Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

VAI TRÒ ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ NĂM 1954 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.32 KB, 37 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KẾ TOÁN-KIỂM TOÁN
--------------------

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM

BÀI THẢO
LUẬN
ĐỀ TÀI: VAI TRÒ ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN TRONG CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ NĂM 1954- 1975

Nhóm 2
Lớp học phần:
Giảng viên: Hồng Thị Thắm


.

Hà Nội, 2020

2


.

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 2

STT MÃ SINH VIÊN

LỚP HÀNH CHÍNH



SINH VIÊN

11

18D155029

K54DD

Nguyễn Hương Giang

12

18D155032

K54DD

Nguyễn Thị Thanh Giang

13

18D155009

K54DD

Đặng Khánh Hà

14

18D155010


K54DD

Đặng Thanh Hà

15

18D155011

K54DD

Kiều Thanh Hằng

16

18D155028

K54DD

Trần Thị Thu Huệ

17

18D155012

K54DD

Bùi Thị Xuân Hương

18


18D155038

K54DD

Đỗ Quang Huy

19

18D155013

K54DD

Tống Trọng Khang

21

18D155037

K54DD

Nguyễn Khánh Linh

3


.

MỤC LỤC
Chương 1: Phần mở đầu...............................................................

I. Quá trình hình thành đường mịn Hồ Chí Minh trên biển..........5
1.Tình hình miền Nam trong những năm 1954- 1975..................5
2.Giới thiệu qua về đường mòn Hồ Chí Minh trên biển (vị trí địa
lý,...).............................................................................................8
3.Q trình hình thành đường mịn Hồ Chí Minh trên biển..........9
II. Hoạt động của tuyến ĐMHCM trên biển năm 1954 - 1975... .11
1.Giai đoạn 1954 - 1962.............................................................11
2.Giai đoạn 1962 - 1965.............................................................12
3.Giai đoạn 1965 - 1968.............................................................13
4.Giai đoạn 1968- 1975..............................................................14
Chương 2: Vai trò của đường mịn Hồ Chí Minh trên biển trong
kháng chiến chống Mỹ năm 1954 - 1975...................................17
I. Đường Hồ Chí Minh trên biển viện chiến lược, góp phần quan
trọng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
...................................................................................................17
II. Tuyến chi viện chiến lược trên biển đảo bảo đảm thời gian
nhanh hơn, kịp thời hơn, vũ khí trang bị đồng bộ và đạt được
hiệu quả cao...............................................................................21
III. Tuyến chi viện chiến lược trên biển còn vận chuyển những
loại hàng “ đặc biệt”..................................................................23
IV. Tập sức mạnh chiến đấu trên tất cả mọi vùng của Duyên hải
miền Trung, đồng bằng Nam bộ.................................................24
V. Tính ưu việt của việc vận chuyển chi viện bằng đường biển Hồ
Chí Minh.....................................................................................26
Chương 3: Ý nghĩa....................................................................27

4


.


Giá trị lịch sử..............................................................................27
Giá trị thời đại............................................................................28
Tài liệu tham khảo
……………………………………………………………...29

LỜI MỞ ĐẦU
Chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Mỹ đã
ghi vào lịch sử dân tộc ta một trang vàng chói lọi, một biểu tượng
sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng , thể hiện bản lĩnh
ý chí và trí tuệ của con người Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên mới
cho dân tộc - đó là một đất nước hịa bình, độc lập, tự do. Khơng
chỉ vậy, trường hợp đó cịn đi vào lịch sử thế giới như một chiến
công vĩ đại của thế kỷ XX, có tầm vóc quốc tế và có tính thời đại
sâu sắc.
Thắng lợi mà dân tộc ta đạt được là sự hội tụ, kết tinh của nhiều
nhân tố, trong đó có đường Hồ Chí Minh xuyên dãy Trường Sơn và
đường Hồ Chí Minh trên biển. Hai tuyến đường đã đi vào lịch sử
hào hùng của dân tộc, cho đến tận bây giờ, những bài học của nó
vẫn cịn ngun giá trị. Đó là bài học về vai trị tư duy chiến lược
trong phát huy lợi thế của đất, trời và biển của đất nước. Là bài
học về sự khơi dậy, phát huy tối đa tinh thần yêu nước và ý chí
quyết thắng của tồn dân tộc, bài học phát huy trí tuệ của con
người Việt Nam, vận dụng sáng tạo quy luật trong hoạt động thực
tiễn. Đây còn là bài học về phát huy sức mạnh nội lực, đồng thời
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ đối với cuộc
chiến tranh chính nghĩa của chúng ta.
Bên cạnh con đường mòn xuyên dãy Trường Sơn huyền thoại,
chúng ta cịn một con đường mịn Hồ Chí Minh trên biển lặng lẽ
hơn, với những “con tàu không số” nằm lại trong lịch sử. Con

đường mịn đó đã góp phần nối lại hai miền Bắc Nam, góp phần
đánh bại quân xâm lược, thu non sông về một mối, Bắc- Nam sum
5


.

họp một nhà. Tuyến đường vận tải chiến lược trên biển ấy đã hoạt
động liên tục suốt 14 năm (1961_ 1975), với hành trình hàng vạn
hải lý, bằng nhiều phương án đi và đến đã góp phần chi viện kịp
thời cả sức người và sức của cho chiến trường miền Nam, làm nên
chiến thắng 30/04/1975. Giải phóng hồn tồn miền Nam, thống
nhất đất nước.
Chính vì vậy, chúng em đã quyết định chọn đề tài này để đưa con
đường mòn Hồ Chí Minh trên biển đến gần hơn với chúng ta, từ
những ý nghĩa, giá trị lịch sử trong quá khứ, đến những vai trị, ý
nghĩa của nó trong thực tiễn hiện nay.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: PHẦN MỞ ĐẦU
I.Quá trình hình thành đường mịn Hồ Chí Minh trên biển.
1.Tình hình miền Nam trong những năm 1954-1975
- Sau khi kí hiệp định Giơnevơ năm 1954, Việt Nam ta bị chia
cắt thành 2 miền với 2 chế độ chính trị khác nhau.
- Ở miền Nam, tháng 5-1956, Pháp rút quân khỏi miền Nam
khi chưa thực hiện cuộc hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất hai
miền Nam – Bắc. Mĩ vào thay chân Pháp, đưa Ngơ Đình Diệm lên
nắm chính quyền, âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến
miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ.
a. Về kinh tế.

