Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Nghiên cứu sự biến động của vi khuẩn trong môi trường nuôi và mức độ nhiễm vi khuẩn vibrio trong mẫu tôm sú ( penaus monodon ) tại một số tỉnh khu vực phía bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1015.66 KB, 54 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH


Trần Thị Mơ

NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỘNG CỦA VI KHUẨN TRONG
MÔI TRƢỜNG AO NUÔI VÀ MỨC ĐỘ NHIỄM VI KHUẨN
VIBRIO TRONG MẪU TƠM SÚ (PENAEUS MONODON) TẠI
MỘT SỐ TỈNH KHU VỰC PHÍA BẮC

KHỐ LUẬN TỐT NGHIỆP
KỸ SƯ NI TRỒNG THUỶ SẢN

VINH – 2009

1


MỞ ĐẦU
Nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) đang là nghề được chính quyền các tỉnh
ven biển miền Bắc Trung Bộ (Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hố, Quảng Bình…)
đưa vào là ngành kinh tế mũi nhọn trong thời kỳ từ nay đến 2010. Trong đó
tơm sú là đối tượng được ni quan trọng nhất, đồng thời được đánh giá cao
về cả tiềm năng và diện tích.
Tính đến 2002, sản lượng ni tơm sú của 8 tỉnh miền Bắc đã đạt được
12.805 tấn, năng suất bình quân đạt 500kg/ha, cao gấp 3 lần sản lượng tôm
nuôi năm 2000. Nuôi tôm sú đã thực sự làm tăng thu nhập, nâng cao đời sống
và làm giàu cho người dân vùng ven biển. Chính vì thế, trong chương trình
phát triển ni trồng thuỷ sản đến năm 2010, Bộ Thuỷ sản định hướng phát
triển nuôi tôm Sú đạt sản lượng 360.000 tấn, giá trị xuất khẩu 1.400 triệu USD


[12]
Như một qui luật của tự nhiên, khi sự phát triển đạt được thể hiện qua
cả diện tích, năng suất nuôi tôm kéo theo một số vấn đề xảy ra như ô nhiễm
môi trường nuôi, dịch bệnh xảy ra thường xuyên hơn, ... Một thực tế cho thấy
trong những năm gần đây bệnh đã xuất hiện với tần suất dày hơn và diễn biến
phức tạp. Bệnh là nguyên nhân chính quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới chất
lượng tơm giống cũng như năng suất đạt được của tôm thịt. Theo báo cáo kết
quả nuôi trồng thủy sản 2003 của ngành đã đưa ra cả nước có 546757 ha ni
tơm nước lợ thương phẩm, trong đó diện tích có tơm bị bệnh và chết là 30083
ha. Các tỉnh từ Đà Nẵng đến Kiên Giang có tới 29200 ha ni tơm bị chết
chiếm 97,06% diện tích có tơm bị chết trong cả nước chủ yếu do bệnh đốm
trắng, đầu vàng, MBV, bệnh do vi khuẩn vibrio, bệnh do ký sinh trùng( Tạp
chí thủy sản)[12].

2


Ở tôm vi khuẩn gây rất nhiều bệnh nguy hiểm khác nhau và là mối đe
dọa rất lớn trong ngành ni tơm cơng nghiệp. Có nhiều lồi gây bệnh cho
tơm, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng cũng như khả năng chống chịu của tôm rất
khác nhau tùy vào loại vi khuẩn, cường độ cảm nhiễm và giai đoạn cảm
nhiễm.Trong đó Vibrio là nhóm sống tự do trong nước và cũng là tác nhân gây
bệnh nguy hiểm. Bệnh Vibrio phân bố rộng khắp thế giới, có thể xảy ra ở hầu
hết các giai đoạn của tơm [7]. Hiện nay nó đang trở thành các bệnh thường
gặp và gây nhiều tác hại cho nghề ni tơm nước ta nói chung và các tỉnh phía
Bắc nói riêng.
Vì vậy để góp phần hiểu rõ hơn về ngun nhân gây bệnh trên tơm Sú
từ đó có biện pháp phịng trị kịp thời nhằm hạn chế rủi ro cho nghề nuôi tôm
tôi tiến hành thực hiện đề tài: “ Nghiên cứu sự có mặt của vi khuẩn Vibrio
trong mẫu tôm Sú(Penaeus monodon) và sự biến động vi khuẩn trong môi

trường ao nuôi tôm Sú tại một số tỉnh phía Bắc”.
Mục đích của đề tài:
- Bước đầu làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học.
- Xác định sự biến động của vi khuẩn hiếu khí và tổng vi khuẩn vibrio spp
trong môi trường ao nuôi tôm Sú tại Hưng Hịa – Nghệ An, Quảng Chính –
Thanh Hóa, và Thạch Trị - Hà Tĩnh .
- Xác định sự có mặt của vi khuẩn Vibrio trong mẫu tơm Sú ni tại Hưng
Hịa – Nghệ An, Quảng Chính – Thanh Hóa, và Thạch Trị - Hà Tĩnh .

3


CHƢƠNG I. TỔNG QUAN
1.1. Một số đặc điểm về đối tƣợng nghiên cứu
1.1.1. Một số đặc điểm về vi khuẩn
1.1.1.1 Hệ thống phân loại
Ngành Proteobacteria
Lớp Schizomycetes
Bộ Vibrionales
Họ Vibrionaceae
Giống Vibrio
Loài Vibrio spp
Vibrio có dạng hình que, kích thước tế bào 0,3-0,5x1,4-2,6µm. Vibrio
khơng hình thành bào tử và có khả năng chuyển động nhờ một tiêm mao hoặc
nhiều tiêm mao. Là các vi khuẩn bắt màu gram âm, có khả năng oxy hố và
lên men trong mơi trường O/F Glucose, khơng có khả năng sinh H2S và mẫn
cảm với Vibriostar (0/129). Hầu hết các lồi của giống vibrrio đều phân bố
trong mơi trường nước mặn, thích hợp ở 20 – 40%o, có lồi có thể phát triển ở
70%o nên vibrio ln là mối đe doạ cho nghề nuôi động vật thuỷ sản biển,
đặc biệt là giáp xác nuôi thâm canh trên biển và ven biển. Môi trường

thiosulphate citrate bile salt Sucrose agar (TCBS) là môi trường chọn lọc của
vibrio spp… Dựa vào màu sắc khuẩn lạc trên môi trường chọn lọc này, vibrio
spp được chia thành 2 nhóm: Nhóm có khả năng lên men đường Sucrose và
có khuẩn lạc màu vàng; nhóm khơng có khả năng lên men đường Sucrose và
có khuẩn lạc màu xanh trên môi trường TCBS [7].
4


