tiếp đó, Nhà nước cần phát huy vai trò của các Thương vụ Việt Nam ở Mỹ và EU
trong hoạt động XTTM Nhà nước nhằm đẩy mạnh xuất khẩu may mặc sang hai thị trường
này. Thương vụ Việt Nam ở nước ngồi có vai trị rất quan trọng đối với XTTM Nhà nước
cũng như xúc tiến xuất khẩu trong việc quảng bá thông tin về may mặc, thu thập thông tin
về thị trường may mặc Mỹ, …
Thứ hai, nâng cao chất lượng dịch vụ XTTM Nhà nước đối với sản phẩm may mặc
xuất khẩu sang Mỹ. Để giảm thiểu sự nghèo nàn, lạc hậu của nguồn thông tin cung cấp,
Nhà nước cần mở rộng và phát huy hơn nữa vai trò của các đại diện thương mại và ngoại
giao cũng như Thương vụ của nước ta ở Mỹ, đào tạo nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, thu
thập và xử lý thông tin và tạo điệu kiện thuận lợi cho họ hoạt động. Nhà nước cần có sự
thiết lập mạng lưới thông tin thương mại quốc gia hiệu quả và đảm bảo phủ sóng rộng
khắp. Từ đó, doanh nghiệp cũng như các tổ chức XTTM Nhà nước có thể tiếp nhận một
cách dễ dàng và miễn phí những thơng tin thương mại. Bên cạnh đó, thương mại điện tử có
vai trị quan trọng đối với cơng tác XTTM sản phẩm may mặc sang các thị trường Mỹ&EU
là rất quan trọng và là con đường ngắn nhất để tiếp cận các thị trường này.

446


Nhà nước cần có cơ chế quản lý và khuyến khích sự hoạt động tích cực của cổng
thơng tin thị trường nước ngồi, để cho cơng thơng tin này thực sự là nguồn cung cấp
thông tin quen thuộc và hữu ích cho doanh nghiệp. Đồng thời, Bộ Công thương cần chú ý
đến việc xem xét cải tiến nội dung thông tin cung cấp trên các website đã được thiết lập
như tăng tính thời sự của thơng tin cung cấp. Bộ cũng cần liên kết, giới thiệu tới cộng đồng
doanh nghiệp trang web hữu ích để phát huy tính chủ động, sáng tạo của các doanh nghiệp
trong việc thu thập những thơng tin phong phú, hữu ích và miễn phí như trang web của Bộ
Thương mại Mỹ (http://www. usatrade.gov) hoặc ( Hiệp hội
các nhà xuất nhập khẩu Mỹ (), Phòng Thương mại Mỹ
().
Thứ ba, phát triển thương hiệu đối với sản phẩm may mặc ở Mỹ. Thương hiệu đóng

vai trị quan trọng trong việc phân đoạn thị trường của tiêu thụ may mặc. Sản phẩm mang
thương hiệu khác nhau sẽ đưa ra những thông điệp khác nhau dựa trên những dấu hiệu nhất
định nhằm đáp ứng những nhu cầu của người tiêu dùng và thu hút sự chú ý của những tập
hợp khách hàng khác nhau. Khi đối tượng khách hàng đa dạng và sản phẩm ngày càng
phong phú thì chức năng phân biệt càng trở nên quan trọng. Vì vậy, việc xây dựng thương
hiệu quốc gia đối với sản phẩm may mặc xuất khẩu sang thị trường Mỹ cần có sự chú ý
đến đặc điểm của từng thị trường, từng phân khúc thị trường đối với sản phẩm may mặc.

