Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Khảo sát định ngữ tỉnh thái trong câu tiếng việt trên ba bình diện kết học, nghĩa học, dung học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.08 KB, 16 trang )

1

Khảo sát định ngữ tỉnh thái trong câu Tiếng
Việt trên ba bình diện:
Kết học, Nghĩa học, Dung học

Trần Hoàng Hương

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; Khoa Ngôn ngữ học
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học; Mã số: 60 22 01
Nghd. : GS.TS. Nguyễn Văn Hiệp
Năm bảo vệ: 2012

Abstract. Tổng quan cơ sở lý thuyết về định ngữ trong câu khi được nhìn nhận với
tư cách là một thành phần câu thực thụ và vấn đề tình thái, vì đây là một khái niệm
có nhiều cách quan niệm khác nhau, cần có một quan điểm làm cơ sở. Khảo sát
kiểu câu có Định ngữ tình thái trên bình diện Kết học. Phân tích câu có chứa định
ngữ tình thái trên bình diện kết học thông qua việc phân chia chúng thành các tiểu
loại khác nhau. Nghiên cứu kiểu câu có Định ngữ tình thái trên bình diện Nghĩa
học. Trình bày những ý nghĩa tình thái khác nhau của định ngữ tình thái trên cơ sở
nguồn tư liệu thu thập và các trường hợp cụ thể. Tìm hiểu kiểu câu có Định ngữ
tình thái trên bình diện dụng học. Phân tích tầm tác động của định ngữ tình thái trên
các bình diện: trong câu, liên kết văn bản và hiệu quả giao tiếp.

Keywords. Ngôn ngữ học; Tiếng Việt; Kết học; Nghĩa học; Dung học

Content.
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong giao tiếp hàng ngày có những kiểu câu mà với sự xuất hiện của một thành
tố khác, tình thái của câu đã thay đổi, dẫn đến kết quả là mục đích cũng như hiệu


quả giao tiếp thay đổi.
Xét các ví dụ sau:
 Huy đã ăn quả chuối trên bàn. (1)
 Huy chắc chắn đã ăn quả chuối trên bàn. (2)
 Có lẽ là Huy đã ăn quả chuối trên bàn. (3)
 Quả nhiên là Huy đã ăn quả chuối trên bàn. (4)
Nhận xét:
4 câu trên có chung một nội dung sự tình nhưng khác nhau về tình thái, thể hiện qua
phương tiện từ vựng. Có một số nhà ngôn ngữ học gọi các thành tố này là quán ngữ
tình thái, chức năng của chúng vừa tham gia biểu thị nội dung tình thái vừa tham
gia liên kết văn bản, thường nằm ở đầu văn bản. Cũng có một số nhà nghiên cứu gọi
đây là Đề tình thái, coi các thành tố này như một loại đề với chức năng biểu thị tình
thái. Tuy nhiên, các cách nhìn nhận này mới chỉ tập trung vào phần tình thái- phần
ngữ nghĩa biểu đạt của các yếu tố này, mà chưa thực sự đi sâu vào vị trí, cấu tạo, vai
2

trò của thành phần này như một bộ phận thực thụ trong câu. Đề tài đã dựa trên quan
điểm của Nguyễn Văn Hiệp, xử lý các yếu tố trên như một thành phần câu có chức
năng biểu thị tình thái của câu. Chúng tôi gọi đây là Định ngữ tình thái.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Những định ngữ tình thái phổ biến, được sử dụng thường xuyên, có vị trí đầu
câu.
3. Mục tiêu của luận văn
Phân tích và làm rõ những đặc điểm của thành tố này với tư cách là một
thành phần câu.
4. Nguồn tƣ liệu
Tư liệu thực tế và Tư liệu văn học của 4 tác giả: Nam Cao, Nguyễn Công
Hoan, Vũ Trọng Phụng, và Chu Lai.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp chính gồm: Phương pháp thực nghiệm, Phương pháp

thống kê, phân loại, miêu tả, Phương pháp phân tích dựa vào ngữ cảnh. Một số thủ
pháp khác như cải biến, thay thế, bổ sung…cũng được sử dụng linh hoạt.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Về mặt lí luận: Kết quả của luận văn sẽ góp phần củng cố tính đúng đắn và
năng lực giải thích, miêu tả của trường phái ngữ pháp ngữ pháp chức năng.
- Về mặt thực tiễn: Điểm mới của luận văn là sẽ tập trung làm rõ định ngữ
tình thái đầu câu trên 3 bình diện: kết cấu, ngữ nghĩa và dụng học; giúp cho các nhà
nghiên cứu có một cái nhìn toàn diện hơn về thành tố này với tư cách là một thành
phần câu. Đồng thời giúp ích cho việc biên soạn của giáo trình dạy ngữ pháp cho
người Việt Nam và cho người nước ngoài theo quan điểm giao tiếp.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 4 chương.

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1.1. Vấn đề tình thái trong tiếng Việt
Tình thái là một trong những khái niệm được thừa nhận là phức tạp nhất, gây
nhiều tranh cãi nhất của ngôn ngữ học hiện đại. Để biểu thị tình thái ngôn ngữ có
thể sử dụng nhiều phương tiện khác nhau, từ phương tiện ngữ âm đến phương tiện
từ vựng và phương tiện ngữ pháp.
Có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, Tuy nhiên các nhà ngôn ngữ
học vẫn có một điểm chung khi nhất trí cho rằng tình thái là một bộ phận quan trọng
của câu; một phạm trù ngữ nghĩa phức tạp, phản ánh những mối quan hệ khác nhau
của nội dung thông tin miêu tả trong phát ngôn với thực tế; cũng như những quan
điểm, thái độ đánh giá và những thông tin định tính khác nhau của người nói đối với
nội dung hiện thực được đề cập đến trong câu, với đối tượng giao tiếp và hoàn cảnh
giao tiếp. Do vậy, việc nghiên cứu tính tình thái của phát ngôn phải tính đến sự
3