- Dưới chế độ Mỹ – Diệm, miền Nam trở thành thuộc địa và bị
bóc lột nặng nề về kinh tế. Chính quyền Ngơ Đình Diệm tiến hành
ký các hiệp định cho phép hàng hóa của Mỹ được tự do buôn bán,

6


.

miễn thuế quan và mọi khoản thuế nội địa..., chính quyền Ngơ
Đình Diệm cịn lập ra các “khu dinh điền”, “khu trù mật”. Để bóc
lột về kinh tế, kìm kẹp khống chế nhân dân và chuẩn bị chiến
tranh, Mỹ công khai tuyên bố mục đích sâu xa mà Mỹ thực hiện ở
miền Nam Việt Nam là: “giúp đỡ nước Việt Nam tự do phát triển
một chính phủ hợp hiến, ổn định và hùng mạnh”. Từ đây nền kinh
tế miền Nam Việt Nam có bước phát triển nhất định.
- Năm 1964 khi tiến hành “Chiến tranh đặc biệt” chính quyền
Ngơ Đình Diệm đã ra sức vơ vét nhân lực phục vụ chiến tranh,
tăng thuế làm cho hàng hóa lên cao, lập thêm thuế “đảm phụ
quốc phòng”.
- Khi Mỹ tiến hành “chiến tranh cục bộ” năm 1968 đã tăng
viện trợ lên gấp đôi, quân Mỹ lúc này đã được đưa đến Việt Nam
thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động thương nghiệp và dịch
vụ ở các đơ thị. Trong khi đó ở nơng thơn do bom đạn chất độc
hóa học tàn phá, nơng dân bị bắt đi lính, hàng triệu hécta đất bị
bỏ hoang.
Vậy nên nền kinh tế miền Nam có sự phát triển nhưng chỉ là
về hình thức lệ thuộc chặt chẽ vào Mỹ.
b. Về chính trị.
- Lợi dụng Pháp thua trận, Mỹ từng bước gạt Pháp để độc

chiếm miền Nam. Mỹ ép Pháp gạt bỏ Bửu Lộc đưa Ngô Đình Diệm
lên làm Thủ tướng ở miền Nam. Ngơ Đình Diệm, dưới sự giúp đỡ
của Mỹ đã đẩy mạnh các hoạt động thanh lọc, nắm quân đội trong
tay và xây dựng chính quyền trở thành tay sai của Mỹ.
- Năm 1959 Diệm ban hành Đạo luật phát xít 10/59 lê máy
chém đi khắp miền Nam. Đầu năm 1960 phong trào “Đồng khởi”
bùng nổ ở Bến Tre sau đó nhanh chóng lan rộng ra các tỉnh Nam
Bộ, Trung Trung Bộ và Tây Nguyên. Phong trào “Đồng khởi” đã làm
chính quyền địch tan rã ở nhiều nơi, chính quyền cách mạng được
thành lập ở khắp các vùng miền Nam, vùng giải phóng được mở
rộng. Phong trào đã đánh dấu bước phát triển từ thế giữ gìn lực
lượng sang thế tiến cơng.

7


.

- Từ năm (1961 – 1965) Mỹ tiến hành “Chiến tranh đặc biệt”
Đáp ứng yêu cầu của cách mạng miền Nam tháng 1 năm 1961,
Trung ương cục miền Nam được thành lập. Các lực lượng vũ trang
thống nhất thành “Quân giải phóng miền Nam”
- Trong khi đó chính quyền Ngơ Đình Diệm thường xuyên xảy
ra mâu thuẫn. Tới ngày mùng 1 tháng 11 năm 1963 được sự ủng
hộ của Mỹ, hội đồng tướng lĩnh do Dương Văn Minh cầm đầu làm
cuộc đảo chính lật đổ chính quyền Diệm- Nhu, tạo điều kiện thuận
lợi để Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược.
- Với hàng loạt những thắng lợi sau đó như: Bình Giã, Ba Giai,
An Lão, Đồng Xồi…, “Chiến tranh đặc biệt’’ đứng trên bờ vực phá
sản. Trước nguy cơ thất bại của “Chiến tranh đặc biệt” Mỹ đã

chuyển sang một chiến lược mới là “Chiến tranh cục bộ” (19651968).
- Nhân dân ta đã chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh
cục bộ” của Mỹ, mở đầu là các thắng lợi ở Núi Thành, Vạn Tường
(Quảng Nam). Qua hai mùa khô (1965- 1966) và (1966- 1967),
quân ta trong thế trận “chiến tranh nhân dân” với nhiều phương
thức tác chiến đã chặn đánh địch ở khắp nơi, làm phá sản các
cuộc hành quân “Tìm diệt” và “Bình định” của địch, từ đó đã đánh
bại những bước tiến quan trọng trong “Chiến tranh cục bộ” của
Mỹ, tạo cơ sở, điều kiện để Đảng ta đưa ra những nghị quyết quan
trọng trong năm 1968.
- Đầu năm 1968, xuất phát từ nhận định. So sánh lực lượng
đã có lợi cho ta sau hai mùa khơ, đồng thời lợi dụng mâu thuẫn ở
nước Mỹ trong những năm bầu cử Tổng thống, ta chủ trương mở
cuộc tấn công và nổi dậy trên toàn miền Nam trọng tâm là các đô
thị, nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng qn Mỹ, qn đồng
minh, đánh địn mạnh vào chính quyền quân đội Sài Gòn. Giành
quyền chủ động về tay nhân dân, buộc Mỹ phải rút quân về nước.
- Cuộc tổng tiến công nổi dậy trong ba đợt: đợt 1 từ đêm 30
tháng 1 đến ngày 25 tháng 2, đợt 2 diễn ra trong tháng 6, tháng
7, đợt 3 diễn ra trong tháng 8 và tháng 9 năm 1968. Mặc dù có
tổn thất và hạn chế, song cuộc tấn cơng và nổi dậy xuân Mậu

8


.

Thân vẫn có ý nghĩa to lớn, làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ
buộc chúng phải tuyên bố “phi Mĩ hóa chiến tranh” chấm dứt
khơng điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm

phán tại Hội nghị Pa - ri về chấm dứt chiến tranh lập lại hịa bình ở
Việt Nam.
- Đáp ứng u cầu phát triển của cách mạng miền Nam, từ
ngày mùng 6 tháng 6 đến ngày mùng 8 tháng 6 năm 1969 Đại hội
Đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam đã quyết định thành lập
“chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hịa miền Nam Việt Nam” do
đồng chí Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch.
- Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” thất bại Mỹ chuyển sang
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đơng Dương hóa chiến
tranh”. Đảng ta quyết định mở cuộc tổng tiến công chiến lược
năm 1972.
- Ngày 30 tháng 3 năm 1972, cuộc tổng tiến công chiến lược
bắt đầu. Tới cuối tháng 6 năm 1972 quân ta đã chọc thủng ba
tuyến phòng ngự mạnh nhất của địch là Quảng Trị, Tây Ngun và
Đơng Nam Bộ. Loại khỏi vịng chiến đấu hơn hai mươi vạn qn
Sài Gịn, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn. Cuộc tổng tiến
công chiến lược đã giáng một địn nặng nề vào chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh” buộc Mỹ phải tuyên bố” phi Mĩ hóa trở lại
chiến tranh xâm lược”. Tức là thừa nhận sự thất bại của chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh”. Sau đó Mỹ- Ngụy tiếp tục chịu nhiều
thất bại đặc biệt là thất bại lớn nhất của chúng trong cuộc tổng
tiến công nổi dậy mùa xuân 1975 với chiến thắng lịch sử 30/4.
Từ năm 1954 đến năm 1975 Mỹ – Ngụy, đã áp dụng rất nhiều loại
hình chiến tranh ở miền Nam. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng,
quân và nhân dân ta đã từng bước đánh bại từng chiến lược chiến
tranh, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán và rút hết quân khỏi
miền Nam Việt Nam.
c. Về xã hội.
- Dưới sự cai trị của Mỹ- Diệm, tình hình xã hội miền Nam có
đặc

điểm
hồn tồn khác biệt so với miền Bắc. Khi Mỹ tràn vào miền Nam
9


.