Nhà nước cần có sự phổ biến, nâng cao nhận thức đối với các doanh nghiệp xuất
khẩu may mặc cũng như các tổ chức XTTM Nhà nước về nghĩa rộng của thương hiệu.
Thương hiệu khơng chỉ hiểu đơn thuần là hình tượng với cái tên, biểu trưng mà cần phải
chú ý tới chất lượng sản phẩm may mặc, cách ứng xử của doanh nghiệp với khách hàng,
cộng đồng, những hiệu quả và tiện ích đích thực cho người tiêu dùng sản phẩm may mặc
mang lại,… Có như vậy, thương hiệu của sản phẩm may mặc xuất khẩu mới có thể đi sâu
vào tâm trí người tiêu dùng Mỹ. Với vai trị Ban Thư ký của Hội đồng thương hiệu quốc
gia, Cục XTTM cần tăng cường phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan và doanh
nghiệp tiến hành các chương trình quảng bá hình ảnh quốc gia, thương hiệu quốc gia, giúp
các doanh nghiệp xuất khẩu may mặc có điều kiện phát triển thương hiệu vững chắc tới
Mỹ. Trong điều kiện hiện nay của ngành may mặc VN, việc xây dựng thương hiệu quốc
gia sẽ có nhiều thuận lợi hơn. Đối với thị trường Mỹ, người Mỹ chỉ biết về Việt Nam, chứ
khơng biết về các doanh nghiệp. Do đó thương hiệu quốc gia sẽ mang lại hiệu quả nhanh
hơn, bền vững hơn. Đây cũng là bước đầu tiên để tiếp cận các thị trường khó tính như Mỹ.
Thứ tư, xúc tiến nguồn cung may mặc xuất khẩu sang Mỹ. Để đảm bảo cho năng
lực cạnh tranh của sản phẩm may mặc được nâng lên, Nhà nước cần chú trọng tới chất
lượng của sản phẩm may mặc. Trong giai đoạn hiện nay, XTTM Nhà nước cần được hiểu
theo nghĩa rộng, hoạt động XTTM Nhà nước không chỉ tập trung ở khâu tiêu thụ mà còn
cần chú ý tới nâng cao năng lực sản xuất, chế biến sản may mặc xuất khẩu, nâng cao khả
năng cạnh tranh của sản phẩm may mặc trên thị trường Mỹ, cũng như xây dựng chiến lược
xuất khẩu quốc gia hiệu quả. Xúc tiến nguồn cung hiệu quả cũng sẽ góp phần vào sự phát
triển bền vững của chương trình thương hiệu quốc gia đối với sản phẩm may mặc Việt

Nam xuất sang thị trường Mỹ.Trên thực tế, đối với hoạt động nuôi trồng, chế biến và xuất
khẩu may mặc của Việt Nam gặp phải hạn chế khá lớn đó là thiếu nguồn cung cho xuất

447


khẩu. Điều này được thể hiện khá rõ ở thực trạng các doanh nghiệp chế biến ln kêu cứu
vì thiếu nguyên liệu chế biến cả về mặt số lượng và chất lượng. Cùng với đó, cơng nghệ
chế biến may mặc ở nước ta vẫn chưa cao nên sản phẩm chưa có được sức cạnh tranh cao
ở trên thị trường Mỹ.

Kết luận
Bài viết “Phát triển xúc tiến thương mại Nhà nước sản phẩm may mặc của Việt
Nam sang thị trường Mỹ” là một bài viết mang tính mới và đáp ứng được những vấn đề
cấp thiết đặt ra đối với công tác XTTM Nhà nước, năng lực cạnh tranh của sản phẩm may
mặc ở Mỹ. Qua bài viết, tác giả đã nghiên cứu và hệ thống hóa những lý luận liên quan đến
“Xúc tiến thương mại Nhà nước” như khái niệm, nội dung và vai trị của cơng tác này đối
phát triển xuất khẩu hàng hóa một cách bền vững trong điều kiện mở cửa hội nhập sâu,
rộng như hiện nay.
Với những lý luận đã được hệ thống và phương pháp nghiên cứu khoa học, đề tài
đã phân tích thực trạng công tác XTTM Nhà nước đối với sản phẩm may mặc xuất khẩu
sang thị trường Mỹ qua nguồn dữ liệu khá đa dạng. Đề tài cũng đã chỉ ra thực trạng việc
ban hành văn bản pháp luật liên quan đến XTTM, việc xây dựng các chiến lược, chương
trình XTTM Nhà nước đối với sản phẩm may mặc cũng như việc thực thi các chương
trình, chiến lược này.
Qua những phân tích thực trạng về XTTM Nhà nước sản phẩm may mặc và đánh
giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm này ở thị trường Mỹ, tác giả đã đưa ra những kết
luận, những thành công, hạn đối với công tác này trong thời gian qua và một số giải pháp
phát triển XTTM Nhà nước nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm may mặc
của Việt Nam ở thị trường Mỹ.