tương tác phức tạp, khúc xạ qua nhiều tầng bậc, trong mối liên hệ của các yếu tố

liên quan trong quá trình giao tiếp.
Luận văn chọn quan điểm của Nguyễn Văn Hiệp làm cơ sở cho lý luận của
đề tài. Nguyễn Văn Hiệp quan niệm tình thái biểu thị quan điểm hoặc thái độ của
người nói đối với mệnh đề mà câu nói biểu thị hoặc cái tình huống mà mệnh đề
miêu tả. Ông đã xác lập một số đối lập cơ bản trong các phạm trù tình thái như: đối
lập giữa tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa; đối lập giữa tình thái nhận thức
và tình thái căn bản; đối lập giữa tình thái hướng tác thể và tình thái hướng người
nói, đối lập giữa tình thái của mục đích phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn…
1.2. Định ngữ tình thái
Định ngữ được nhìn nhận với tư cách một thành phần câu có những đặc điểm
sau:
- Về vị trí: Định ngữ có thể đứng trước nòng cốt câu hoặc chen vào giữa chủ
ngữ và vị ngữ. Mặc dù vị trí của định ngữ có thể được thay đổi linh hoạt mà không
làm ảnh hưởng đến cấu trúc ngữ nghĩa của câu nhưng nó cũng sẽ liên quan đến sự
thay đổi thông tin phân đoạn câu. Theo Nguyễn Văn Hiệp, “định ngữ câu không
tham gia cấu tạo phần chủ đề hay phần thuật đề nhưng nó có thể có tác dụng đánh dấu,
báo hiệu ranh giới của sự phân đoạn này”. Khi đứng trước nòng cốt câu, định ngữ câu
là chỉ tố cho biết câu có thông báo gộp (còn gọi là thông tin sự kiện) tức là câu chỉ có
phần thuật đề. Còn khi đứng giữa chủ ngữ và vị ngữ, định ngữ câu có thể báo hiệu ranh
giới giữa phần chủ đề và phần thuật đề. người nói tác động vào nội dung mệnh đề,
nhằm thực hiện chiến lược giao tiếp nhất định.
- Về mặt nội dung: Định ngữ câu biểu thị 2 loại ý nghĩa là ý nghĩa hạn định
về cách thức và ý nghĩa hạn định về tình thái cho sự tình được biểu đạt trong câu.
Trong đó, loại ý nghĩa hạn định về tình thái được luận văn tập trung làm rõ trong
suốt luận văn. Ý nghĩa hạn định về tình thái là thông tin cho biết sự tình được nêu
có tính chân lý tương đối hay tuyệt đối, là đương nhiên hay không đương nhiên,
chắc chắn hay chỉ là phỏng đoán, là bình thường hay cùng cực, hiện thực hay phi
hiện thực, đáng mong muốn hay không….Các định ngữ hạn định tình thái này là
phương tiện hữu hiệu để người nói tác động vào nội dung mệnh đề, nhằm thực hiện
chiến lược giao tiếp nhất định


CHƢƠNG 2: KHẢO SÁT ĐỊNH NGỮ
TÌNH THÁI TRÊN BÌNH DIỆN KẾT HỌC
2.1. Dẫn nhập
2.2. Đặc điểm cấu tạo của định ngữ tình thái
Dựa trên số lượng thành tố cấu tạo, chúng tôi chia định ngữ tình thái trong
câu thành 3 nhóm:
- Định ngữ tình thái gồm 1 thành tố đơn nhất cấu thành
- Định ngữ tình thái gồm 2 thành tố cấu thành
- Định ngữ tình thái gồm 3 thành tố trở lên
Trong đó định ngữ tình thái do 2 thành tố cấu thành chiếm đa số.
4

Ví dụ:
Thật họ tự nhiên hơn cả vợ chồng
Thú thật rằng: tôi có hơi ích kỷ, xét theo một vài phương diện…
Nói của đáng tội thì con bé cũng mũm mĩm, hay hay mà lẳng lắm
- Số lượng các định ngữ có 3 thành tố trở lên không nhiều, đa phần là kết quả
của việc cải biến từ hai thành tố.
- Các định ngữ này được nhiều nhà nghiên cứu xếp vào loại quán ngữ tình
thái nhưng khi đặt trong cấu trúc của câu, nó có quan hệ với nòng cốt câu, có đặc
điểm ngữ pháp và tầm tác động riêng.
2.3. Về vị trí xuất hiện của định ngữ tình thái
2.3.1. Định ngữ tình thái đứng đầu câu
- Mô hình khái quát: Định ngữ tình thái + P
- Có 2 đặc điểm rút ra:
Theo sau định ngữ tình thái là một mệnh đề hoàn chỉnh, tức mệnh đề này có
đầy đủ các bộ phận của một cấu trúc câu và truyền đạt hoàn chỉnh một sự tình.
Theo Nguyễn Văn Hiệp, những phát ngôn có định ngữ tình thái đứng đầu câu là
những phát ngôn có thông báo gộp. Ông cho rằng: “Khi đứng trước nòng cốt câu, định

ngữ câu là chỉ tố cho biết câu có thông báo gộp (còn gọi là thông tin sự kiện) tức là câu
chỉ có phần báo”
- Ví dụ: Hẳn là San đã có điều gì bất mãn về vợ y đấy (3, 93)
Nhận xét: “Hẳn là” đứng ở đầu câu với vai trò định ngữ tình thái. Nếu bỏ
“hẳn là”, mệnh đề phía sau vẫn có cấu trúc câu hoàn chỉnh, đầy đủ hai phần Đề-
Thuyết truyền đạt một thông tin trọn vẹn (San có điều gì bất mãn với vợ). Sự xuất
hiện của định ngữ tình thái chỉ làm rõ thêm ý kiến, lập trường của người nói về sự
tình này (chỉ là một suy đoán của người phát ngôn mà thôi).
2.3.2. Định ngữ tình thái đứng sau liên từ
- Mô hình: Liên từ + định ngữ tình thái + P
- Vai trò: Định ngữ tình thái không chỉ nhấn mạnh đến tính chất nội dung sự
tình mà còn tạo ra 2 mối liên kết: thứ nhất là tạo sự liên kết có tính nội tại giữa liên
từ với nội dung mệnh đề, thứ 2 là mối liên kết giữa phát ngôn chứa nó với câu đi
trước. Riêng về loại liên kết này, qua ví dụ ta thấy, chức năng liên kết giữa câu có
định ngữ tình thái với câu đi trước là rất phổ biến và thể hiện rõ đặc điểm ý nghĩa
của định ngữ tình thái.
-Ví dụ:
Nhưng hình nhƣ hắn chưa thật say?
Nhận xét: “Hình như” cũng cho biết tính không chắc chắn về sự tình của
người nói. Xuất hiện sau liên từ “Nhưng”, định ngữ tình thái trong trường hợp này
có tác dụng liên kết hai mệnh đề có mối quan hệ tương phản.
2.3.3. Định ngữ tình thái nằm giữa Đề- Thuyết
- Mô hình: Đề + Định ngữ tình thái+ Thuyết.
(Mệnh đề đứng sau tình thái có thể là một cấu trúc Đề- Thuyết hoàn chỉnh
hoặc cũng có thể là phần Thuyết)
5