đầu
nhân dân ta nhất là tầng lớp thanh thiếu niên.

độc

- Sau khi thiết lập được quyền kiểm soát ở miền Nam, từ giữa
năm
1955
Mỹ- Diệm phát động chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” giai đoạn
một
trên
toàn miền. Đã làm cho nhân dân phẫn nộ dẫn đến hàng loạt các
cuộc
đấu
tranh đã nổ ra.
- Khi tiến hành “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam việc lập
ấp
chiến
lược được coi là “quốc sách” và “xương sống” của “Chiến tranh
đặc
biệt”.
Thế nhưng sau mười tám tháng dù đã bỏ ra khơng ít tiền bạc,
nhiều

cuộc
càn
qt hết sức ác liệt, sử dụng cả máy bay, nhưng chúng vẫn không
đạt
được
mục tiêu.
- Trong giai đoạn từ (1969 – 1975), Mỹ – Ngụy dùng mọi cách
để
thực
hiện việc “bình định”, “tát nước bắt cá” và đã đạt được một số
thắng
lợi
nhất định. Cuộc sống nhân dân miền Nam dưới sự cai trị của Mỹ –
Ngụy
hết
sức khổ cực, y tế giáo dục không được quan tâm và bị bóc lột
nặng
nề
về
kinh tế đã gây nên sự bất mãn trong đồng bào quần chúng nhân
dân,

thế
nhân dân liên tục nổi dậy đấu tranh. Đây là những lực lượng đông
đảo

quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ- Ngụy.
2. Giới thiệu về đường mịn Hồ Chí Minh trên biển:
- Cùng với đường Trường Sơn (đường Hồ Chí Minh trên bộ),
thì đường mịn trên biển Đơng (đường Hồ Chí Minh trên biển)


10


.

chính là một trong hai tuyến giao thơng huyết mạch chi viện cho
chiến trường miền Nam và cũng từ con đường huyền thoại này mà
nhiều chiến tích lẫy lừng của quân và dân ta đã xuất hiện trong
cuộc đấu tranh chống Mỹ và tay sai giành độc lập dân tộc.
- Đường Hồ Chí Minh trên biển là tên gọi của tuyến đường
vận tải quân sự do Hải quân nhân dân Việt Nam và Quân giải
phóng miền Nam Việt Nam thực hiện bí mật trên Biển Đơng được
thành lập ngày 23 tháng 10 năm 1961, trong Chiến tranh Việt
Nam, để vận chuyển vũ khí từ miền Bắc Việt Nam vào chi viện cho
Quân Giải phóng miền Nam.
- Tiền thân đường Hồ Chí Minh trên biển là hải lộ ven bờ do
những người trong hàng ngũ Việt Minh ở Nam Bộ thực hiện lần
đầu tiên
+ Năm 1946, lực lượng Việt Minh ở Nam Bộ đã tổ chức
chuyến đi của một thuyền đánh cá xuất phát từ Thạnh Phong,
huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre ra Bắc xin tiếp tế vũ khí. Tàu cập
bến trong vùng Việt Minh kiểm sốt tại Tuy Hịa, Phú Yên. Những
người trên tàu ra Bắc bằng tàu hỏa. Số vũ khí được Quân đội nhân
dân Việt Nam cung cấp cũng được chuyển vào Phú Yên bằng tàu
hỏa và chất lên thuyền chở vào Bến Tre.
+ Từ tháng 6 năm 1961 đến tháng 2 năm 1962, những
người lãnh đạo của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam ở các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh, Bà Rịa đã cử năm con
thuyền gỗ từ miền Nam ra miền Bắc để báo cáo tình hình, xin tiếp

tế vũ khí và sau đó trực tiếp vận chuyển vũ khí cũng như dẫn
đường cho các tàu tiếp tế giả dạng tàu đánh cá từ Bắc vào Nam.
+ Ngày 23 tháng 10 năm 1961, Bộ Chính trị và Quân ủy
Trung ương Việt Nam quyết định mở tuyến đường biển Bắc-Nam.
Trung tướng Trần Văn Trà, Phó Tổng tham mưu trưởng được Quân
ủy Trung ương giao nhiệm vụ thành lập tuyến đường này.
- Các đơn vị:
+ Ngày 23-10-1961, Thứ trưởng Bộ Quốc phịng Hồng
Văn Thái ký Quyết định số 97/QP thành lập Đoàn 759, sau này trở

11


.

thành Lữ đoàn 125 thuộc Hải quân nhân dân Việt Nam. Đồn 759
có trách nhiệm chi viện vũ khí cho miền Nam bằng đường biển.
Trung tá Đoàn Hồng Phước được giao nhiệm vụ làm Đoàn trưởng.
Đây là đơn vị đầu tiên đảm nhận nhiệm vụ vận tải vũ khí, hàng
hóa vào chiến trường miền Nam bằng các con tàu không số, mở
ra sự phát triển mới của Đường Hồ Chí Minh trên biển.
+ Tại Nam Bộ, Bộ Chỉ huy quân khu IX của Quân giải
phóng miền Nam Việt Nam được giao nhiệm vụ thành lập Trung
đoàn 962 chuyên trách nhiệm vụ chuẩn bị bến bãi tại bờ biển các
tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau. Bộ chỉ huy các Khu V, VI, VIII cũng
được lệnh thiết lập các bến bãi bí mật để đón nhận vũ khí, đạn
dược, phương tiện và các hàng hóa khác từ miền Bắc Việt Nam
chuyển vào bằng đường biển.
- Phương tiện chính: các tàu, thuyền gỗ, tàu sắt và tàu hai
đáy

- Các tuyến chính: tuyến ven bờ, tuyến tiếp giáp lãnh hải và
tuyến hàng hải quốc tế
3. Q trình hình thành Hồ Chí Minh trên biển
- Tiền thân đường Hồ Chí Minh trên biển là hải lộ ven bờ do
những người trong hàng ngũ Việt Minh ở Nam Bộ thực hiện lần
đầu tiên. Năm 1946, lực lượng Việt Minh ở Nam Bộ đã tổ chức
chuyến đi của một thuyền đánh cá xuất phát từ Thạnh Phong,
huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre ra Bắc xin tiếp tế vũ khí. Tàu cập
bến trong vùng Việt Minh kiểm sốt tại Tuy Hịa, Phú n. Những
người trên tàu ra Bắc bằng tàu hỏa. Số vũ khí được Quân đội nhân
dân Việt Nam cung cấp cũng được chuyển vào Phú Yên bằng tàu
hỏa và chất lên thuyền chở vào Bến Tre.
- Từ tháng 6 năm 1961 đến tháng 2 năm 1962, những người
lãnh đạo của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ở
các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh, Bà Rịa đã cử năm con thuyền
gỗ từ miền Nam ra miền Bắc để báo cáo tình hình, xin tiếp tế vũ
khí và sau đó trực tiếp vận chuyển vũ khí cũng như dẫn đường
cho các tàu tiếp tế giả dạng tàu đánh cá từ Bắc vào Nam. Những
người chỉ huy chủ chốt gồm các ông Phan Văn Nhờ (tức Tư Mau),
bà Nguyễn Thị Định, ông Bông Văn Dĩa... Trong số 5 chiếc thuyền