Vi khuẩn Vibrio có thể gây ra các bệnh mãn tính, thứ cấp tính và cấp
tính. Khi bệnh cấp tính xảy ra tỷ lệ chết có thể lên tới 100% nếu khơng có
biện pháp trị bệnh kịp thời. Khi bệnh Vibriosis bùng nổ ở mức độ cấp tính,
ln ln liên quan đến vấn đề stress và chất lượng môi trường nước xấu.
Vibrio là vi khuẩn đặc trưng cho vùng nước biển ấm, phát triển mạnh ở nhịt
độ 25 – 300C [7].
Theo Bower (1996), một số lồi vi khuẩn có khả năng tiết ra các men
phân huỷ vỏ kitin ở các loài giáp xác như Chitinase, Protease, lipase. Các vi
khuẩn này có thể thuộc giống Vibrio spp, Pseudomonas spp, Aeromonas
spp.(Bower S. M (1996), Rickettsia and Chlamydia of Crabs, Synopsis of
infection Diseases and parasites of Commercially Exploited Shellfish)
Gây bệnh Vibriosis ở ĐVTS gặp một số loài như sau: V.
parahaemolyticus, V. haveyi, V. cholera, V. vulnificus, V. anginolyticus, V.
anguilarum…
1.2. Tình hình nghiên cứu bệnh trên tôm sú
1.2.1. Trên thế giới
Ngành nuôi trồng thủy sản đã đem lại lợi nhuận rất cao cho các quốc
gia có tiềm năng về phát triển NTTS, đặc biệt là nuôi tôm sú. Các quốc gia đã
bằng mọi cách mở rộng diện tích vùng ni, đẩy mạnh các hình thức nuôi
công nghiệp dẫn đến sự mất cân bằng sinh thái trong các vùng nuôi tôm. Hiện
tượng ô nhiễm môi trường và dịch bệnh đã xảy ra liên tục ở nhiều nơi trên thế
giới. Bệnh đã làm giảm sản lượng tôm nuôi đáng kể. Năm 1987 – 1989 dịch

bệnh tôm xảy ra ở Đài Loan đã làm cho sản lượng tôm nuôi ở quốc gia này
giảm xuống đáng kể từ 100.000 tấn giảm còn 20.000 tấn [13].

5


Khơng chỉ tính riêng châu Á, châu Phi, châu Mỹ mà cả trên toàn thế
giới đều chịu thiệt hại lớn về sản lượng, năng suất do dịch bệnh gây ra, đặc
biệt thiệt hại lớn nhất phải kể đến Thái Lan, Philippine, Indonesia, Trung
Quốc, Bangladesh [13].
Trước tình hình dịch bệnh hồnh hành, hàng loạt các cơng trình nghiên
cứu về bệnh trên các đối tượng thủy sản đã được tiến hành nghiên cứu. Vào
những năm 70 bệnh virus trên tôm lần đầu tiên được phát hiện bởi Couch
(1974) và gọi là Baculovirus penaeid, và hiện nay con người đã tìm ra khoảng
20 bệnh do virus trên tơm và hàng trăm lồi vi khuẩn khác nhau cũng như
nhiều loài nấm, ký sinh trùng gây ra trên tôm (Brock and Lightner 1990) [25].
1.2.1.1. Bệnh virus
Theo lightner (1996), Brock và lightner (1990), Fulk và Main (1992),
các bệnh thường gặp do virus gây bệnh trên tôm he nuôi tại khu vực châu Á
như sau [29]:
Hội chứng đốm trắng WSBV
Bệnh do virus đầu vàng YHD
Bệnh BMN và MBV
Bệnh hoại tử cơ quan tạo máu IHHNV
Bệnh gan tụy do Parvovirus
Bệnh đốm trắng WSBV
Bệnh đốm trắng được thông báo lần đầu tiên ở Trung Quốc vào năm
1989 trong các đầm ni tơm sú có tỷ lệ chết rất cao. Vài năm trở lại đây bệnh
đã xuất hiện ở rất nhiều khu vực trên thế giới trong đó có Việt Nam và gây
6



thiệt hại đáng kể. Hiện tại bệnh đốm trắng đang được tổ chức dịch bệnh động
vật quốc tế xếp vào danh mục cần được kiểm soát [31].
Dấu hiệu đặc trưng của bệnh là có những đốm trắng khoảng 0,5 – 2mm
ở vỏ, chủ yếu tập trung ở giáp đầu ngực, những đốm trắng này không bị mất
đi khi ta cạo dưới lớp vỏ. Những đốm trắng được tạo nên do sự lắng cặn
khơng bình thường của muối canxi ở biểu bì [34].
Tơm bị bệnh thường khả năng tiêu thụ thức ăn giảm sút rõ ràng, cá biệt
có trường hợp tăng cường độ bắt mồi sau vài ngày mới có hiện tượng bỏ ăn.
Tơm bệnh có thể bị chuyển sang màu hồng đỏ. Hiện tượng chết có thể xảy ra
vài ngày sau đó, tỷ lệ chết cao, có thể lên tới 90% - 100% trong 3 – 7 ngày
nhưng cũng có trường hợp đốm trắng không phải do tôm bị nhiễm virus mà
có thể do sự kéo dài độ pH cao quá lâu dẫn đến sự tích tụ canxi ở lớp vỏ làm
xuất hiện đốm trắng, hiện tượng này không nguy hiển lắm. Chỉ cần môi
trường nuôi tốt, giúp tôm ăn tốt và lột xác bình thường, sau khi lột xác đốm
trắng đó sẽ mất đi [34].
Bệnh đốm trắng phát triển rất nhanh, gây chết hàng loạt và hay cảm
nhiễm ở giai đoạn tôm con (sau khi thả giống từ 30 – 40 ngày).. Virus gây
bệnh này có thể phát triển trên nhiều đối tượng tôm nuôi khác nhau, con
đường lây lan của bệnh rất rộng theo cả chiều ngang và chiều dọc [31].
Theo các nhà khoa học Úc thì virus có thể tồn tại trong mơi trường
nước trong vịng 4 – 7 ngày với khả năng lây nhiễm cao. Một số nhà khoa học
Ấn Độ cho rằng bệnh WSBV thường trầm trọng hơn sau những trận mưa lớn.
Còn Chalor Limsuwan khi nghiên cứu WSBV ở Thái Lan lại có nhận xét rằng
ở vùng ni có độ muối cao, mức độ nhiễm WSBV nghiêm trọng hơn nhiều
so với vùng ni có độ muối thấp [35].