- Vai trò: Các định ngữ tình thái xuất hiện ở vị trí này tạo sự liên kết giữa các
phát ngôn theo nội dung quan hệ rất phong phú đa dạng. Định ngữ tình thái có vai
trò của một tác tử phân đoạn thực tại câu, tập trung sự chú ý của người nghe vào nội

dung phần báo, tức thông tin mới.
- Ví dụ:
Việc ấy giá thực hành được thì cũng hay hay, nhưng sợ y mang tiếng với San

→ Thay đổi vị trí của định ngữ tình thái ta có phát ngôn sau:
Giá việc ấy cũng thực hành được thì cũng hay hay, nhưng sợ y mang tiếng
với San (3, 128)
Nhận xét: khi thay đổi Giá lên đầu câu thì nội dung sự tình không thay đổi,
vẫn bày tỏ mong muốn của người nói về sự tình. Trong ví dụ trên “việc ấy” đã thay
thế cho sự tình đã được biết đến trước đó, nên khi đặt “giá” ở giữa hai phần đề
thuyết, thì “giá” có vai trò của một tác tử phân giới nêu báo, thu hút sự chú ý của
người nghe vào phần thông tin mới của phần báo.
2.4. Tiểu kết
CHƢƠNG 3: KHẢO SÁT ĐỊNH NGỮ
TÌNH THÁI TRONG CÂU TRÊN BÌNH DIỆN NGHĨA HỌC

3.1. Dẫn nhập
Trong quá trình khảo sát 865 câu tư liệu văn học, chúng tôi thấy:
- Định ngữ câu biểu thị tình thái nhận thức xuất hiện với tần suất cao (668
trường hợp), chiếm gần 78%.
- Định ngữ câu biểu thị tình thái đạo nghĩa có 197 trường hợp, chiếm 22,8%.
Sau đây là một số định ngữ câu thường gặp và bước đầu phân loại của
chúng tôi:




Tình thái
nhận thức




Tình thái
thực hữu
Quả, quả vậy, quả nhiên, quả
thật, thật, phải nói
Cố nhiên, đương nhiên, tất
nhiên, chắc chắn
Hóa ra , hèn nào, thảo nào,
thì ra, té ra
Thật ra, thật mà, thật sự, thật
tình, sự thật là, rõ, rõ thật, rõ
là…
Đành rằng, chết cái, khổ nỗi,
Nói thật ra, chả giấu gì ông,
nói của đáng tội
Tình thái
phản thực
hữu
Thà rằng, Có đời nào, đáng lý
ra, tí nữa thì
Tình thái
Hẳn là, hẳn, chắc là, liệu
6

không thực
hữu
Có lẽ, có thể, dường như,
phải chăng
Nghe, trông, thấy, biết đâu…

Người ta nói, Nghe đồn….
Tình thái
đạo nghĩa
Ai bảo, ai đời, miễn là, đã đành, tội già, phúc
làm sao, phen này, tốt hơn , làm như, khốn
nỗi, chi bằng, đằng thẳng ra, công bằng mà
nói, cốt sao…
Mơ hồ
về tình
thái
Giá, giá như, cũng may, đáng nhẽ, chẳng
may…
Nhận xét:
Sự phân loại thành các kiểu ngữ nghĩa cũng chỉ mang tính tương đối, vì như
Nguyễn Văn Hiệp đã viết “Trong ngôn ngữ tự nhiên, thường thấy có sự mơ hồ về
các chỉ tố đánh dấu tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa. Một sự mơ hồ về tình
thái như vậy cũng tìm thấy ở các định ngữ câu”.
3.2. Định ngữ câu biểu thị tình thái nhận thức
Nói đến tình thái nhận thức là nói đến mức độ cam kết của người nói đối với
điều được nói ra trong phát ngôn dựa trên cơ sở dữ liệu, bằng chứng mà người đó
nắm. Tùy thuộc vào mức độ chính xác của cơ sở suy luận mà người nói hoàn toàn
có thể khẳng định, cam kết tính xác thực của sự tình, khẳng định sự tình đó là hoàn
toàn đúng, đương nhiên không cần bàn cãi hoặc cũng có thể nói sự tình đó là không
đúng, hoặc để đưa ra một đoán định về sự tình (đoán định đó có thể đúng hoặc sai;
sự tình đó có thể xảy ra hoặc không xảy ra).
Trong phần này, đề tài sẽ đi vào làm rõ, phân tích các tiểu loại của tình thái
nhận thức gồm: i) Định ngữ câu biểu thị tình thái thực hữu; ii) Định ngữ câu biểu
thị tình thái không thực hữu và iii) Định ngữ câu biểu thị tình thái phản thực hữu.
3.2.1. Định ngữ câu biểu thị tình thái thực hữu
Thông qua định ngữ câu, người nói tiền giả định tính chân thực của sự tình

được nêu trong câu. Người nói cho rằng điều được nói đến trong câu là đúng, không
cần phải bàn cãi.
Ví dụ: Quả nhiên chiều hôm ấy tôi được thấy Nga nũng nịu đu lấy cổ một
chàng trai trẻ như đã đu lấy cổ tôi lúc ở tảng đá cũ.
Nhận xét:
+ Khi sử dụng những định ngữ tình thái này, người nói có đầy đủ cơ sở bằng
chứng để khẳng định sự tình đó là đúng đắn.
+ Những câu này không phải là câu mở đầu cho một đoạn hội thoại hay văn
bản, vì thông tin đưa ra có thể mới hoặc cũ nhưng nó chắc chắn phải là sự tiếp nối
của một thông tin trước đó, chứ không thể là sự mở đầu cho một chuỗi thông tin
hoàn toàn mới. Mục đích của người nói chỉ là nhắc lại, tái khẳng định tính chân xác
và làm rõ hơn mức độ chính xác của sự tình tiền giả định trước đó.
7

3.2.1.1. Định ngữ câu khẳng định một lần nữa giá trị chân lí, tính chính xác của
một sự tình đã được nêu ra từ trước đó.
- Gồm các định ngữ với mô hình sau: “Quả, quả thật, quả nhiên, quả tình,
thật, phải nói + P”.
- So với nhóm định ngữ trên, đây là một sự tình thông tin nằm trong phần
thuyết của phát ngôn.
- Ví dụ:
{ Mỗi lần chị binh đi lĩnh lương hay lĩnh măng- đa của chồng, phải mượn
ông lý đi nhận thực}. Cố nhiên là không có ông lý nào vác của nhà đi ăn mà nhận
thực cho người ta.
Nhận xét: Câu trước nêu cảnh huống của sự tình. Câu sau với định ngữ câu
“cố nhiên” khẳng định điều mà ai cũng biết. Thông tin được nêu ra không mới vì sự
tình này đã được thừa nhận, công nhận và mục đích của người nói là khẳng định
lại một lần nữa tính tất yếu của sự tình đó.
3.2.1.2. Định ngữ câu khẳng định tính chất đương nhiên của sự tình
- Mô hình: “Tất nhiên, Cố nhiên, Đương nhiên, Dĩ nhiên, Chắc chắn, Chính,