12


.

gỗ, chiếc thuyền của Bà Rịa đã bị lực lượng tuần duyên của Hải
quân Việt Nam Cộng hòa chặn bắt tại ngồi khơi Cam Ranh.
Khơng phát hiện thấy nghi ngờ, con thuyền này được trả tự do.
Sau đó nó bị bão đánh trôi dạt đến đảo Hải Nam. Đây là chiếc

thuyền do ông Dương Quang Đông, nguyên Ủy viên thường vụ Xứ
ủy Nam Kỳ của Đảng Cộng sản Đông Dương trước năm 1945,
nguyên là cán bộ hậu cần của Việt Minh tại Khu VIII trong Kháng
chiến chống Pháp được giao nhiệm vụ mua sắm. Tuy nhiên, khi di
chuyển đến Bà Rịa, ba người cũng đi với ông Đông đã bị quân Việt
Nam Cộng hòa bắn chết và tịch thu số tiền mà tổ công tác của
ông được tổ chức giao cho để mua thuyền. Nhờ có bà Nguyễn Thị
Mười ở Phước Hải, Long Đất đã dồn tiền của trong nhà tổng cộng
10 cây vàng để đóng góp, chiếc thuyền này được mua về và được
sử dụng trong chuyến liên lạc, vận chuyển đầu tiên. Tham gia
chuyến vượt biển trên con thuyền của Bà Rịa cịn có ơng Lê Hà,
con trai bà Mười, sau này trở thành một trong các thuyền trưởng
đầu tiên trên các con tàu không số.
- Ngày 23 tháng 10 năm 1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung
ương Việt Nam quyết định mở tuyến đường biển Bắc-Nam. Trung
tướng Trần Văn Trà, Phó Tổng tham mưu trưởng được Quân ủy
Trung ương giao nhiệm vụ thành lập tuyến đường này. Ngày 2310-1961, Thứ trưởng Bộ Quốc phịng Hồng Văn Thái ký Quyết
định số 97/QP thành lập Đoàn 759, sau này trở thành Lữ đoàn 125
thuộc Hải quân nhân dân Việt Nam. Đồn 759 có trách nhiệm chi
viện vũ khí cho miền Nam bằng đường biển. Trung tá Đoàn Hồng
Phước được giao nhiệm vụ làm Đoàn trưởng. Đây là đơn vị đầu
tiên đảm nhận nhiệm vụ vận tải vũ khí, hàng hóa vào chiến
trường miền Nam bằng các con tàu không số, mở ra sự phát triển
mới của Đường Hồ Chí Minh trên biển. Tại Nam Bộ, Bộ Chỉ huy
quân khu IX của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được giao
nhiệm vụ thành lập Trung đoàn 962 chuyên trách nhiệm vụ chuẩn
bị bến bãi tại bờ biển các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau. Bộ chỉ
huy các Khu V, VI, VIII cũng được lệnh thiết lập các bến bãi bí mật
để đón nhận vũ khí, đạn dược, phương tiện và các hàng hóa khác
từ miền Bắc Việt Nam chuyển vào bằng đường biển.

II. Hoạt động của tuyến đường mịn Hồ Chí Minh trên
biển năm 1954-1975

13


.

1.Giai đoạn 1954- 1962.
- Hải quân Ngụy được Pháp xây dựng từ năm 1952. Khi Pháp
rút khỏi miền Nam (tháng 12/1954) hải quân Ngụy có khoảng
2000 quân; 100 tàu xuồng chiến đấu.
- Sau năm 1954, được Mỹ trang bị, huấn luyện và tổ chức nên
lực lượng hải quân Ngụy phát triển nhanh. Đến năm 1960, hải
quân Ngụy được xây dựng thành một quân chủng của “ Quân lực
Việt Nam Cộng hòa ” gồm đủ các thành phần “hải lực, giang lực
và thủy quân lục chiến”.
- Nhiệm vụ của hải quân ngụy ngăn chặn sự chi viện bằng
đường biển của ta từ miền Bắc tới miền Nam, phối hợp với các lực
lượng khác càn qt, bình định vùng giải phóng.
- Hình thức hoạt động của hải quân Ngụy chủ yếu là kiểm soát
thuyền dân làm ăn trên biển, tuần tiễu ven biển, theo các khu vực
có tính chất cố định mà chủ yếu là giới tuyến tạm thời và vùng
biển Tây Nam để ngăn chặn và chống sự thâm nhập của ta bằng
đường biển.
- Từ năm 1960- 1964, Mỹ- Ngụy đã nghi ngờ ta có tàu vào
vùng biển phía Nam. Vì vậy, chúng tổ chức hoạt động thường
xuyên bằng tàu và máy bay của hải quân Mỹ; ngăn chặn, lục soát
và nếu cần thiết bắt giữ hoặc phá hủy bất cứ một ghe tàu nào
“nghi ngờ”.

- Lực lượng hải quân ngụy được Mỹ tăng cường số lượng, chất
lượng, phương tiện, nhằm giúp hải qn Ngụy “hồn thành nhiệm
vụ”. Chính quyền Ngụy - Sài Gòn cho hải quân Mỹ hoạt động hợp
pháp, được kiểm sốt và xử trí, bắt giữ hoặc phá tàu lạ.
- Mỹ xác định trọng điểm chống thâm nhập là vùng vĩ tuyến
17 và vùng biển vịnh Thái Lan nên thường xuyên tuần ở giữa vùng
biển Quảng Trị đến Hoàng Sa và trên tuyến tam giác Hà Tiên - Phú
Quốc - Tây Nam Cà Mau hòng ngăn chặn mọi khả năng vận
chuyển vũ khí, hàng hóa, người của ta từ Bắc vào Nam bằng
đường biển.
- Mỹ- Ngụy thiết lập một hệ thống phòng thủ ngăn chặn và
được chia thành: “Từ bờ ra đến 5 hải lý do hải thuyền đảm nhiệm.
Từ 5 đến 30 hải lý do lực lượng tuần duyên: 50 tàu chiến và 200
tàu hỗ trợ như WPB, PCF đảm nhiệm. Từ 30 hải lý trở lên do các
tàu tuần dương khu trục Mỹ đảm nhiệm” do đó chúng xây dựng 3
tuyến kiểm sốt, tuần tiễu quản lý:

14


.