7



Bằng phương pháp mô bệnh học Lightner nhận thấy rằng: Các tế bào
nhiễm virus bệnh đốm trắng có nhân bị kết dặc lại và xuất hiện thể vùi bắt
màu hồng khi nhuộm Eosin và Hematocyline [5].
Ngoài ra để kiểm tra bệnh này người ta cịn có nhiều phương pháp như
nhuộm nhanh mang tôm bị bệnh, phương pháp PCR [5].
Bệnh MBV
MBV có mặt trong phần lớn các trang trại ni tơm ở châu Á từ Trung
Quốc đến Đài Loan, Philippine, Malayxia, Singapore, Thái Lan, Indonexia,
Australia… và có thể lây nhiễm trên nhiều loại tôm he khác nhau:
P.monodon, P. merguiensis, P. vannamei…Tuy nhiên chỉ có tơm sú P.
monodon thường bị nhiễm nặng và phổ biến nhất [32].
Hiện nay bệnh MBV đã xuất hiện khá phổ biến trên toàn thế giới: Khu
vực Tây bán cầu, vùng Trung Đông, châu Mỹ và cả ở các khu vực châu Á
Thái Bình Dương. Theo Wang và ctv (1992), bệnh MBV thường gây tỷ lệ
chết cao trong các trại ương ni và ít hơn trong các ao ni tơm thịt ở
Malaysia. Ơng đã phát hiện ra tơm bị nhiễm bệnh ở giai đoạn hậu ấu trùng và
ấu niên là mạnh nhất [32].
Còn theo Lightner (1996) cho rằng, tơm có thể bị nhiễm MBV từ giai
đoạn Zoea 2 nhưng bệnh lại trầm trọng nhất ở giai đoạn postlarvae, đặc biệt là
PL25, tỷ lệ tử vong có thể lên đến 90% trong quần đàn bị nhiễm MBV
nặng[34].
Theo một quan niệm khác của Chen (1992) và của Chanratchakool
(1994) thì bệnh MBV có gây tác hại hay khơng cịn phụ thuộc vào sự “sốc”
do môi trường và sự tham gia của các tac nhân khác như vi khuẩn, động vật
đơn bào và các virus khác. Nghĩa là tôm bị nhiễm MBV nếu được sống trong
8


mơi trường thuận lợ và ổn định thì hầu như tác hại của bệnh tôm không đáng

kể nhưng khi gặp điều kiện môi trường xấu, không ổn định làm tôm yếu, dễ
mẫn cảm với MBV và dẫn đến tôm bị chết [36].
Phần lớn các quần đàn tôm nhiễm MBV khi chết thấy khơng chỉ có một
tác nhân là MBV mà còn thấy tác nhân thứ cấp là vi khuẩn vibrio spp. Theo
Felix và Devaraj (1993) có đến 70% PL tơm sú bị nhiễm MBV khi chết có
kèm theo dấu hiệu của bệnh phát sáng. Ngồi ra cịn có vi khuẩn dạng sợi và
động vật đơn bào. Theo Lightner (1996) MBV có tác dụng mở đường, điều
này thể hiện trong lát cắt mô gan tuỵ của tôm. Khi nhiễm bệnh MBV nặng thì
tế bào gan tuỵ của tơm thường bị nhiễm vi khuẩn thứ cấp [36].
Ngày nay bệnh MBV đã và đang được nghiên cứu ở nhiều quốc gia
trên thế giới. Theo Chen và ctv (1989), với MBV thì phương pháp nhuộm
màu gan tôm ép tươi bằng xanh malachite 0,5% và phương pháp mơ bệnh học
cho phép chẩn đốn chính xác sự cảm nhiễm của MBV trong các tế bào gan
tuỵ của tôm thông qua việc phát hiện sự tồn tại của thể ẩn trong mẫu nghiên
cứu. Tuy nhiên theo Lightner (1996) thì hai phương pháp nhuộm tươi và mơ
bệnh học dù sao cũng cịn một hạn chế đó là khơng phát hiện chính xác tơm bị
nhiễm virus ở giai đoạn đầu tiên, chưa hình thành thể ẩn. tuy nhiên phương
pháp này phù hợp cho việc nghiên cứu bệnh MBV ở các phịng thí nghiệm
thơ sơ [28].
Bệnh đầu vàng
YHVD có sự phân bố rộng, liên quan tới các quốc gia có nuôi tôm sú
nhưng cho đến nay bệnh này chỉ mới được nghiên cứu ở Thái Lan (P.J
Walker, 2000). Theo Lightner (1996) bệnh này xuất hiện ở Thái Lan năm
1990 trong các ao ni thâm canh. Tuy vậy người ta cịn cho rằng rất có thể

9


bệnh này đã xảy ra sớm hơn và gây dịch chết tôm nghiêm trọng ở Đài Loan
năm 1987 – 1989. Trước đây một số nhà nghiên cứu ở Thái Lan cho rằng đây

là bệnh do Baculovirus gây ra. Tuy nhiên hiện nay người ta đã xác định nó
khơng thuộc họ Baculovirus. Virus YHV chỉ là một sợi đơn hình que được
bao bọc bởi bào chất virus gần giống các virus thuộc họ Coronaviridae [31].
YHV có thể lây nhiễm ở tất cả các giai đoạn khác nhau của tôm sú
nhưng bệnh thường xảy ra và gây thiệt hại đối với tôm khoảng 2 tháng tuổi,
trong những ao đầm có điều kiện mơi trường xấu và ở những vùng có mật độ
số ao và trại ao cao. Thực tế cho thấy rằng bệnh này thường xuất hiện trong
hệ thống nuôi thâm canh [6].
1.2.1.2. Bệnh do vi khuẩn
Vi khuẩn là một trong những tác nhân chiếm phần lớn trong các tác
nhân gây bệnh cho tơm ni. Trong điều kiện ao ni có mật độ cao, đầu tư
thức ăn lớn, hiện tượng ô nhiễm thường xuyên xảy ra đó là điều kiện thuận lợi
cho vi khuẩn phát triển và gây tác hại. Theo thống kê của Sindermann và
lighter (1988) cho biết: Các bệnh tôm do vi khuẩn gây ra chiếm 45,5% tổng
các loại bệnh tôm, trong khi vius chỉ chiếm 25,3%, Nấm chiếm 2,7%, Ký sinh
trùng chiếm 26,5%[38].
Trong các loài vi khuẩn gây bệnh cho tơm thì vibrio là lồi phân bố
rộng khắp thế giới và luôn được xem là mối đe doạ lớn cho nghề ni động
vật thuỷ sản biển nói riêng và nghề ni tơm sú nói chung
Trong bệnh vibrrio, vi khuẩn vibrio có thể là tác nhân sơ cấp hoặc tác
nhân thứ cấp, tác nhân cơ hội. Ký sinh trùng hay các tác động mơi trường như
cơ học, hố học có thể đóng vai trị quan trọng trong các dịch bệnh vibrio ở
động vật thuỷ sản.