Dù sao, Dẫu sao, Đằng nào, Thế nào….+ P”.
- Nội dung: Nhận định về tính đương nhiên, tất yếu của sự tình. Nó khác với
nhóm định ngữ phía trên ở chỗ đây là một sự tình thông tin nằm trong phần thuyết
của phát ngôn.
3.2.1.3. Nhóm định ngữ câu xác nhận một sự tình trên cơ sở mối quan hệ tương
phản
- Mô hình: Thật ra, Thực ra, Thực tế là, Sự thực là….+ P.
- Nội dung: Tạo sự liên kết giữa hai sự tình có tính chất đối lập, trái ngược
nhau.
- Ví dụ:
- ( Đó là theo cái giọng của Mô. Nghe nó nói thì ra nó ghét con Lân lắm. Nó
mỉa mai và hằn học). Thật ra thì cu cậu cũng thèm rỏ dãi.
Nhận xét: Người nói nêu ra một sự tình là thái độ của Mô với con Lâm là
ghét bỏ, mỉa mai và hằn học. Tuy nhiên, sau khi đã có bằng chứng thì người nói
khẳng định cái sự tình đó là sai mà thực tế phải là “Thật ra thì cu cậu cũng thèm rỏ
dãi”. Ở đây, có 2 nội dung cần chú ý, thứ nhất là người nói bác bỏ cái sự tình được
giả định trước phát ngôn có định ngữ câu và thứ hai là khẳng định thực tế, là sự tình
trong phát ngôn có chứa định ngữ tình thái.
3.2.1.4. Định ngữ câu xác nhận một sự tình trên cơ sở giải thích
- Mô hình: Hóa ra/ Té ra/ Thì ra/ Thảo nào/ Hèn gì/ Hèn chi + P
- Nội dung: Người nói muốn xác nhận một sự tình mà trước đó người nói
còn có sự băn khoăn, không chắc chắn vì không có đủ cơ sở, chứng cứ để khẳng
định.
- Ví dụ: (Chúng tôi cơm đùm, cơm nắm đi luôn bốn hôm giời mà chẳng gặp
ma nào đón). Thì ra lúa mạn Đông năm nay chín sớm.
8

Nhận xét: Vế trước nêu ra một sự tình thực hữu (đi mãi mà không gặp
được người thuê gặt lúa), còn vế sau thì là giải thích cho cái sự băn khoăn ấy (do
lúa mạn Đông năm nay chín sớm).

3.2.1.5. Nhóm định ngữ câu xác nhận sự tình trên mối quan hệ nhấn mạnh,
tương hợp
- Mô hình: Rõ/ Rõ thật là/ Ra sự rằng + P.
- Nội dung: Trên cơ sở đã có đủ bằng chứng, cứ liệu người nói nhấn mạnh và
làm rõ thêm tính chân xác của sự tình dựa trên mối quan hệ nhấn mạnh, tương hợp.
3.2.1.6. Nhóm định ngữ câu xác nhận một sự tình có tính chất tổng kết, đúc rút
thành nhận định.
- Mô hình: Rốt cuộc là, Tóm lại là, Chung quy lại là, Nói chung, Tóm lại,
Nói cho cùng + P.
- Nội dung: Trên cơ sở các dữ liệu, người nói đưa ra kết luận về một sự tình.
- Ví dụ: Rốt cuộc là cả hai bên đều không thực hiện được ý đồ ấy.
Nhận xét: “Rốt cuộc” đứng đầu câu đóng vai trò dẫn nhập một ý tổng kết.
Sau khi người nói đưa ra những dẫn chứng cụ thể thì đánh giá kết luận. Các phát
ngôn đi trước là tiền đề để rút ra kết luận trong trường hợp này.
3.2.2 Tình thái không thực hữu
Trong quá trình khảo sát chúng tôi thấy chiếm đa phần trong số đó là các câu
có định ngữ biểu thị tình thái không thực hữu. Điều này là do khi nhận thức hiện
thực, để tránh nghiêng về một trong hai thái cực hiện thực (khẳng định) và phi hiện
thực (phủ định), người nói sẽ đưa ra một khả năng. Tình thái không thực hữu cho
phép người nói đưa ra đánh giá của mình về tính hiện thực hoặc không hiện thực
của sự tình mà không phải xác nhận một cách tuyệt đối sự tình có xảy ra hay không.
Với việc đưa ra thái độ này, người nói không phải chịu trách nhiệm trước sự tình, vì
thế biểu thức biểu thị tình thái không thực hữu có thể được xem như là một biểu
thức rào đón.
3.2.2.1. Nhóm định ngữ câu dựa trên sự suy lý
3.2.2.1.a. Cấu trúc Có lẽ/ Có khi/ Có thể + P
- Điểm chung của các phát ngôn có “Có lẽ”, “Có thể”, “Có khi” đầu câu là
đều đưa ra một suy đoán về khả năng xảy ra sự tình.
- “Có thể”: biểu thị sự suy đoán của người nói về khả năng khách quan xảy
ra của P. Suy đoán này dựa vào trực giác, cảm tính hoặc những kinh nghiệm đã biết.

- “Có lẽ”: Điểm khác biệt giữa “có lẽ” và “có thể” là khi dùng “có lẽ” thì tính
cân nhắc khi đưa ra đánh giá về tính chân thực của sự tình đã được người nói chú ý
hơn.
- “Có khi”: cũng thể hiện suy đóan về tính chân thực của một sự tình nhưng
còn hàm ý khẳng định dè dặt. So với 2 trường hợp “có lẽ” và “có thể” thì mức độ
cam kết về tính chân thực của sự tình thấp hơn.
3.2.2.1.b. Cấu trúc Hẳn là/ Ắt là/ Ắt hẳn là + P
- Các phát ngôn trên xuất hiện trong ngữ cảnh mà trước đó người nói đã đưa
ra các chứng cớ, cơ sở có liên quan đến tính chân xác của sự tình.
9