+ Tuyến quan sát do các trạm ra-đa đối hải, các đài quan
sát, tình báo mặt đất, tình báo kĩ thuật đảm nhiệm; Tuyến tuần
tiễu ven bờ do các đoàn hải quân nguy. Tuyển tuần tiễu ngoài
khơi do các tàu chiến thuộc hải đội và hải quân Mỹ đảm nhiệm.
+ Hệ thống phòng thủ quản lý vùng biển của Mỹ- Ngụy được
triển khai tương đối hoàn chỉnh, tập trung vào vùng ven biển,
bến cảng cửa sơng lớn và sơng ngịi vùng đồng bằng sơng Cửu
Long. Ngồi ra chúng cịn xây dựng được một mạng lưới tình

báo dọc ven biển bằng lực lượng hải thuyền với vũ khí, trang bị
kỹ thuật tương đối hiện đại của Mỹ.
+ Ngoài ra Mỹ- Ngụy còn sử dụng hệ thống ra- đa cảnh giới
bờ biển : Cù Ré, Ba làng An, Đề Di, Chóp Chài, Hòn Tre, Vũng
Tàu... hoạt động liên tục ngày đêm với cự ly cao thấp tùy thuộc
vào độ đặt máy. Tất cả đều được báo về sở chỉ huy tiền phương
các vùng chiến thuật.
- Bên cạnh đó, một số điệp viên trên các tàu buồn nước ngoài
cũng được Mỹ cài nắm để phát hiện và củng cố thơng tin tình báo.
- Mỹ đã vạch ra cả một hàng rào ngăn chặn ở ven biển, cũng
giống như hàng rào Mc Namara trên bộ. Họ tin rằng với lực lượng
phòng tuyến cùng tuần tra dày đặc và hiện đại như vậy, gần như
không thể có một chuyến tàu nào từ Bắc lọt vào Nam được.
2.Giai đoạn 1962-1965
- Đây được coi là thời kỳ “sn sẻ”. Gọi là sn sẻ khơng có
nghĩa là dễ dàng và tự do mà chỉ có nghĩa là chưa xảy ra vụ thất
bại nào. Để có được như vậy, phải có trăm ngàn kế, phải khổ cơng
chịu đựng, phải bền gan, bình tĩnh nhiều khi tới mức lỳ lợm.
- Con đường Hồ Chí Minh trên biển cũng “mn hình vạn
trạng” như con đường Hồ Chí Minh trên bộ. Đồn 125 đã sáng tạo
rất nhiều phương thức khác nhau mà có lẽ cũng khó tìm thấy một
tiền lệ trong lịch sử vận tải lồi người: Có những phương tiện
thơng thường như tàu biển, vận chuyển đột xuất những khối lượng
hàng lớn, đi ra ngồi khơi xa, ban đêm tìm cơ hội thuận lợi, đột
nhập vào một bến bãi nào đó đã hẹn trước.
- Lại có những chiếc thuyền đánh cả với những chiến sĩ đã trút
bỏ áo lính để làm ngư dân, với thuyền hai đáy, sử dụng cho những

15



.

cự ly gần, xuất phát từ những bến phía bắc vĩ tuyến 17, thuộc
Quảng Bình, rồi đi gấp trong đêm vào các tỉnh miền Trung.
- Nhưng phần lớn thời điểm vận chuyển là thời điểm có gió
bão, tàu tuần tiễu của đối phương không đi được, máy bay trinh
sát không nhìn thấy. Đó là cơ hội để lên đường.
- Kỷ luật, nguyên tắc và lời thể của các chiến sĩ là: “Quyết
không để lọt vào tay địch”. Với lời thề đó, nếu gặp tàu tuần tiễu
của đối phương thì chỉ có hai cách: một là chiến đấu sống mãi với
tàu địch, hoặc khi khơng đủ sức chiến đấu nữa, thì phá tàu
thuyền, hy sinh để bảo vệ bí mật.
- Tuy nhiên trong ba năm đầu, do còn lợi dụng được yếu tố bất
ngờ, mất cảnh giác của đối phương, nên hầu hết các con tàu đi
đều trót lọt. Nếu tỉnh từ chuyến đầu tiên của tàu Phương Đông 1,
cập bến Vàm Lũng ngày 16/10/1962 đến con tàu số 148 vào bến
Vũng Rơ ngày 15/2/1965, đã có 87 chuyến tàu ra đi. Trong đó chỉ
có một chuyến tàu số 6 đi ngày 10/10/1963 là phải quay về, còn
tất cả đều tới đích.
- Trong thời gian này chỉ có hai sự cố: đó là chuyện bất ngờ
xảy ra với tàu 41, nhưng cũng qua được và cuối cùng là chuyện
đáng tiếc, xảy ra với tàu 143 trong “Vụ Vũng Rô” (15/2/1965),
cũng là sự cố kết thúc giai đoạn suôn sẻ này.
3.Giai đoạn 1965- 1968

- Ngay sau khi lấy được chiếc tàu và số vũ khí của ta, MỹNgụy đã làm rùm beng “Vụ Vũng Rô khẳng định điều đã ngờ vực
trong thời gian dài, nhưng từ trước tới nay chưa có bằng chứng. Số
lượng chiến phẩm, hàng hóa, vũ khí lớn bị phát hiện chỉ ra rằng
nhiều lô hàng lớn hơn đã được chở đến bằng tàu trước đó. Sự xuất

hiện đồng thời nhiều loại vũ khí mới cỡ 7,62mm của địch (của ta)
ở những vùng biển khác nhau nói lên một điều chắc chắn là địch
(quân ta) còn sử dụng các vị trí khác nữa để nhận hàng chuyển
bằng đường biển”. Đi sang tận Trung Quốc để đánh lạc hướng đối
phương. Nhiều khi còn phải đi vòng ra hải phận quốc tế, có tàu

16


.

cịn phải vịng ra phía Ma Cao, sang sát Philippines, xuống
Indonesia, có khi cịn sang tới đảo Palawan, qua Singapore,
Malacca, sang vịnh Thái Lan… đợi ban đêm đối phương mất cảnh
giác đột ngột lao nhanh vào bờ…
- Đi theo phương thức hảng hải thiên văn không thể dùng
những con tàu q lớn. Đồn 125 thiết kế loại thu nhỏ có tốc độ
cao, trọng tải khoảng 15 tấn, tối đa là 30 tấn. Tuy nhiên từ đây đối
phương đã canh phòng quả chặt, các con tàu của Đoàn dù đã đổi
phương thức hoạt động vẫn rất khó “lọt lưới”, vì hầu như mọi “thủ
thuật” đều bị đổi phương tính trước và đề phịng, do đó phải mất
rất nhiều thời gian để “lừa miểng” đổi phương mới có thể lọt lưới.
- Và cũng đã có nhiều chuyến lọt lưới:
- Ngày 15/10/1965, tức 8 tháng sau “Vụ Vũng Rô”, cuộc thử
nghiệm bắt đầu với con tàu 42, do Thuyền trưởng Nguyễn Văn
Cứng và Chính trị viên Trần Ngọc An chỉ huy, chở 61,6 tấn vũ khí
lên đường. Phải mất 20 ngày đối mặt với máy bay và tàu chiến đối
phương, nhiều lần vào bến phải lộn ra, cuối cùng mới lừa được hệ
thống phong tỏa và vào bến Rạch Kiến vùng Bạc Liêu an tồn.
- Sau đó ngày 10 tháng 11 năm 1965, tàu 69 lên đường, chở