10


Theo các kết quả nghiên cứu trên thế giới có hàng trăm loài vi khuẩn
gây bệnh trên động vật thuỷ sản.
Theo Lighter(1988) thì những lồi chính phân lập được từ tôm bệnh

vào năm 1986 là V. Alginolyticus, V. anguilarium, V. parahaemolyticus.
Nhưng theo Chen và ctv (1990) thì những Vibrio chính thu được từ tôm bệnh
năm 1988-1990 là V. harveyi, V. damsela, V. nereis, V. tubiashi, V.
anguillarum, V. parahaemolyticus là những lồi chính tìm thấy trên tơm yếu
thu được từ năm 1988-1990[38]. Pitogo và ctv (1990) cho rằng trong các loài
Vibrio gây bệnh cho tơm thì hai lồi V. harveyi và V. splendicus là hai tác
nhân gây bệnh nghiêm trọng trên tơm sú ở Philipine. Cịn theo Kou và ctv
(1989) phát hiện ra 5 loài là V. harveyi, V. damsela, V. nereis, V. tubiashi, V.
anguillarum ở Đài Loan [43].
Có rất nhiều chủng Vibrio gây bệnh ở tôm đã được các nhà khoa học
phân lập và xếp vào tám lồi, đó là V. harveyi, V. damsela, V. anguillarum, V.
parahaemolyticus, V. alginolyticus, V. fluvialis, V.vulnificus, V. cholerae [25].
Trong số các lồi trên thì V. harveyi, V.parahaemolyticus,V.vulnificus được
coi là những tác nhân nguy hiểm gây chết tôm [47].
Lightner (1996) cho biết tất cả các lồi tơm ni trên thế giới đều bị
nhiễm Vibrio. Bệnh Vibrio đã được thông báo ở nhiều quốc gia khác nhau
như Nhật Bản, Philipine, Malaysia, Indonesia, Thailan, Đài Loan và Châu
Mỹ[27]. Theo Chanratchakool và ctv (1994) thì Vibrio có khả năng cảm
nhiễm cả bên trong lẫn bên ngoài cơ thể tơm. Sự nhiễm thể hiện ở một số dấu
hiệu chính của bệnh mềm vỏ, cụt đuôi, xuất hiện điểm đen trên cơ thể tôm,
tổn thương hoại tư phần phụ. Sự cảm nhiễm bên trong thương gặp ở một số
trường hợp cấp tính, vi khuẩn được phân lập từ gan tụy, cơ và máu[44].
Jiravanichpaisal và ctv (1995) lại cho rằng Vibrio là tác nhân thứ cấp, tác
11


nhân cơ hội và luôn tồn tại trong cơ thể tôm ở mỗi giai đoạn phát triển khác
nhau của tôm chúng gây ra tác hại khác nhau. Trên ấu trùng và hậu ấu trùng
khi nhiễm nặng có thể gây ra bệnh phát sáng, đỏ thân và chết rải rác đến hàng
loạt. Ở tôm trưởng thành bị nhiễm cục bộ sẽ xuất hiện những vết đen hay

trắng trên vỏ và đầu đi, chân bơi, chân bị bị ăn mịn, sau đó chết rải rác
[45].
Jiravanichpaisal và ctv (1995) còn cho biết ở giai đoạn tôm giống
71,75% tôm bị nhiễm Vibrio trong tế bào ống gan tụy cịn lại bị nhiễm ở biểu
mơ, ở tôm trưởng thành bị nhiễm Vibrio ở biểu mô là chính, chiếm 77,3%
[29]. Tơm bị mắc bệnh màu sắc nhợt nhạt, giảm khả năng hoạt động, bề ngoài
bẩn và có xu thế chìm xuống đáy. Trong trường hợp cấp tính, tỷ lệ chết có
thể lên tới 100% trong 1-2 ngày [47].
Theo Pitogo (1995), bệnh vi khuẩn ở tôm nuôi ln xuất hiện cùng với
những q trình bệnh lý khác nhau hoặc phản ánh hậu quả của việc phá vỡ
cân bằng sinh thái trong ao nuôi [46]. Vibrio thường là những tác nhân cơ hội,
theo Lightner thì trên tơm khỏe vẫn tồn tại vi khuẩn Vibrio, những vi khuẩn
này sẽ chờ điều kiện thuận lợi sẽ tấn công và gây bệnh. Khi tôm sôs do môi
trường biến đổi xấu hoặc bị nhiễm các bệnh khác như virus, nấm, ký sinh
trùng. Lúc đó tơm yếu khơng có sức đề kháng, các loại vi khuẩn trong giống
Vibrio gây bệnh cho tôm dẫn đến tôm chết rải rác rồi hàng loạt [40].
Tôm bị bệnh thể hiện qua một số dấu hiệu như tôm bơi lờ đờ, kém ăn,
bỏ ăn, biến màu đỏ, vỏ bị mềm xuất hiện các điểm đen trên cơ thể, các phần
phụ bị ăn mòn, cụt [39].
Lightner cho rằng V. parahaemolyticus, V.vulnificus, V. harveyi gây
bệnh phát sáng ở ấu trùng và tôm giống. V. alginolyticus gây bệnh đỏ dọc