- “Hẳn/ ắt hẳn” đứng đầu câu vừa tạo cho câu hình thức của một câu hỏi,
người nói chất vấn người nghe và chờ đợi một sự khẳng định.
3.2.2.1.c. Cấu trúc Chắc/ Chắc hẳn là + P
"Chắc/ chắc hẳn là + P" cho biết người nói dựa vào bằng chứng, suy luận,
cảm giác hoặc kinh nghiệm thực tiễn để nghiêng về khẳng định tính chân thực của
P.
3.2.2.1.d. Cấu trúc Hay/ Hay là + P
- Nét nghĩa thứ nhất : biểu thị điều mà câu sắp nêu ra là một khả năng mà
người nói thấy chưa thể khẳng định, còn đang hồ nghi và khả năng này khác biệt
với cái nội dung đã được tiền giả định trước đó. .
- Nét nghĩa thứ hai : biểu thị điều sắp nêu ra là một giải pháp mà người nói
nghĩ là nên nhưng không khẳng định mà muốn biết ý kiến của người đối thoại.
3.2.2.1.e. Cấu trúc Dường như/ Hình như/ Có vẻ như + P
Do sự xuất hiện của “Hình như/ Dường như/ Có vẻ như” đầu phát ngôn làm
cho kết luận đó mang sắc thái không chắc chắn về tính chân thực của sự tình. Sự
không chắc chắn này dựa trên cơ sở cảm giác của người nói.
3.2.2.1.g. Cấu trúc Chả lẽ/ Không lẽ/ Chẳng lẽ/ Lẽ nào + P
Các định ngữ tình thái biểu thị sự ngạc nhiên của người nói khi sự tình P
khác với sự chờ đợi chủ quan của người nói. Nếu P phù hợp với thực tế thì theo

người nói đó là điều khó tin. Người nói hàm ý phủ định P.
3.2.2.1.h. Cấu trúc Phải chăng + P
Những phát ngôn có chứa “ Phải chăng” đầu câu mang những đặc trưng ngữ
nghĩa như sau: thông tin luận cứ, thường là gián tiếp (phải thông qua suy luận thì
mới xác định được nội dung mệnh đề), theo đánh giá của người nói là chưa đủ tin
cậy để có thể hình thành một ý kiến mà người nói tin chắc là đúng. Điều nêu trong
câu, vào lúc hỏi, chưa được người nói tin chắc là phù hợp với thực tế. Người nói
còn phân vân dao động, cân nhắc thì mới có câu trả lời cụ thể.
3.2.2.1.i. Cấu trúc Liệu + P
Với việc sử dụng “liệu” đầu câu cho thấy trong câu hỏi của người nói có hàm
ý hy vọng người đối thoại sẽ có câu trả lời theo hướng tích cực, tức là tán đồng ý
kiến của người nói.
Ngoài ra, “liệu” cũng mang ngụ ý mỉa mai về một điều mà người nói biết
rằng người đối thoại cũng cảm thấy vô lí và khó trả lời.
3.2.2.2. Nhóm định ngữ câu dựa trên cơ sở bằng chứng của các giác quan
Có một đặc điểm về các động từ chỉ giác quan trong tiếng Việt là có những
nét nghĩa phái sinh từ chức năng biểu thị các trạng thái tâm lý dựa trên nhận thức
cảm giác sang các trạng thái nhận thức trí tuệ tinh thần. Có thể kể đến một số
trường hợp như vậy như: thấy, nghe, xem ra, trông… Những trường hợp này khi
xuất hiện trong phát ngôn với vai trò của một định ngữ tình thái biểu thị một sự suy
đoán của người nói về sự tình P dựa trên cứ liệu trực quan.
Ví dụ: Trông cô mệt mệt.
10

Nhận xét: Người nói dựa trên biểu hiện của nhân vật (khuôn mặt, ánh mắt,
dáng điệu, cử chỉ) để đưa ra kết luận “mệt mệt”. Như vậy có nghĩa là người nói đã
phải có một cơ sở thì mới có thể đưa ra kết luận này và cơ sở đó được thực hiện dựa
trên cơ sở thị giác.
3.2.2.3. Nhóm định ngữ câu dựa trên cơ sở các tin đồn hay tường thuật
Trong nhóm này chúng tôi lại chia thành 2 trường hợp:

- Nhóm định ngữ câu dựa trên cơ sở nhóm tin đồn đãi không xác định rõ chủ
thể.
Mô hình chung: “Nghe+ X” (nghe nói, nghe đâu, nghe đồn) tạo cho câu sắc
thái không chắc chắn về nguồn thông tin.
Vai trò: Việc sử dụng các tổ hợp này, người nói biểu thị ý phỏng đoán một
cách dè dặt về sự tình, dựa trên những gì đã nghe được, biết được, tuy nhiên lại
không chắc chắn.
Ví dụ: Nghe đâu cách đây 5 năm, có một người trong họ tôi dắt lão đến
vay tiền.
- Nhóm tin do chủ thể khác mang lại
Mô hình chung: “Người ta nói/ Người ta bảo/ Có người nói + X”
Vai trò: So với các trường hợp trên thì tính chất đồn đãi ở trường hợp này cũng
không ít hơn. Thêm vào đó, với việc quy chiếu chủ thể cho thông tin, người nói muốn
dồn trách nhiệm “đúng- sai” của sự tình về phía một cá nhân, một chủ thể ngôi số 3.
Ví dụ: Ngƣời nói chị đã hy sinh rồi, hy sinh trong chiến dịch năm 1975. Ngƣời
nói chị đã lấy chồng và sau đó hai vợ chồng cùng chuyển lên rờ công tác.

3.2.3. Định ngữ câu biểu thị tình thái phản thực hữu
Đặc điểm chung của các định ngữ biểu thị tình thái phản thực hữu là sự
khẳng định “P phản thực hữu”, nhấn mạnh sự tình P là không chân thực, giả dối,
không có trong hiện thực.
3.2.3.1. Nhóm các định ngữ tình thái phản thực hữu gồm Suýt nữa P, Tí nữa P,
Tí nữa thì P, Chút nữa thì P.
Những tổ hợp tình thái này biểu thị hai nét nghĩa khả năng:
Thứ nhất : chỉ một sự tình đã không xảy ra và sự tình này có thể gây bất lợi
cho chủ thể.
Nét nghĩa thứ hai là chỉ người nói có thể, có khả năng đạt được một mong
muốn nào đó nhưng đã không thực hiện được.
Ví dụ: Tí nữa thì tôi được cuộc thắng ông làng mình đấy, bà ạ!
Nhận xét: Định ngữ tình thái xuất hiện trong câu trên thể hiện nội dung: Tôi

mong muốn thắng ông mình làng đây nhưng tôi đã không thắng, mặc dù đã có
những dấu hiệu, hành vi cho tôi biết là tôi có khả năng thắng được.
3.2.3.2 Nhóm các định ngữ tình thái phản thực hữu gồm: Làm gì có P, Làm như
P, Nào P, Làm gì P…
11