62 tần, sau 14 ngày lênh đênh ngoài khơi xa để chờ cơ hội, đã vào
được bến Vàm Lũng, Cà Mau, ngày 24/11.
- Ngày 17/12 tàu 68 lên đường với 64 tấn vũ khí. Đây là
chuyện đi quanh co lâu ngày nhất: 2 tháng 3 ngày. Mãi đến ngày
20/02/1966 tàu mới vào được Bạc Liêu. Ngày 24/12/1965 tàu 100
chở 61,4 tấn vũ khi lên đường và ngày 13/1/1966 đã vào bến Bạc
Liêu an toàn. Ngày 15/3/1960 tàu 42 lại lên đường một lần nữa, và
hơn 1 tháng sau, ngày 19/4 thì vào được Bạc Liêu với 61,2 tấn vũ
khí.
- Như vậy là hơn một năm sau “Vụ Vũng Rơ”, đã có năm
chuyến tàu chọc thủng được hệ thống ngăn chặn dày đặc của đối
phương.
- Tuy nhiên, cho đối phương đã để phòng rất kỹ, nên mọi hoạt
động đều khó khăn và gặp nhiều trắc trở hơn trước. Trong tinh thể
hai bên phải “lừa miểng” nhau, có khi thắng, có khi thất bại. Cụ
thể là rất nhiều chuyến tàu khơng lọt được lưới kiểm sốt buộc
phải quay về. Đã có nhiều lần đối phương phát hiện “tàu lạ”, tổ
chức vây bắt.
- Đã có những trận thủy chiến ác liệt. Cũng khơng ít lần các
chiến sĩ đã phải chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, sau đó phá hủy

17


.

tàu để bảo vệ tàu và hàng không lọt vào tay đối phương, đảm bảo
bí mật của con đường, và giữ được lời thề danh dự. Lại cũng đã có
những con tàu không kịp phá và bị bắt… Hàng chục trường hợp
phải quay về.

- Sau những thất bại kể trên, năm 1967 Đoàn 125 tổ chức
năm chuyến vận tải cho Khu V, nhưng tất cả đều bị tàu đối
phương đánh chặn, ba chuyến phải quay về, chỉ có hai chuyến tàu
số 43 và 198 vào được bến nhưng phải chiến đấu ác liệt, tổn thất
khá lớn.
- Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến cơng Tết Mậu Thân 1968,
Đồn 125 đã tổ chức bốn chuyến đi. Vì biết tình thế rất khó khăn
nên Đồn đã bố trí rất cơng phu. Mỗi tàu xuất phát từ một bến
khác nhau, đi theo những hướng khác nhau, vào các bến khác
nhau. Nhưng cuối cùng khơng một tàu nào tới đích. Chỉ có tàu 235
chuyển giao được hàng bằng cách thả hàng xuống nước tại bến
Ninh Phước.
- Tính từ vụ Vũng Rơ đến cuối năm 1968, Đoàn 125 tổ chức
vận tải 28 chuyến, nhưng chỉ có 7 chuyến thành cơng, chở được
410 tấn vũ khí cho cả Nam Bộ và Nam Trung Bộ. So với u cầu
thì con số đó hồn tồn khơng đủ.
- Kể từ sau Tết Mậu Thân, tháng 2 năm 1968, hoạt động của
Đoàn 125 phải tạm thời định chỉ phương pháp hàng hải thiên văn
và tìm hướng giải quyết khác.
4.Giai đoạn 1968- 1975

- Chuyển sang phương án vận chuyển gián tiếp (1968-1969).
Sau Tết Mậu Thân, Quân ủy Trung ương thông báo cho Đoàn biết
về khả năng Mỹ ngừng ném bom toàn bộ miền Bắc để tạo điều
kiện tiến hành hịa bình thương lượng tại Hội nghị Paris. Trước tình
hình mới đó, phải nghiên cứu phương án tối ưu để lợi dụng triệt để
cơ hội này. Nếu Mỹ ngừng ném bom miền Bắc thì việc vận chuyển
từ Đồ Sơn vào tới sát vĩ tuyến là hoàn toàn tự do và an toàn.
Nhưng đoạn từ giới tuyến vào trong Nam thì sẽ càng khó khăn
hơn, vì đối phương tập trung lực lượng để kiểm sốt vùng biển.

- “Tương kế tựu kế”, Đồn 125 tận dụng khả năng vận chuyển
trên biển đỡ tốn kém và nhanh chóng hơn trên bộ, đã quyết định
vận tải bằng đường thủy cho tới sát giới tuyến, sau đó giao cho
18


.

Đồn 559 vận chuyển theo đường bộ bí mật qua Lào và Đồn 559
này tập trung lực lượng vào cơng đoạn còn lại: vận chuyển từ giới
tuyến qua Lào và vào Nam.
- Vì theo phương thức vận chuyển này khơng trực tiếp đưa
hàng vào các bến ở miền Nam, nên được gọi là vận chuyển gián
tiếp.
- Để thực hiện phương án này, Đoàn 125 đã lập một kế hoạch
bị mất, gọi là Kế hoạch VT.5. Sau khi chuẩn bị lực lượng và
phương án kế hoạch VT.5, ngày 3/11/1968, Đoàn 125 mở đầu đợt
vận chuyển thứ nhất. Điểm xuất phát của VT.5 là bến Bạch Đằng,
bến Cá Hộ và bến K20 thuộc Hải Phòng. Điểm tập kết là bến Xuân
Sơn trên sông Gianh.
- Kết thúc 90 ngày của đợt 1, kể từ ngày 3/11/1968 đến ngày
29/1/1969, Đoàn 125 đã huy động 364 chuyến tàu tham gia chiến
dịch, vận chuyển được 21.737 tấn vũ khí và hàng hóa, đạt 217.57
% kế hoạch được giao. Tính trung bình mỗi ngày có 3,5 chuyến
tàu xuất bến và cập bến.
- Đến tháng 2/1969, Đoàn 125 bước vào đợt 2 của chiến dịch
VT.5. Trong chiến dịch này đã có 187 lượt tàu ra khơi, chuyên chở
được 10.889 tấn vũ khí và hàng hóa, vượt chỉ tiêu kế hoạch hơn
1.000 tấn. Đến ngày 24/6/1969, chiến dịch vận chuyển VT5 đã kết
thúc.

- Tiếp tục phương án vận chuyển trực tiếp (1969-1972)
- Từ giữa năm 1969, sau khi kết thúc kế hoạch vận chuyển
gián tiếp vào miền Trung, Đoàn 125 tiếp tục tính đến việc tìm
đường vận chuyển trực tiếp. Sau một thời gian tạm ngừng để
nghiên cứu và để tạo cho đối phương cái cảm giác “trời yên bể
lặng”, mất cảnh giác. Ngày 22/8/1969, tàu 42 được cử đi thám
thính mà khơng mang theo vũ khí.
- Sau chuyến đi thám sát này, tàu 42 đã báo cáo với Bộ Tổng
Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân và Đoàn 125 về tình hình trên
biển khơi, đặc biệt là ở hải phận quốc tế. Sau khi tổng hợp tình
hình, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng quyết định cho Đoàn
125 chuẩn bị một đợt vận chuyển mới, bắt đầu với tàu 154.
- Tàu 154 cũng do Đỗ Văn Bé làm Thuyền trưởng, Lê Văn Viễn
làm Chính trị viên. Tàu xuất phát ngày 17/9/1969 để kịp có con
nước vào dịp rằm (khoảng 24-25/10). Tàu nhổ neo đúng ngày 17/9
chở 58,6 tấn, đi theo đúng hành trình của tàu 42 đã đi trước đó.

19


.