12


thân ở ấu trùng và tôm giống. Vibrio spp và pseudomonas spp gây bệnh ăn
mòn vỏ kitin. Ở các giai đoạn của tơm Vibrio spp cịn là tác nhân khác gây
bệnh đen mang ở tơm thịt[27, 39]. Vibrio cịn là tác nhân gây chết tôm rải rác
ở giai đoạn Zoea-Postlarvae. Bệnh xuất hiện và phát triển mạnh khi nguồn
nước có nhiều mùn bã hữu cơ. Tơm bị bệnh có nhiều đốm đỏ ở mắt, đi, ống

tiêu hóa, tơm mất thăng bằng, dị hình và lắng đáy [40].
Khi tơm bị bệnh có thể dùng kháng sinh, sử dụng kháng sinh thơng
thường bằng con đường thức ăn, do đó chỉ có hiệu quả vào những giai đoạn
đầu nhiễm bệnh, khi tôm vẫn có khả năng ăn thức ăn. Vào những giai đoạn
muộn hơn của bệnh, tơm sẽ dừng ăn vì vậy chúng sẽ khơng nhận được thuốc
[11]. Theo Pitogo(1988) thì việc sử dụng kháng sinh có hiệu quả trong việc
tiêu diệt một số mầm bệnh như Vibrio nhưng hầu như không hiệu quả khi sử
dụng kháng sinh để tiêu diệt bệnh phát sáng [46].
Vibrio có mặt trong tất cả các mơi trường ni và theo Chanratchakool
thì việc duy trì chất lượng nước tốt, cùng với mật độ thả Postlavae thích hợp
chính là sự thành công trong việc nuôi tôm [45].
1.2.1.3. Bệnh do nấm
Bệnh do nấm cũng ảnh hưởng rất lớn đến ngành sản xuất giống, thường
gặp là bệnh Lagenidium ở ấu trùng, bệnh fusarium ở tôm thương phẩm. Hầu
hết các trại giống thường gặp nhất là bệnh nấm lagenidium [5].
Có khoảng 500 lồi nấm đã được phân lập ở mơi trường nước biển và
cửa sông. Những giống nấm thường gặp ở tôm biển gồm Lagenidium,
Sirolpidium, Haliphthoros, Atkinsiella, Fusarium…
Ấu trùng bị bệnh nấm thường nhạt màu, bỏ ăn đột ngột, ở giai đoạn
Zoea có hiện tượng đứt phần đi, khó lột xác và có thể gây chết hàng loạt.
13


Khi ấu trùng bị nhiễm nặng đua lên kính hiển vi quan sát ở độ phóng đại lớn
hơn hay bằng 100 lần có thể dễ dàng phát hiện hệ sợi nấm trong suốt, phân
nhánh chằng chịt, bao phủ trên bề mặt hệ cơ của ấu trùng [5].
Đối với tôm trưởng thành khi bị nhiễm bệnh thường có một số dấu hiệu
như sau: Mang tôm thay đổi từ màu trắng sang đen hoặc xuất hiện các điểm
đen trên mang, vỏ kitin, trên các phần phụ như chân bơi, chân bò, râu…, tại vị
trí đó, vỏ kitin khơng bị ăn mịn[5].

1.2.1.4. Bệnh do ký sinh trùng
Bệnh ký sinh trùng phần lớn do ký sinh đơn bào có thể sống tự do trong
mơi trường nước gây nên. Bệnh ký sinh đơn bào thường ký sinh ở da, vỏ,
mang tôm gây ảnh hưởng đến sinh trưởng và có thể gây chết hàng loạt. Ký
sinh trùng nhiễm mức độ cao sẽ gây tắc nghẽn ở mang, tôm biếng ăn, chậm
phát triển, tạo điều kiện cho các tác nhân gây bệnh khác xâm nhập vào cơ thể.
Một số ký sinh trùng đơn bào như Paranophrys spp, Parauronema sp gây
bệnh ở giai đoạn sớm của tôm như bệnh sinh vật bám ở ấu trùng tôm [7].
1.2.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam hiện tôm chết hàng loạt ở các tỉnh ven biển phía Nam năm
1993 – 1994 đã xác định có 3 loại bệnh chính là MBV, WSBV, YHV. Từ
cuối năm 1991 – 1995, các dịch bệnh lớn liên tiếp xảy ra ở các khu vực nuôi
tôm ở Việt Nam như Ninh Thuận (1991), Phú Yên Khánh Hoà (1993-1994),
ĐBSCL (1994-1995) . Năm 1996 – 1997, dịch bệnh đã xuất hiện trên khắp
các vùng ni tơm từ Hải Phịng đến các tỉnh miền Trung và ven biển Nam
Bộ. Theo báo cáo của Bùi Quang Tề đầu năm 2001 cho biết, các tỉnh phía Bắc
từ Quảng ninh đến Hà Tĩnh đều có mầm bệnh đốm trắng ở tơm ni và tôm tự
nhiên, WSBV đã làm cho tôm chết hàng loạt ở Nghệ An, Hà Tĩnh. Trong
14


những năm gần đây bệnh đốm trắng thường xuyên xuất hiện trong các khu
vực nuôi tôm ven biển Việt Nam. Hầu hết các tỉnh khi bị nhiễm đốm trắng đã
làm tôm chết hàng loạt. Mùa xuất hiện bệnh thường là mùa xuân và đầu mùa
hè khi thời tiết biến đổi nhiều như nhiệt độ trong ngày biến thiên quá lớn(>
50C) gây sốc cho tôm [12].
Từ thực tiễn sản xuất, năm 1991 Nguyễn Trọng Nho và ctv đã thực
hiện đề tài: “ Bước đầu nghiên cứu một số bệnh trên tôm Sú ở Khánh Hồ”,
đã thơng báo một số dấu hiệu bệnh lý thường gặp trên tôm sú nuôi [25]. Năm
1991-1995 Hà Ký và ctv thực hiện đề tài KN-04-12, đã nghiên cứu 13 bệnh

của tôm cá. Đây là lần đầu tiên Việt Nam tập trung nghiên cứu đầy đủ bệnh vi
khuẩn với các nội dung” phân lập vi khuẩn, xác định tác nhân gây bệnh, dấu
hiệu bệnh,phân bố và lan truyền bệnh, biện pháp phòng trị” [24]…Những
bệnh đã được nghiên cứu trên tôm như bệnh phát sáng, bệnh đỏ dọc thân trên
ấu trùng tôm sú do vi khuẩn vibrio gây ra như V. parahaemolyticus,
V.vulnificus, V. Harveyi.
Khi tôm chết ở ĐBSCL (1994-1995) Nguyễn Việt Thắng và ctv đã thực
hiện đề tài tìm hiểu ngun nhân gây chết tơm ở ĐBSCL và nhận xét tôm chết
là do virus, vi khuẩn là tác nhân cơ hội [13].
Năm 1994 Đỗ Thị Hoà và ctv thực hiện đề tài:”Nghiên cứu một số
bệnh trên tôm sú nuôi ở miền Trung Việt Nam” cũng đã xác định được 8 loại
bệnh khác nhau do tác nhân là vi sinh vật gây ra cho tôm sú: vi khuẩn, nấm,
nguyên sinh động vật,và giun trịn, ngồi ra tác giả cịn thông báo mốt số bệnh
do yếu tố vô sinh gây ra như bệnh dị hình, bệnh cong thân và bệnh tơm chết
do nhiệt độ cao. Trong đó tác giả nhấn mạnh một số bệnh chủ yếu gây tác hại
cho tôm, đó là bệnh phát sáng, bệnh đỏ dọc thân trên ấu trùng tôm sú, bệnh
mềm vỏ và bệnh động vật đơn bào [12]. Cũng trong thời gian này, Phan Thị
Lương Tâm và ctv thực hiện đề tài” Xác định nguyên nhân gây chết tôm tại
15