Nhóm này thể hiện sự tình P có nội dung xung đột với một sự tình, hành
động, trạng thái, tính chất đã được nhắc tới trước đó. Sự tình được P chỉ ra mang ý
nghĩa phản thực không chân thực
Ví dụ: Làm nhƣ Thứ và San có họ xa, họ gần với những kẻ đã làm cho y
khó chịu.
3.2.3.3. Trường hợp Những tưởng + P
Ví dụ: Những tƣởng truyện cổ tích chỉ dành cho trẻ nhỏ nhưng rồi cô gái ấy
mang câu chuyện về đọc và khám phá ra thật nhiều ý nghĩa mà trong nhịp sống hối
hả cô đã từng quên mất!
Phân tích:
Định ngữ tình thái trên thể hiện cái sự tình xảy ra trong thực tế hoàn toàn trái
ngược với mong muốn, dự đoán của người nói. Người nói nhìn nhận đánh giá rằng
sự tình đi kèm P là hợp lý, hợp tình hơn sự tình diễn ra trong thực tế.
3.2.3.4.Nhóm các định ngữ tình thái gồm Họa là P, Họa chăng P, Dễ tưởng P,
Dễ thường P
Nhấn mạnh tính chất không thể xảy ra của sự tình này, chỉ được xem như
một giả thuyết mà thôi.
Ví dụ: Có đời nào dám để cho cháu què?
3.3. Định ngữ câu biểu thị tình thái đạo nghĩa
- “Ai bảo”: tổ hợp này dùng để giải thích và quy lỗi cho người nào đó về
điều không hay xảy ra cho bản thân người ấy.
- “Tội gì”: biểu thị hàm ý không nên làm một việc gì đấy bởi có sự lựa chọn
làm một việc khác tốt hơn
- “Miễn là”: biểu thị mong muốn của người nói, muốn P là chân thực, P là

đủ.
- “Đã đành”: biểu thị một sự tình được coi là dĩ nhiên, người nói nhằm bổ
sung một điều khác quan trọng hơn.
- “Chi bằng”: Tổ hợp nhấn mạnh điều nói ra là việc cần làm hơn cả.
- “Cốt sao”: Biểu thị P là điều chủ yếu, mục tiêu quan trọng nhất cần đạt
được, những điều khác không cần thiết nữa.
3.4. Một số trƣờng hợp mơ hồ về tình thái
- Nhóm 1: Ƣớc gì P, Giá P, Giá nhƣ P, Phải chi P
Với sự xuất hiện của các tổ hợp tình thái đầu câu cho thấy nội dung sự tình P
là một điều mong ước, mong muốn của người nói không có thật ở hiện tại và quá
khứ, thậm chí cả tương lai. Điều được nói đến trong các phát ngôn trên là một giả
định phi hiện thực với sắc thái đánh giá P phù hợp mong muốn, có lợi, tích cực và
người nói mong ước P diễn ra trong thực tế nhưng P đã không diễn ra. Thêm vào
đó, các định ngữ này còn tạo cho câu sắc thái của sự tiếc nuối.
Do đặc tính thể hiện mong ước không có thật nên các định ngữ tình thái
thuộc nhóm này được mở rộng ở khả năng xuất hiện trong các kiểu câu ghép điều
kiện- kết quả như: Giá mà P , Ước gì P…, Phải chi P…
Ví dụ:
12

Phải chi giờ đây tôi được ôm xiết khuôn mặt hốc hác kia vào ngực được hôn
lên hai đốm sáng quen thuộc đó
- Nhóm 2: Cấu trúc Lẽ ra/ Đáng ra/ Đáng lí/ Đáng lẽ ra/ Đáng lí ra/ Biết
thế này + P
Với sự xuất hiện của các tổ hợp tình thái đầu câu như trên, người nói thể hiện
sắc thái đánh giá sự tình P là hợp lí, có lợi hơn sự tình tồn tại trong thực tế, thái độ
của người nói là tiếc nuối, hối tiếc hoặc hối hận vì P đã không diễn ra hoặc hàm ý
người nói trách móc, phê phán vì P đã không có thực. Các tác tử của nhóm này
cũng có thể xuất hiện trong các câu ghép điều kiện- kết quả kiểu như Lẽ ra P thì Q,
Đáng lẽ P thì Q.

3.5. Tiểu kết
CHƢƠNG 4: KHẢO SÁT ĐỊNH NGỮ
TÌNH THÁI TRÊN BÌNH DIỆN DỤNG HỌC

4.1. Dẫn nhập
Trên bình diện dụng học, tìm hiểu câu có định ngữ tình thái đứng đầu là
chúng tôi tìm hiểu vai trò của các yếu tố này trong mối quan hệ với văn bản chứa nó
và trong mối quan hệ với người sử dụng. Chúng tôi đặt ra vấn đề hiệu quả mà định
ngữ câu mang lại trong một văn bản hay một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Theo
chúng tôi, trong văn bản, chức năng dụng học của định ngữ tình thái thể hiện ở chỗ:
- Định ngữ tình thái tác động đến toàn bộ phần nội dung còn lại của câu.
- Chỉ dẫn quan hệ lập luận
- Tạo sự mạch lạc, liên kết trong đoạn văn bản
Còn trong mối quan hệ với người sử dụng, định ngữ tình thái của câu góp
phần thể hiện tình cảm và lập trường của người phát ngôn trong quan hệ tương tác
liên nhân.
4.2. Chức năng dụng học của định ngữ tình thái trong phạm vi văn bản
4.2.1. Định ngữ tình thái tác động đến toàn bộ phần nội dung còn lại của câu
Với tư cách là thành phần biểu thị tình thái của câu, định ngữ câu có tầm tác
động đến toàn bộ phần nội dung còn lại của câu. Cùng một câu, sử dụng định ngữ
khác nhau tạo ra những nội dung tình thái khác nhau.
Hình nhƣ nó có ý gieo vạ cho cụ ông phen này.
Hay là nó có ý gieo vạ cho cụ ông phen này
Xem ra nó có ý gieo vạ cho cụ ông phen này.
Nghe đâu nó có ý gieo vạ cho cụ ông phen này
→ Cùng một nội dung sự tình, định ngữ tình thái khác nhau dẫn đến hiệu quả
tình thái và mục đích giao tiếp cũng khác nhau.
4.2.2. Định ngữ tình thái với vai trò là chỉ tổ chỉ dẫn quan hệ lập luận
- Sự có mặt của định ngữ tình thái này là dấu hiệu chứng tỏ phát ngôn chứa
nó là một lập luận. Sự có mặt của định ngữ tình thái yêu cầu người tiếp nhận phải

chuyển đổi vị trí tiếp nhận của mình, phải đứng ở vị trí của người tiếp nhận một lập
luận.
13