Chuyển đi trót lọt. Ngày 29/9 tàu đã cập bến Bạc Liêu an toàn.
Mùng 8 tháng 10, tàu 154 đã trở về Đoàn 125.
- Phát huy thắng lợi này, ngay sau đó Đồn 125 tổ chức một
chuyến đi nữa với tàu 54, nhưng không thành công. Tàu này lên
đường ngày 8/11, nhưng ln ln vướng phải hệ thống kiểm sốt
q chặt chẽ của đối phương nên sau 20 ngày vòng vo ngoài khơi,
lại phải quay trở lại.
- Sang năm 1970, Đoàn 125 đã tổ chức tất cả 15 chuyến đi,

nhưng cũng chỉ có năm chuyến vào được bền, chín chuyến gặp hệ
thống kiểm soát của đối phương phải quay về để đảm bảo an
toàn, một chuyến buộc phải phá tàu.
- Những chuyến đi thành công là tàu 41, tàu 56, tàu 154, tàu
121 và tàu 54. Sang năm 1971 tình hình càng khó khăn hơn.
Những tin tình báo cho biết đối phương đã tăng cường hơn nữa hệ
thống tuần dương.
- Nhưng tình hình chiến trường lúc này địi hỏi cấp bách,
không thể ngừng chi viện cho miền Nam. Đầu năm 1971, Đoàn
125 đã tổ chức 4 chuyến tàu lên đường. Nhưng tất cả đều bị theo
dõi chặt chẽ, buộc phải quay về.
- Đến ngày 4/4/1971 tàu 69 lại lên đường lần thứ hai với
nhiệm vụ chở 200,20 tấn vũ khí cho Bạc Liêu. Nhưng khi tàu còn
cách bờ 9 hải lý thi bị bao vây. Toàn bộ thủy thủ trên tàu đã nổ
súng phá vịng vây nhưng khơng lọt. Cuối cùng đành phải phá
tàu. Rất tiếc, vì đây là chuyến chở nặng nhất của Đồn 125. Trong
vụ này, đã có sáu chiến sĩ hy sinh.
- Sau đó, từ tháng 10/1971 đến tháng 4/1972, Đoàn 125 đã tổ
chức liên tục 20 chuyến đi nữa, nhưng chỉ có một chuyến tới đích
đó là tàu 656 do Thuyền trưởng Nguyễn Sơn và Chính trị viên Đỗ
Văn Sạn chỉ huy. Tàu xuất phát ngày 18 tháng 1 năm 1972, phải
thả hàng xuống ven đảo Xa Nứt thuộc Campuchia rồi trở về căn
cứ, không cập được bến.
- Sang năm 1972, phương án vận chuyển trực tiếp bằng tàu
không số phải ngừng với vụ thất bại lớn của tàu 645. Tàu 645 do
Thuyền trưởng Lê Hà và Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu chỉ huy.
- Như vậy, nếu tính từ chuyến đi đầu tiên của tàu không số
Phương Đông 1 của Lê Văn Một năm 1962 đến chuyến cuối cùng
của Nguyễn Văn Hiệu năm 1972, đã có 168 chuyến tàu lên đường.
Phần lớn vào được bến nhưng một số buộc phải quay lại; có chín

chuyến phải phá tàu, ba chuyến bị đối phương bắt giữ.

20


.

- Chuyển sang phương thức hoạt động công khai (1972-1975)
- Sáng kiến này đầu tiên xuất hiện ở Quân khu IX. Ngay từ
năm 1970, trước những yêu cầu cấp bách của chiến trường, tại
nhiều đơn vị Tây Nam Bộ đã nảy sinh sáng kiến “tương kế tựu kế”.
Sử dụng ngay những người dân “thật”, cho hoạt động công khai
ngay trước mắt đối phương, theo phương châm “cơng khai hóa,
quần chúng hóa, địa phương hóa”.
- Tháng 4 năm 1971, sáng kiến trên được Thường vụ Quân ủy
Trung ương Bộ Tổng Tham mưu, Cục Tác chiến, Bộ Tư lệnh, Chính
ủy Quân chủng Hải quân và đại diện Quân khu IX chấp nhận.
Quân khu quyết định thành lập một đồn vận tải bí mật có mật
hiệu S.950 mà đến 1972 thì đổi tên là Đoàn 371, do Tư Mau làm
Đoàn trưởng, Nguyễn Văn Cứng là Đồn phó.
- Đồn S.950 đã tổ chức những đồn đánh cá cơng khai, có
đăng ký rõ ràng Thùy thủ có căn cước. Các tàu nhỏ này vừa đánh
cá ven bờ, vừa nhận chở hàng thuê, nhưng khi có thời cơ thì kết
hợp vận chuyển vũ khí theo những cung đoạn ngắn trên tuyển Cà
Mau- Rạch Giá- Sài Gòn- Vũng Tàu- Phan Rang… đến tận Đà Nẵng.
Khi có cơ hội thì phóng thẳng ra vịnh Bắc Bộ, nhận vũ khi đưa về.
Tính từ đầu năm 1972 đến tháng 11/1973, Đồn S.950 đã ra Bắc
được 31 chuyến, hầu hết trót lọt, đưa được 520 tấn vũ khí về tới
Cà Mau và Trà Vinh an toàn.
- Đoàn 371 hoạt động liên tục và có hiệu quả cho đến tận

ngày giải phóng miền Nam.

CHƯƠNG 2: VAI TRỊ CỦA ĐƯỜNG MỊN HỒ CHÍ MINH
TRÊN BIỂN TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ NĂM 19541975
Đường Hồ Chí Minh trên biển đã có những đóng góp quan
trọng, thể hiện trên một số điểm chủ yếu sau đây
I.Đường Hồ Chí Minh trên biển viện chiến lược, góp phần
quan trọng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước.

21


.

Ngày 11-10-1962, một tàu vỏ gỗ mang mật danh
“Phương Đông 1”, do đồng chí Lê Văn Một và đồng chí Bơng
Văn Dĩa chỉ huy, chở 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn (Hải
Phịng) rẽ sóng ra khơi nhằm hướng Cà Mau tiến tới. Đến
ngày 19-10-1962, tàu cập bến Vàm Lũng an tồn. Nhân dân
đón nhận chuyến tàu chi viện vũ khí đầu tiên cho cách mạng
miền Nam với lịng phấn khởi vơ hạn. Họ nhanh chóng khn
vác vũ khí cất giấu vào những kho bí mật an tồn. Tiếp theo
tàu Phương Đông 1 là tàu Phương Đông 2, 3, 4 cũng lần lượt
lên đường vận chuyển vũ khí vào Nam Bộ.
Trong vòng hai tháng, các tàu này đã chuyển vào
Nam 111 tấn vũ khí, cập các bến đã chuẩn bị của tỉnh Cà
Mau. Vượt qua những thử thách ác liệt, gian nan, đấu trí và
đấu lực căng thẳng với địch và sóng gió biển khơi, các chiến
sĩ Hải quân đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc thời kỳ đầu

tiếp tế vũ khí cho cách mạng miền Nam, góp phần rất quan
trọng tăng cường nhanh chóng sức mạnh chiến đấu cho lực
lượng vũ trang giải phóng... Cơng việc vận chuyển vũ khí vào
chiến trường Nam Bộ tạm ổn, tuy số lượng chưa nhiều,
nhưng đã góp phần quan trọng giúp quân và dân các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long phát triển lực lượng vũ trang, tạo
được thế mới, lực mới, đánh thắng địch nhiều trận, củng cố
và mở rộng vùng giải phóng.

22


.