khu vực phía Nam và biện pháp phịng trị bệnh để phát triển nghề nuôi tôm”
đã khẳng định tôm chết là do bệnh, chủ yếu do vibrio gây ra [26].
Tháng 10 – 11/1994, lần đầu tiên Bùi Quang Tề đã nghiên cứu về mức
độ nhiễm MBV trên tôm sú ở ven biển phía Nam. Theo tác giả thì ngun
nhân gây chết tơm có MBV. Theo các kết quả nghiên cứu gần đây, tôm sú hậu
ấu trùng và tôm giống(P10 – P20) sản xuất ở Khánh Hịa, Bình Định, Ninh
Thuận bị nhiễm MBV rất phổ biến và đây cũng chính là nguyên nhân làm
giảm chất lượng đàn tôm giống ở Việt Nam. Năm 1998 từ kết quả thử nghiệm
biện pháp ngăn chặn sự lây nhiễm MBV ở tôm sú ấu trúng trong các trại

giống ở miền Trung Việt Nam, Đỗ Thị Hịa và ctv đã kết luận tơm mẹ bị
nhiễm MBV chính là con đường chủ yếu dẫn tới đàn ấu trùng bị nhiễm MBV
[26].
Do việc nuôi tôm mang lại hiệu quả cao, vì vậy ở miền Bắc cũng hình
thành một số vùng nuôi tôm tập trung như Quảng Ninh, Hải Phịng, Nghệ An,
Thái Bình…. Tuy nhiên các cơng trình nghiên cứu về dịch bệnh ở tơm ít thực
hiện hơn [2].
Năm 1998 Vũ Dũng và Từ Minh Hà thực hiện đề tài nghiên cứu một số
bệnh thường gặp trên tôm sú tại Hải Phịng, đề tài cơng bố một số bệnh
thường gặp là MBV, bệnh đốm trắng, bệnh đỏ than do vibrio, bệnh do sinh
vật bám. Trong đề tài có khuyến cáo mốt số biện pháp phòng bệnh như cải tạo
đầm tốt trước khi thả giống, lựa chọn con giống tốt để thả, có thể dung formol
25ppm để phịng bệnh sinh vật bám và cách quản lý môi trường tốt để tránh
gây sốc cho tôm [9]
Năm 2000 – 2001, bộ môn động vật thuỷ sản - Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng Thuỷ sản I đã tổng kết một số kết quả nghiên cứu bệnh tơm tại các tỉnh
phía Bắc. Trong báo cáo đã tổng kết các hình thức ni tơm hiện nay ở miền
Bắc và cho biết một số bệnh tôm thường gặp hiện nay là bệnh đốm trắng,
16


bệnh MBV, bệnh YHV, một số nơi thuộc tỉnh Nghệ An bị nhiễm IHHNV,
bệnh do vi khuẩn vibrio, bệnh do sinh vật bám, bệnh tôm bông và bệnh trùng
hai tế bào. Q trình điều tra 483 hộ ni tơm sú thuộc 23 huyện của 8 tỉnh
ven biển phía Bắc(Quảng Ninh, Hải Phịng, Thái Bình,Nam Định, Ninh Bình,
Thanh Hố, Nghệ An, Hà Tĩnh) thì có 166 (34,99%) hộ bệnh đốm trắng đã
gây chết tơm. Năm 2003, phân tích WSBV bằng kỹ thuật PCR của 145 mẫu
tôm sú và tôm chân trắng nuôi ở các tỉnh ven biển miền Bắc và tôm
postlarvae đưa từ Quảng Nam, Đà Nẵng ra Bắc. Kết quả tỷ lệ nhiễm ở tôm
postlarvae từ miền Trung ra là 23,08%, tơm sú ni thương phẩm ở các tỉnh

phía Bắc là 26,92%, tơm chân trắng là 13,33% [18].
Nhìn chung trong những năm qua đã có khá nhiều các cơng trình
nghiên cứu về bệnh tơm tại Việt Nam.
1.3. Tình hình ni tôm tại khu vực nghiên cứu
1.3.1. Tại Nghệ An
Từ năm 1997 trở về trước , nghề nuôi tôm sú ở Nghệ An chỉ dừng lại ở
nuôi Quảng Canh (QC). Trở về sau, UBND tỉnh đã đưa ra một số chính sách
ưu đãi cho người nuôi tôm và người sản xuất giống và cùng với sự chỉ đạo
trực tiếp của Sở Thuỷ sản tỉnh, nhiều trại sản xuất giống đã được xây dựng và
nghề nuôi tôm sú đang phát triển mạnh làm cải thiện rất lớn đến đời sống cho
người dân và tạo ra nhiều công ăn việc làm. Năm 1999 diện tích ni tơm
thâm canh trong tồn tỉnh mới chỉ có 2 ha, sang năm 2000 diện tích ni này
đã tăng 40 ha, năm 2001 là 125 ha [1]. Và tính đến nay 2008 diện tích đưa
vào ni tơm đã đạt 1.420 ha, trong đó diện tích thâm canh (TC) và bán thâm
canh (BTC) là 800 ha, sản xuất được 140 triệu con giống P15, sản lượng nuôi
tôm 9 tháng đầu năm đạt 1250 tấn. Năng suất bình quân trên tồn tỉnh đạt
0,88 tấn/ha, năng suất ni thâm canh và bán thâm canh là 1,3 tấn/ha. Năng
suất hộ đạt cao nhất là 10,8 tấn/ha. Song do quá trình phát triển nuôi tôm phần
17