Những phát ngôn có định ngữ tình thái đầu câu rất hiếm khi giữ vai trò là câu
mở đầu một đoạn văn bản, mà thường là sự tiếp nối của một câu đi trước nó. Sự
xuất hiện của phát ngôn có định ngữ tình thái nhằm nhấn mạnh vào thái độ của
người phát ngôn. Sự xuất hiện của những phát ngôn này chứng tỏ sự luân phiên
giữa các lượt lời trong lúc đối thoại hoặc là để tiền giả định một sự tình nào đó
trong câu đi trước. Dựa vào sự xuất hiện của định ngữ tình thái mà người nghe có
thể suy đoán được nội dung của phát ngôn là bổ sung, đối lập hay hỗ trợ thông tin
với phát ngôn đi trước.
4.2.3. Định ngữ tình thái với vai trò đảm bảo liên kết và mạch lạc văn bản
Các định ngữ tình thái trong nhiều trường hợp đóng vai trò của một yếu tố
nối, tạo sự nối kết giữa các câu, liên kết trong văn bản. Sự liên kết này có thể mang
tính chất đồng nhất, hoặc có khi là sự liên kết giữa hai nội dung tương phản trái
ngược.
Do vị trí đầu câu cho nên trong nhiều trường hợp các định ngữ tình thái có
tác dụng của những kết tố. Những yếu tố tình thái này nhờ phần tiền giả định của nó
làm cho câu chứa đựng nó được liên kết với câu đi trước một cách chặt chẽ. Theo
Cao Xuân Hạo, những câu mở đầu bằng yếu tố tình thái như vậy khó lòng có thể là
câu đầu tiên của một văn bản hay một cuộc đối thoại, tuy nó có thể mở đầu cho một
đoạn văn.
4.3. Chức năng dụng học của định ngữ tình thái trong mối quan hệ với chủ
ngôn
- Định ngữ tình thái thể hiện mong muốn chủ quan tích cực của người nói
Tính tích cực mà đề tài đề cập đến ở đây có nghĩa là các định ngữ này thể
hiện một tình thái nhận thức, trong đó người nói thể hiện mong muốn của mình về
một sự tình P tác động tốt đến người nghe. Việc sử dụng các quán ngữ tình thái tích
cực phải luôn đi với mệnh đề mang sắc thái ý nghĩa tích cực, là những điều mà chủ

ngôn mong muốn, theo đánh giá chủ quan của người phát ngôn thì đó là điều tốt có
lợi cho người phát ngôn.
Đây là nguyên tắc tồn tại của các quán ngữ tình thái tích cực khi sử dụng các
quán ngữ tình thái, mà không theo nguyên tắc này thì phát ngôn sẽ vô nghĩa. Ví dụ
như các phát ngôn sau sử dụng các định ngữ tình thái không hợp lý như “may sao
nó đánh con bé tàn nhẫn như kẻ thù” hoặc “Chết nỗi cô ấy mẹ tròn con vuông”…
- Sự xuất hiện của định ngữ tình thái biểu thị sự đánh giá tiêu cực của người
nói về một sự tình không mong muốn nhưng có thể đã xảy ra.
Những quán ngữ này không đơn thuần là những phương tiện kết nối mà ngữ
pháp truyền thống gọi là liên từ, cũng không hẳn là những phương tiện dùng để đưa
đẩy, rào đón, dẫn ý hay chuyển ý như các nhà từ vựng học đã nhận định. Những
quán ngữ tình thái tiêu cực tham gia chủ yếu vào Modus (tình thái) của câu và nằm
trong thành tố cấu trúc ngữ nghĩa. Chính những phương tiện này đã giúp cho người
nói truyền đạt một cách hiệu quả nhất thái độ, cách đánh giá của mình đối với sự
vật, hiện tượng được nói đến trong câu, tạo nên hiệu quả giao tiếp. Xét về mặt ý
nghĩa của các quán ngữ tình thái tiêu cực có thể nhận thấy ngay một đặc điểm
14

chung nhất của chúng đó là biểu thị ý nghĩa tình thái cụ thể hơn là thể hiện thái độ
đánh giá của người nói đối với sự tình được nói đến trong câu. Thái độ của người
nói ở đây đối với sự tình được nói đến là sự không mong muốn. Người nói coi sự
việc đó là điều không may mắn, là xui xẻo hoặc thể hiện thái độ không tán thành,
không đồng tình, thái độ phản đối đối với sự tình được đưa ra. Đây chính là điểm
trái ngược của định ngữ tình thái tiêu cực với định ngữ tình thái tích cực. Như vậy,
sự xuất hiện của định ngữ trong câu cho biết thái độ, đánh giá của người nói đối với
sự tình trong câu là đáng mong muốn hay không, có ảnh hưởng tích cực hay tiêu
cực đến chủ ngôn.
4.4. Tiểu kết
KẾT LUẬN


Chúng tôi đã tiến hành khảo sát gần 1000 câu tư liệu trong đó có 865 câu là
tư liệu được trích từ các văn bản, truyện ngắn ; hơn 100 câu còn lại là tư liệu thực tế
được thu thập trong quá trình giao tiếp bình thường. Thực tế, định ngữ tình thái
không phải là một khái niệm mới mẻ trong ngôn ngữ học. Về bản chất từ loại, đây
chính là các quán ngữ tình thái đã được nghiên cứu trong nhiều công trình. Điểm
khác của đề tài là đặt các quán ngữ này trong một phát ngôn và coi chúng là một bộ
phận của câu với tên gọi Định ngữ tình thái của câu. Từ trước đến nay, các nhà
nghiên cứu thường không chú ý nhiều đến vai trò, chức năng của thành phần này
trong câu như thế nào. Tuy nhiên khảo sát, phân loại và những đánh giá của chúng
tôi mới chỉ dừng lại ở những nghiên cứu ban đầu, để làm rõ hơn, cần có những
nghiên cứu tiếp tục ở bậc cao hơn./.

References.
TƢ LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Thị Kim Anh, 2005. Vai trò của các tiểu từ tình thái cuối câu trong
việc hình thành hiệu lực tại lời của phát ngôn, Luận văn thạc sỹ khoa Ngôn ngữ
học.
2. Diệp Quang Ban, 1981. Bàn về vấn đề khởi ngữ hay chủ đề trong tiếng
Việt, NXB Đại học và THCN.
3. Diệp Quang Ban, 1987. Câu đơn tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
4. Diệp Quang Ban, 1989. Khả năng xác lập mối liên hệ giữa phân đoạn ngữ
pháp và phân đoạn thực tại câu tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ, số 4/ 1989.
5. Diệp Quang Ban, 1998. Về mạch lạc văn bản, Tạp chí ngôn ngữ số
1/1998.
6. Diệp Quang Ban, 2002. Giao tiếp- Văn bản- Mạch lạc- Liên kết- Đoạn
văn, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Tài Cẩn, 2004. Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội.
8. Nguyễn Hồng Cổn, 2001. Bàn thêm về cấu trúc thông báo của câu tiếng
Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4/2001.