Những giải pháp bài viết được đưa ra dựa trên những nguyên nhân thực trạng và đi
tới phát huy những điểm mạnh và khắc phục những tồn tại của công tác XTTM Nhà nước
sản phẩm may mặc xuất khẩu may mặc sang thị trường Mỹ. Tác giả đã nghiên cứu và đề
xuất hệ thống giải pháp khá bao quát liên quan đến quản lý Nhà nước về XTTM, nâng cao
chất lượng dịch vụ XTTM, xúc tiến nguồn cung cho xuất khẩu may mặc sang Mỹ,…Với
những nghiên cứu và phân tích về thực trạng, giải pháp đối với XTTM Nhà nước đối với sản
phẩm may mặc xuất khẩu sang thị trường Mỹ, tác giả kỳ vọng bài viết sẽ là một nguồn tài
liệu hữu ích cho những nghiên cứu tiếp theo sau về XTTM nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của sản phẩm may mặc ở thị trường Mỹ nói riêng và thị trường quốc tế nói chung.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị định số 37/2006/NĐ - CP ngày 4/4/2006 - Quy định chi tiết Luật Thương mại về
hoạt động XTTM thương mại và các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động khuyến
mại, Chính phủ nước Cộng Hịa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, ngày 4 tháng 5 năm
2006.
2. Quyết định 72/2010/QĐ - TTg ngày 15/11/2010 - Quy chế xây dựng, quản lý và thực
hiện Chương trình XTTM quốc gia, Chính phủ nước Cộng Hịa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam, ngày 15 tháng 10 năm 2010.

448


3.Quyết định 80/2009/QĐ - TTg ngày 21/5/2009 - Sửa đổi, bổ sung Quy chế xây dựng và
thực hiện chương trình XTTM quốc gia giai đoạn 2006 - 2010, Chính phủ nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, ngày 21 tháng 5 năm 2009 .
4. Quyết định số 279/2005/QĐ - TTg ngày 3/11/2005 - Quy chế xây dựng và thực hiện
Chương trình XTTM cho giai đoạn 2006-2010, Chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam, ngày 3 tháng 11 năm 2005.

5. Quyết định số 72/2010/QĐ - TTg ngày 15/11/2010 - Quy chế xây dựng, quản lý và thực

thiện chương trình XTTM quốc gia, Chính phủ nước Cộng Hịa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam, ngày 15 tháng 11 năm 2010.
6. Quyết định 7313/QĐ- BTC của Bộ Công thương ngày 7/10/2013 về một số hoạt động hỗ
trợ doanh nghiệp xuất khẩu uy tín, Chính phủ nước Cộng Hịa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam, ngày 7 tháng 13 năm 2013.
7. Thông tư liên tịch số 07/2007/TTLT - BTM - BTC - Hướng dẫn thực hiện một số điều về
khuyến mại hội chợ, triển lãm thương mại đã được quy định ở nghị định số 37/NĐ CP, Bộ Thương mại - Bộ Tài chín, ngày 06 tháng 7 năm 2007.

8. Thơng tư số 06/2012/TT- BCT ngày 27/3/2012 - Quy định chi tiết trình tự, thủ tục cấp
giấy phép thành lập và hoạt động văn phòng đại diện của tổ chức XTTM nước ngồi
tại Việt Nam, Chính phủ nước Cộng Hịa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, ngày 27 tháng
3 năm 2012.
9. Thông tư 171/2014/TT - BTC ngày 14/11/2014 - Cơ chế tài chính hỗ trợ từ ngân sách
nhà nước để thực hiện Chương trình XTTM quốc gia, Chính phủ nước Cộng Hịa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, ngày 14 tháng 11 năm 2014.
10. Cục xúc tiến thương mại (2003), Công tác đại diện thương mại tại nước ngoài, Hà Nội.
11. Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2005), Luật thương mại sửa
đổi 2005, NXB Lao động, Hà Nội.
12. Nguyễn Thế Long (2009), Giải pháp tăng cường hiệu lực công tác xúc tiến thương mại
quốc gia, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý Kinh tế, Trường đại học Thương
mại, Hà Nội.
13. UNESCAP (2001), Training maual on increasing Capacities in trade and investment
Promotion, Bangkok.
14. Charles W.Lamb, Joseph F. Hair, Jr.Carl McDaniel (2003), Essentials of maketing, 6th,
Publisher:Neil Marquardt.

449




×