lớn là tự phát, thiếu quy hoạch tốt về ao đầm, người dân tìm mọi cách để tăng
sản lượng như sử dụng bừa bãi các hố chất và khơng tn thủ chặt chẽ theo
quy trình ni đã gây ơ nhiễm dẫn tới dịch bệnh bùng phát và gây thiệt hại
lớn cho người nuôi [4].
1.3.2. Tại Hà Tĩnh
Quảng canh (QC) là mơ hình được áp dụng phổ biến ở Hà Tĩnh. Ni
tơm tự nhiên dựa vào nguồn thức ăn sẵn có trong thuỷ vực vì vậy năng suất
tơm ni ở Hà Tĩnh thường ở mức thấp, dao động từ 42 – 94 kg/ha. Bắt đầu
từ năm 1998, Hà tĩnh tiến hành xây dựng các mơ hình trình diễn ni tơm

thâm canh và bán thâm canh. Năng suất bước đầu đạt 1 tấn/vụ đối với BTC
[19].
Trong những năm gần đây diện tích NTTS ở Hà Tĩnh không ngừng
được mở rộng, năm 2000 tổng diện tích mặt nước lợ là 1.375 ha trong đó diện
tích ni tơm sú là 1.180 ha, sản lượng đạt 250 tấn. Đến 2004, diện tích ni
tơm đã tăng lên 2.680 ha, trong đó diện tích ni tơm sú là 2.430 ha, sản
lượng đạt 1.800 tấn. Năm 2006, diện tích ni là 3.161 ha, tăng 7,2% so với
năm 2005, trong đó diện tích ni tơm khoảng 2.850 ha, sản lượng tôm nuôi
đạt 2.400 tấn [3].
Định hướng nghề nuôi tôm của Hà Tĩnh đến 2020 là đầu tư mở rộng
diện tích bằng các biện pháp khuyến khích mở rộng nhiều mơ hình ni TC
năng suất cao, tiếp tục quy hoạch vùng ni, chuyển đổi một phần diện tích
trồng lúa nhiễm mặn năng suất sang nuôi tôm, lấy việc nuôi tôm sú làm trọng
điểm, đồng thời quan tâm phát triển mạnh những đối tượng nuôi mới như tôm
he chân trắng [25].
Tuy nhiên cùng với sự tăng nhanh về diện tích và năng suất ni thì
dịch bệnh cũng xảy ra khắp nơi trên địa bàn Hà Tĩnh . Những bệnh thường

18


gặp trên tôm như bệnh virus đốm trắng, bệnh đầu vàng, bệnh MBV, bệnh đen
mang và bệnh do vi khuẩn [23].
Đối với bệnh đốm trắng chủ yếu xuất hiện khi tôm thả được 30 – 40
ngày, những ngày đầu tôm thường kéo đàn vào buổi sáng sớm khoảng 15
phút và những ngày tiếp theo thì thấy tơm dạt vào bờ, bơi lờ đờ sau đó chết.
Kiểm tra thì thấy tồn thân tơm có màu đỏ, kiểm tra vỏ đầu ngực thì những
đốm trắng đã xuất hiện nhiều.
Đối với bệnh đầu vàng: Bệnh chủ yếu xuất hiện vào tháng 5. Khi thả
tơm được 30 – 50 ngày thì dịch bệnh bắt đầu xuất hiện. Biểu hiện ban đầu

tôm ăn nhiều hơn bình thường sau đó chết chìm ở đáy ao
Đối với bệnh đen mang thường xảy ra khi tôm thả nuôi được 60 – 70
ngày ( tháng 6). Thời điểm này nhiệt độ thường giao động từ 33 – 35 oC, nắng
nóng oi bức, việc lấy nước vào ao gặp nhiều khó khăn, nên các ao ni tơm
thường chỉ đạt 80 – 1 m nước, thời gian này tôm thường vùi mình xuống đáy
ao, hoạt động bắt mồi kém dẫn đến môi trường bị ô nhiễm do lượng thức ăn
dư thừa nhiều, đây là điều kiện thuận lợi để vi khuẩn phát triển và tấn công
tôm.
Đối với bệnh MBV: thường xuất hiện vào tháng 05. Khi nhiễm bệnh
màu sắc của tôm chuyển sang màu đen, vỏ dày, tơm có dấu hiệu phân đàn và
tỷ lệ tơm cịi trong ao ni chiếm 20 – 30%
Đối với bệnh Vi khuẩn: Chủ yếu xuất hiện vào tháng 06. khi tôm thả
nuôi được 50-60 ngày. Thời điểm này nước ao thường cạn, nhiệt độ cao (33 –
35 oC ). Tơm thường bị mịn đi, đứt râu, một số bị đen mang.
Dịch bệnh xảy ra đã gây thiệt hại lớn cho nghề nuôi tôm tại Hà Tĩnh.
Năm 2001- 2006 dich bệnh xảy ra tại Thạch Hà đã gây thiệt hại từ nuôi tôm
19


sú ước tính khoảng 5,38 tỷ đồng. Năm 2004 - 2006 thiệt hại từ nuôi tôm sú tại
thị xã Hà Tĩnh ước tính khoảng 1,72 tỷ đồng.
1.3.3. Tại Thanh Hố
Tính đến 2007, diện tích ni trồng thuỷ sản của tồn tỉnh Thanh Hố
là 16.700 ha. Trong đó tơm sú là đối tượng ni chủ yếu với diện tích ni
5.720 ha, đạt sản lượng 1.350 tấn, năng suất đạt 328 kg/ha/vụ [8].
Các huyện phát triển mạnh nghề nuôi tôm sú như Hoằng Hố (900 ha),
Quảng Xương (730 ha), Nơng Cống (275 ha). Với phương thức nuôi chủ yếu
vẫn là quảng canh cải tiến (QCCT) và bán thâm canh (BTC) [8].
Hiện nay hơn 70% lượng tôm sú giống trong tổng hơn 300 triệu con
đưa vào thả nuôi trong vụ xuân hè 2008 phải nhập từ các tỉnh phía Nam. Việc