15

9. Đỗ Hữu Châu, 1992. Ngữ pháp chức năng dưới ánh sáng Dụng học hiện
nay, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2/1992.
10. Đỗ Hữu Châu, 2001. Đại cương ngôn ngữ học tập II, NXB Giáo dục.
11. Vũ Xuân Đoàn, 2003. Những yếu tố ngôn ngữ thể hiện sắc thái chủ quan
hoặc khách quan trong diễn ngôn, Tạp chí ngôn ngữ số 3/2003.
12. Đinh Văn Đức- Lê Xuân Thọ, 2005. Một nhân tố cú pháp giao tiếp của
phát ngôn tiếng Việt, Tạp chí ngôn ngữ số 8/2005.
13. Nguyễn Thiện Giáp, 2003. Dẫn luận ngôn ngữ học, NXB Giáo dục.
14. Đoàn Thị Thu Hà. Khảo sát ý nghĩa và cách dùng các quán ngữ biểu thị
tình thái trong tiếng Việt, Luận văn thạc sỹ tại khoa Ngôn ngữ học.
15. Cao Xuân Hạo, 2001. Tiếng Việt, mấy vấn đề ngữ âm- ngữ pháp- ngữ
nghĩa, NXB Giáo dục, Hà Nội.
16. Cao Xuân Hạo, 2006. Tiếng Việt, sơ thảo ngữ pháp chức năng, NXB
Giáo dục.
17. Cao Xuân Hạo, 2003. Tiếng Việt- Văn Việt- Người Việt, Nhà xuất bản
Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
18. Nguyễn Văn Hiệp- Nguyễn Minh Thuyết, 1998. Thành phần câu tiếng
Việt, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
19. Nguyễn Văn Hiệp, 2001. Về một khía cạnh phân tích tầm tác động tình
thái, Tạp chí ngôn ngữ 11/2011.
20. Nguyễn Văn Hiệp, 2002. Vài nét về lịch sử nghiên cứu cú pháp tiếng
Việt, tạp chí Ngôn ngữ số 2/2003.
21. Nguyễn Văn Hiệp, 2003. Cấu trúc câu tiếng Việt nhìn từ góc độ ngữ
nghĩa, tạp chí ngôn ngữ số 2/2003.
22. Nguyễn Văn Hiệp- Lê Đông, 2003. Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ
học, tạp chí ngôn ngữ số 7/ 2003.
23. Nguyễn Văn Hiệp, 2004. Thành phần câu tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà
Nội.

24. Nguyễn Văn Hiệp, 2006. Nghĩa chủ đề và những cách tiếp cận về nghĩa
chủ đề, tạp chí ngôn ngữ số 11/2006.
25. Nguyễn Văn Hiệp, 2008. Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháo, NXB Giáo
dục Việt Nam
26. Nguyễn Văn Hiệp, 2009. Cú pháp tiếng Việt, NXB Giáo dục Việt
Nam.
27. Nguyễn Thị Quỳnh Hoa, So sánh đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa của hiện
tượng đảo ngữ trong tiếng Anh, Luận văn tiến sĩ tại khoa Ngôn ngữ học, Hà Nội.
28. Nguyễn Hòa, 2001. Về tính giao tiếp và tính ký hiệu của diễn ngôn, Tạp
chí ngôn ngữ số 8/2011.
29. Nguyễn Hòa, 2002. Ngữ cảnh trong phân tích lý luận diễn ngôn, Tạp chí
ngôn ngữ số 11/2002.
30. Đào Thanh Lan, 2002. Phân tích câu đơn tiếng Việt theo cấu trúc Đề-
Thuyết, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.
16

31. Đào Thanh Lan, 2004. Cách tiếp cận câu tiếng Việt theo 3 bình diện Kết
học- Nghĩa học- Dụng học, Tạp chí ngôn ngữ số 10/ 2004.
32. Trần Hữu Mạnh, 2004. Cấu trúc thông tin ở cấp độ câu, Tạp chí ngôn
ngữ số 10/2004.
33. Trần Thị Mỹ. Các yếu tố biểu thị tình thái nhận thức trong câu tiếng Pháp
- Những biểu đạt tương ứng trong câu tiếng Việt, Luận văn Tiến sĩ khoa ngôn ngữ
học.
34. Nguyễn Thị Thúy Nga. Khảo sát những phương tiện ngôn ngữ biểu thị sự
đánh giá bất thường trong câu tiếng Việt, Luận văn Thạc sỹ khoa ngôn ngữ học.
35. Bùi Trọng Ngoãn, Khảo sát các động từ tình thái trong tiếng Việt, Luận
văn thạc sỹ khoa ngôn ngữ học.
36. Huỳnh Thị Ái Nguyên, 2005. Nghiên cứu phương tiện nhấn mạnh trong
tiếng Anh, có liên hệ với tiếng Việt, Luận án tiến sĩ tại Hà Nội.
37. Hoàng Phê, 1998. Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

38. Hoàng Trọng Phiến, 1980. Ngữ pháp tiếng Việt (câu), NXB Đại học và
trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
39. Phạm Văn Tình, 2003. Tỉnh lược đồng sở chỉ trong hội thoại, Tạp chí
ngôn ngữ số 10/2003.
40. Nguyễn Thị Cẩm Thanh. Đối chiếu các phương tiện biểu thị tình thái
không thực hữu trong tiếng Việt và tiếng Anh, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội.
41. Nguyễn Kim Thản, 1977. Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, NXB Giáo
dục.
42. Lý Toàn Thắng, 1981. Lý thuyết phân đoạn thực tại câu, Tạp chí ngôn
ngữ số 1/1981.
43. Trần Ngọc Thêm, 1985. Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, NXB Khoa
học xã hội.
44. Nguyễn Thị Thuận, 2005. Tình thái của những câu chứa 5 động từ “nên,
cần, phải, bị được”, Tạp chí ngôn ngữ số 10/2002.
45. Nguyễn Minh Thuyết- Nguyễn Văn Hiệp, 2001. Tiếng Việt thực hành,
NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
46. Nguyễn Thị Hồng Thúy, 2004. Trật tự câu trong vai trò liên kết và tạo
mạch lạc cho văn bản, Luận văn thạc sĩ tại khoa Ngôn ngữ học.
47. Halliday M.A.K, 1985. Dẫn luận ngữ pháp chức năng (Hoàng Văn Vân
Dịch), NXB Đại học Quốc gia.
48. Lyons J, 1995. Ngữ nghĩa học dẫn luận (Nguyễn Văn Hiệp dịch), NXB
Giáo dục, Hà Nội.
49. Simon C.Dik, 2005. Ngữ pháp chức năng (nhóm biên dịch: Nguyễn Văn
Phổ), NXB Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh./.




×