Biên đội tàu thuộc Lữ đoàn 162 (Vùng 4 Hải quân)
huấn luyện và tuần tra bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Đồng thời với việc vận chuyển vũ khí vào Nam Bộ,
Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ cho Bộ
Tư lệnh Hải quân nghiên cứu mở đường vận chuyển vũ khí
bằng đường biển vào Nam Trung Bộ- một chiến trường có vị
trí chiến lược hết sức quan trọng. Vận chuyển bằng đường
biển vào Nam Trung Bộ tuy cung đường ngắn hơn nhưng lại
hết sức khó khăn, nguy hiểm. Khó khăn lớn nhất là tìm địa
điểm tổ chức bến bãi. Địa hình vùng ven biển Nam Trung Bộ
trống trải, độ dốc lớn, khơng có nhiều kênh rạch và rừng
ngập mặn như ở Nam Bộ. Các cửa sông mà tàu của ta có thể
vào để giao hàng dày đặc đồn bốt và căn cứ hải quân của
địch. Đây lại là vùng nằm dọc theo Quốc lộ 1 nên địch tổ
chức tuần phòng rất gắt gao.

Cũng giống như ở Nam Bộ, việc tổ chức xây dựng
các bến bãi ở Nam Trung Bộ đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ
hết lòng của cấp ủy Đảng và nhân dân các địa phương. Tính
đến năm 1965, hàng chục bến bãi tiếp nhận vũ khí đã được

23


.

bí mật xây dựng ở một số tỉnh ven biển như: Vàm Lũng, Bồ
Đề, Bến Cũ, Kiến Vàng, Cái Bầu (Cà Mau, Bạc Liêu); Hố Lồng
Đèn (Rạch Giá), Ba Động, Khâu Lầu, La Ghi, Láng Nước, Rạch
Cờ, Hố Tàu (Trà Vinh) ... Chính hệ thống bến bãi kể trên đã
góp phần làm nên những chiến công của tuyến chi viện
chiến lược- Đường Hồ Chí Minh trên biển.
Tính từ tháng 10-1962 đến tháng 2-1965, ta đã sử
dụng 3 tàu vỏ gỗ, 17 tàu vỏ sắt tổ chức đưa 88 chuyến tàu
tới đích (khơng tính các chuyến trinh sát, mở đường) vận
chuyển được 4.919,636 tấn vũ khí và một số mặt hàng thiết
yếu vào chiến trường (Cà Mau, Bạc Liêu 45 chuyến, Bến Tre
23 chuyến, Trà Vinh 12 chuyến, Bà Rịa 3 chuyến, Vũng Rơ 4
chuyến, Bình Định 1 chuyến), đạt 93% kế hoạch, vượt chỉ
tiêu Trung ương giao (Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ
Quốc phòng giao chỉ tiêu đưa được 50% số hàng tới đích đã
là thành cơng). Riêng hai năm 1962 và 1964, đạt tỷ lệ cao
nhất: 100% (57/57) số chuyến thành công.
Thành công của những chuyến vũ khí đã trực tiếp
góp phần đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, xây dựng và phát
triển khối chủ lực ở chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ;

góp phần làm nên những chiến thắng oanh liệt của quân dân
ta ở Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là, Vạn Tường, Ba Gia,
Bình Giã, Đồng Xồi... Đặc biệt, điều đó có ý nghĩa hơn khi
cũng trong thời gian này, tuyến chi viện chiến lược trên bộ
(Đoàn 559) tuy đã được tổ chức ngang cấp sư đoàn, được
biên chế 2 trung đoàn gùi thồ, 1 đại đội ôtô vận tải, một số
đơn vị cơng binh, giao liên... đã có những nỗ lực rất lớn trong
nhiệm vụ mở đường và đã vươn vào tới chiến trường Bắc Tây
Nguyên. Nhưng do đường mới mở, bị mưa lớn, lại bị địch
ngăn chặn quyết liệt, nên chỉ chuyển tới các chiến trường
được 1.410 tấn vật chất các loại (chủ yếu cho Trị Thiên và
Nam Lào), đạt 25% kế hoạch trên giao.
Qua con đường vận tải biển, hậu phương lớn miền
Bắc đã tiếp tế kịp thời vũ khí, đạn dược cho chiến trường
miền Nam. Được trang bị vũ khí, kỹ thuật quân sự tương đối
đầy đủ, đồng bộ, năm 1964, Quân giải phóng mở chiến dịch

24


.

tiến cơng Bình Giã; năm 1965, mở chiến dịch Đồng Xoài và
Ba Gia đánh bại hoàn toàn “chiến lược chiến tranh đặc biệt”
của đế quốc Mỹ. Sau các chiến thắng có ý nghĩa chiến lược
này, năm 1965, khối chủ lực cơ động Qn giải phóng phát
triển thành 5 sư đồn và 11 trung đoàn bộ binh, cùng nhiều
trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng kỹ thuật, sẵn sàng bước
vào cuộc đọ sức với quân Mỹ. Sự kiện này đánh dấu bước
trưởng thành vượt bậc của lực lượng vũ trang giải phóng

miền Nam nhờ vào sự chi viện tích cực của hậu phương miền
Bắc qua 2 con đường chiến lược huyền thoại: Đường bộ
Trường Sơn và Đường vận tải biển.
Từ tháng 2-1965 đến tháng 1-1973 là giai đoạn
khó khăn nhất nhưng hết sức hào hùng của tuyến chi viện
chiến lược trên biển. Sau sự kiện xảy ra với tàu C143 ở Vũng
Rô (Phú Yên), bí mật của tuyến chi viện chiến lược trên biển
của ta khơng cịn nữa. Cơng việc tiếp tế cho miền Nam bằng
đường biển vẫn phải tiếp tục, nhưng ta chuyển hướng vận
chuyển từ phương thức trực tiếp sang phương thức gián tiếp.
Bằng phương pháp vận chuyển này, trong một năm (từ 1-111968 đến 31-10-1969), lực lượng vận tải biển đã đưa vào
cảng sơng Gianh 21.737 tấn vũ khí. Từ đây, số vũ khí này
được chuyển vào Nam theo đường bộ. Đồng thời với đưa
hàng vào cảng sông Gianh, Quân chủng Hải quân chọn một
số tàu và thủy thủ có kinh nghiệm tiếp tục vận chuyển vào
Nam theo đường Hồ Chí Minh trên biển. Ngồi ra, trong giai
đoạn này, cán bộ chiến sĩ Đồn 125 cịn tham gia chiến dịch
vận tải VT5- Vận tải tranh thủ tụt thang (từ tháng 11-1968
đến năm 1969), cùng các lực lượng trong và ngồi qn đội
vận chuyển hàng chục vạn tấn vũ khí, lương thực, xăng
dầu… từ Hải Phòng vào các tỉnh Nam Khu 4, tạo chân hàng
cho tuyến chi viện chiến lược trên bộ (Đoàn 559).
Trên con đường vận chuyển này, nhiều trận chiến
đấu ác liệt đã diễn ra, nhưng cán bộ, chiến sĩ Hải quân làm
nhiệm vụ vận tải biển không sờn lịng, nản chí, đã hồn
thành xuất sắc nhiệm vụ tiếp tế cho miền Nam, góp phần
tăng cường sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ trang giải
25



×