này đang khiến các cơ quan chức năng của tỉnhThanh Hoá gặp nhiều khó
khăn trong việc kiểm dịch tơm giống theo quy định. Mặc dù đã được tỉnh tăng
cường kiểm dịch nhưng vẫn tồn tại tình trạng nguồn giống trơi nổi từ ngồi
nhập vào khá nhiều, không được kiểm dịch. Điều này khiến cho việc kiểm
sốt dich bệnh cho người ni là rất khó khăn.
* Tình hình ni tơm tại xã Quảng Chính
Hiện nay diện tích ni tơm của tồn xã là 170 ha. Năm 2000 diện tích
này là 30 ha. Từ 2001 khi tỉnh có chủ trương chuyển đổi đất trồng lúa năng
suất thấp, đất hoang hố và một phần diện tích đất làm muối sang NTTS thì
diện tích ni tơm và nghề nuôi tôm đã thật sự phát triển tại địa phương. Hơn
140 ha diện tích trồng lúa năng suất thấp đã được chuyển sang ni tơm [17].
Diện tích ni tơm chủ yếu tập trung tại các thôn Đại Đồng (140 ha),
thôn Phú, thôn Đa ( 30 ha) với phương thức nuôi là QCCT và đối tượng nuôi
chủ yếu là tôm sú [17].
Năm 2008 nhằm hướng tới mục tiêu NTTS theo hướng bền vững trong
toàn tỉnh, trung tâm khuyến ngư thuộc sở Nông nghiệp và Phát triển Nông
20


thơn Thanh Hố đã tiến hành thí điểm ni tơm bền vững ở nhiều địa phương
trong đó Quảng Chính là một trong những xã đang được thủ nghiệm mơ hình
ni này [28].

21


CHƢƠNG II. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian và địa điểm
2.1.1. Thời gian: Từ 05/05/08 đến 05/10/08.
2.2. Địa điểm nghiên cứu

- Thu mẫu tại khu nuôi tôm công nghiệp xã Hưng Hịa - Nghệ An, khu ni
tơm xã Quảng Chính – Thanh Hố, khu ni tơm xã Thạch Trị - Hà Tĩnh.
Mỗi tỉnh thu tôm và nước ao nuôi tôm tại 5 ao.
- Phân tích mẫu tại Trung tâm Quan trắc cảnh báo Mơi trường và Phịng ngừa
dịch bệnh thuỷ sản khu vực miền Bắc - Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản I
– Đình Bảng - Từ Sơn - Bắc Ninh.
2.2. Vật liệu nghiên cứu
2.2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Tôm sú Penaeus monodon và nước của chính ao ni tơm.
2.2.2. Các môi trƣờng, thuốc thử, thuốc nhuộm
 Môi trường nuôi cấy cơ bản (tất cả các môi trường đều thêm 1.5 - 2% NaCl
khi nuôi cấy vi khuẩn nước mặn)
- Môi trường Nutrient Agar (NA)
- Môi trường Nutrient Broth (NB)
 M ôi trường nuôi cấy chọn lọc
- Môi trường Thiosulphat Citrate Bile Sait Sucrose Agar (TCBS)
 Các thuốc thử, thuốc nhuộm

22


Thuốc nhuộm Gram bao gồm:
+ Dung dịch 1: Tím tinh thể (Crystal Violet).
+ Dung dịch 2: Lugol.
+ Dung dịch 3: Cồn Aceton.
+ Dung dịch 4: Safranin
Thuốc thử phản ứng sinh hoá bao gồm: VP1, VP2; NIT1, NIT2, James
2.3. Nội dung nghiên cứu:
- Phân lập, xác định tên loài vi khuẩn Vibrio sp có mặt trên mẫu tơm Sú bệnh
ni tại Hưng Hịa – Nghệ An, Quảng Chính – Thanh Hóa, và Thạch Trị - Hà

Tĩnh .
- Định lượng, xác định mật độ vi khuẩn hiếu khí và tổng vi khuẩn Vibrio trong
các ao ni tơm Sú tại Hưng Hịa – Nghệ An, Quảng Chính – Thanh Hóa, và
Thạch Trị - Hà Tĩnh .
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.4.1. Phƣơng pháp thu mẫu
- Mẫu nước nuôi tôm, mẫu tôm được thu 1 lần một tháng.
- Mẫu vi khuẩn được thu ở máu tôm.
2.4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu vi khuẩn
2.4.2.1. Phƣơng pháp phân lập vi khuẩn trên tôm sú (tiến hành theo sơ đồ
sau)

23


Mẫu tơm bệnh

Thu mẫu bệnh phẩm

Ni cấy, phân lập

Hình thái khuẩn lạc

Nhuộm gram

Thử các phản ứng sinh hoá

Phân loại vi khuẩn
Sơ đồ 1. Sơ đồ phân lập vi khuẩn


2.4.2.1.1. Thu mẫu bệnh
- Chỉ thu vi khuẩn ở những mẫu tôm còn sống, sắp chết (hấp hối), hoặc mới
chết còn tươi.
2.4.2.1.2. Phƣơng pháp nuôi cấy vi khuẩn từ mẫu tôm
- Dùng que cấy vô trùng, lấy mẫu bệnh phẩm vạch chữ chi trên đĩa mơi
trường ta được vùng 1. Hơ nóng đỏ que cấy trên ngọn lửa đèn cồn, để nguội
bằng cách ấn đầu que vào mép đĩa thạch.
- Đặt que cấy lên đĩa thạch tại vùng 1, vạch đường cấy tiếp theo ta được
vùng 2..
- Tiếp tục lặp lại như trên ta được vùng 3.
- Lật ngược đĩa lồng ghi các thông số cần thiết (như địa điểm thu, đối thượng
thu, ngày thu, mẫu số .....)

24


(2)

(1)

(1)
(4)
(3
)

Đường cấy vi khuẩn trên đĩa lồng
2.4.2.1.3. Kiểm tra đặc điểm hình thái khuẩn lạc.
Sau khi lấy mẫu bệnh phẩm cấy trên mơi trường cơ bản ở nhiệt độ phịng, sau
24h kiểm tra xác định các đặc điểm hình thái khuẩn lạc như kích thước khuẩn
lạc, hình thái khuẩn lạc, bề mặt, rìa khuẩn lạc, độ chiết quang.

2.4.2.1.4. Kỹ thuật nuôi cấy vi khuẩn thuần.
- Sau khi kiểm tra đặc điểm hình thái khuẩn lạc trên mơi trường cơ bản và
môi trường chọn lọc, đánh dấu các khuẩn lạc riêng rẽ cần nuôi cấy thuần
chủng.
- Dùng que cấy vô trùng lấy khuẩn lạc đánh dấu, cấy chuyển sang môi
trường nuôi cấy tăng sinh.
2.4.2.1.5. Nhuộm vi khuẩn thuần.
- Sau 24 giờ nuôi cấy được giống vi khuẩn thuần, lấy mẫu phết lên lam, cho
thêm 1 đến 2 giọt nước muối sinh lý vô trùng, dùng đầu que cấy dàn mỏng
lên lam kính.
25


×